ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lý tủy răng là bệnh răng miệng thường gặp, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, công việc và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Bệnh lý tủy răng nếu không được điều trị sẽ dẫn đến bệnh lý vùng quanh chóp như u hạt, nang chân răng…; biến chứng tại chỗ hay biến chứng xa rất nguy hiểm. Điều trị nội nha là một giai đoạn quan trọng trong nha khoa bảo tồn, nhằm giữ lại chức năng ăn nhai và thẩm mỹ cho một răng bệnh lý. Trong đó, việc sửa soạn ống tủy tốt đóng vai trò quan trọng để điều trị thành công, không chỉ nhờ loại bỏ các mô nhiễm trùng, mà đồng thời tạo hình dạng thuận lợi cho việc trám kín ống tuỷ theo không gian ba chiều. Răng cối lớn thứ nhất hàm dưới thường được nội nha nhiều nhất vì đây là răng vĩnh viễn mọc đầu tiên trên cung hàm, có hệ thống ống tủy phức tạp và cũng là răng có chức năng ăn nhai quan trọng cần được bảo tồn nhất [27]. Răng có hình thái chân răng và ống tủy khá phức tạp, thường có hai chân: chân gần thường có hai ống tủy, chân xa có thể có một hoặc hai ống tủy [8], [13], [14]; 16,1% răng cối lớn thứ nhất hàm dưới có thêm chân xa trong với một ống tủy, thường cong theo chiều ngoài trong [14]. Do vậy, việc sửa soạn ống tủy răng cối lớn thứ nhất hàm dưới gặp nhiều khó khăn. Từ năm 1974 đã có sự chuẩn hóa dụng cụ nội nha cổ điển bằng thép không gỉ theo ISO với độ thuôn 2%. Những dụng cụ này thường dễ sử dụng và kiểm soát cảm giác tay nhưng thường có độ đàn hồi kém do đó sửa soạn ống tủy kém an toàn, nhất là những ống tủy cong, hẹp thường gặp ở các răng cối lớn [60]. Năm 1988, hợp kim Niken Titanium (Ni-Ti) đã được sử dụng để chế tạo dụng cụ nội nha như Profile, Quantec, K3, Protaper với ưu điểm hiệu quả cắt ngà tốt, giảm chuyển dịch chóp răng, rút ngắn thời gian làm việc và tạo ống tủy có độ thuôn lý tưởng [15]. Tuy nhiên, hệ thống trâm NiTi vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, tỉ lệ gãy trâm thép không gỉ trung bình khoảng 1% và tỉ lệ
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu, có can thiệp lâm sàng, có đối chứng
2.2.2 Cỡ mẫu và chọn mẫu
Để xác định cỡ mẫu cho thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng, ta sử dụng tỷ lệ điều trị tủy thành công của nhóm Neoniti là 0,947 (theo nghiên cứu của Trương Xuân Qúy và Lê Hưng, 2018) và tỷ lệ của nhóm PTU là 0,929 (theo nghiên cứu của Ngô Việt Thắng, 2018) Từ đó, tỷ lệ chung p được tính bằng công thức p = (p1 + p2)/2.
∆: là sai số mong muốn = 0,2
Theo công thức trên, chúng tôi tính được cỡ mẫu của mỗi nhóm nghiên cứu là n ≥ 23 (n = 22,8) Thực tế, chúng tôi nghiên cứu được 77 răng trên 74 bệnh nhân
Chọn mẫu ngẫu nhiên không xác suất theo mẫu thuận tiện
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chọn 74 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn với 77 răng cửa hàm dưới bị viêm tủy không hồi phục Bệnh nhân được phân nhóm theo thứ tự đến khám: nhóm I (sửa soạn OT bằng Neoniti) gồm 39 răng, và nhóm II (sửa soạn OT bằng PTU) gồm 38 răng Đối với những bệnh nhân có hai răng cần điều trị, răng có triệu chứng viêm tủy dữ dội hơn sẽ được ưu tiên điều trị trước.
Bệnh án nghiên cứu được soạn theo mẫu thống nhất (phụ lục)
2.2.3.2 Phương tiện khám và điều trị
- Dụng cụ chung: ghế, máy nha khoa, máy ảnh, máy chụp phim gốc răng, đèn đọc phim X quang
- Dụng cụ khám, điều trị nội nha
Bộ dụng cụ khám răng bao gồm khay quả đậu, gương nha khoa, thám trâm và kẹp gắp, giúp hỗ trợ quá trình khám và điều trị hiệu quả Ngoài ra, tay khoan nhanh và tay khoan chậm, cùng với motor cho trâm Neoniti và PTU, là những thiết bị quan trọng trong nha khoa Mũi khoan đa dạng như mũi khoan trụ, tròn, Endo-Z và Endo-Access cũng đóng vai trò thiết yếu trong việc thực hiện các thủ thuật nha khoa chính xác.
