1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Luận văn đại học thương mại) pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng nam cường

59 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc. Thực Tiễn Thực Hiện Tại Công Ty Cổ Phần Tư Vấn Thiết Kế Xây Dựng Nam Cường
Tác giả Đỗ Hà Mĩ
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Tình
Trường học Đại học Thương Mại
Chuyên ngành Kinh tế - Luật
Thể loại khóa luận
Định dạng
Số trang 59
Dung lượng 1,3 MB

Cấu trúc

  • TÓM LƯỢC

  • LỜI CẢM ƠN

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài

  • 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

  • 3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu

  • 4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu

  • 5. Phương pháp nghiên cứu

  • 6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

  • CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

  • 1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả

  • 1.1.1. Khái niệm về quyền tác giả

  • 1.1.2. Vai trò của quyền tác giả

    • QTG đối với bản thân người sáng tạo : Mỗi tác phẩm hình thành mang dấu ấn riêng của tác giả, phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: văn hóa, khoa học, nghệ thuật phục vụ cho phần lớn nhu cầu của cộng đồng. Việc pháp luật cho phép người sáng tác có được những quyền riêng là để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của họ, bù đắp những chi phí họ đã bỏ ra để tạo nên tác phẩm, bảo hộ giá trị của tác phẩm… là những vai trò chính của QTG.

    • QTG đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế : Với con số gần đây nhất trong Hội thảo quốc gia về vai trò của QTG đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế cho biết: “Ở Thái Lan, dựa trên tổng số liệu điều tra năm 2006, tổng giá trị đóng góp của ngành công nghiệp dựa trên bản quyền cho nền kinh tế chiếm 4,48% GDP, chiếm 2,85% của tổng việc làm trong cả nước. Hoặc ở Hàn Quốc, các ngành công nghiệp bản quyền Hàn Quốc đã tăng trưởng nhanh hơn so với các ngành công nghiệp khác của nền kinh tế trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2009. Trong năm 2009, các ngành công nghiệp dựa trên bản quyền Hàn Quốc đạt 105,4 ngàn tỷ Won, chiếm 9,89% GDP quốc gia”. Những con số trên phản ánh một phần tốc độ phát triển của ngành công nghiệp sáng tạo, có được điều đó cũng nhờ một phần chế định QTG được thực thi nghiêm ngặt. QTG thể hiện rõ sự khách quan và công bằng giữa chủ thể muốn khai thác, sử dụng tác phẩm và tác giả, chủ sở hữu QTG.

    • QTG và sự ra đời của các tác phẩm mới : Việc tạo ra chế định QTG, ngoài việc đáp ứng nhu cầu bảo hộ, QTG còn tạo động lực, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của các cá nhân để sáng tác ra các tác phẩm mới đạt được lợi ích kinh tế trong quá trình khai thác, sử dụng và phục vụ nhau cầu xã hội loài người.

  • 1.1.3. Lịch sử hình thành quyền tác giả

  • 1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.2.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.2.2. Điều kiện bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.2.3. Chủ thể và thời hạn bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.2.4. Nội dung QTG đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.2.5. Chuyển giao quyền giao QTG đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.2.6. Xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 1.3. Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả

  • 1.3.1. Nguyên tắc bảo hộ tự động

  • 1.3.2. Nguyên tắc bảo đảm tính không trùng lặp của tác phẩm

  • 1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân

  • 1.3.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể.

  • CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG

  • BẢO HỘ TÁC PHẨM KIẾN TRÚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN THIẾT KẾ XÂY DỰNG NAM CƯỜNG

  • 2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ tác phẩm kiến trúc

  • 2.1.1. Tổng quan tình hình các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.2.1. Nội dung pháp luật về chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.2.2. Nội dung pháp luật về điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.2.3. Nội dung pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.2.4. Nội dung pháp luật về xâm phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường

  • 2.3.1. Tổng quan về Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường

  • 2.3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.3.3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.3.4. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

  • 2.4. Một số nhận xét và đánh giá liên quan đến việc áp dụng pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường.

  • 2.4.1. Những thành tựu đạt được

  • 2.4.2. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại

  • CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ QTG ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

  • 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

  • 3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC I

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo hộ trí tuệ trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia Quyền sở hữu trí tuệ không chỉ là nhu cầu mà còn là nhiệm vụ của các hệ thống pháp luật, nhằm bảo vệ thành quả sáng tạo của con người Điều này hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của một nền pháp luật hiện đại và tân tiến.

Nghệ thuật kiến trúc không chỉ là hình thức tạo dựng không gian sống cho con người mà còn có ảnh hưởng lớn đến môi trường sống Được coi là một ngành nghệ thuật và khoa học, kiến trúc tổ chức không gian sống một cách hợp lý Lịch sử kiến trúc ghi nhận nhiều nền văn hóa từ cổ đại đến hiện đại qua các công trình có giá trị lịch sử và văn hóa như Đấu trường Roma và Vạn lý trường thành, cho đến những biểu tượng hiện đại như tháp Tokyo và Đảo nhân tạo Palm Những công trình này không chỉ phản ánh nền văn minh nhân loại mà còn là thước đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia và khu vực.

Mỗi công trình kiến trúc, từ nhà ở đến khu đô thị, đều trải qua quy trình thiết kế, bao gồm việc mô tả bản vẽ và ý tưởng trên giấy hoặc các hình thức khác Những thiết kế này không chỉ chứa đựng ý tưởng mà còn được cảm nhận qua giác quan con người Là một phần của quyền tác giả, tác phẩm kiến trúc được công nhận và bảo hộ theo quy định của luật sở hữu trí tuệ.

Việc bảo hộ quyền tác giả (QTG) cho các tác phẩm kiến trúc mang lại nhiều giá trị và lợi ích kinh tế lẫn tinh thần cho các tác giả và chủ sở hữu Khi được công nhận đúng mức, bảo hộ QTG không chỉ khuyến khích sự sáng tạo mà còn thúc đẩy sự phát triển của các tác phẩm kiến trúc, góp phần làm phong phú thêm các công trình dân dụng và mỹ thuật Ngược lại, nếu cơ chế bảo hộ không hoạt động hiệu quả, nó sẽ trở thành rào cản, hạn chế động lực nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng các tác phẩm kiến trúc trong sự phát triển của xã hội và kinh tế.

Mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý về quyền tác giả (QTG) từ Nghị định 142/HĐBT ngày 14/11/1986, việc vi phạm QTG đối với tác phẩm kiến trúc vẫn diễn ra phổ biến Nguyên nhân chính là do người dân chưa thực sự hiểu và tuân thủ pháp luật về QTG, khiến khái niệm này vẫn còn xa lạ với đa số người tiêu dùng.

Hệ thống pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc bảo vệ bản vẽ thiết kế và phác thảo Việc tái tạo công trình kiến trúc mà không sử dụng bản vẽ được bảo hộ không bị coi là xâm phạm QTG, điều này tạo điều kiện cho các hành vi trục lợi, nhất là trong bối cảnh Internet phát triển mạnh mẽ So với các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ và Nhật Bản, nơi QTG được xem là một lĩnh vực pháp luật riêng biệt, Việt Nam lại quy định quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp trong một văn bản luật thống nhất, dẫn đến sự chồng chéo trong quản lý quyền sở hữu trí tuệ.

Pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sáng tạo của các kiến trúc sư Tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường, việc thực hiện các quy định pháp luật này được áp dụng một cách nghiêm túc, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các tác giả Công ty không chỉ tuân thủ các quy định về bản quyền mà còn nâng cao nhận thức của nhân viên về tầm quan trọng của việc bảo vệ tác phẩm kiến trúc Sự tuân thủ pháp luật này góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành kiến trúc và xây dựng.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

So với nhiều lĩnh vực khác, nghiên cứu về Quản trị Giá trị (QTG) nói chung và QTG trong kiến trúc nói riêng vẫn chưa được chú trọng đầy đủ Gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu đáng chú ý liên quan đến QTG và ứng dụng của nó trong các tác phẩm kiến trúc, trong đó có những nghiên cứu tiêu biểu từ Nguyễn Minh Tuấn.

Bài nghiên cứu của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 mang tiêu đề “Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” tập trung vào việc phân tích và đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ quyền tác giả trong bối cảnh hội nhập Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều chỉnh pháp luật về quyền tác giả để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và văn hóa của Việt Nam.

Vũ Thị Hải Yến là chủ nhiệm đề tài nghiên cứu về bảo hộ quyền tác giả Trong bài viết của Nguyễn Lan Nguyên (2009) trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm thúc đẩy bảo vệ quyền tác giả ở Việt Nam trong thời gian tới Bên cạnh đó, Trương Thị Tường Vi (2010) trong luận văn thạc sĩ Luật học của mình cũng đã phân tích vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính theo quy định pháp luật Việt Nam.

Quốc gia Hà Nội là nơi diễn ra nhiều nghiên cứu quan trọng về quyền tác giả, trong đó có luận văn thạc sĩ của Kiều Thanh (1999) với tiêu đề “Một số vấn đề về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự Việt Nam” tại Đại học Luật Hà Nội Nghiên cứu này góp phần làm rõ các khía cạnh pháp lý liên quan đến quyền tác giả trong bối cảnh Việt Nam, mở ra hướng đi mới cho việc bảo vệ quyền lợi của tác giả và các vấn đề pháp lý liên quan.

Bài viết "Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp" của Quản Tuấn An, luận văn thạc sĩ luật học tại Đại học Luật Hà Nội, năm 2009, phân tích thực trạng bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trong môi trường kỹ thuật số, đồng thời nêu ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn cần được giải quyết để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của tác giả.

Luận văn thạc sĩ Luật học tại Đại học Luật Hà Nội cùng nhiều công trình nghiên cứu nổi bật khác như "Quyền tác giả và hoạt động xuất bản", và "Quyền tác giả trong không gian ảo" được xuất bản bởi Nhà xuất bản Hội nhà văn và Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đóng góp quan trọng cho lĩnh vực nghiên cứu luật học và quyền tác giả.

Các công trình nghiên cứu hiện tại đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quyền tác giả trong kiến trúc, nhưng vẫn chưa đi sâu vào các khía cạnh chuyên môn Mặc dù chúng cung cấp thông tin hữu ích về QTG, nhưng chưa có nghiên cứu nào hệ thống và toàn diện về vấn đề này Luận văn thạc sĩ “Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo pháp luật” là một trong những công trình đáng chú ý, mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về quyền tác giả trong lĩnh vực kiến trúc.

Luận văn "Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu sâu sắc các quy định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc, bao gồm các khái niệm và nội dung liên quan, cũng như cơ chế bảo hộ Tuy nhiên, luận văn vẫn chưa giải quyết được những hạn chế trong quy định pháp luật về bảo hộ QTG cho tác phẩm kiến trúc.

“Quyền tác giả, đường hội nhập không trải hoa hồng” sách chuyên khảo của tác giả

Nguyễn Vân Nam, Nhà xuất bản trẻ, chuyên phân tích quy định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả, đặc biệt là quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc Bài viết đặt vấn đề này trong bối cảnh hội nhập quốc tế, so sánh với các quy định pháp luật nước ngoài và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế về quyền tác giả (QTG), đặc biệt là đối với tác phẩm kiến trúc Tuy nhiên, tác giả chưa đề xuất giải pháp thực tiễn để khắc phục những vấn đề này Việc vi phạm QTG, đặc biệt liên quan đến tác phẩm kiến trúc, vẫn chưa thu hút sự quan tâm đủ mức từ các tác giả và nhà nghiên cứu, mặc dù pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam còn nhiều thiếu sót trong lĩnh vực này.

Việc nghiên cứu hệ thống các chính sách và quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam là cần thiết trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập toàn cầu Nghiên cứu này sẽ làm rõ các luận cứ khoa học liên quan đến tác phẩm kiến trúc và bảo hộ quyền tác giả, từ đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các quy định về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.

Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu này nhằm hoàn thiện và bổ sung quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc Bằng cách phân tích các quy định hiện hành và đối chiếu với các vụ việc thực tiễn, đồng thời so sánh với Luật QTG của Hoa Kỳ, Anh, và các điều ước quốc tế khác, bài viết sẽ đưa ra những khuyến nghị cụ thể nhằm cải thiện khung pháp lý về QTG tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực kiến trúc.

Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các nhà thiết kế Tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường, việc thực hiện các quy định này đã được chú trọng, đảm bảo rằng các tác phẩm kiến trúc được sáng tạo và phát triển một cách hợp pháp Công ty cam kết tuân thủ các quy định pháp luật về quyền tác giả, từ đó nâng cao giá trị và uy tín cho các sản phẩm thiết kế của mình.

Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu

Bài nghiên cứu tập trung vào các khái niệm và quy định trong pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc, đồng thời phân tích các vấn đề lý luận cơ bản về QTG trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật Nghiên cứu cũng xem xét các loại hình tác phẩm được bảo hộ, cơ chế bảo hộ và ý nghĩa của việc bảo hộ QTG trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay So sánh các quy định về QTG của Việt Nam với các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, bài khóa luận cung cấp cái nhìn toàn diện về hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng tư liệu thực tiễn liên quan đến xâm phạm QTG và áp dụng cơ chế bảo hộ đối với tác phẩm kiến trúc, từ đó đưa ra định hướng và khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về QTG trong lĩnh vực kiến trúc tại Việt Nam.

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc, đồng thời đánh giá thực trạng bảo hộ QTG hiện tại Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ (LSHTT) về bảo hộ QTG Cụ thể, bài nghiên cứu sẽ trình bày những vấn đề lý luận chung về QTG, QTG đối với tác phẩm kiến trúc, cũng như pháp luật về bảo hộ QTG nói chung và đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng.

Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cho thấy nhiều điểm hạn chế trong quy định hiện hành Việc thực thi pháp luật chưa đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của các tác giả Bên cạnh đó, sự thiếu rõ ràng trong các quy định cũng làm giảm hiệu quả bảo hộ, cần thiết phải cải thiện để đảm bảo quyền lợi cho những người sáng tạo.

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, cần có những kiến nghị cụ thể gửi đến nhà nước và các chủ thể liên quan Trước hết, cần tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực kiến trúc Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để phù hợp với thực tiễn và xu hướng phát triển của ngành kiến trúc Cuối cùng, cần thiết lập các cơ chế hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi cho các kiến trúc sư, nhằm khuyến khích sáng tạo và phát triển bền vững trong lĩnh vực này.

Về nội dung : Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống lý luận và thực tiễn của pháp luật

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam hiện nay gặp nhiều bất cập Pháp luật về sở hữu trí tuệ (LSHTT) từ lý luận đến thực tiễn vẫn chưa hoàn thiện, với các quy định hiện hành được phân tán trong nhiều văn bản pháp lý như LSHTT 2005, Luật xuất bản 2012 và Bộ luật dân sự Việc này gây khó khăn trong việc áp dụng và thực thi quyền lợi của tác giả đối với các tác phẩm kiến trúc.

2015, … Vì vậy khi tiếp cận nghiên cứu về vấn đề bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc, đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau :

Bài viết này tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc, bao gồm các đối tượng và chủ thể của QTG trong lĩnh vực này Đồng thời, nó cũng phân tích thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến nội dung và bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc Nghiên cứu sẽ đánh giá, so sánh và đưa ra quan điểm cùng giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ QTG trong lĩnh vực kiến trúc.

Khóa luận tập trung nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc, đồng thời so sánh với các quy định quốc tế mà Việt Nam tham gia Bên cạnh đó, nghiên cứu thực trạng bảo hộ QTG cho tác phẩm kiến trúc thông qua dữ liệu từ Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường và các ví dụ thực tiễn khác Từ những phân tích này, khóa luận đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bảo hộ QTG cho tác phẩm kiến trúc.

Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, em có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :

Phương pháp thu thập thông tin là bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu, giúp người nghiên cứu hình dung rõ ràng về vấn đề cần giải quyết Việc thu thập thông tin đảm bảo rằng nghiên cứu phù hợp với tình hình thực tế Sau khi có thông tin, các nhà nghiên cứu tiến hành phân tích, tổng hợp và so sánh để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu.

Phương pháp tổng hợp được áp dụng khi đã hoàn tất việc tìm kiếm tài liệu, nhằm tổng hợp thông tin liên quan đến nghiên cứu cho phần tổng quan hoặc phân tích số liệu để trả lời câu hỏi nghiên cứu Đồng thời, do cùng một nội dung có thể xuất hiện ở nhiều nguồn khác nhau, phương pháp so sánh được sử dụng để kiểm chứng độ chính xác của thông tin.

Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích và đối chiếu các quy định mới với những quy định trước đây, cũng như so sánh các quy định giữa các quốc gia khác nhau Mục tiêu của phương pháp này là đưa ra kết quả hoặc lý thuyết phù hợp nhất với vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp liệt kê là một kỹ thuật hữu ích để trình bày thông tin một cách khoa học và dễ hiểu, giúp nâng cao hiệu quả trong việc phân tích số liệu.

Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

Khóa luận được chia thành ba chương, trong đó Chương 1 tập trung vào các vấn đề lý luận liên quan đến quản trị chất lượng (QTG) và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm kiến trúc.

Chương 2 phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc và thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Xây dựng Nam Cường Chương 3 đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến bảo hộ QTG cho các tác phẩm kiến trúc, nhằm nâng cao hiệu quả và bảo vệ quyền lợi cho các tác giả trong lĩnh vực này.

Khóa luận không chỉ bao gồm nội dung chính mà còn có các phần phụ lục quan trọng như Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục bảng biểu, Danh mục từ viết tắt và các phụ lục liên quan khác.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả

Trước khi tìm hiểu về khái niệm Quản trị tác giả (QTG), cần làm rõ định nghĩa “tác giả” Theo quy định pháp luật hiện hành, tác giả được hiểu là “người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học” Việc xác định đúng vai trò của tác giả là điều kiện tiên quyết để ghi nhận và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của họ.