+ Trâm gai lấy tủy, bộ File K và File H, bộ mũi Gates Glidden từ số 1 đến số 4, bộ lèn ngang
+Thước đo nội nha, bơm tiêm và kim nội nha, lentulo, dụng cụ trám răng + Máy định vị chóp
+ Bộ trâm xoay Neoniti (Neolix, Pháp)
+ Bộ trâm xoay PTU (Densply Maillefer, Hoa Kỳ)
The materials used in the procedure include Glyde (EDTA), a 2.5% NaOCl solution, Endo-ice cold test solution, paper cones, Neoniti and PTU gutta-percha cones, eugenate, cortisomol, anesthetic, cotton, saline solution, paper cones, and a 0.2% Chlorhexidine solution.
Hình 2.1 Mũi khoan mở tủy Hình 2.2 Máy định vị chóp và motor nội nha
Hình 2.3 Bộ trâm PTU Nguồn: Ruddle CJ.(2001)[54]
2.2.4 Tóm tắt các bước tiến hành nghiên cứu
2.2.4.1 Khám và chẩn đoán xác định
Khám và phân loại bệnh nhân vào nhóm nghiên cứu I hoặc II Giải thích quy trình điều trị và nghiên cứu cho bệnh nhân Ghi nhận các dấu hiệu lâm sàng và kết quả X-quang Thực hiện chẩn đoán xác định.
Sửa soạn bằng trâm Neoniti
Sửa soạn bằng Protaper Universal
Tốt Trung bình Kém Điều trị tủy lại
2.2.4.2 Điều trị nội nha với hệ thống trâm Neoniti và Protaper Universal
Gây tê vùng và tại chỗ, sau đó mở tủy và xác định lỗ vào ống tủy (OT) Tiến hành đo chiều dài làm việc bằng máy định vị chóp và X quang Chuẩn bị ống tủy với bộ trâm Neoniti hoặc PTU kết hợp với EDTA và dung dịch NaOCl 2,5% Thực hiện trám bít ống tủy bằng phương pháp lèn ngang, tiếp theo là chụp phim để đánh giá kết quả Cuối cùng, sử dụng Eugenate để trám tạm.
- Lần 2: sau 1 tuần Trám kết thúc bằng composite
- Lần 3: sau 1 tháng Đánh giá kết quả trên lâm sàng và X quang
- Lần 4: sau 6 tháng Đánh giá kết quả trên lâm sàng và X quang
Dựa vào triệu chứng lâm sàng và phim X quang, kết quả điều trị sau trám OT được phân loại thành ba nhóm: thành công, nghi ngờ và thất bại Các bệnh nhân có kết quả điều trị nghi ngờ sẽ được theo dõi tiếp, trong khi những bệnh nhân có kết quả thất bại sẽ được điều trị lại.
Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn lựa Điều trị
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ nghiên cứu hệ thống trâm PTU
Theo dõi lâm sàng, X quang
Trám bít OT bằng phương pháp lèn ngang
2.2.5 Các chỉ tiêu nghiên cứu và cách đánh giá
2.2.5.1 Khảo sát đặc điểm lâm sàng, X quang viêm tủy không hồi phục trên răng cối lớn thứ nhất hàm dưới
- Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
+ Nhóm tuổi, phân theo tác giả Dammaschke T (2003) [33] gồm:
+ Lý do đến khám: đau răng, thức ăn lọt vào lỗ sâu, chấn thương (vỡ một phần thân răng), lý do khác
+ Tiền sử: Đã điều trị răng lần nào chưa, từ bao giờ, trám răng, điều trị tủy hay mão răng
+ Vị trí răng tổn thương trên cung hàm: R36, R46
+ Nguyên nhân gây viêm tủy không hồi phục: biến chứng sâu răng, chấn thương răng, mòn cổ răng, nguyên nhân khác (mòn mặt nhai, thiểu sản men…)
* Sự xuất hiện cơn đau: đau tự nhiên thành cơn, đau khi có kích thích nóng, đau khi kích thích lạnh, đau khi ăn nhai
* Khoảng thời gian của cơn đau (tính bằng phút, giờ)
* Số lần xuất hiện cơn đau trong một ngày (1 lần, 2 lần, nhiều lần)
* Vị trí đau: đau tại răng tổn thương, không rõ đau răng nào, đau lan tỏa một bên hàm, đau lan tỏa lên đầu
* Thời điểm xuất hiện cơn đau: đau nhiều về đêm, đau cả ngày
Để xác định sự đổi màu của men răng, cần so sánh màu sắc của răng với răng bên cạnh và răng đối diện dưới nhiều góc độ ánh sáng khác nhau, sử dụng bảng so màu Chromascop Nếu độ chênh lệch màu từ 1 đến 2 số, đó là đổi màu nhẹ; còn nếu chênh lệch từ 3 số trở lên, đây là dấu hiệu của đổi màu rõ rệt.
* Tìm các thương tổn lõm hình chêm, mòn răng mặt nhai
* Răng bị mẻ vỡ: mặt nhai, mặt gần, mặt xa, mặt trong, mặt ngoài
Lỗ sâu trên răng có thể được phân loại theo vị trí và độ sâu Về vị trí, lỗ sâu có thể nằm ở mặt nhai, gần, xa, trong, ngoài, hoặc kết hợp giữa các vị trí như mặt nhai và ngoài, nhai trong, nhai gần, nhai xa Về độ sâu, lỗ sâu được chia thành hai loại: sâu ngà nông khi cách đường nối men ngà dưới 2mm và sâu ngà sâu khi cách đường nối men ngà từ 2mm trở lên.
* Tổn thương tủy: viêm tủy cấp, viêm tủy phì đại
* Gõ dọc, gõ ngang, thử lạnh: đau hay không đau
* Mô nha chu: bình thường, viêm nướu, viêm nha chu
- Đặc điểm X quang: chụp phim cận chóp để đánh giá:
+ Sự liên quan của tổn thương với buồng tủy
+ Tình trạng hệ thống OT trước điều trị:
* Số lượng chân răng: hai/ ba chân Chiều dài OT sơ bộ trước sửa soạn
* Tình trạng OT: hình dáng OT; nhìn rõ OT, không rõ OT
* Các tổn thương vùng quanh chóp, khoảng dây chằng nha chu
2.2.5.2 So sánh kết quả điều trị viêm tủy không hồi phục trên răng cối lớn thứ nhất hàm dưới giữa hệ thống trâm Neoniti và Protaper Universal
+ Gây tê vùng hoặc/ và gây tê tại chỗ răng tổn thương
Sử dụng mũi khoan tròn, trụ để mở tủy và xác định miệng lỗ OT, sau đó lấy tủy Khi đã tìm được đường vào OT, bơm chất bôi trơn vào buồng tủy Sử dụng file K số 8 hoặc số 10 với độ thuôn 2% để thông OT và đi hết chiều dài của nó Tiến hành chụp phim X-quang kỹ thuật số và sử dụng phần mềm Winwin pro để vẽ đường thẳng thứ nhất theo trục của file và đường thẳng thứ hai theo trục của chóp răng Đo góc α được tạo bởi hai đường thẳng; nếu α ≥ 25 độ, OT được coi là cong.
+ Sử dụng file K số 10 hoặc 15 để tạo đường trượt trong OT
Xác định chiều dài làm việc OT bằng máy định vị chóp PROPEX II với độ chính xác 0,5mm, sau đó kiểm tra lại bằng X quang cận chóp sử dụng đầu râm ngắn hơn chóp răng trên.
* Nhóm 1: Sửa soạn OT bằng trâm Neoniti, phương pháp bước xuống:
Sử dụng trâm Neoniti lắp vào tay khoan giảm tốc của motor NSK, điều chỉnh tốc độ 300 đến 500 vòng/phút và lực torque tối đa 1,5 N/cm
Trâm Neoniti C1 (25/.12) được sử dụng để mở rộng lỗ OT và loại bỏ tam giác ngà bằng cách chải lên xuống, chỉ cần sửa soạn 1/3 cổ OT, với khoảng cách 3 - 5mm từ lỗ OT.
Trong trường hợp OT nhỏ, khó có thể sử dụng trâm GPS (15/.03) để mở rộng đường trượt
Trâm Neoniti A1 được sử dụng để chuẩn bị 1/3 giữa và 1/3 chóp của ống tủy Đặt nút stop cách khoảng 2/3 chiều dài làm việc hoặc ngắn hơn khoảng 3mm Lắp trâm vào máy và tiến hành chạy với lực ấn nhẹ nhàng theo chiều dài đã chọn Sau mỗi lần chạy, cần loại bỏ mùn ngà trên rãnh cắt của trâm và thực hiện bơm rửa OT Sử dụng file K 10 hoặc 15 để làm sạch hết chiều dài làm việc OT, tiếp tục sửa soạn cho đến khi chóp răng trở nên trơn láng.
Sử dụng trâm Neoniti A1 (20/.06) để sửa soạn OT cho các OT nhỏ, khó
Sử dụng trâm tay số 20 thông hết chiều dài OT nếu thấy cảm giác chặt tay là được Nếu thấy lỏng thì tiếp tục sửa soạn bằng trâm Neoniti A1 (25/.06)
Tiếp tục quá trình sửa soạn toàn bộ chiều dài làm việc đến chóp răng bằng trâm Neoniti A1 (25/.06) Sử dụng trâm tay số 25 để thông hết chiều dài OT; nếu cảm thấy chặt tay là đạt yêu cầu Nếu cảm giác lỏng, hãy tiếp tục sửa soạn với trâm Neoniti A1 (40/.04).
Trong quá trình sửa soạn ống tủy (OT), cần phải bơm rửa cẩn thận bằng dung dịch NaOCl 2,5% Sử dụng ống bơm rửa nội nhà, đưa vào OT một cách nhẹ nhàng mà không cần dùng lực, đồng thời làm sạch mùn ngà trên trâm Cuối cùng, sử dụng file K để kiểm tra sự thông suốt của ống tủy.