NĐ 100/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, LSHTT về QTG và quyền liên quan]

Tác giả được định nghĩa là người trực tiếp sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ, đóng vai trò "cha sinh, mẹ đẻ" cho các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học Khác với lao động sản xuất thông thường, lao động trí óc tạo ra sản phẩm trí tuệ và thể hiện chúng một cách hữu hình Một tác phẩm được coi là của tác giả khi nó có hình thức vật chất nhất định, mang tính sáng tạo và được sáng tạo trực tiếp bởi người đó Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả bao gồm tác giả phái sinh, đồng tác giả và chủ sở hữu tác phẩm.

Quyền tác giả là một khía cạnh quan trọng được công nhận và bảo vệ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới Chẳng hạn, pháp luật Nhật Bản xác định rằng mục đích của luật bản quyền là bảo vệ các lợi ích của tác giả, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho họ trong việc sử dụng và khai thác tác phẩm sáng tạo.

Pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền tác giả bao gồm quyền tinh thần và quyền kinh tế cho tác giả Quyền tác giả là một phần của hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, không có quy định riêng biệt Khi một người sáng tạo ra tác phẩm văn học, khoa học hoặc nghệ thuật, họ trở thành chủ sở hữu và có quyền tự do quyết định cách sử dụng tác phẩm Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả ngay khi ra đời mà không cần thủ tục đăng ký hay nộp lưu chiểu Theo Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), quyền tác giả là quyền của người sáng tác đối với các tác phẩm của họ.

Quyền tác giả (QTG) được chia thành hai nhóm chính: quyền kinh tế (quyền tài sản) và quyền tinh thần (quyền nhân thân) Cả hai nhóm quyền này thuộc về người sáng tạo tác phẩm, cho phép họ tự sử dụng, cấp phép hoặc cấm người khác sử dụng tác phẩm của mình.

1.1.2 Vai trò của quyền tác giả

Quyền tác giả (QTG) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo, giúp họ khẳng định dấu ấn cá nhân trong các tác phẩm phản ánh đa dạng lĩnh vực của đời sống xã hội như văn hóa, khoa học và nghệ thuật Pháp luật công nhận quyền riêng của người sáng tác nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, bù đắp chi phí sản xuất tác phẩm và bảo hộ giá trị của chúng.

QTG đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế : Với con số gần đây nhất trong

Hội thảo quốc gia về vai trò của QTG đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế cho biết:

Theo số liệu điều tra năm 2006, ngành công nghiệp dựa trên bản quyền tại Thái Lan đóng góp 4,48% GDP và tạo ra 2,85% tổng việc làm của cả nước Tương tự, từ năm 2005 đến 2009, các ngành công nghiệp bản quyền tại Hàn Quốc đã có sự tăng trưởng vượt bậc so với các ngành khác, với giá trị đạt 105,4 ngàn tỷ Won vào năm 2009, chiếm 9,89% GDP quốc gia.

Các số liệu trên cho thấy sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp sáng tạo, điều này được hỗ trợ bởi việc thực thi nghiêm ngặt chế định quyền tác giả (QTG) QTG đảm bảo sự công bằng và khách quan giữa những người muốn khai thác, sử dụng tác phẩm và các tác giả cũng như chủ sở hữu quyền tác giả.

Chế định Quyền tác giả (QTG) không chỉ đáp ứng nhu cầu bảo hộ mà còn khuyến khích sự sáng tạo và tìm tòi của cá nhân, từ đó tạo ra các tác phẩm mới Những tác phẩm này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế trong quá trình khai thác và sử dụng mà còn phục vụ cho nhu cầu xã hội của loài người.

1.1.3 Lịch sử hình thành quyền tác giả

Từ thời cổ đại, khái niệm "sở hữu trí tuệ" đã xuất hiện, mặc dù chưa có quy định pháp lý đầy đủ cho các sản phẩm tinh thần Nhà thơ La Mã Marcus Valerius Martialis (42-104) là một trong những nhân vật đầu tiên đề cập đến ý tưởng này, phản ánh sự quan tâm của xã hội đối với quyền lợi của tác giả và giá trị của sáng tạo.

Vào thế kỷ 15, sau khi phát minh kỹ thuật in sách, nhu cầu bảo vệ tác phẩm trước tình trạng in lậu gia tăng Các nhà xuất bản chỉ dám đầu tư vào việc sản xuất sách khi có sự bảo hộ pháp lý chống lại những kẻ sao chép không công bằng Thời kỳ Phục hưng đã khuyến khích sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân và nâng cao lòng tự tin của các văn nghệ sĩ, dẫn đến việc lên án hành vi đạo văn, mà từ đó xuất hiện thuật ngữ “kẻ đạo tác phẩm” để chỉ những người lấy tác phẩm của người khác mà không có sự cho phép.

Trong thời kỳ phát triển của quyền tác giả, nhiều học thuyết đã ra đời, trong đó có những quan điểm trái ngược nhau Tại Anh, trước khi Thuyết quyền sở hữu trí tuệ được biết đến, lý thuyết về quyền sở hữu của nhà xuất bản đã được đề xuất, cho rằng các nhà xuất bản và nhà in có quyền sở hữu tác phẩm họ xuất bản, đặc biệt khi đã trả tiền cho tác giả Lý thuyết này được Hiệp hội các nhà xuất bản Anh đưa ra lần đầu vào năm 1556 Tuy nhiên, Thuyết quyền sở hữu trí tuệ dần thay thế lý thuyết trước đó, và vào năm 1779, dưới triều đại Nữ hoàng Anne, Anh đã công nhận độc quyền của tác giả trong việc nhân bản tác phẩm Sự công nhận này xuất phát từ lợi ích xã hội và quan điểm của John Locke về quyền sở hữu tự nhiên đối với những gì con người tạo ra.

Theo gương nước Anh, tuy không chấp nhận lý thuyết về quyền tự nhiên, nước

Năm 1795, Mỹ đã ban hành luật liên bang, cấp quyền độc quyền cho tác giả khai thác tác phẩm về mặt kinh tế trong 14 năm, với khả năng gia hạn thêm 14 năm Đồng thời, tại Đức và Thụy Sĩ, thuyết quyền tác giả cũng đã được thảo luận một cách sôi nổi.

Nước Phổ (thuộc Đức cổ) vào năm 1987 đã ban hành Luật bảo vệ quyền sở hữu tác phẩm khoa học và nghệ thuật.

Theo thời gian, nhiều học thuyết về quyền tác giả (QTG) đã ra đời, trong đó Thuyết nhất nguyên được công nhận rộng rãi và trở thành nền tảng cho QTG hiện nay Thuyết này khẳng định chỉ tồn tại một loại quyền duy nhất với hai chức năng bảo vệ, thay vì hai quyền song song như quyền sở hữu của nhà xuất bản và quyền sở hữu trí tuệ của tác giả Một số quan điểm quan trọng của Thuyết nhất nguyên bao gồm: (i) QTG bảo vệ tác giả về mặt tinh thần và cá nhân liên quan đến tác phẩm, (ii) QTG là quyền thống nhất không thể tách rời giữa quyền nhân thân và quyền tài sản, và (iii) QTG không thể chuyển nhượng, trừ trường hợp thừa kế.

Hiện nay, quyền tác giả (QTG) không chỉ là đặc quyền mà là quyền tự nhiên của tác giả, được xác lập thông qua hoạt động sáng tạo tác phẩm QTG không phải là sự trao tặng từ nhà nước hay chỉ đơn thuần là việc hoàn thành các thủ tục hành chính, mà là sự công nhận tác phẩm thuộc về tác giả Điều này trao cho tác giả quyền sở hữu đối với tác phẩm của mình, tăng cường bảo vệ quyền lợi của họ trong lĩnh vực sáng tạo.

Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Khái niệm tác phẩm kiến trúc

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, 2011), "kiến trúc" được định nghĩa là nghệ thuật thiết kế và trang trí nhà cửa, đồng thời thể hiện mối quan hệ giữa các thành phần để tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

“tác phẩm” được hiểu là công trình do nhà văn hóa, nghệ thuật hoặc khoa học sáng tạo ra.

Theo khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, “tác phẩm” được định nghĩa là “các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương thức hay hình thức nào” Trong đó, tác phẩm kiến trúc được coi là một loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật, được bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật về sở hữu trí tuệ Thuật ngữ “tác phẩm kiến trúc” chỉ mới xuất hiện kể từ khi pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được ban hành.

Trên thế giới, Theo quy định tại Điều 102 (a) Luật QTG đối với tác phẩm kiến trúc năm

Tác phẩm kiến trúc tại Hoa Kỳ vào năm 1990 được định nghĩa là "kiểu dáng tòa nhà thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, bao gồm tòa nhà, bản vẽ kiến trúc hay thiết kế" Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, "tác phẩm kiến trúc" là các bản vẽ thiết kế thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian, bao gồm cả những công trình đã và chưa được xây dựng Cụ thể, "tác phẩm kiến trúc" bao gồm: (i) bản vẽ thiết kế mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh; (ii) mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian, theo Điều 17 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006.

Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

QTG, hay quyền tác giả, là quyền của tổ chức và cá nhân đối với các tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật mà họ sáng tạo hoặc sở hữu Trong đó, tác phẩm kiến trúc được xem là một thể loại thuộc về các tác phẩm này Do đó, có thể kết luận rằng quyền tác giả bảo vệ sự sáng tạo và sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật.

Quyền tác giả đối với các tác phẩm kiến trúc bao gồm quyền của tổ chức và cá nhân đối với bản vẽ thiết kế, mô hình và sa bàn của công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian mà họ đã trực tiếp sáng tạo hoặc đầu tư tài chính Quyền này có thể được chuyển giao thông qua hợp đồng hoặc thừa kế, và được pháp luật bảo hộ mà không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, trình độ sáng tạo, cũng như không phân biệt nội dung và giá trị Quyền tác giả bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản gắn liền với các quyền nhân thân đó.

1.2.2 Điều kiện bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

Các tác phẩm kiến trúc được bảo hộ quyền tác giả (QTG) phải tuân thủ các quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) cùng các điều luật liên quan Để được bảo hộ, tác phẩm kiến trúc cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định.

Thứ nhất, tính sáng tạo của tác phẩm kiến trúc

Theo Công ước Berne và Luật Sở hữu trí tuệ, để được bảo hộ quyền tác giả, tác phẩm kiến trúc phải thể hiện tính sáng tạo của tác giả, tức là không sao chép từ các tác phẩm khác Việc xác định tính sáng tạo dựa vào quá trình lao động sáng tạo của tác giả và những điểm riêng biệt thể hiện "chất riêng" của tác phẩm Một tác phẩm không được coi là tác phẩm gốc nếu nó sao chép từ tác phẩm khác mà không còn dấu ấn cá nhân của tác giả Ngoài ra, việc chiếm đoạt một phần quan trọng của tác phẩm có trước cũng được xem là xâm phạm quyền tác giả Sự sáng tạo trong kiến trúc thể hiện qua việc sử dụng chi tiết và vật liệu mới, cùng với thiết kế hợp lý, đảm bảo tính thẩm mỹ và công năng sử dụng Tác giả, thông qua trí não và kinh nghiệm của mình, tạo ra tác phẩm kiến trúc độc đáo.

Thứ hai, tác phẩm được định hình dưới hình thức nhất định

Pháp luật về QTG không bảo hộ ý tưởng của tác phẩm mà chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của tác phẩm.

Theo Điều 6 của Luật Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất cụ thể, không phụ thuộc vào nội dung, chất lượng, hình thức phương tiện hay ngôn ngữ, cũng như việc tác phẩm đã được công bố hay đăng ký hay chưa Đối với các tác phẩm kiến trúc, quyền tác giả còn được thể hiện qua các mô hình hoặc sa bàn mô tả hình dáng của công trình.

1.2.3 Chủ thể và thời hạn bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả (QTG) cho tác phẩm kiến trúc là khoảng thời gian được pháp luật quy định, trong đó quyền lợi của tác giả và chủ sở hữu QTG sẽ được Nhà nước công nhận và bảo vệ Căn cứ theo Điều 27 của Luật Sở hữu trí tuệ, thời hạn bảo hộ QTG được xác định rõ ràng.

Thời hạn bảo hộ quyền nhân thân

Các quyền tác giả được bảo hộ vô thời hạn bao gồm các quyền nhân thân không thể chuyển nhượng, gắn liền với tác giả Những quyền này bao gồm: (i) quyền đặt tên cho tác phẩm; (ii) quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; (iii) quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố và sử dụng; (iv) quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, ngăn cản việc sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm gây tổn hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Thời hạn bảo hộ quyền tài sản

Các quyền tác giả (QTG) được bảo hộ có thời hạn bao gồm quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản Thời gian bảo hộ QTG đối với tác phẩm nói chung là suốt đời tác giả cộng thêm 50 năm sau khi tác giả qua đời, trong khi đối với tác phẩm kiến trúc khuyết danh, thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ ngày công bố lần đầu Trong thời gian này, quyền lợi đối với tác phẩm khuyết danh thuộc về Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân đang quản lý tác phẩm Khi thông tin về tác giả được xác định trong khoảng thời gian bảo hộ, quyền lợi sẽ chuyển giao cho họ và được bảo hộ thêm 75 năm sau khi họ qua đời Quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi của tác giả mà còn cân bằng lợi ích giữa tác giả và xã hội, tạo điều kiện cho công chúng sở hữu tác phẩm sau khi hết thời hạn bảo hộ Điều này khuyến khích các tác giả, đặc biệt là kiến trúc sư, sáng tạo ra những tác phẩm mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành kiến trúc và xã hội.

1.2.4 Nội dung QTG đối với tác phẩm kiến trúc

Quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật phát sinh ngay khi tác phẩm được hình thành, không phụ thuộc vào việc đăng ký hay bảo hộ Tác giả, với tư duy sáng tạo, tự động được hưởng quyền lợi nhất định từ tác phẩm của mình Theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, QTG bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản Quyền nhân thân gồm quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền được nêu tên thật hoặc bút danh, quyền công bố tác phẩm và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm Quyền tài sản bao gồm quyền tạo tác phẩm phái sinh, quyền sao chép, quyền phân phối và quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua các phương tiện khác nhau.

Tùy thuộc vào vị trí và vai trò của từng chủ thể đối với tác phẩm kiến trúc, quyền lợi của họ sẽ khác nhau Không phải tất cả các chủ thể trong quyền tác giả (QTG) đều được hưởng đầy đủ các quyền này Chỉ có tác giả đồng thời là chủ sở hữu QTG mới sở hữu toàn bộ quyền nhân thân và quyền tài sản liên quan đến tác phẩm kiến trúc.

1.2.5 Chuyển giao quyền giao QTG đối với tác phẩm kiến trúc Đối tượng của QTG là kết quả sáng tạo do con người tạo ra, có đặc trưng là khả năng tiếp cận và truyền bá rộng rãi trong cộng đồng Ví dụ: Một tác phẩm có thể được phổ biến toàn cầu để công chúng thuộc các dân tộc, tôn giáo, quốc gia khác nhau tiếp cận Bên cạnh một số lượng rất nhỏ các hành vi sử dụng với mục đích phi thương mại (như để giảng dạy, nghiên cứu, sử dụng cá nhân), hầu hết các hành vi sử dụng của các chủ thể khác đều với mục đích kinh doanh.

Xét từ góc độ kinh tế, quyền tác giả (QTG) được xem như tài sản có thể giao dịch chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng Trong hai nhóm quyền, quyền nhân thân mang yếu tố tinh thần và gắn liền với tác giả, được bảo hộ vĩnh viễn và không thể chuyển nhượng, trong khi quyền tài sản có thể chuyển nhượng Do đó, các giao dịch liên quan đến QTG chủ yếu tập trung vào quyền tài sản Đối với tác phẩm kiến trúc, QTG cũng là một loại quyền tác giả, và theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, có hai hình thức chuyển nhượng QTG đối với tác phẩm kiến trúc.

Chuyển nhượng QTG đối với tác phẩm kiến trúc

Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả

Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới dạng vật chất mà không cần thủ tục nào như đăng ký hay nộp lưu chiểu Điều này được quy định tại khoản 2 Điều 5 Công ước, nhấn mạnh rằng việc hưởng thụ và thực hiện quyền này hoàn toàn độc lập với việc tác phẩm có được bảo hộ ở quốc gia gốc hay không "Hình thức vật chất" được hiểu là bất kỳ thể hiện nào cho phép công chúng nhận diện tác phẩm Bảo hộ quyền tác giả nhằm bảo vệ pháp lý cho hình thức chứa đựng nội dung tác phẩm thông qua các phương thức thể hiện khác nhau Khác với quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả không yêu cầu thủ tục hành chính để phát sinh, mà chỉ cần tác phẩm được sáng tạo và thể hiện một cách khách quan Tác phẩm văn học nghệ thuật được bảo hộ ít nhất suốt cuộc đời tác giả, tạo điều kiện thuận lợi cho các tác giả tập trung vào sáng tạo mà không phải lo lắng về các thủ tục hành chính.

Vào ngày 16/1/2012, nhà văn H đã hoàn thành tập truyện ngắn mang tên “Mùa hoa cỏ” và lưu bản thảo trong ngăn kéo bàn làm việc Theo công ước Berne, ngay khi tác phẩm được hoàn thành, quyền tác giả của ông đối với truyện ngắn này đã tự động phát sinh.