OT và xác định đủ chiều dài làm việc Chú ý nếu đẩy trâm với lực lớn có nguy cơ gây ra các đường nứt ở chân răng
Hình 2.5: Các bửa sửa soạn OT bằng trâm Neoniti
* Nhóm 2: Sửa soạn OT bằng trâm PTU bằng phương pháp bước xuống
Sử dụng trâm PTU lắp vào tay khoan giảm tốc của motor, đặt chương trình chạy cho máy theo hướng dẫn của nhà sản xuất
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
So sánh kết quả điều trị viêm tủy không hồi phục trên răng cối lớn thứ nhất hàm dưới giữa hệ thống trâm Neoniti và Protaper Universal
Bảng 3.8 Phân bố số lượng OT
Răng 3OT Răng 4OT Răng 5OT Tổng
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng, trong số các hàm dưới RCL1, tỷ lệ răng có 3 OT chiếm 54,5%, cao hơn so với răng có 4 OT với tỷ lệ 44,2% Đáng chú ý, chỉ có 1 răng có 5 OT, chiếm tỷ lệ 1,3%.
Bảng 3.9 Số lượng OT phía gần và phía xa
Nhận xét: Số lượng 2 OT phía gần chiếm tỷ lệ 98,7%; có 1,3% có 3 OT Ở phía xa, tỷ lệ có 1 OT là 54,5%; 2 OT là 45,5%
3.2.2 Chiều dài làm việc của ống tủy
Bảng 3.10 Chiều dài làm việc của OT theo nhóm nghiên cứu
- Chiều dài làm việc trung bình của OT gần ngoài, gần trong lần lượt là 19,01 ± 1,14 mm và 19,05 ± 1,14 mm.
- Chiều dài làm việc trung bình của OT xa là 19,20 ± 1,13 mm.
- Chiều dài làm việc trung bình của OT xa ngoài, xa trong lần lượt là 19,23 ± 1,38 mm và 19,03 ± 1,23 mm.
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu về chiều dài làm việc của các OT
Bảng 3.11 Chiều dài làm việc của OT theo nhóm tuổi
Nghiên cứu cho thấy chiều dài làm việc trung bình của OT gần ngoài, gần trong và ống xa dài nhất ở nhóm tuổi 21 – 40 tuổi lần lượt là 19,73 ± 1,0 mm, 19,75 ± 1,08 mm và 20,17 ± 1,07 mm Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
Chiều dài làm việc trung bình của OT gần ngoài và xa ngắn nhất được ghi nhận ở nhóm tuổi 41 – 60 tuổi, với giá trị lần lượt là 18,0 ± 0,87 mm và 18,0 ± 1,17 mm (p < 0,01) Trong khi đó, chiều dài làm việc trung bình của OT gần trong ngắn nhất lại xuất hiện ở nhóm tuổi trên 60, đạt 18,10 ± 0,42 mm (p < 0,01).
- Không có sự khác biệt về chiều dài làm việc trung bình của OT xa ngoài, xa trong giữa các nhóm tuổi (p > 0,05).
3.2.3 Thời gian s a soạn ống tủy
Bảng 3.12 Thời gian sửa soạn OT theo nhóm nghiên cứu
Răng Thời gian s a soạn OT (giây)
- Thời gian sửa soạn OT bằng trâm Neoniti ít hơn bằng trâm PTU ở nhóm răng có 3 OT và 4 OT, có ý nghĩa thống kê (p < 0,001)
- Thời gian sửa soạn trung bình 1 OT bằng trâm Neoniti là 105,61 ± 3,46 giây; nhanh hơn so với hệ thống trâm PTU là 204,66 ± 11,66 giây (p < 0,001)
Bảng 3.13 Thời gian sửa soạn trung bình 1 OT theo nhóm tuổi
- Thời gian sửa soạn trung bình 1 OT bằng trâm Neoniti ngắn hơn nhiều so với bằng hệ thống trâm PTU, ở tất cả các nhóm tuổi (p < 0,01)
Nghiên cứu cho thấy nhóm sửa soạn OT bằng Neoniti có thời gian sửa soạn trung bình khác nhau giữa các độ tuổi Cụ thể, nhóm dưới 21 tuổi có thời gian sửa soạn ngắn nhất là 103,44 ± 2,26 giây, trong khi nhóm trên 60 tuổi có thời gian dài nhất là 113,42 ± 2,71 giây Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
- Nhóm sửa soạn OT bằng hệ thống trâm PTU, thời gian sửa soạn trung bình
1 OT ở nhóm < 21 tuổi là 195,04 ± 5,15 giây, ngắn hơn nhiều so với các nhóm tuổi khác Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01)
Biểu đồ 3.5 cho thấy rằng trâm Neoniti A1 20.06 là loại được sử dụng nhiều nhất trong quá trình sửa soạn cuối cùng, với 97 OT Ngoài ra, có 40 OT được sửa soạn bằng trâm A1 25.06.
Biểu đồ 3.6 Trâm s a soạn cuối cùng ở nhóm PTU
Nhận xét: Số OT được sửa soạn bằng trâm F1 là nhiều nhất (91 OT), 39 OT được sửa soạn đến F2, không có trường hợp nào sử dụng trâm F3
3.2.5 Tai biến trong quá trình s a soạn ống tủy
Bảng 3.14 Tai biến trong quá trình sửa soạn OT
Tai biến Nhóm Neoniti Nhóm PTU Tổng
Trong nghiên cứu điều trị 77 răng, tỷ lệ tai biến là 6,5%, thấp hơn so với tỷ lệ không tai biến 93,5% Nhóm sử dụng trâm Neoniti có tỷ lệ không tai biến đạt 97,4%, vượt trội so với nhóm PTU với 89,5% Tuy nhiên, nhóm Neoniti ghi nhận 1 trường hợp tạo khấc OT (chiếm 2,6%), trong khi nhóm PTU gặp 3 trường hợp tạo khấc OT và 1 trường hợp rách lỗ chóp, tổng cộng chiếm 10,5%.