Từ thời điểm này, việc sao chép hoặc sử dụng truyện ngắn mà không có sự đồng ý của nhà văn H sẽ bị coi là hành vi bất hợp pháp Nguyên tắc này thể hiện sự tôn trọng lớn đối với các tác giả sáng tạo, giúp họ tập trung vào việc sáng tác mà không phải lo lắng về các thủ tục hành chính khác, từ đó củng cố tư cách sáng tạo của mình.

1.3.2 Nguyên tắc bảo đảm tính không trùng lặp của tác phẩm

Tác phẩm được pháp luật bảo hộ cần có tính sáng tạo và không chỉ đơn thuần là sự sắp xếp hay bắt chước các cách diễn đạt có sẵn Để được bảo hộ, tác phẩm phải là bản gốc, tức là phiên bản đầu tiên do tác giả sáng tạo Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc chủ đề, nội dung hay ý tưởng của tác phẩm phải hoàn toàn mới, mà yêu cầu người sáng tác phải thể hiện ý tưởng đó theo một hình thức độc đáo và sáng tạo.

Nguyên tắc bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm là một yêu cầu quan trọng, trong đó quyền nhân thân của tác giả bao gồm quyền bảo vệ tính toàn vẹn này Xâm phạm đến sự toàn vẹn của tác phẩm đồng nghĩa với việc xâm phạm quyền nhân thân của tác giả, vì trong quá trình sáng tạo, tác giả đã thể hiện tư tưởng độc lập và cách sắp xếp, trình bày ý tưởng theo cách riêng của mình.

Các tác giả của sản phẩm trí tuệ có quyền lợi tinh thần và vật chất ngang nhau, cho phép họ tự quyết định về quyền của tác phẩm của mình Pháp luật về quyền tác giả bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong việc sử dụng và khai thác tác phẩm một cách hiệu quả Khi quyền tác giả bị xâm phạm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thực hiện các biện pháp cưỡng chế nhằm khôi phục tình trạng ban đầu trước khi xảy ra vi phạm.

1.3.3 Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân

Quyền tự do sáng tạo cá nhân được xác định bởi nguyên tắc trong Hiến pháp năm 1992, cho phép công dân nghiên cứu khoa học và tham gia hoạt động văn hóa Nhà nước cam kết bảo vệ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, như được nêu trong Điều 60 Các Điều 30 và 32 cũng khẳng định sự bảo đảm pháp lý cho những cá nhân sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học Tuy nhiên, quyền tự do sáng tạo này chỉ được bảo vệ trong khuôn khổ loại trừ những tác phẩm có nội dung phản động, đồi trụy, mê tín và hủ tục.

Nhà nước đã ghi nhận quyền tự do sáng tạo của cá nhân trong Hiến pháp, làm cơ sở pháp lý cho toàn bộ hệ thống pháp luật Luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ phải tuân thủ và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, đồng thời bảo đảm nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết thoả thuận” Quyền tự do sáng tạo của cá nhân được tôn trọng và khuyến khích, cấm mọi hành vi cản trở hay hạn chế quyền này Pháp luật đảm bảo cho người sáng tạo quyền tự do trong việc chọn đề tài, hình thức thể hiện, đặt tên tác phẩm, đứng tên tác giả và giao kết hợp đồng chuyển giao tác phẩm.

1.3.4 Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể

Nguyên tắc bảo vệ quyền tác giả là tư tưởng chỉ đạo cho các ngành luật, nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân, bao gồm cả người nước ngoài Pháp luật quy định rõ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, cho phép mọi cá nhân sáng tạo và định đoạt quyền lợi từ tác phẩm của mình Để bảo vệ quyền lợi này, pháp luật cũng quy định các biện pháp cưỡng chế nhằm khôi phục tình trạng ban đầu khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả, đảm bảo các chủ thể sử dụng và khai thác tác phẩm một cách hiệu quả nhất.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ TÁC PHẨM KIẾN TRÚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG

Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ tác phẩm kiến trúc

Hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc đang được quy định rõ ràng trong pháp luật hiện hành Các quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi cho các tác giả, khuyến khích sáng tạo và bảo vệ giá trị văn hóa của các tác phẩm kiến trúc Việc hiểu rõ tổng quan tình hình pháp lý sẽ giúp các kiến trúc sư và nhà đầu tư nhận thức đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ các tác phẩm sáng tạo.

Kể từ Đại hội Đảng khóa IX năm 1986, Việt Nam đã bước vào thời kỳ đổi mới với sự chú trọng vào phát triển khoa học và công nghệ như động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân phát huy khả năng nghiên cứu, sáng tạo các công trình khoa học có giá trị cao Để thúc đẩy hội nhập quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) với 222 điều đã thiết lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam Ngày 19/6/2009, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung LSHTT với 33 điều nhằm khắc phục những hạn chế hiện có Đồng thời, Việt Nam cũng tham gia Hiệp định TRIPS về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, nhằm đảm bảo hội nhập sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã quy định đầy đủ về quyền tác giả (QTG), đặc biệt là đối với tác phẩm kiến trúc Hoạt động bảo hộ QTG không chỉ bảo vệ quyền cơ bản của con người mà còn có ảnh hưởng lớn đến kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước Đảng và Chính phủ đã tổ chức nhiều hội thảo và đàm phán về QTG trong môi trường kỹ thuật số với các doanh nghiệp nước ngoài, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện pháp luật trong tương lai.

Mặc dù có những dấu hiệu tích cực về bảo hộ quyền tác giả (QTG) và quyền liên quan từ Đảng và nhà nước đối với cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế, pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập khi so sánh với chuẩn mực quốc tế Theo Hội KTS Việt Nam, cần bổ sung và làm rõ quy định về QTG đối với tác phẩm kiến trúc, bao gồm các công trình xây dựng và việc sao chép các tác phẩm này Trên thế giới, đã có nhiều vụ kiện liên quan đến sao chép công trình kiến trúc, dẫn đến yêu cầu trả tiền bản quyền hoặc phá dỡ công trình Trong khi đó, tại Việt Nam, chưa từng xảy ra tranh chấp về bản quyền kiến trúc, không phải vì không có hiện tượng sao chép, mà do thiếu cơ sở pháp lý để xử lý Bên cạnh quy định chung về bảo hộ QTG cho các tác phẩm văn học, khoa học nghệ thuật, cần có quy định chi tiết hơn về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc.

Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định hai điều luật quan trọng về quản lý tác phẩm kiến trúc Với sự phát triển còn hạn chế, việc quản lý tác phẩm kiến trúc cần được chú trọng hơn nữa để Nhà nước có thể điều chỉnh và bổ sung các quy định phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của cá nhân, doanh nghiệp.

2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

2.1.2.1 Nhân tố kinh tế - chính trị

Sự vận hành và phát triển của nền kinh tế - chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến pháp luật của mỗi quốc gia, vì pháp luật được hình thành để phục vụ cho giai cấp thống trị Đảng và Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo ý chí của mình, trong khi sự phát triển kinh tế cũng yêu cầu điều chỉnh các quy định pháp luật cho phù hợp Mặc dù có sự khác biệt về lịch sử và thể chế chính trị, tất cả các quốc gia đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất Do đó, quy định pháp luật về tác phẩm kiến trúc không chỉ phụ thuộc vào tình hình nội bộ mà còn cần xem xét trong bối cảnh pháp luật quốc tế, nhằm hoàn thiện và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Những thay đổi trong thể chế kinh tế - chính trị, như việc gia nhập các hiệp ước quốc tế, có thể tác động đến cá nhân và doanh nghiệp trong nước, do đó việc sửa đổi và bổ sung pháp luật là cần thiết.

2.1.2.2 Nhân tố văn hóa – xã hội

Các nhân tố văn hóa xã hội, bao gồm phong tục, tập quán và thói quen của con người, ảnh hưởng đến hành vi và ý thức pháp luật của từng cá nhân Ở một đất nước đa dân tộc như Việt Nam, với nền văn hóa phong phú và phong tục tập quán đa dạng, những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành quan niệm sống và thói quen trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.

Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

2.2 Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

2.2.1 Nội dung pháp luật về chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chủ thể quyền tác giả (QTG) đối với tác phẩm kiến trúc bao gồm tác giả và chủ sở hữu QTG Tác giả, là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, đương nhiên có quyền theo quy định của pháp luật, phù hợp với tư tưởng của công ước Berne Tác giả có thể là cá nhân hoặc đồng tác giả, nhưng pháp luật Việt Nam cũng quy định rằng các tổ chức, hiệp hội, công ty (pháp nhân phi tự nhiên) cũng được hưởng QTG thông qua hợp đồng hoặc thừa kế Điều này có thể gây ra mâu thuẫn với mục đích bảo hộ quyền lợi của cá nhân đã bỏ công sức và trí tuệ để tạo ra tác phẩm, vì quyền nhân thân của các pháp nhân phi tự nhiên là không hợp lý Hệ quả là sẽ xuất hiện những khó khăn trong việc áp dụng luật khi tác giả là công ty gặp vấn đề như phá sản hay sáp nhập, trong khi pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể để giải quyết tình huống này.

Việc công nhận các pháp nhân phi tự nhiên là chủ thể của quan hệ quốc tế (QTG) là cần thiết cho quá trình hội nhập và phát triển kinh tế Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cần có quy định cụ thể và chặt chẽ hơn để đảm bảo các nguyên tắc của luật QTG không bị lệch lạc Tại Hoa Kỳ, luật QTG chỉ công nhận tác giả không phải là cá nhân như một ngoại lệ.

Theo pháp luật Việt Nam, chủ thể QTG không phải là cá nhân bao gồm :

Thứ nhất, tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm kiến trúc cho tác giả.

Trong trường hợp tác giả được giao nhiệm vụ sáng tạo, họ sử dụng nguồn tài chính và cơ sở vật chất của tổ chức hoặc cá nhân quản lý để thực hiện tác phẩm Điều này dẫn đến việc chủ sở hữu quyền tác giả (QTG) là tổ chức hoặc cá nhân đã giao nhiệm vụ cho tác giả Chẳng hạn, khi Tổng công ty X giao nhiệm vụ cho kiến trúc sư A thiết kế một tòa nhà chung cư, thì Tổng công ty X sẽ là chủ sở hữu QTG đối với bản vẽ thiết kế của tòa nhà đó.

Khi tổ chức hoặc cá nhân ký hợp đồng với tác giả, tác giả sẽ sáng tạo tác phẩm dựa trên hợp đồng thuê sáng tạo đã thỏa thuận Ví dụ, nếu ông B thuê kiến trúc sư A thiết kế căn biệt thự 03 tầng, ông B có thể trở thành chủ sở hữu quyền tác giả đối với bản vẽ nếu có thỏa thuận trong hợp đồng Các tổ chức, cá nhân ký hợp đồng sáng tạo với tác giả sẽ là chủ sở hữu quyền tài sản đối với tác phẩm Nếu chỉ một bên ký hợp đồng, bên đó sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả Ngược lại, nếu nhiều bên cùng ký hợp đồng với tác giả, họ sẽ đồng sở hữu các quyền liên quan đến tác phẩm.

Thứ ba, tổ chức, cá nhân là người thừa kế QTG Tác giả đồng thời là chủ sở hữu

QTG có quyền thừa kế các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm Khi đó, tổ chức hoặc cá nhân thừa kế sẽ trở thành chủ sở hữu QTG theo di chúc hoặc pháp luật Nếu nhiều người cùng thừa kế mà không phân định rõ phần quyền, họ sẽ là đồng chủ sở hữu chung về QTG Ngược lại, nếu phần quyền đã được xác định rõ trong di chúc, mỗi người sẽ là chủ sở hữu QTG đối với phần riêng của mình.

Tổ chức và cá nhân nhận chuyển nhượng quyền tác giả (QTG) sẽ nắm giữ các quyền tài sản cùng quyền công bố tác phẩm Những quyền này là nội dung chính trong hợp đồng chuyển nhượng QTG.

Giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QTG) tạo ra tư cách chủ sở hữu QTG cho tổ chức hoặc cá nhân nhận chuyển nhượng hợp đồng.

Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả (QTG) đối với các tác phẩm kiến trúc khuyết danh, đặc biệt là khi tác phẩm vẫn trong thời hạn bảo hộ Trường hợp chủ sở hữu QTG qua đời mà không có người thừa kế, hoặc người thừa kế từ chối nhận di sản, quyền sở hữu có thể được chuyển giao cho Nhà nước.

Trong lĩnh vực kinh tế, khi tác giả không phải là chủ sở hữu quyền tác giả (QTG), vai trò của chủ sở hữu QTG trở nên quan trọng hơn Điều này bởi vì các bên sử dụng tác phẩm cần phải xin phép hoặc trả nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu QTG.

2.2.2 Nội dung pháp luật về điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, tác phẩm được định nghĩa tại Điều 4, Khoản 7 là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học, được thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào Đồng thời, Điều 14, Khoản 3 quy định rõ về việc bảo hộ tác phẩm, nhấn mạnh những tác phẩm được bảo vệ theo các khoản đã nêu.

Tác giả phải trực tiếp sáng tạo nội dung bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác Điều này được quy định rõ ràng tại Điều 14, khoản 10, trong đó định nghĩa sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời dưới dạng điện tử.

Theo pháp luật Việt Nam, để tác phẩm kiến trúc được bảo hộ, nó cần có tính sáng tạo và hình thức thể hiện Tính sáng tạo, theo điều 14 khoản 3, được hiểu là sự sáng tạo qua lao động trí tuệ của con người Tuy nhiên, định nghĩa này có sự mâu thuẫn khi so sánh với quy định của công ước Berne và nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Theo công ước Berne, để một tác phẩm được bảo hộ, nó cần phải là kết quả của hoạt động sáng tạo tinh thần mang dấu ấn cá nhân trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật Cần phân biệt giữa sáng tạo và sáng tạo tinh thần mang dấu ấn cá nhân, vì sáng tạo theo pháp luật Việt Nam có thể bao gồm cả sáng tạo vật chất và sáng tạo tinh thần Sáng tạo tinh thần theo Công ước Berne và luật sở hữu trí tuệ của nhiều quốc gia phải thể hiện tư tưởng, do đó, các tác phẩm hình thành ngẫu nhiên hoặc không thể hiện thế giới tư tưởng của tác giả sẽ không được bảo hộ.

Luật SHTT 2005 định nghĩa sáng tạo là một hoạt động tư duy, công nhận tất cả các sản phẩm sáng tạo mà không phân biệt giữa sáng tạo vật chất và tinh thần trong các lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật Điều này đồng nghĩa với việc không yêu cầu tác phẩm phải có nội dung tinh thần để được bảo hộ theo Luật SHTT 2005.

Điều 14 khoản 3 không làm rõ sự phân biệt, vì ngay cả khi "tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình," họ vẫn có thể tạo ra sản phẩm vật chất sáng tạo, không nhất thiết là các sản phẩm tinh thần, hoặc nếu có, thì những sản phẩm tinh thần đó có thể không phản ánh dấu ấn sáng tạo cá nhân của tác giả.

Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường

2.3.1 Tổng quan về Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường

Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Nam Cường (NCDC) được thành lập vào năm 2011 và chính thức hoạt động từ ngày 20/07/2011, với mã số doanh nghiệp 020163623 Công ty đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp giấy phép hoạt động vào ngày 1/7/2011, chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế xây dựng và hoàn thiện nội thất cho các công trình nhà ở Trụ sở chính của NCDC hiện tọa lạc tại số 61 tuyến 3 Trại Lẻ, Phường Kênh Dương, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng.

Với sự phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu thiết kế nhà ở ngày càng tăng, dẫn đến sự ra đời của dịch vụ tư vấn thiết kế nhằm tạo ra không gian sống sang trọng và tiện nghi Kiến trúc Nam Cường (NCDC) nổi bật với dịch vụ này, đồng thời mở rộng các loại hình dịch vụ khác như thi công công trình hoàn thiện và sản xuất đồ nội thất NCDC cam kết mang đến uy tín, chất lượng, và mẫu mã đẹp, bền bỉ, nhận được nhiều phản hồi tích cực từ khách hàng.

Ngành nghề kinh doanh của NCDC chủ yếu là trong lĩnh vực xây dựng, cụ thể :

Dịch vụ tư vấn thiết kế nhà ở ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân về không gian sống sang trọng, tiện nghi và khang trang.

Dịch vụ xây nhà trọn gói đang trở thành lựa chọn phổ biến trong xã hội hiện đại, khi con người ngày càng bận rộn và ít thời gian chăm sóc tổ ấm gia đình NCDC cung cấp dịch vụ này với đầy đủ các giai đoạn, từ thiết kế cho đến thi công và hoàn thiện, nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng.

Vào thứ ba, NCDC sẽ thi công các hạng mục hoàn thiện và sản xuất đồ nội thất Chúng tôi không chỉ hỗ trợ khách hàng trong việc tạo ra những thiết kế phù hợp nhất với yêu cầu mà còn đảm bảo hoàn thiện nội thất bên trong, giúp công trình xây dựng trở nên hoàn mỹ.

2.3.2 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế, với đội ngũ kỹ sư thiết kế tạo ra các bản vẽ cho nhà ở, công trình xây dựng và khu đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng Các tác phẩm kiến trúc có thể được thực hiện bởi cá nhân hoặc nhóm đồng tác giả, nhưng theo hợp đồng lao động, công ty là chủ sở hữu các bản vẽ thiết kế này Các tác giả vẫn giữ quyền nhân thân như quyền đặt tên và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, trong khi quyền tài sản thuộc về công ty Công ty Nam Cường sẽ trả thù lao cho các tác giả, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc mua lại quyền tài sản, vì theo luật, tác giả không có quyền tài sản đối với tác phẩm nếu không phải là chủ sở hữu Khoản thù lao này chỉ mang tính chất như tiền lương, thể hiện thỏa thuận giữa người lao động và công ty.