3.2.6 Kết quả s a soạn ống tủy
Bảng 3.15 Kết quả sửa soạn OT
Kết quả Nhóm Neoniti Nhóm PTU Tổng
Nhận xét: Ở nhóm Neoniti, kết quả sửa soạn OT đạt tốt chiếm tỷ lệ 97,4%; trung bình 2,6% Ở nhóm PTU, kết qủa sửa soạn OT đạt tốt chiếm 89,5%; trung bình 7,9%; kém 2,6%
Bảng 3.16 Kết quả sửa soạn OT và hình dạng OT
- Ở nhóm Neoniti, không có sự khác biệt về kết quả sửa soạn OT giữa hai nhóm OT thẳng và cong (p > 0,05)
Trong nghiên cứu nhóm PTU, tỷ lệ sửa soạn OT giữa hai nhóm OT thẳng và cong cho thấy sự khác biệt rõ rệt, với tỷ lệ tốt ở nhóm OT cong thấp hơn so với nhóm OT thẳng (p < 0,05).
3.2.7 Đánh giá kết quả điều trị
3.2.7.1 Kết quả sau trám ống tủy trên X quang
Bảng 3.17 Kết quả sau trám OT trên X quang
Kết quả Nhóm Neoniti Nhóm PTU Tổng
- Tỷ lệ trám tốt OT trên X quang ở nhóm điều trị bằng Neoniti là 89,7%; trung bình là 10,3%
Trong nhóm sửa soạn OT bằng trâm PTU, tỷ lệ trám tốt OT đạt 89,4%, với trung bình là 5,3% Tuy nhiên, có 2 trường hợp (chiếm 5,3%) có kết quả kém do thủng lỗ chóp và trám OT cách chóp lớn hơn 2mm.
- Trong 77 răng điều trị, tỷ lệ trám OT tốt trên X quang là 89,6%; trung bình là 7,8%; kém là 2,6% Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,05)
3.2.7.2 Tình trạng đau sau điều trị tủy 1 lần hẹn
Bảng 3.18 Tình trạng đau sau điều trị tủy 1 lần hẹn
Thời gian Cảm giác đau Nhóm Neoniti n (%)
6h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
4 (5,2%) p > 0,05 * 24h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
48h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
0 p < 0,05 * 72h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
Sau 6 giờ sau khi trám OT, có 42,8% bệnh nhân không cảm thấy đau (VAS=0), 39% bệnh nhân chỉ bị đau nhẹ (VAS=1), 13% cảm thấy đau vừa (VAS=2), và 5,2% bệnh nhân gặp phải cơn đau dữ dội So sánh giữa hai nhóm nghiên cứu, không có sự khác biệt đáng kể về mức độ đau sau 6 giờ điều trị (p > 0,05).
Sau khi thực hiện trám OT 24 giờ, có 58,4% bệnh nhân không cảm thấy đau, 33,8% bệnh nhân chỉ bị đau nhẹ, trong khi 7,8% bệnh nhân trải qua cơn đau mức độ vừa Đặc biệt, nhóm điều trị bằng PTU ghi nhận điểm VAS cao hơn so với nhóm Neoniti với giá trị p < 0,05.
Sau 48 giờ điều trị, 76,6% bệnh nhân không còn đau, trong khi 23,4% bệnh nhân chỉ có cảm giác đau nhẹ Điểm VAS sau 48 giờ ở nhóm PTU cao hơn so với nhóm Neoniti với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
- Sau 72h, 96,1% bệnh nhân không ghi nhận cơn đau sau điều trị; có 3 bệnh nhân đau nhẹ (chiếm tỷ lệ 3,9%)
Biểu đồ 3.7 Tình trạng đau sau điều trị tủy 1 lần hẹn
Bảng 3.19.Tình trạng đau sau điều trị tủy 1 lần hẹn theo giới
Thời gian Cảm giác đau Nam n (%)
6h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
4 (5,2%) p > 0,05 * 24h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
0 p > 0,05 * 48h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
72h Không đau Đau nhẹ Đau vừa phải Đau dữ dội
Nhận xét: Không có sự khác biệt về thang điểm VAS về mức độ đau ở thời điểm 6h, 24h, 48h và 72h sau khi trám OT đau giữa nam và nữ sau (p > 0,05)
3.2.7.3 Kết quả lâm sàng sau trám ống tủy 1 tuần
Bảng 3.20 Kết quả lâm sàng sau trám OT 1 tuần
Kết quả Nhóm Neoniti Nhóm PTU Tổng
Sau một tuần sau khi thực hiện trám OT, tỷ lệ thành công lâm sàng đạt 94,8%, vượt trội so với tỷ lệ nghi ngờ chỉ 5,2% Kết quả lâm sàng giữa hai nhóm nghiên cứu không cho thấy sự khác biệt đáng kể (p > 0,05).
3.2.7.4 Kết quả sau trám ống tủy 1 tháng
Bảng 3.21 Kết quả lâm sàng, X quang sau trám OT 1 tháng
Kết quả Nhóm Neoniti Nhóm PTU Tổng
Theo dõi sau 1 tháng điều trị cho thấy tỷ lệ thành công cao hơn nghi ngờ và thất bại ở hai nhóm điều trị Nhóm điều trị bằng trâm Neoniti có tỷ lệ thành công đạt 89,7%, trong khi tỷ lệ nghi ngờ là 10,3% Đối với nhóm điều trị bằng trâm PTU, tỷ lệ thành công là 86,9%, nghi ngờ 10,5% và thất bại 2,6% Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
3.2.7.4 Kết quả sau trám ống tủy 6 tháng
Bảng 3.22 Kết quả lâm sàng, X quang sau trám OT 6 tháng
Kết quả Nhóm Neoniti Nhóm PTU Tổng
Sau 6 tháng điều trị, nhóm Neoniti đạt tỷ lệ thành công 94,9% và tỷ lệ nghi ngờ 5,1% Trong khi đó, nhóm điều trị bằng PTU có tỷ lệ thành công 92,1%, nghi ngờ 5,3% và thất bại 2,6% Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
3.2.7.5 Kết quả điều trị theo thời gian theo dõi
Biểu đồ 3.8 Kết quả điều trị theo thời gian theo dõi nhóm Neoniti
Tỷ lệ điều trị thành công ở nhóm sửa soạn bằng trâm Neoniti tăng theo thời gian theo dõi, đạt 94,9% sau 6 tháng điều trị, cao hơn so với 89,7% sau 1 tháng Kết quả nghi ngờ sau 6 tháng (5,1%) cũng thấp hơn so với 10,3% sau 1 tháng điều trị.
Biểu đồ 3.9 Kết quả điều trị theo thời gian theo dõi nhóm PTU
BÀN LUẬN
KIẾN NGHỊ 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bệnh lý viêm tủy không hồi phục là một dạng viêm cấp tính, đòi hỏi sự kết hợp giữa lâm sàng và X quang để chẩn đoán và điều trị kịp thời, nhằm giảm cơn đau cho bệnh nhân.
2 Trâm xoay Protaper Universal và Neoniti nên được áp dụng rộng rãi trong điều trị nội nha tại các cơ sở nha khoa
Cần tiến hành thêm các nghiên cứu về hiệu quả của việc sửa soạn ống tủy bằng trâm xoay Neoniti, đặc biệt là trong trường hợp các ống tủy cong, nhằm chứng minh những ưu điểm vượt trội của trâm xoay Neoniti.
1 Trần Thị Lan Anh (2014), "Đánh giá hiệu quả lâm sàng sử dụng trâm xoay
Ni-Ti Protaper trong điều trị tủy răng", Y học Việt Nam, 1, 112-114
Lê Văn Đông (2014) đã nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng, hình ảnh X quang, và hiệu quả điều trị nội nha cho răng hàm lớn thứ nhất ở hàm dưới, sử dụng hệ thống Pathfile và Protaper Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Y Hà Nội.
Trương Mạnh Dũng và Lương Ngọc Khuê (2011) đã nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh X-quang của răng hàm lớn thứ nhất và thứ hai ở hàm dưới, trong bối cảnh bệnh nhân có chỉ định điều trị nội nha Nghiên cứu này được công bố trên Tạp chí Nghiên cứu Y học, số 74, tập 3, góp phần cung cấp thông tin quý giá cho việc chẩn đoán và điều trị trong lĩnh vực nha khoa.
4 Lê Thị Thu Hà (2014), "Đánh giá kết quả điều trị nội nha bằng phương pháp sửa soạn ống tủy với trâm xoay Ni-Ti Protaper", Y học Việt Nam, 1, 13-17
5 Trịnh Thị Thái Hà (2013), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, X quang và nguyên nhân của các răng cần điều trị tủy lại", Y học thực hành, 3(864), 67-
6 Trịnh Thị Thái Hà (2014), "Chữa răng và nội nha tập 1", Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 67-79
7 Trịnh Thị Thái Hà (2015), "Chữa răng và nội nha tập 2", 12-60
Huỳnh Hữu Thục Hiền (2019) đã thực hiện một nghiên cứu sâu sắc về đặc điểm hình thái của chân răng và ống tủy của răng cối lớn thứ nhất và thứ hai ở người Việt Luận án tiến sĩ Y học của tác giả được bảo vệ tại Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, đóng góp quan trọng vào hiểu biết về giải phẫu răng miệng trong cộng đồng người Việt.
9 Đinh Diệu Hồng, Phạm Như Hải (2021), "Hình thái ống tủy răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới của người Hà Nội", Tạp chí Y học Việt Nam, 503(1), 265-
10 Trần Thị An Huy, Phạm Văn Liệu (2013), "Nhận xét hiệu quả trên lâm sàng,
X-quang của phương pháp điều trị nội nha bằng Path File kết hợp Protaper",
Nghiên cứu của Huỳnh Kim Khang và Phạm Văn Khoa (2021) trên Tạp chí Y học Việt Nam đã phân tích đặc điểm chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới thông qua hình ảnh Conebeam CT Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin quan trọng cho việc điều trị nha khoa, giúp nâng cao hiệu quả và độ chính xác trong các can thiệp nha khoa liên quan đến răng cối lớn.
12 Nguyễn Khang (2017), "Đánh giá kết quả điều trị tủy bằng hệ thống trâm xoay Ni-Ti Protaper và máy X-Smart tại Khoa Răng Miệng, Bệnh viện Quân
Y 103", Tạp chí Y - Dược học quân sự, 4, 209-213
13 Khoa Răng Hàm Mặt Đại học Y dược Huế (2018), "Nha cơ sở tài liệu giảng dạy sau đại học", 83-86
14 Phạm Văn Khoa (2020), "Giáo trình giảng dạy đại học Nội nha", Nhà xuất bản Y học
15 Ngô Thị Hương Lan (2017), Nghiên cứu điều trị tủy răng hàm nhỏ thứ nhất hàm trên với hệ thống trâm xoay Ni-Ti Waveone, Luận án Tiến sĩ Y học,
Viện nghiên cứu khoa học Y dược lâm sàng 108
Chu Mạnh (2015) đã nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị tủy răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới bằng hệ thống trâm Wave One Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố X quang liên quan đến quy trình điều trị Luận văn của tác giả đóng góp quan trọng vào việc cải thiện phương pháp điều trị tủy răng, mang lại hiệu quả cao hơn cho bệnh nhân.
Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu của Nguyễn Phan Hoài Mỹ và Trần Xuân Vĩnh (2021) trên Tạp chí Y học Việt Nam đã chỉ ra hiệu quả điều trị nội nha trên răng có sang thương quanh chóp bằng xi-măng trám bít ống tủy nền Calcium Silicate Kết quả nghiên cứu cho thấy xi-măng này mang lại kết quả tích cực trong việc điều trị, góp phần nâng cao hiệu quả lâm sàng trong nội nha.
Lê Thị Kim Oanh (2013) đã thực hiện nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị nội nha cho nhóm răng hàm lớn hàm dưới bằng hệ thống EnDo - Express Luận văn này là một phần trong chương trình tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa 2 tại Trường Đại học Y Hà Nội.
19 Nguyễn Ngọc Phúc, Phạm Văn Khoa (2021), "Cảm giác đau sau sửa soạn ống tủy bằng phương pháp quay liên tục và quay qua lại", Tạp chí Y học Việt
Trong nghiên cứu của Trương Xuân Qúy, Lê Hưng và Nguyễn Khang (2018), được công bố trên Tạp chí Y Dược lâm sàng, các tác giả đã đánh giá hiệu quả điều trị nội nha cho răng số 6 và 7 ở hàm trên bằng cách sử dụng trâm máy Neolix tại Bệnh viện Quân y 103 Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp này mang lại kết quả khả quan trong điều trị, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe răng miệng.
21 Phạm Thị Hạnh Quyên (2020), Đánh giá thực nghiệm và kết quả điều trị tủy răng hàm nhỏ người cao tuổi có sử dụng hệ thống Protaper Next, Luận án
Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội
22 Bùi Thị Thanh Tâm (2004), Nhận xét hiệu quả điều trị tủy với NiTi Protaper cầm tay, Luận văn Thạc Sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, 35-55
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Thắng và Phạm Văn Khoa (2018) trong bài viết "Khảo sát sự chuyển pha của dụng cụ quay Nickel-Titanium sau sử dụng có hấp vô trùng trong mô phỏng lâm sàng" đăng trên Y học thành phố Hồ Chí Minh, đã chỉ ra sự thay đổi pha của dụng cụ Nickel-Titanium sau quá trình hấp vô trùng Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin quan trọng về hiệu quả và độ bền của dụng cụ này trong môi trường lâm sàng, từ đó góp phần nâng cao chất lượng điều trị.
Ngô Việt Thắng (2018) đã thực hiện nghiên cứu về kết quả điều trị nội nha cho răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất ở hàm dưới, sử dụng hệ thống trâm Waveone Gold Luận văn này đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nha khoa, cung cấp thông tin về hiệu quả và ứng dụng của công nghệ hiện đại trong điều trị nội nha.
Chuyên khoa II, Trường Đại học Y Hà Nội
25 Aminsobhani Mohsen, Meraji Naghmeh, Khoshdel Alireza, et al (2017),
"The effect of root canal preparation using single versus multiple endodontic rotary files on post-operative pain, a randomised clinical trial", European Endodontic Journal, 2(1), p.1
In a randomized clinical trial published in the Indian Journal of Health Sciences and Biomedical Research (KLEU), Arora Neha and Joshi Sonal Bakul (2017) conducted a comparative evaluation of postoperative pain following single-visit endodontic treatment The study specifically assessed the effectiveness of ProTaper Universal and ProTaper Next rotary file systems, providing valuable insights into pain management in endodontics.
27 Ballullaya Srinidhi V, Vemuri Sayesh, Kumar Pabbati Ravi (2013),
"Variable permanent mandibular first molar: Review of literature", Journal of conservative dentistry: JCD, 16(2), p.99
28 Bane Khaly, Faye Babacar, Sarr Mouhamed, et al (2015), "Root canal shaping by single-file systems and rotary instruments: a laboratory study",
29 Baume LJ, Risk LB, Rossier F (1974), "Radiographic Control of Radicular
Pulpotomy in Category III Pulps", International Endodontic Journal, 7(1), pp.17-27
30 Bender IB, Seltzer Samuel, Soltanoff Walter (1966), "Endodontic success—
A reappraisal of criteria: Part II", Oral Surgery, Oral Medicine, Oral Pathology, 22(6), pp.790-802
A systematic review and meta-analysis by Bucheli et al (2016) published in the International Endodontic Journal investigates the impact of two reciprocating single-file systems and two rotary-file systems on apical extrusion of debris The study explores the biological implications of this extrusion in relation to symptomatic apical periodontitis, highlighting the importance of file system choice in endodontic treatment outcomes.
32 Choi Mi-Ree, Moon Young-Mi, Seo Min-Seock (2015), "Prevalence and features of distolingual roots in mandibular molars analyzed by cone-beam computed tomography", Imaging science in dentistry, 45(4), pp.221-226
33 Dammaschke Till, Steven Doris, Kaup Markus, et al (2003), "Long-term survival of root-canal–treated teeth: a retrospective study over 10 years",
34 De-Deus Gustavo, Neves Aline, Silva Emmanuel João, et al (2015),
"Apically extruded dentin debris by reciprocating single-file and multi-file rotary system", Clinical oral investigations, 19(2), pp.357-361
35 de Pablo Óliver Valencia, Estevez Roberto, Sánchez Manuel Péix, et al
(2010), "Root anatomy and canal configuration of the permanent mandibular first molar: a systematic review", Journal of endodontics, 36(12), pp.1919-
36 Forghani Maryam, Hezarjaribi Maryam, Teimouri Hamidreza (2017),
"Comparison of the shaping characteristics of Neolix and Protaper Universal systems in preparation of severely-curved simulated canals", Journal of clinical and experimental dentistry, 9(4), p.556
37 Gambarini G (2001), "Cyclic fatigue of ProFile rotary instruments after prolonged clinical use", International endodontic journal, 34(5), pp.386-389
38 Garg Amit Kumar, Tewari Rajendra Kumar, Agrawal Neha (2013),
"Prevalence of three-rooted mandibular first molars among Indians using SCT", International journal of dentistry, 2013
39 Gulabivala K, Opasanon A, Ng Y‐L, et al (2002), "Root and canal morphology of Thai mandibular molars", International endodontic journal,
40 Harandi Azadeh, Mirzaeerad Sina, Mehrabani Mahgol, et al (2017),
"Incidence of dentinal crack after root canal preparation by ProTaper universal, Neolix and SafeSider systems", Iranian endodontic journal, 12(4), p.432
41 Kazandag Meric Karapinar, Basrani Bettina R, Friedman Shimon (2010),
"The operating microscope enhances detection and negotiation of accessory mesial canals in mandibular molars", Journal of Endodontics, 36(8), pp.1289-1294
42 Khabbaz MG, Protogerou E, Douka E (2010), "Radiographic quality of root fillings performed by undergraduate students", International endodontic journal, 43(6), pp.499-508
43 Kim E, Fallahrastegar A, Hur Y‐Y, et al (2005), "Difference in root canal length between Asians and Caucasians", International endodontic journal,
44 Kulkarni Varun, Duruel Onurcem, et al (2020), "In-depth morphological evaluation of tooth anatomic lengths with root canal configurations using cone beam computed tomography in North American population", Journal of
45 Kuzekanani Maryam (2018), "Nickel–Titanium rotary instruments:
Development of the single-file systems", Journal of International Society of Preventive & Community Dentistry, 8(5), p.386
46 Kuzekanani Maryam, Sadeghi Faranak, Hatami Nima, et al (2021),
"Comparison of Canal Transportation, Separation Rate, and Preparation Time between One Shape and Neoniti (Neolix): An In Vitro CBCT Study",
47 Labbaf Hossein, Moghadam Kiumars Nazari, Shahab Shahriar, et al (2017),
"An in vitro comparison of apically extruded debris using Reciproc, ProTaper Universal, Neolix and Hyflex in curved canals", Iranian endodontic journal, 12(3), p.307
48 McClannahan Scott B, Baisden Michael K, Bowles Walter R (2011),
"Endodontic diagnostic terminology update", Northwest dentistry, 90(5), pp.25-27
49 Mukhaimer Raed Hakam (2014), "Evaluation of root canal configuration of mandibular first molars in a Palestinian population by using cone-beam computed tomography: an ex vivo study", International scholarly research notices, 2014
A study conducted by Mandana Naseri, Mozayeni Mohammad Ali, Safi Yaser, and colleagues in 2018 explored the root canal morphology of maxillary second molars in a selected Iranian population Utilizing cone-beam computed tomography, the research examined variations based on age and gender, contributing valuable insights to the field of endodontics The findings were published in the Iranian Endodontic Journal, volume 13, issue 3, page 373.