Trong quan hệ giữa chủ sở hữu quyền tác giả (QTG) và tác giả tác phẩm kiến trúc, Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường có những đặc điểm tương đồng với quy định pháp luật Việt Nam Tác giả là những người sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc, do đó họ có quyền nhân thân gắn liền với tác phẩm, trong khi quyền tài sản thuộc về tổ chức sở hữu tác phẩm thông qua hợp đồng hoặc các quan hệ dân sự khác Dù là chủ sở hữu, các tổ chức này vẫn phải tôn trọng quyền nhân thân của tác giả, đây là quyền bất khả xâm phạm Tác giả chỉ đồng thời nắm giữ cả quyền nhân thân và quyền tài sản khi họ cũng là chủ sở hữu tác phẩm Đối với các kiến trúc sư làm việc dưới sự quản lý của Công ty cổ phần tư vấn thiết kế Nam Cường, họ không đồng thời nắm giữ cả quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm mà mình sáng tạo ra.

2.3.3 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Để được bảo hộ, các tác phẩm kiến trúc cần đáp ứng hai điều kiện cơ bản Thứ nhất, tác phẩm phải thể hiện tính sáng tạo, vượt qua khỏi những thiết kế thông thường Thứ hai, tác phẩm kiến trúc đó phải được thể hiện dưới hình thức vật chất cụ thể, có thể là bản vẽ, mô hình hoặc công trình thực tế.

Theo quy định pháp luật, tác phẩm kiến trúc được bảo hộ thông qua các bản vẽ thiết kế, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau Thông thường, các bản vẽ này được thực hiện trên giấy hoặc bằng máy tính Hiện nay, với sự phát triển của Internet, việc sử dụng phần mềm máy tính để tạo ra các bản vẽ thiết kế đã trở nên phổ biến.

Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế, tạo ra các bản vẽ phục vụ nhu cầu khách hàng Tất cả các thiết kế đều được đăng tải trên website của công ty, giúp dễ dàng tiếp cận công chúng trong thời đại công nghệ thông tin Việc trình bày các tác phẩm kiến trúc trên nền tảng điện tử không chỉ nâng cao khả năng truyền tải dấu ấn của tác giả mà còn tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền tác giả qua Internet, đặc biệt là đối với các tác phẩm kiến trúc.

Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường đã phát triển một website nhằm quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và các tác phẩm kiến trúc do kỹ sư công ty thực hiện Mặc dù trang web giúp tiếp cận khách hàng nhanh chóng, việc công khai các tác phẩm kiến trúc cũng tiềm ẩn rủi ro bị ăn cắp ý tưởng sáng tạo Nguyên nhân chính của tình trạng này là do công ty chưa áp dụng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả, cùng với việc hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định chặt chẽ để điều chỉnh vấn đề này trong bối cảnh Internet phát triển mạnh mẽ.

Pháp luật Việt Nam chỉ công nhận việc bảo hộ các tác phẩm kiến trúc trong không gian hai chiều, tức là chỉ bảo vệ các tác phẩm kiến trúc được thể hiện dưới dạng hình ảnh hoặc trên giấy.

Theo hội kiến trúc sư Việt Nam, bản vẽ thiết kế không thể coi là tác phẩm kiến trúc hoàn chỉnh, mà tác phẩm thực sự chỉ được xác định khi công trình được xây dựng Theo quy định pháp luật Việt Nam, các công trình xây dựng dựa trên bản vẽ thiết kế sẽ không được bảo hộ, và việc tạo ra công trình dựa trên bản vẽ thiết kế hoặc sao chép ý tưởng về kiểu dáng, nguyên vật liệu từ bản vẽ cũng không bị coi là xâm phạm quyền tác giả đối với bản vẽ đó.

2.3.4 Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Các hành vi xâm phạm quyền tác giả (QTG) đã được quy định tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) và Khoản 1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ-CP Tuy nhiên, mỗi tác phẩm có những đặc điểm riêng, dẫn đến các hành vi xâm phạm QTG cũng có những đặc thù riêng Tại Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Xây dựng Nam Cường, các hành vi xâm phạm đối với bản vẽ của tác giả chủ yếu diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau.

- Sao chép tác phẩm mà không có sự đồng ý của tác giả (qua phương tiệnInternet, )

Việc cố ý xóa hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền tác giả dưới hình thức điện tử trong tác phẩm, chẳng hạn như cắt xóa logo hoặc chữ ký của tác giả trên bản vẽ, là hành vi vi phạm nghiêm trọng.

Một số nhận xét và đánh giá liên quan đến việc áp dụng pháp luật về bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường

2.4.1 Những thành tựu đạt được

Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường đã đạt nhiều thành tựu trong việc sáng tạo các tác phẩm kiến trúc phục vụ khách hàng Các bản vẽ thiết kế của công ty được khách hàng đánh giá cao về tính sáng tạo, thẩm mỹ và công năng sử dụng, đồng thời đảm bảo an toàn trong vận hành Công ty chú trọng tuân thủ pháp luật, không ngừng đổi mới ý tưởng để tạo sự khác biệt trong thiết kế Cán bộ công ty luôn tôn trọng sự sáng tạo của người khác và cam kết không xâm phạm quyền tác giả Đặc biệt, công ty đã ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ vào quy trình thiết kế, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Các kỹ sư của công ty thành thạo sử dụng phần mềm chuyên dụng trong ngành xây dựng, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí Việc ứng dụng công nghệ này không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn mang lại sự hài lòng cho khách hàng nhờ vào dịch vụ tiên tiến và chất lượng.

Công ty không chỉ phát triển dấu ấn cá nhân trong các tác phẩm của mình mà còn đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ quyền tác giả (QTG) cho những tác phẩm đã sáng tạo Mỗi tác phẩm trước khi được đăng tải trên website hoặc phân phối đều được gắn thông tin quản lý quyền bằng logo và chữ ký của tác giả Một số tác phẩm còn có tên và ký hiệu của tác giả ngay trên đó Đối với các hợp đồng thiết kế công trình có giá trị lớn, công ty sử dụng mã vạch bên cạnh các thiết bị điện tử để phân biệt và hạn chế xâm phạm từ bên ngoài.

Công ty QTG cam kết bảo vệ quyền lợi của các tác giả, những người sáng tạo ra tác phẩm, thông qua việc trả thù lao, hoa hồng và tiền thưởng, nhằm khuyến khích sự đóng góp của họ cho sự phát triển chung Sự chú trọng này đến từ năng lực lãnh đạo của công ty, với khả năng tận dụng tiềm lực sẵn có, sắp xếp nhân lực hợp lý và tổ chức các cuộc họp để tạo điều kiện cho nhân viên trao đổi và thảo luận.

2.4.2 Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại

Mặc dù công ty đã đạt được nhiều thành tựu trong việc sáng tạo và bảo vệ các tác phẩm kiến trúc, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức cần được nghiên cứu và xem xét để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.

2.4.2.1 Những khó khăn về mặt khách quan

Quá trình hội nhập đã làm mới môi trường pháp lý Việt Nam để phù hợp với quy định quốc tế, tuy nhiên, luật về quyền tác giả (QTG), đặc biệt đối với tác phẩm kiến trúc, vẫn còn non trẻ và thiếu sự phát triển Những quy định hiện tại còn chung chung, không phù hợp với đặc thù của từng ngành, dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp trong việc áp dụng pháp luật Mặc dù pháp luật Việt Nam công nhận tác phẩm kiến trúc là một sản phẩm khoa học, nghệ thuật cần được bảo vệ, nhưng thực tế cho thấy tác phẩm kiến trúc có những đặc điểm riêng biệt so với các thể loại khác như văn học hay âm nhạc Trong bối cảnh ngày càng nhiều tác phẩm kiến trúc bị đạo nhái một cách tinh vi, cơ chế xử lý vi phạm quyền tác giả vẫn còn hạn chế và thiếu minh bạch, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình trước những xâm hại từ bên ngoài.

2.4.2.2 Những khó khăn về mặt chủ quan

Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Nam Cường chưa chú trọng đến việc đăng ký chứng nhận bảo hộ quyền tác giả (QTG) cho các tác phẩm kiến trúc của mình Tình hình này không chỉ xảy ra tại công ty mà còn phổ biến ở nhiều tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và các cơ quan có thẩm quyền khác Quyền tác giả, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, được tự động xác lập ngay khi tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất cụ thể.

Tuy vậy, việc đăng ký cấp chứng nhận bảo hộ QTG có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ

Trong trường hợp có tranh chấp, việc đăng ký bảo hộ là rất quan trọng Tuy nhiên, ban lãnh đạo và các kiến trúc sư của công ty Nam Cường vẫn chưa chú trọng đến vấn đề này.

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do ý thức chủ quan của ban lãnh đạo công ty, khi họ chưa nhận thức đầy đủ giá trị của những sáng tạo tinh thần từ nguồn nhân lực Họ cũng lo ngại về các thủ tục bảo hộ phức tạp và tốn kém Hơn nữa, việc tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đăng ký cấp chứng nhận bảo hộ quyền tác giả (QTG) chưa được thực hiện hiệu quả Các cơ quan có thẩm quyền dường như vẫn thụ động, chỉ chờ đợi người dân đến đăng ký mà không chủ động hỗ trợ.

Việc kiểm soát sự xâm phạm quyền tác giả (QTG) từ môi trường bên ngoài gặp nhiều khó khăn do nhiều nguồn xâm phạm khác nhau, như Internet và việc công khai tác phẩm Nguy cơ xâm hại tăng lên khi tác phẩm tiếp cận đông đảo công chúng, nhưng việc quản lý và nhận diện các hành vi này để ngăn chặn kịp thời không dễ dàng Doanh nghiệp thường chỉ có thể hành động khi xâm phạm đã xảy ra Bảo hộ bằng các biện pháp vật lý chưa hiệu quả, trong khi các cơ quan nhà nước chưa thực sự sát sao trong việc hỗ trợ tác giả bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ QTG ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cần thể chế hoá các đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Các quan điểm của Đảng được ghi nhận trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X và XI, đặc biệt là Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và khả thi Mục tiêu là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật, phát huy vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, và thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, hướng tới việc đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.

Để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam, cần thống nhất sự tản mát bằng cách áp dụng những quy định cụ thể trong Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) và Nghị định (NĐ), biến chúng thành luật chung cho các luật chuyên ngành.

Vào thứ hai, cần tiếp tục hoàn thiện quy định về hợp đồng nhằm khắc phục những hạn chế trong pháp luật hiện hành Điều này nên tập trung vào việc củng cố những nền tảng cơ bản, trong khi các quy định chi tiết rải rác ở các văn bản pháp luật khác nên được tập hợp thành một đạo luật riêng biệt để điều chỉnh.

Căn cứ vào xu thế hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là sự tiếp nối và hoàn thiện các xu hướng lịch sử, đồng thời là một hiện tượng mới, bắt đầu từ kinh tế và lan rộng sang văn hóa và chính trị Các nước phát triển hưởng lợi nhiều từ hội nhập, trong khi các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, cần có chiến lược thích ứng để vượt qua thách thức và nắm bắt cơ hội, đồng thời giữ vững chủ quyền quốc gia và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Chính phủ Việt Nam đã thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa, tiếp tục đưa ra các chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hội nhập quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực hợp đồng.

Cần tiếp tục cải thiện thể chế về quyền tác giả (QTG) nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng bằng cách sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) 2005 Việc này nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo hộ quyền tác giả của cá nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong lĩnh vực này.

Cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia để phù hợp với các thông lệ và tập quán quốc tế, nhằm đáp ứng xu hướng hội nhập của Việt Nam Việc cải thiện các quy định pháp luật sẽ tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, bất kể thành phần kinh tế.

3.2 Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hộ QTG đối với tác phẩm kiến trúc

- Cần phân biệt hai khái niệm “tác phẩm kiến trúc” và “công trình xây dựng”

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm kiến trúc được xác định qua bản vẽ thiết kế, nhưng điều này chưa đủ để hoàn thiện khái niệm Tác phẩm kiến trúc cuối cùng phải được thể hiện qua công trình xây dựng thực tế Công trình chỉ được công nhận là tác phẩm kiến trúc khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí do Nhà nước quy định Do đó, có thể phân biệt rõ ràng giữa công trình xây dựng và tác phẩm kiến trúc.

Để nâng cao hiệu quả bảo hộ tác phẩm kiến trúc theo công ước Berne và quy định của các nước thành viên, pháp luật Việt Nam cần sửa đổi và bổ sung khái niệm về tác phẩm kiến trúc Không phải mọi công trình kiến trúc đều đủ điều kiện được bảo hộ, đặc biệt là những thiết kế thông dụng, không vượt quá trình độ trung bình hoặc không mang tính nghệ thuật Cần thiết phải bổ sung quy định về “dấu ấn cá nhân” và “sáng tạo tinh thần” của tác giả để loại trừ các tác phẩm ngẫu nhiên hoặc phổ thông Hơn nữa, việc quy định tỷ lệ các yếu tố kỹ thuật và phần mềm trong sáng tạo kiến trúc là cần thiết, vì càng nhiều yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng đến thiết kế, khả năng được bảo hộ càng thấp.

QTG đối với tác phẩm kiến trúc cần được làm rõ, đặc biệt là với các công trình xây dựng, nơi có sự tham gia của nhiều tác nhân như kiến trúc sư, nhà đầu tư và cơ quan quản lý Việc thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ theo luật sở hữu trí tuệ là cần thiết để bảo vệ tác phẩm kiến trúc trước các can thiệp như sửa chữa, cải tạo hay phá bỏ Theo PGS, TS, KTS Nguyễn Quốc Thông, không phải tất cả công trình kiến trúc đều được xem là tác phẩm kiến trúc; chỉ những công trình có giá trị nghệ thuật cao mới xứng đáng được coi là di sản kiến trúc cần được bảo vệ.

- Nâng cao hiệu quả công tác của cán bộ nhà nước và ý thức của người dân

Hiệu quả thực thi pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm nhận thức của cộng đồng về pháp luật, năng lực của các cơ quan, tổ chức và cán bộ thực thi Để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền tài sản, cần hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành và áp dụng biện pháp nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân Đồng thời, cần tăng cường năng lực cho các cơ quan và tổ chức có trách nhiệm, cũng như cải thiện sự phối hợp giữa các bên trong việc thi hành pháp luật và xử lý vi phạm Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đặc biệt về quyền tài sản, là rất quan trọng để trang bị cho công dân kiến thức cần thiết, qua đó nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Ngay cả ở các nước phát triển, việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật vẫn cần thiết để duy trì nhận thức pháp luật cao trong cộng đồng.

Năm 2005, Mỹ tổ chức hội thảo toàn quốc nhằm nâng cao nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp họ hiểu cách bảo vệ tài sản trí tuệ của mình Kết quả đạt được rất cao, hiện nay, 47% giá trị của các công ty tại Mỹ đến từ sở hữu trí tuệ.

Trong khuôn khổ pháp luật về quyền tác giả (QTG), công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật cần tập trung vào ba đối tượng chính: tác giả, chủ sở hữu QTG và người sử dụng tác phẩm Mục tiêu là giúp các đối tượng này hiểu rõ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình Hơn nữa, việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật cần được thực hiện thường xuyên và thông qua nhiều hình thức đa dạng.

Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn còn mới mẻ, nhưng việc thực thi pháp luật về quyền tác giả (QTG) đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần bảo vệ QTG và khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều hạn chế như việc đăng ký bảo hộ QTG chưa được quan tâm đúng mức, vi phạm QTG diễn ra phổ biến, và công tác bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp chưa hiệu quả Nguyên nhân của những vấn đề này bao gồm quy định pháp luật chưa hoàn chỉnh, nhận thức của cộng đồng về QTG còn hạn chế, và sự phối hợp giữa các cơ quan chưa hiệu quả Để khắc phục, cần hoàn thiện quy định pháp luật về QTG, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao năng lực tổ chức thi hành pháp luật, và xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ pháp luật về QTG, đồng thời tuân thủ nghiêm chỉnh các điều ước quốc tế liên quan.

[1] Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009

[2] Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan

Nguyễn Thị Kim Thoa (2015) trong luận văn Thạc sĩ của mình đã nghiên cứu về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo pháp luật Việt Nam Nghiên cứu này được thực hiện tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhằm làm rõ các quy định pháp lý liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực kiến trúc Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền tác giả để khuyến khích sáng tạo và phát triển ngành kiến trúc tại Việt Nam.

[6] Nguyễn Vân Nam (2015) Quyền tác giả - Đường hội nhập không trải hoa hồng Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản trẻ

Bùi Thị Phương Lan (2003) trong luận văn thạc sĩ của mình đã nghiên cứu về pháp luật quyền tác giả trong bối cảnh hội nhập quốc tế tại Việt Nam Nghiên cứu này thuộc Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhằm phân tích những thách thức và cơ hội mà Việt Nam phải đối mặt khi áp dụng các quy định về quyền tác giả trong môi trường toàn cầu hóa.

[8] Trường Đại học Luật Hà Nội, (2008) Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

Ngày đăng: 20/10/2022, 15:51

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[2] Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan Khác
[5] Nguyễn Thị Kim Thoa( 2015). Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo pháp luật Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội Khác
[6] Nguyễn Vân Nam (2015). Quyền tác giả - Đường hội nhập không trải hoa hồng. Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản trẻ Khác
[7] Bùi Thị Phương Lan, (2003). Pháp luật về quyền tác giả trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội Khác
[8] Trường Đại học Luật Hà Nội, (2008). Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN