1. Trang chủ
  2. » Nông - Lâm - Ngư

Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp

138 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giáo Trình Bệnh Truyền Nhiễm 1
Tác giả ThS. Nguyễn Kim Kha, ThS. Huỳnh Chí Thanh, ThS. Tạ Hoàng Bảnh
Trường học Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Chuyên ngành Bệnh học thủy sản
Thể loại giáo trình
Năm xuất bản 2017
Thành phố Đồng Tháp
Định dạng
Số trang 138
Dung lượng 4,38 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ NGHIÊN CỨU BỆNH THỦY SẢN 16 1. Nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh (9)
    • 1.1. Nguyên nhân gây bệnh (9)
    • 1.2. Điều kiện để phát sinh bệnh (10)
    • 2. Phương pháp thu và bảo quản mẫu bệnh cá, tôm (7)
    • 3. Phương pháp chẩn đoán và phát hiện bệnh trên cá, tôm (7)
      • 3.1. Vai trò của chẩn đoán và kiểm soát bệnh động vật thủy sản (12)
      • 3.2. Phương pháp chẩn đoán và phát hiện bệnh trên cá (12)
      • 3.2. Phương pháp chẩn đoán và phát hiện bệnh trên tôm (14)
  • CHƯƠNG 2: BỆNH DO VI KHUẨN TRÊN ĐỘNG VẬT THUỶ SẢN . 35 1. Bệnh do vi khuẩn ở động vật thuỷ sản (28)
    • 1.1. Đặc điểm chung của vi khuẩn (28)
    • 1.2. Bệnh nhiễm trùng máu do vi khuẩn Aeromonas di động (32)
    • 1.2. Bệnh do vi khuẩn Aeromonas không có khả năng vận động (39)
    • 1.3. Bệnh do Vibriosis ở động vật thuỷ sản (41)
    • 1.4. Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas gây bệnh ở ĐVTS (47)
    • 1.5. Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Edwardsiella ở cá (50)
    • 1.6. Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Streptococcus ở cá (53)
    • 1.7. Bệnh do vi khuẩn Flavobacter ở cá (55)
    • 1.8. Bệnh do vi khuẩn Mycobacterium (59)
    • 1.9. Bệnh vi khuẩn dạng sợi ở giáp xác (61)
    • 1.10. Bệnh đục cơ của tôm càng xanh (64)
    • 2. Bệnh nấm trên động vật thủy sản (66)
      • 2.1. Đặc điểm chung của nấm (66)
      • 2.2. Bệnh nấm Ichthyophonosis (67)
      • 2.3. Hội chứng lở loét ở cá (The Epizootic Ulcerative Syndrome of físh- EUS) 76 2.4. Bệnh nấm thuỷ my ở động vật thủy sản nước ngọt (69)
      • 2.5. Bệnh nấm ấu trùng ở giáp xác (78)
      • 2.6. Bệnh nấm giáp xác trưởng thành (81)
      • 2.7. Bệnh nấm Fusarium trên cá nước ngọt (84)
  • CHƯƠNG 3: BỆNH DO VIRUS TRÊN ĐỘNG VẬT THUỶ SẢN (117)
    • 1. Nhận dạng một số bệnh do virus (7)
    • 2. Bệnh virus trên tôm (7)
      • 2.1. Phương pháp thu và bảo quản mẫu bệnh tôm (0)
      • 2.2. Chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm (0)
      • 2.3. Bảo quản mẫu (0)
      • 2.4. Phương pháp phát hiện bệnh ở tôm nuôi (0)
      • 2.5. Phương pháp chẩn đoán bệnh (0)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (137)

Nội dung

Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 gồm những kiến thức cơ bản về bệnh vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng và virus trên các đối tượng thủy sản, các con đường lây lan và biện pháp phòng và trị bênh trên động vật thủy sản. Mời các bạn cùng tham khảo!

NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ NGHIÊN CỨU BỆNH THỦY SẢN 16 1 Nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây bệnh là yếu tố quyết định sự xuất hiện của một bệnh, nhưng không phải lúc nào tác nhân gây bệnh cũng dẫn đến sự phát bệnh Sự phát triển của bệnh còn phụ thuộc vào nhiều đặc điểm khác nhau.

- Phụ thuộc vào độc lực của tác nhân gây bệnh

- Phụ thuộc vào số lượng của tác nhân gây bệnh

- Phụ thuộc vào con đường xâm nhập của các tác nhân gây bệnh đến cơ thể ký chủ

Trên động vật thuỷ sản nguyên nhân gây bệnh có thể kể đến các tác nhân sau:

- Tác nhân gây bệnh là virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng có kích thước siêu vi, hiển vi hoặc có thể nhận biết được bằng mắt thường

Tác nhân gây hại trong môi trường nước là những sinh vật không ký sinh nhưng tiết ra các chất độc, gây rối loạn chức năng của hệ thần kinh, hô hấp và tuần hoàn Chẳng hạn, độc tố từ tảo có thể dẫn đến các bệnh lý nghiêm trọng cho sinh vật sống trong nước.

- Tác nhân gây bệnh là các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, các loại khí độc như NH3, H2S, NO2,

Thiếu hụt các chất dinh dưỡng quan trọng như vitamin, khoáng chất và axit béo trong khẩu phần ăn của động vật thủy sản có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe cho chúng.

Phương pháp thu và bảo quản mẫu bệnh cá, tôm

Phương pháp chẩn đoán và phát hiện bệnh trên cá, tôm

Chương 2 : BỆNH DO VI KHUẨN

TRÊN ĐỘNG VẬT THUỶ SẢN

1 Bệnh do vi khuẩn gram âm

2 Bệnh do vi khuẩn gram dương 29 9 20 0

Chương 3: BỆNH DO VIRUS TRÊN ĐỘNG VẬT THUỶ SẢN

1 Nhận dạng một số bệnh do virus

Kiểm tra (định kỳ)/ôn tập/T hi Ôn thi 1 0 0 1

Thi kết thúc học phần 1 0 0 1

NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ NGHIÊN CỨU BỆNH VI KHUẨN VÀ

Bài học này cung cấp cái nhìn tổng quan và chi tiết về nghiên cứu bệnh trên động vật thủy sản, bao gồm các phương pháp thu thập và bảo quản mẫu, cũng như các kỹ thuật thu thập thông tin và chẩn đoán bệnh cho cá và tôm.

 Kiến thức: Trình bày về nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh, phương pháp thu mẫu và chẩn đoán bệnh trên cá tôm

 Kỹ năng: Thành thạo về các kỹ thuật thu mẫu và chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản

Năng lực tự chủ và trách nhiệm trong nghiên cứu và chẩn đoán bệnh do vi sinh vật gây hại trên động vật thủy sản là rất quan trọng Việc phát triển ý thức trung thực và khách quan sẽ giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu, đảm bảo tính chính xác trong chẩn đoán, từ đó góp phần bảo vệ sức khỏe động vật và an toàn thực phẩm.

1 Nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh

Nguyên nhân gây bệnh là yếu tố quyết định sự xuất hiện của một bệnh, nhưng không phải lúc nào sự hiện diện của tác nhân gây bệnh cũng dẫn đến việc hình thành bệnh Sự phát bệnh còn phụ thuộc vào nhiều đặc điểm khác nhau.

- Phụ thuộc vào độc lực của tác nhân gây bệnh

- Phụ thuộc vào số lượng của tác nhân gây bệnh

- Phụ thuộc vào con đường xâm nhập của các tác nhân gây bệnh đến cơ thể ký chủ

Trên động vật thuỷ sản nguyên nhân gây bệnh có thể kể đến các tác nhân sau:

- Tác nhân gây bệnh là virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng có kích thước siêu vi, hiển vi hoặc có thể nhận biết được bằng mắt thường

Tác nhân gây hại trong môi trường nước là những sinh vật không ký sinh, nhưng chúng tiết ra các chất độc có khả năng kích thích và làm rối loạn hoạt động của các cơ quan như hệ thần kinh, hô hấp và tuần hoàn, ví dụ như độc tố từ tảo, dẫn đến các bệnh lý.

- Tác nhân gây bệnh là các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, các loại khí độc như NH3, H2S, NO2,

Thiếu hụt một số vitamin, khoáng chất và axit béo quan trọng trong khẩu phần ăn của động vật thủy sản có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

1.2 Điều kiện để phát sinh bệnh

Sức đề kháng của vật nuôi phụ thuộc vào bản chất của loài, các giai đoạn phát triển, chế độ dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh

Các yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng trong sự bùng phát của bệnh Khi tác nhân gây bệnh tồn tại trong môi trường thuận lợi, chúng sẽ sinh sản mạnh mẽ và tăng cường độc lực, từ đó nâng cao khả năng gây bệnh cho ký chủ Ngược lại, trong môi trường bất lợi, các tác nhân này sẽ bị kìm hãm, không có khả năng gây bệnh và dễ bị tiêu diệt Hơn nữa, sự biến động của các yếu tố môi trường cũng có thể trở thành tác nhân gây bệnh do các yếu tố vô sinh.

Khi sống trong môi trường không thuận lợi sức đề kháng của vật nuôi sẽ giảm và dễ dàng bị mắc bệnh

Các yếu tố môi trường quan trọng như nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan, pH, độ kiềm, độ cứng và khí độc có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của các tác nhân gây bệnh.

2 Phương pháp thu và bảo quản mẫu bệnh cá, tôm

2.1 Qui trình chung khi lấy mẫu bệnh cá, tôm a Chuẩn bị trước khi lấy mẫu

Để chẩn đoán bệnh, cần xác định số lượng mẫu thu thập, trong đó số lượng mẫu cần thiết phải lớn hơn so với các nguyên nhân khác Không thu mẫu từ cá chết; thay vào đó, có thể thu mẫu từ cá bệnh và cá, tôm có biểu hiện khỏe mạnh trong cùng một môi trường nuôi để so sánh kết quả.

Mẫu có thể được bảo quản sống, ướp đá, hoặc cố định bằng hóa chất Cần thông báo cho phòng thí nghiệm về số lượng, loại mẫu và ngày gửi để họ chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, thiết bị và hóa chất cần thiết cho quá trình chẩn đoán.

Tất cả các mẫu cần cung cấp thông tin chi tiết như lý do gửi mẫu (chẩn đoán bệnh, xét nghiệm, chứng nhận, v.v.) Cần ghi rõ các yếu tố tổng thể như chế độ ăn, tình trạng bắt mồi, lịch sử sử dụng thuốc và hóa chất, cùng các chỉ tiêu về môi trường Thêm vào đó, thông tin về nguồn gốc, quá trình chăm sóc và địa điểm của các nguồn cá khác nhau cũng rất quan trọng nếu chúng không thuộc cùng một nguồn gốc.

Thông tin về vận chuyển, thay đổi môi trường và các tác nhân lây nhiễm là những yếu tố quan trọng cần được chú ý Việc này không chỉ giúp xác định nhanh chóng các mối nguy mà còn hỗ trợ trong việc xây dựng lộ trình điều trị hiệu quả Hơn nữa, việc lấy mẫu để kiểm tra sức khỏe cũng là một bước cần thiết trong quá trình này.

Để chẩn đoán bệnh hiệu quả, việc lấy mẫu cần đảm bảo số lượng mẫu đủ, tập trung vào những mẫu nghi ngờ có tính mẫn cảm với bệnh Đồng thời, cần lấy mẫu từ các nhóm tuổi khác nhau trong từng mùa để dễ dàng phát hiện bệnh Những thông tin này sẽ được trình bày trong các phần liên quan đến từng bệnh cụ thể.

Để chẩn đoán bệnh hiệu quả, tất cả các mẫu gửi đi cần cung cấp thông tin hỗ trợ chi tiết như lý do gửi mẫu (cá, tôm chết hoặc tăng trưởng không bình thường) Cần ghi nhận các hoạt động của con người như làm sạch lồng/lưới, phân cỡ/phân hạng cá, thay đổi địa điểm nuôi, hoặc việc đưa loài mới vào nuôi Ngoài ra, những thay đổi môi trường như chất lượng nước thay đổi nhanh chóng, hiện tượng nước mặn xâm nhập vào ao nước ngọt và các hiện tượng thời tiết bất thường cũng cần được lưu ý.

Thông tin này giúp xác định liệu tác động của con người, biến đổi môi trường hoặc các tác nhân lây nhiễm có phải là nguyên nhân gây ra hiện tượng tôm cá chết bất thường hay không Việc này là cần thiết để chẩn đoán nhanh chóng và chính xác, đồng thời tập trung vào các quy trình điều tra bệnh theo yêu cầu Hơn nữa, việc lấy mẫu sống để vận chuyển cũng rất quan trọng trong quá trình này.

Để giảm thiểu tình trạng tôm cá chết trong quá trình vận chuyển, nên lấy mẫu sống càng gần giờ xuất bến càng tốt Điều này đặc biệt quan trọng đối với những cá thể sắp chết hoặc đang bị bệnh.

BỆNH DO VI KHUẨN TRÊN ĐỘNG VẬT THUỶ SẢN 35 1 Bệnh do vi khuẩn ở động vật thuỷ sản

Đặc điểm chung của vi khuẩn

Vi khuẩn có cấu trúc tế bào và được phân loại dựa trên hình dạng của chúng, bao gồm ba dạng chính: trực khuẩn, cầu khuẩn và xoắn khuẩn.

Cầu khuẩn là loại vi khuẩn không có tiên mao và không có khả năng di động Tùy thuộc vào sự sắp xếp của các tế bào, cầu khuẩn có thể được chia thành tụ cầu khuẩn và liên cầu khuẩn Trong động vật thủy sản, các loại cầu khuẩn thường gặp bao gồm Streptococcus và Staphylococcus, với kích thước thay đổi từ 0,5 đến 1 µm.

Trực khuẩn là vi khuẩn có hình dạng que, kích thước khoảng 0,5-1,0 x 1-4 µm, có thể có hoặc không có tiên mao để di chuyển Chúng được phân loại thành nhiều loại khác nhau, bao gồm trực khuẩn ngắn như Pseudomonas và Aeromonas, cùng với trực khuẩn dài như Flavobacter và Cytophaga.

- Xoắn khuẩn: gồm tất cả vi khuẩn có 2 vòng xoắn trở lên, kích thước khoảng

0,5-3,0 x 5-40 m, ít gây bệnh ở động vật thuỷ sản Hình que nhưng hơi cong là phảy khuẩn Vibrio Những giống trực khuẩn nói trên thường gặp ký sinh ở ĐVTS

Vi khuẩn có cấu trúc tế bào với các bộ phận tương tự như tế bào sinh vật, bao gồm màng tế bào, nguyên sinh chất và nhân tế bào Dựa vào đặc tính hóa học, vi khuẩn được chia thành hai nhóm chính: vi khuẩn gram (-) và vi khuẩn gram (+) Vi khuẩn gram (+) sở hữu vách tế bào peptidoglycan dày, giữ lại thuốc nhuộm Crystal violet, tạo màu tím sau khi rửa bằng cồn 95% Ngược lại, vi khuẩn gram (-) chỉ có vách peptidoglycan ở một bên, dẫn đến việc thuốc nhuộm Crystal violet bị tẩy sạch và tế bào bắt màu hồng từ thuốc nhuộm fuchin.

Vi khuẩn không tự dưỡng như thực vật, thường sống hoại sinh, cộng sinh hoặc ký sinh gây bệnh cho động và thực vật Chúng sinh sản bằng phương pháp phân đôi với tốc độ nhanh khi điều kiện môi trường thuận lợi Một số vi khuẩn ký sinh có thể tồn tại độc lập, sử dụng chất hữu cơ để sinh trưởng và chờ cơ hội xâm nhập vào vật chủ Chỉ một số ít loài vi khuẩn có đời sống ký sinh bắt buộc, trong khi đa phần chúng là tác nhân cơ hội trong các bệnh nhiễm khuẩn.

Một số vi khuẩn sản xuất enzym ngoại bào, đóng vai trò quan trọng trong mức độ độc lực của chúng đối với động vật thủy sinh Các chất độc này thường bao gồm protease, cytotoxins và các chất hoại huyết tố, có khả năng gây hại nghiêm trọng cho hệ sinh thái.

Một số loài vi khuẩn, như Bacillus và Clostridium, trong giai đoạn phát triển nhất định sẽ chuyển đổi thành bào tử, có hình dạng tròn hoặc bầu dục Mỗi tế bào chỉ tạo ra một bào tử, giúp chúng tồn tại lâu dài và chịu đựng được các điều kiện môi trường khắc nghiệt Ví dụ, Bacillus cereus có thể sống sót ở nhiệt độ 100°C trong 2,5 phút, trong khi Bacillus asterosporus chịu được 7,5 phút.

Bào tử của một số vi khuẩn có khả năng sống sót ngay cả sau khi đun sôi liên tục trong 5 ngày Đặc biệt, vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm Clostridium botulinum có thể tồn tại ở nhiệt độ 180°C trong 10 phút Để tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn này, cần tiến hành khử trùng ở nhiệt độ từ 165-170°C trong thời gian 2 giờ.

Không phải tất cả vi khuẩn trong cơ thể động vật có xương sống đều gây bệnh; một số vi khuẩn không gây hại và thậm chí còn có lợi Vì lý do này, nhà vi sinh vật học người Đức Robert Koch đã đề xuất tiêu chuẩn để xác định mối liên hệ giữa một loại vi khuẩn và một bệnh cụ thể.

Vi khuẩn cần phải được phát hiện trong tất cả các trường hợp của bệnh, phân bố đều trong cơ thể của sinh vật bị nhiễm và có mặt tại các vết thương tổn đã được quan sát.

- Vi khuẩn đó phải được nuôi cấy ngoài cơ thể vật chủ, trên môi trường tổng hợp để chúng sinh sôi tăng về số lượng

- Vi khuẩn đã phân lập, phải gây được bệnh bằng con đường cảm nhiễm ngược, trên cơ thể vật nuôi nhạy cảm

Vi khuẩn gây bệnh ở động vật thủy sản là mối đe dọa lớn trong ngành nuôi thủy sản công nghiệp, với khả năng gây ra nhiều loại bệnh nguy hiểm Khác với virus, bệnh do vi khuẩn có thể được chữa trị bằng kháng sinh nếu sử dụng đúng loại thuốc, liều lượng và thời điểm Tuy nhiên, việc phòng trị bệnh nhiễm khuẩn đang gặp khó khăn do sự phụ thuộc vào điều kiện môi trường và hiện tượng kháng kháng sinh phổ biến Do đó, việc duy trì môi trường sống thích hợp, đặc biệt là chất lượng nước, là biện pháp phòng bệnh quan trọng Ngoài ra, nhận biết và quản lý các yếu tố nguy cơ có thể giúp giảm thiểu sự bùng phát bệnh.

Các bệnh nhiễm khuẩn ở động vật thủy sản thường biểu hiện bằng các dấu hiệu tương tự, như cá có dấu hiệu xuất huyết trên và trong cơ thể, mắt cá lồi, và tích dịch trong ruột hoặc xoang cơ thể Đối với giáp xác, bệnh nhiễm khuẩn thường gây ra các điểm nâu đen trên vỏ kitin, làm mòn cụt các phần phụ và dẫn đến hoại tử mô.

Bảng 4.1: Một số vi khuẩn gây bệnh cho động vật thuỷ sản

Tên của vi khuẩn gây bệnh Tên của bệnh Ký chủ

- Flavobacter columnare Bệnh Columnaris ở cá Cá nước ngọt

- Flavobacter maritimus Bệnh Columnaris ở cá Cá nước mặn

- Cytophaga spp Bệnh vi khuẩn dạng sợi Giáp xác mặn hay ngọt

- Edwardsiella tarda Bệnh nhiễm trùng máu Cá

- Edwardsiella ictalurid Bệnh nhiễm trùng máu Cá trê sông

- Aeromonas salmonicida Bệnh nhọt ở cá Cá

- Aeromonas hydrophyla Bệnh xuất huyết đốm đỏ ở cá đốm nâu ở tôm càng xanh

- Aeromonas caviae Bệnh xuất huyết đốm đỏ ở cá, đốm nâu ở tôm càng xanh

- Aeromonas sobria Bệnh xuất huyết đốm đỏ ở cá, đốm nâu ở tôm càng xanh

- Vibrio alginolyticus Gây bệnh do vi khuẩn Cá, tôm

- Vibrio anguillarum Gây bệnh do vi khuẩn Cá, tôm

- Vibrio parahaemolyticus Gây bệnh do vi khuẩn Cá, tôm

- Vibrio harveyi Gây bệnh phát sáng ở tôm

- Vibrio anguillarum Gây bệnh do vi khuẩn Cá, tôm

- Vibrio salmonicida Gây bệnh do vi khuẩn Cá, tôm

- Vibrio vulnificus Gây bệnh do vi khuẩn Cá, tôm

- Pseudomonas fluorescens Bệnh xuất huyết Cá

- Pseudomonas dermoalba Bệnh trắng đuôi ở cá giống

-Pseudomonas Bệnh xuất huyết Cá Chình anguilliseptica

Bệnh xuất huyết Cá Chình

- Lactococcus garvieae bệnh đục thân ở tôm Tôm càng xanh

- Streptococcus innae Bệnh xuất huyết, đen thân

- Streptococcus agalactie Bệnh xuất huyết Cá bống kèo

- Staphylococcus spp Bệnh xuất huyết Cá

- Mycobacterium marium Bệnh đốm nhỏ Cá, tôm

- Nocardia astreroides Bệnh đốm nhỏ Cá

- Nocardia kampachi Bệnh đốm nhỏ Cá

Bệnh nhiễm trùng máu do vi khuẩn Aeromonas di động

Bệnh ở động vật thủy sản chủ yếu do một số loài Aeromonas có tiên mao và khả năng di động, bao gồm A hydrophyla, A caviae, A sobria và A schubertii Các vi khuẩn này có hình dạng que ngắn, kích thước khoảng 0,5 x 1,0-1,5 m với hai đầu hơi tròn Mỗi tế bào vi khuẩn sở hữu một tiên mao, giúp chúng di chuyển dễ dàng Chúng có phản ứng Cytochrom oxidase dương tính, khả năng khử nitrate và không mẫn cảm với thuốc thử Vibriostat 0/129 Mặc dù có nhiều đặc điểm chung, bốn loài này vẫn có những khác biệt riêng.

Hình 4.1: Vi khuẩn Aeromonas hydrophila có một tiên mao ( ảnh chụp từ kính hiển vi điện tử của Bùi Quang

Bảng 4.2: Đặc điểm sinh hóa của 4 loài Aeromonas di động Đặc điểm sinh hóa A hydrophyla

(Nguồn: Popoff, 1984 trích dẫn bởi Roberts, 1994; Nguyễn Trọng Nghĩa và Đặng Thị Hoàng Oanh, 2016) b Dấu hiệu bệnh lý

Vi khuẩn Aeromonas là tác nhân gây bệnh nhiễm trùng máu và xuất huyết ở nhiều loài cá như cá ba ba, cá trắm cỏ, cá rô phi và cá bống tượng Các triệu chứng bệnh thường thấy bao gồm cá kém ăn hoặc bỏ ăn, nổi lờ đờ trên mặt nước, và da cá đổi màu tối không còn ánh bạc Cá cũng mất nhớt, da khô ráp, rụng vẩy để lộ các vùng xuất huyết Xuất hiện các đốm đỏ trên thân, gốc vây, quanh miệng, và râu có dấu hiệu xuất huyết hoặc bạc trắng Ngoài ra, có thể thấy các vết loét sâu vào cơ thể có mùi hôi, thường kèm theo nấm và ký sinh trùng Mắt cá bị lồi đục, hậu môn viêm xuất huyết, bụng có thể chướng to, và các vây xơ rách, tia vây cụt dần.

Cá basa (Pangasius bocourti) mắc bệnh xuất huyết do vi khuẩn Aeromonas spp, biểu hiện qua các triệu chứng như xuất huyết ở gốc vây, xung quanh miệng, bụng cá phình to, mắt cá lồi, và cá thường nổi ngửa, trôi theo dòng nước với thân uốn cong Giải phẫu cho thấy mô mỡ cá bị xuất huyết nặng, gan tái nhợt, mật sưng to với màu xanh dương, bóng hơi căng phồng, thận sưng, và các bộ phận như ruột, dạ dày, tuyến sinh dục, bóng hơi đều có dấu hiệu xuất huyết Đặc biệt, có trường hợp hai đoạn ruột bị lồng vào nhau, trong khi xoang bụng chứa nhiều dịch nhờn có mùi hôi thối đặc trưng ngay cả khi cá còn sống Bệnh có thể gây chết từ rải rác đến hàng loạt.

Cá trê giống khi bị bệnh thường tách đàn, nổi đầu và có hiện tượng “treo râu” với đầu hướng lên vuông góc so với mặt nước, bụng cá trướng to, kèm theo xuất huyết và viêm loét trên thân Trong khi đó, cá bống tượng xuất hiện tình trạng mất nhớt, gọi là bệnh “tuột nhớt”, với xuất huyết trên bề mặt cơ thể, các vây bị mòn cụt và xơ xác, dẫn đến nguy cơ chết cao, đặc biệt vào mùa.

"nước đổ" ở đồng bằng sông Cửu Long

Cá tra xuất hiện tình trạng xuất huyết ở nhiều vùng khác nhau, bao gồm vùng đuôi và bụng, với dấu hiệu rõ rệt ở vây hậu môn và khu vực hậu môn Nội tạng của cá tra cũng bị xuất huyết do vi khuẩn Aeromonas sp., trong khi vùng đầu và mắt của cá cũng có dấu hiệu xuất huyết.

Vi khuẩn A schubertii gây bệnh “đốm trắng nội tạng” ở cá lóc với dấu hiệu bên ngoài như màu sắc cá nhợt nhạt, cá bỏ ăn và bơi lờ đờ gần bờ ao, thường không có dấu hiệu bất thường khác Một số ít có hiện tượng xuất huyết nhẹ ở vây ngực và vùng hậu môn Bên trong, xoang nội quan bị xuất huyết, gan có vùng hoại tử và thận, tỳ tạng sưng to với các đốm trắng nhỏ li ti, chủ yếu trên thận và tỳ tạng, dễ vỡ khi chạm vào Ngoài ra, vi khuẩn A hydrophila cũng gây bệnh “đẹn” với dấu hiệu cơ thể nhợt nhạt, xuất huyết ở các vây và thân, cùng với xoang miệng, lưỡi có dịch đỏ hôi, gan nhạt màu với nhiều đốm đỏ bầm, tỳ tạng trương to và mềm nhũn, cùng với màng treo ruột và ruột bị xuất huyết.

Hình 4.3 minh họa các triệu chứng nhiễm khuẩn do Aeromonas sp A Xuất huyết ở xoang miệng hầu B Các đốm xuất huyết xuất hiện trên thân và nội tạng C Gan có màu nhợt nhạt, không đồng đều và tỳ tạng bị bầm tím D Nội tạng cá xuất hiện các đốm trắng ở gan, thận và có dấu hiệu mềm nhũn.

Vi khuẩn Aeromonas di động có thể gây bệnh đốm nâu ở tôm càng nước ngọt, với các triệu chứng như xuất hiện điểm nâu đen trên vỏ ki tin, anten, chân bơi, chân bò và đuôi Bệnh nặng có thể dẫn đến tình trạng đen mang, cụt đuôi và các phần phụ, gây ra hiện tượng chết rải rác ở tôm Nếu không có biện pháp chữa trị kịp thời, tỷ lệ chết tích lũy có thể gia tăng đáng kể.

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) bị bệnh đốm nâu thể hiện qua các triệu chứng như mang có màu đen (A) và tình trạng râu, chân bò, chân bơi, đuôi bị ăn cụt dần (B, C).

Ba ba là một đặc sản phổ biến ở Việt Nam, nhưng thường bị nhiễm Aeromonas, dẫn đến các triệu chứng bệnh như vết loét và xuất huyết không định hình trên mai và bụng Chân ba ba có thể mất móng, và khi bệnh nặng, cơ thể trở nên mềm nhũn, hoạt động chậm chạp, không thể tự lật sấp khi bị lật ngửa Ba ba bệnh thường ít ăn hoặc bỏ ăn, và sau 1-2 tuần có thể bò lên cạn và chết, tỷ lệ tử vong lên tới 30-40%, thậm chí 100% ở giai đoạn giống Giải phẫu cho thấy phổi, gan và thận có màu đen.

Hình 4.5: Ba ba bị bệnh viêm loét do vi khuẩn Aeromonas di động với các vết loét trên mai và dưới bụng, cụt móng

Vi khuẩn Aeromonas di động gây bệnh viêm ruột ở nhiều loài cá như cá trắm cỏ, cá trê và cá rô phi Triệu chứng bệnh bao gồm cá bỏ ăn, bụng trướng to, hậu môn sưng loét đỏ Khi giải phẫu, ruột cá không có thức ăn nhưng chứa đầy hơi, đồng thời thành ruột bị viêm loét và xuất huyết Bệnh này có thể dẫn đến tỷ lệ chết cao, đặc biệt là ở cá trắm cỏ.

Cá rô phi (Oreochromis sp) bị bệnh viêm ruột do vi khuẩn Aeromonas di động, thể hiện qua các triệu chứng như bụng chướng to, hậu môn loét và mắt cá lồi Quan sát trong xoang cơ thể cho thấy ruột cá bị chướng, chứa đầy hơi và có dịch trong khoang bụng.

Vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây bệnh xuất huyết trên lươn đồng, biểu hiện qua các triệu chứng như lươn hoạt động chậm chạp, kém linh hoạt, và trên thân có vết loét cùng đốm xuất huyết Những con lươn mắc bệnh nặng có vết loét sâu tới xương và đốm xuất huyết lan rộng khắp cơ thể Phân tích mẫu thận của lươn bệnh cho thấy vi khuẩn xâm nhập và phá hủy tế bào, dẫn đến hiện tượng tế bào bị vỡ, đồng thời xuất hiện đại thực bào vi khuẩn.

Aeromonas hydrophila là tác nhân gây bệnh xuất huyết đỏ đùi ở ếch nuôi công nghiệp, với các triệu chứng điển hình như đùi bị xuất huyết, ruột có màu đỏ, tình trạng chướng hơi, và gan thận cũng bị ảnh hưởng với dấu hiệu xuất huyết.

Hình 4.7: Ếch bị xuất huyết do

Aeromnas hydrophila A Ruột chướng hơi, xuất huyết cơ đùi, gan không đều màu B Chân ếch bị xuất huyết

Vi khuẩn Aeromonas hydrophila là nguyên nhân gây bệnh xuất huyết trên cá thát lát còm, với các triệu chứng bên ngoài như lờ đờ, nổi đầu, hoạt động chậm chạp và màu sắc cơ thể nhợt nhạt Cá cũng xuất hiện tình trạng xuất huyết ở vây Khi quan sát nội quan, tỳ tạng và thận của cá mềm và có dấu hiệu xuất huyết, trong khi gan có màu sẫm.

Bệnh do vi khuẩn Aeromonas không có khả năng vận động

Loài Aeromonas salmonicida là một trong những loại vi khuẩn không di động thường gặp, gây bệnh ký sinh ở cá Chúng có hình dạng que ngắn, không có tiên mao, dẫn đến khả năng vận động hạn chế Dấu hiệu bệnh lý do loài vi khuẩn này gây ra cần được chú ý để có biện pháp điều trị kịp thời.

Vi khuẩn Aeromonas salmonicida có thể gây ra bệnh xuất huyết ở một số loài cá, đặc biệt là bệnh Furunculosis ở cá hồi Các triệu chứng bao gồm sự chậm chạp, mất khả năng thèm ăn, và thường bơi ở tầng nước mặt với hô hấp khó khăn Trên cơ thể cá, có thể thấy các vùng áp xe sâu, xuất huyết trên da và ở gốc vây, đặc biệt là ở các vây cặp; mắt cá bị lồi Khi giải phẫu, có dấu hiệu xuất huyết trong các mô và nội quan.

Vi khuẩn Aeromonas salmonicida gây bệnh lở loét ở cá diếc Cyprinus auratus và Cerassius auratus, với các dấu hiệu như vùng trắng trên da, vết loét, và xuất huyết ở da cùng gốc vây Vùng loét có thể xuất hiện ở nhiều vị trí trên cơ thể cá, thậm chí sâu đến mức lộ nội quan Bệnh này có khả năng lây lan nhanh chóng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của cá.

Bệnh này có nguy cơ lây nhiễm cao qua nhiều con đường khác nhau, đặc biệt khi vi khuẩn tồn tại trong nước và xâm nhập vào cơ thể cá qua miệng, da và mang Cá sẽ nhạy cảm hơn với tác nhân gây bệnh nếu lớp nhày trên da bị tổn thương do tác động cơ học hoặc ký sinh trùng Ngoài ra, cá nuôi trong lồng, bè có nguy cơ nhiễm vi khuẩn này cao hơn so với cá nuôi trong ao.

Cá bị bệnh có thể hồi phục và mất đi các dấu hiệu bệnh, nhưng vẫn mang vi khuẩn gây bệnh trên cơ thể, trở thành nguồn lây nhiễm cho cá khỏe mạnh Bệnh thường phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ ấm áp, đặc biệt là khi nhiệt độ vượt quá 10°C.

Trong loài vi khuẩn Aeromonas salmonicida, có chủng cảm nhiễm gây bệnh trên cá hồi nước mặn, có chủng lại gây bệnh ở các loài thuộc họ cá chép-

Cyprinidae nước ngọt như Cyprinus auratus, Cerassius auratus

Aeromonas không di động được phân bố rộng rãi ở châu Âu, châu Mỹ và châu Á Để chẩn đoán bệnh, cần dựa vào các dấu hiệu lâm sàng, loài cá bị ảnh hưởng và thời điểm xuất hiện bệnh Phương pháp vi sinh vật học và mô học là cần thiết để có chẩn đoán chính xác, bên cạnh đó, phương pháp miễn dịch học như ngưng kết huyết thanh cũng có thể được áp dụng Để phòng ngừa bệnh, cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa chung và đặc biệt chú ý tránh các thương tổn cơ học do vận chuyển, đánh bắt và ký sinh trùng.

Vaccine và kháng sinh là các giải pháp có hiệu quả để phòng và trị bệnh này, đặc biệt khi nuôi cá công nghiệp bằng lồng bè.

Bệnh do Vibriosis ở động vật thuỷ sản

Bệnh Vibriosis là tên gọi chung cho các bệnh khác nhau ở ĐVTS do vi khuẩn

Vibrio spp gây ra Giống Vibrio thuộc họ Vibrionaceae, có một số đặc điểm chung như sau: có dạng hình que hay hình dấu phẩy, kích thước tế bào 0,3- 0,5 x 1,4-2,6

Vibrio là vi khuẩn không hình thành bào tử, có khả năng di chuyển nhờ một hoặc nhiều tiên mao mảnh Chúng thường bắt màu gram (-), đa số có phản ứng Oxydase (+) và có khả năng oxy hóa cũng như lên men trong môi trường O/F Glucose Vibrio không sinh H2S và nhạy cảm với Vibriostat (0/129) Hầu hết các loài Vibrio phân bố trong môi trường nước mặn, nơi chúng phát triển tốt nhất.

Vibrio spp là mối đe dọa lớn đối với nghề nuôi động vật thủy sản biển, đặc biệt là giáp xác nuôi thâm canh ven biển và trên biển, do khả năng phát triển trong môi trường có độ mặn từ 20 – 40‰, thậm chí lên đến 70‰ Môi trường Thiosulphate citrate bile salt agar (TCBS) được sử dụng để phân lập Vibrio spp., trong đó khuẩn lạc được chia thành hai nhóm dựa vào khả năng lên men đường sucrose: nhóm có khả năng lên men tạo khuẩn lạc màu vàng và nhóm không có khả năng lên men tạo khuẩn lạc màu xanh lá cây.

Gây bệnh Vibriosis ở ĐVTS gặp một số loài như sau: Vibrio parahaemolyticus, V harveyi, V vulnificus, V splendidus, V alginolyticus, V anguilarum, V damsela, V cholerae

Bệnh Vibriosis do vi khuẩn Vibrio gây ra, có thể đóng vai trò là tác nhân chính hoặc tác nhân thứ cấp trong các dịch bệnh ở động vật thủy sản Ngoài vi khuẩn, các ký sinh trùng và yếu tố môi trường như cơ học, hóa học cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự bùng phát của bệnh này Dấu hiệu chính của Vibriosis cần được nhận diện để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

Vi khuẩn Vibrio spp có khả năng gây bệnh cho động vật thủy sản, đặc biệt là cá và giáp xác sống trong môi trường nước mặn Chúng có thể gây ra nhiều bệnh khác nhau với các triệu chứng lâm sàng đa dạng ở động vật thủy sản.

Bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm

Khi tôm mắc bệnh, chúng thường trở nên yếu ớt, lờ đờ và kém bắt mồi, thậm chí có thể bỏ ăn, đồng thời phát ra ánh sáng xanh trong bóng tối Bệnh này đặc biệt gây hại ở các trại giống, nhất là trong giai đoạn tiền ấu trùng như Zoea và Mysis Trong trường hợp bệnh cấp tính, tôm ấu trùng có thể chết hàng loạt, tỷ lệ tử vong lên đến 100% do nhiễm khuẩn toàn thân Khi quan sát ấu trùng phát sáng dưới kính hiển vi với độ phóng đại trên 400X, có thể thấy các đám vi khuẩn đang hoạt động trong các nội quan như máu, gan tụy và mang Bệnh phát sáng gây tác hại lớn ở giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng, trong khi giai đoạn ấu niên trong ao nuôi thịt cũng có thể bị ảnh hưởng nhưng mức độ thấp hơn Từ mẫu tôm bị phát sáng, các nhà nghiên cứu đã phân lập được các loại vi khuẩn như Vibrio harveyi và V vulnificus.

Hình 4.8 trình bày một số hình ảnh liên quan đến bệnh và tác nhân gây bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm he Trong đó, phần A cho thấy các khuẩn lạc của vi khuẩn gây bệnh phát sáng, trong khi phần B minh họa ấu trùng tôm bị bệnh phát sáng, phát ra ánh sáng xanh liên tục trong bóng tối.

Bệnh họai tử cục bộ ở giáp xác

This disease, commonly referred to as shell disease, brown or black spot disease, and necrosis of appendages disease, affects marine crabs and is also known as rust disease or plum blossom disease.

Giáp xác khi mắc bệnh này thường có các dấu hiệu như xuất hiện vùng mềm trên vỏ kitin, hình thành các điểm nâu, đen hoặc trắng do vỏ kitin bị ăn mòn Các phần phụ như chân bò, chân bơi và râu có thể phồng lên rồi mòn dần, trong khi đuôi tôm cũng bị ảnh hưởng Sắc tố Melanin gia tăng, dẫn đến sự mờ đục ở đốt bụng thứ 6 và sự xuất hiện của sắc tố đen nâu trên mô gan tụy Bệnh có thể xảy ra ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau của tôm, bao gồm tôm mẹ, tôm thịt, ấu trùng và hậu ấu trùng trong các trại giống.

Trong ao nuôi tôm, bệnh thường đi kèm với các dấu hiệu như tôm có cơ thể bẩn, mang bẩn, xuất hiện màu hồng đỏ, thể trạng yếu, bỏ ăn và cuối cùng là chết.

Hiện tượng chết có thể xảy ra khi bệnh ở mức độ cấp tính Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ

Có nhiều loài vi khuẩn được phân lập từ bệnh này: Vibrio alginolyticus, V parahaemolyticus, V ordali,

Hình 4.9 mô tả các triệu chứng bệnh do Vibrio gây ra ở tôm A- Ấu trùng tôm bị bệnh với tình trạng đỏ dọc thân; B- Tôm sú thịt bị mòn đuôi, cụt râu và gẫy chùy; C- Xuất hiện các vết nâu đen trên vỏ ở phần đầu ngực của tôm bệnh.

Bệnh xuất huyết lở loét ở một số loài cá biển như cá mú và cá chẽm đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành nuôi trồng thủy sản ở nhiều quốc gia châu Á Triệu chứng của bệnh bao gồm các đốm đỏ nhỏ trên thân cá, làm rụng vẩy và hình thành vết loét sâu Ngoài ra, vây cá có thể bị mòn và xơ xác Giải phẫu cho thấy hiện tượng xuất huyết nội tạng và trong cơ cá, dẫn đến nguy cơ chết hàng loạt ở các trường hợp cấp tính Tại Việt Nam, đã phân lập được một số vi khuẩn như Vibrio parahaemolyticus, V alginolyticus, và V anguillarum liên quan đến bệnh này, cùng với các thông báo về các loại vi khuẩn khác như V vulnificus và V salmonicida gây bệnh ở các loài cá khác.

Vi khuẩn Vibrio có thể liên quan đến nhiều bệnh khác nhau, bao gồm việc gây chết cho ấu trùng động vật thân mềm, bệnh đường ruột, và bệnh hoại tử gan ở giáp xác Trong nhiều trường hợp, Vibrio chỉ đóng vai trò là tác nhân thứ cấp trong các bệnh lý này.

Vi khuẩn Vibrio gây bệnh trên cá biển, đặc biệt là gây xuất huyết lở loét trên cá mú và lở loét trên cá bóp Đặc điểm phân bố và lây truyền của vi khuẩn này cần được chú ý để phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.

Bệnh Vibriosis là một căn bệnh phổ biến trong nghề nuôi động vật thủy sản nước lợ và nước mặn, với sự phân bố rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt tập trung ở châu Á, Phi và Mỹ Tại Việt Nam, từ những năm 1989-1990, bệnh này đã được phát hiện trong các trại sản xuất tôm sú giống và ao nuôi thương phẩm, trở thành mối đe dọa cho ngành nuôi trồng thủy sản Gần đây, sự phát triển của nghề nuôi cá và động vật thân mềm nước mặn đã khiến bệnh Vibriosis trở thành một trong những bệnh thường gặp, gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi thủy sản.

Hầu hết các loài động vật thủy sản nuôi trong môi trường nước lợ và nước mặn đều có nguy cơ nhiễm bệnh Vibriosis, bao gồm các loài tôm he (Penaeus spp) và tôm thẻ (Metapenaeus spp) Ngoài ra, các loài tôm hùm châu Mỹ như Homarus americanus, H gammarus và tôm hùm châu Á như Panulirus homarus, P ornatus cũng có thể bị ảnh hưởng bởi vi khuẩn Vibrio.

1981; Bowser, 1981; Đỗ Thị Hòa, 2001) Các loài cua biển cũng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bệnh này: cua xanh (Callinectes sapidus) đã bị chết với tỷ lệ

> 50% do Vibrio đã được Tukiash thông báo 1970; Loài cua đá (Callinectes irroratus) đã bị chết do cảm nhiễm Vibrio ở t 0 = 20 0 C sau 24 h (Newman và Feng

Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas gây bệnh ở ĐVTS

Pseudomonas là một giống vi khuẩn gram âm, hình que, không sinh bào tử, có kích thước khoảng 0,5-1,0 x 1,5-5,0 µm và di chuyển bằng một hoặc nhiều tiên mao Chúng phát triển trong môi trường đơn giản và hiếu khí, với khả năng oxy hóa, trong khi một số ít không oxy hóa và không lên men trong môi trường O/F Glucose Pseudomonas có khả năng phát triển trong khoảng nhiệt độ rộng từ 4 - 43 °C và phân bố rộng rãi trong môi trường, bao gồm đất và nước Các loài vi khuẩn này có thể gây bệnh cho người, động vật và thực vật, thường được phân lập từ da, gan, thận của cá bệnh, trong đó một số loài gây bệnh ở cá bao gồm P fluorescens và P chlororaphis.

Bảng 4.3 Đặc điểm sinh hoá học của một số loài Pseudomonas gây bệnh ở động vật thuỷ sản Đặc điểm sinh hóa Pseudomonas anguilliseptica

Phát triển ở 0% NaCl - + + khử Nitrat (NO3) - + d

Ghi chú: (+) > 90 % các chủng phản ứng dương; (-) < 90 % các chủng phản ứng âm d 11-89 % các chủng phản ứng dương b Dấu hiệu bệnh lý

Pseudomonas có thể gây bệnh xuất huyết ở nhiều loài cá nước ngọt, đặc biệt là cá trắm cỏ, cá chép, cá chình Nhật Bản và cá chình châu Âu Dấu hiệu của bệnh bao gồm xuất huyết cục bộ hoặc đại bộ phận trên da, rụng vảy ở hai bên thân và vùng bụng, xuất huyết ở gốc vây lưng hoặc toàn bộ vây lưng, cùng với tình trạng rách nát của các tia vây Bệnh có thể dẫn đến xuất huyết và viêm ruột, gây chết hàng loạt cá nếu ở dạng cấp tính Nguyên nhân chính của bệnh thường là do vi khuẩn Pseudomonas fluorescens và P putida, trong khi cá chình thường bị ảnh hưởng bởi P anguilliseptica.

Pseudomonas spp có thể gây ra bệnh lở loét và hoại tử ở baba, ếch, đồng thời kết hợp với vi khuẩn Aeromonas di động gây bệnh đốm nâu ở tôm càng xanh.

Hình 4.11: cá mè giống bị bệnh trắng đuôi do vi khuẩn

Pseudomonas dermoalba c Phân bố và lan truyền bệnh

Bệnh xuất huyết do liên cầu khuẩn thường xuất hiện ở các loài cá như cá trắm cỏ, trắm đen, cá chép, cá trình Nhật Bản và cá trình Châu Âu Bệnh trắng đuôi thường gặp ở cá hương mè, trắm cỏ và mè vinh, với tỷ lệ chết cao Ngoài ra, bệnh lở loét cũng ảnh hưởng đến baba và ếch, trong khi bệnh đốm nâu thường xảy ra ở tôm càng xanh.

Bệnh xuất huyết có thể xảy ra quanh năm, từ mùa đông lạnh đến mùa hè nóng, và bệnh Pseudomonas đã gây nhiễm trùng máu ở cá nuôi tại nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản

Dựa vào các dấu hiệu bệnh lý và phân lập vi khuẩn như đã trình bày ở bệnh Vibriosis e Phòng trị bệnh

Tương tự như bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Aeromonas di động.

Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Edwardsiella ở cá

Edwardsiella là một chi vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae, có hình dạng que mảnh, gram âm, kích thước khoảng 1 x 2-3 µm, không sinh bào tử và di chuyển nhờ lông roi Chúng là vi khuẩn kỵ khí tùy tiện, có phản ứng catalase dương tính, cytochrom oxidase âm tính, và phản ứng oxi hóa âm cùng với khả năng lên men trong môi trường O/F glucose Hai loài phổ biến của chi này là Edwardsiella ictaluri và Edwardsiella tarda, thường gây bệnh nhiễm khuẩn ở các loài cá nước ấm.

Bảng 4.4: Một số đặc điểm sinh hoá của Edwardsiella ictaluri và E tarda Đặc điểm sinh hoá E ictaluri E tarda

Sinh H2S trong triple sugar Iron - +

Sinh H2S trong pepton iron agar - +

Vi khuẩn E ictalluri lần đầu tiên được phân lập trên cá Nheo Mỹ bởi Hawke

Vào năm 1979, Austin và Austin (1993) đã phát hiện vi khuẩn E ictaluri gây bệnh nhiễm trùng máu cấp tính ở cá Nheo Mỹ, dẫn đến tỉ lệ hao hụt cao và thiệt hại lớn cho ngành nuôi cá nheo, được biết đến với tên gọi ESC – Enteric Septicemia of Catfish Vi khuẩn này đã được ghi nhận xuất hiện tại Mỹ, Thái Lan, Úc và Đài Loan, và một số loài cá được xác định có khả năng lây nhiễm tự nhiên mầm bệnh này.

Cá Nheo (Ictalurus punctatus) là loài nhạy cảm nhất với vi khuẩn E ictaluri, trong khi cá da trơn trắng (Ameiurus catus) và cá Trê Trắng (Clarias batrachus) cũng có độ nhạy cảm cao Cá da trơn xanh (Ictalurus furcalus) thỉnh thoảng bị nhiễm bệnh ESC nhưng được coi là có sức chịu đựng tốt hơn Theo nghiên cứu của Baxa et al (1990), vi khuẩn E ictaluri có thể xâm nhập vào một số loài cá khác như cá Danio Danio, Green Knife Fish, cá hồi cầu vòng và cá hồi Chinook, tuy nhiên, dịch bệnh ESC chưa được ghi nhận bùng nổ tự nhiên ở những loài này.

Vi khuẩn E ictaluri lần đầu tiên được phát hiện trên cá Tra nuôi ở ĐBSCL và được gọi là BNP (Bacillary Necrosis of Pangasius) (Ferguson và ctv., 2001) Trong khi đó, E tarda có khả năng lây nhiễm trên nhiều loài cá nước ngọt và nước mặn như cá chẽm, cá nheo, cá chép, cá chình Nhật Bản, cá đối, và cá vền biển (Park et al., 2012) Bên cạnh đó, vi khuẩn này cũng có thể gây bệnh cho nhiều loài động vật khác như rắn, cá sấu mõm ngắn, sư tử biển, chim, gia súc và thậm chí có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người (Plumb, 1994).

Cá nhiễm E tarda thường xuất hiện các vết thương nhỏ 3-5mm trên da, chủ yếu ở vùng lưng và hai bên cơ thể Những vết thương này có thể phát triển thành apxe sưng tấy, dễ dàng nhận biết, đồng thời da cá cũng mất đi sắc tố bình thường.

Cá bệnh thường tỏa ra mùi hôi thối do các vết thương tổn chứa mô hoại tử Bên trong cơ thể, gan, tụy và thận bị xung huyết và phù nề do các vết hoại tử Quan sát mô bệnh học cho thấy các tổn thương đặc trưng bởi sự hoại tử, thường phát triển ở mô cơ, mô tạo máu và mô gan.

Cá nhiễm vi khuẩn E ictaluri thường có biểu hiện kém ăn hoặc bỏ ăn, gầy yếu, bụng phình to, và xuất hiện các đám xuất huyết quanh miệng cùng gốc vây, mắt lồi Khi tiến hành giải phẫu, có thể thấy một số cơ quan nội tạng như gan, lá lách và thận bị hoại tử, tạo thành những đốm màu trắng đục có đường kính từ 0,5-2,5mm Do đó, bệnh này còn được gọi là “bệnh đốm trắng” hay "bệnh hoại tử nội tạng".

Cá nhiễm vi khuẩn Edwadsiella sp có những dấu hiệu bệnh lý rõ rệt, như cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn E tarda xuất hiện xuất huyết trên thân và nội tạng, trong khi cá tra nhiễm vi khuẩn E ictaluri có các đốm trắng trên thận và tỳ tạng Việc phân bố và lan truyền bệnh này cần được theo dõi chặt chẽ để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

Vi khuẩn Edwardsiella spp thường gây bệnh cho các loài cá nước ấm và cũng có thể lây nhiễm cho một số động vật máu lạnh như rắn, cá sấu, bò sát, lưỡng cư, cùng với các loài động vật thủy sản khác.

Edwardsiella tarda là tác nhân gây bệnh ở nhiều loài cá nước ngọt như cá trê sông, cá hồi, cá chép, cá chình Nhật Bản, cá bơn Nhật, cá đối mục, cá rô phi và các loài cá trê Tại Việt Nam, E tarda đã được phân lập từ cá trê đen, trên vàng và E ictaluri từ cá tra, giống và cá thịt Bệnh thường gây thiệt hại nghiêm trọng trong các ao nuôi cá tra hương, với tỷ lệ tử vong lên đến 60-70%, thậm chí 100% trong một số trường hợp Bệnh thường bùng phát mạnh vào mùa xuân và mùa thu, đặc biệt ở các tỉnh miền Bắc, trong điều kiện nuôi cá mật độ cao, chất lượng nước kém và trong nuôi cá lồng bè.

Dựa vào dấu hiệu bệnh và việc phân lập mẫu bệnh phẩm từ gan tụy cá bệnh, có thể sử dụng một số môi trường thông thường như BHIA (Brain Heart Infusion Agar) và TSA (Tryptic Soy Agar) Trên các môi trường này, khuẩn lạc của Edwardsiella spp thường nhỏ và phát triển sau khi nuôi cấy trong khoảng thời gian 24-48 giờ ở nhiệt độ 30-35 độ C Việc phòng và trị bệnh là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của cá.

Để phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn ở cá, cần áp dụng các biện pháp chung như cải thiện chất lượng nước, giảm mật độ nuôi và sử dụng vaccine bất hoạt hóa Ngoài ra, để điều trị bệnh, có thể sử dụng kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá trong 5-7 ngày, với liều lượng Oxytetracyclin là 55mg/kg cá/ngày.

Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Streptococcus ở cá

Streptococcus là vi khuẩn hình cầu hoặc hình oval, kích thước nhỏ hơn 2 m, thuộc loại Gram dương và không di động, có khả năng lên men trong môi trường Glucose Vi khuẩn này phát triển tốt trên các môi trường như Trypticase Soy agar (TSA) với 0,5% Glucose, BHIA (Brain heart infusion agar), THBA (Todd hewitt broth agar) và thạch máu ngựa (Horse blood agar) Khi được nuôi cấy ở nhiệt độ 20-30 độ C trong 24-48 giờ, Streptococcus sẽ hình thành các khuẩn lạc nhỏ có đường kính từ 0,5-1,0mm, màu hơi vàng, hình tròn và hơi lồi.

Các tế bào vi khuẩn Streptococcus thường ghép với nhau thành từng chuỗi dài, nê được gọi là Liên cầu khuẩn

Hình 4.13: A- Vi khuẩn Streptococcus sp gây bệnh xuất huyết ở cá basa; B-

Vi khuẩn Streptococcus sp phân lập từ gan cá rô phi bị bệnh b Dấu hiệu bệnh lý

Các loài cá khi nhiễm vi khuẩn Streptococcus thường xuất hiện một số dấu hiệu chung như màu sắc tối, bơi lội không bình thường, mắt cá lồi và đục, cùng với xuất huyết ở vây và xương nắp mang Những vết xuất huyết này có thể lan rộng thành lở loét, nhưng thường nông hơn so với các bệnh khác có lở loét Cá bệnh gặp khó khăn trong vận động, không định hướng, và có hình thức bơi xoắn, kèm theo sự tăng kích thước của thận và lá lách do phù nề Tổn thương nội quan là nguyên nhân chính gây chết Tuy nhiên, bệnh có thể ở thể nhẹ (mãn tính) với chỉ vài nốt xuất huyết trên thân mà không có tổn thương nội tạng Ngược lại, nếu bệnh ở dạng cấp tính, tỷ lệ tử vong sẽ rất cao.

Bệnh Streptococcus spp có thể xảy ra ở nhiều loài cá nước ngọt như cá ba sa, cá rô phi, cá chép, và một số loài cá biển như cá chẽm, thường bùng phát ở nhiệt độ từ 20-30°C Tại Việt Nam, đã phát hiện Streptococcus iniae gây bệnh xuất huyết ở cá rô phi nuôi thâm canh, trong khi cá rô đồng bị xuất huyết do Streptococcus agalactiae và có triệu chứng đen thân do vi khuẩn Streptococcus iniae.

Để phòng và trị bệnh hiệu quả, cần dựa vào dấu hiệu bệnh lý và phân lập vi khuẩn từ các môi trường cơ bản Phương pháp phòng tổng hợp cùng với việc sử dụng vaccine là giải pháp tối ưu để ngăn ngừa bệnh Đối với việc điều trị, có thể trộn kháng sinh vào thức ăn, sử dụng Erythromycin hoặc Ciprofloxacin, Enrofloxacin với liều lượng 25-50 mg trên 1 kg cá mỗi ngày trong 4-7 ngày.

Hình 4.14: Cá bị bệnh xuất xuyết do

Cá rô phi mắc bệnh Streptococcus thường có biểu hiện như phần bụng xuất hiện các vết xuất huyết nhỏ, trong khi cá rô phi đỏ bị bệnh sẽ có các đốm xuất huyết trên thân Khi giải phẫu cá rô phi bị bệnh cấp tính, có thể thấy trên gan xuất hiện các đốm hoại tử màu trắng đục.

Bệnh do vi khuẩn Flavobacter ở cá

Gây bệnh này ở cá là do giống vi khuẩn Flavobacter spp, thuộc họ

Cytophagacae là loại vi khuẩn hình que, có kích thước khoảng 0,3-0,7 x 4-8 m và bắt màu gram (-) Chúng chỉ ký sinh trên bề mặt cơ thể cá và có phương thức vận động đặc biệt là trượt.

Vi khuẩn phát triển trên môi trường Cytophaga agar, tạo thành khuẩn lạc màu vàng, bằng đầu với mép không đều và dính chặt vào môi trường giống như khuẩn lạc của nấm Dưới kính soi nổi với độ phóng đại 40 lần, mép khuẩn lạc có hình dạng dễ cây Trong môi trường lỏng Cytophaga Broth, vi khuẩn hình thành các đám hoặc màng mỏng trên bề mặt và khi lắc nhẹ, chúng phát triển một cách đồng nhất.

Gây bệnh ở cá nuôi thường gặp 2 loài:

Flavobacterium columnaris gây bệnh ở cá nước ngọt

F maritimus gây bệnh ở cá nước lợ mặn

Vi khuẩn Flavobacterium columnare có những đặc điểm sinh vật hóa học nổi bật, bao gồm phản ứng Catalase và Cytocrome oxidase dương tính, cùng với phản ứng Nitrat và sinh khí H2S dương tính Đặc biệt, vi khuẩn này không sử dụng các acid amin trong môi trường và có phản ứng Decarboxylase âm tính.

Vi khuẩn F maritimus không phát triển trong môi trường Cytophaga + 2% NaCl giống như các vi khuẩn nước mặn khác; để nuôi cấy, cần pha môi trường Cytophaga agar với ít nhất 30% nước biển do vi khuẩn này cần nhiều loại muối F maritimus có đặc điểm Catalase và Cytochrome oxidase dương, có khả năng thủy phân Casein, Gelatin, Tributyrin và Tyrosin, nhưng không sản sinh H2S và Indol Vi khuẩn này sử dụng các nguồn Carbon và Nitrogen như Tryptone, nấm men và acid Casamin để sinh trưởng Nó có khả năng thủy phân Agar, Cellulose, kitin, tinh bột và Aessulin, cũng như khử Nitrite thành Nitrate, nhưng không sinh acid từ các loại đường như Glucose, Galactose, Fructose, và nhiều loại khác (Wakabayashi và ctv, 1986).

Dấu hiệu đầu tiên của bệnh là sự xuất hiện các đốm trắng trên thân, đầu, vây và mang cá, sau đó các đốm này lan rộng thành vết loét có viền màu đỏ, với phần giữa màu vàng hoặc xám Da và vẩy cá có thể bị lột và rụng, dẫn đến vết loét lan rộng Mép vây cũng bị mòn và cụt, trong khi trên mang xuất hiện các vết loét khiến tơ mang bị phá hủy, gây ngạt thở cho cá Mặc dù bệnh không gây tổn thương cho các cơ quan nội tạng, nhưng độc lực của vi khuẩn có thể dẫn đến cái chết của cá Bệnh thường xảy ra trong điều kiện cá nuôi với mật độ dày và môi trường nghèo dinh dưỡng, đặc biệt phổ biến trong các hình thức nuôi cá lồng bè.

Bệnh Flavobacter phân bố rộng khắp nơi trên thế giới, đã gặp ở châu Mỹ, châu Âu, châu Á Nhiều loài cá nước ngọt đã nhiễm: cá chình- (Anguilla japonica,

A anguilla, cá Misgurnus anguillicaudatus); cá diếc (Carassius auratus); cá chép

Cá trắm (Cyprinus carpio), cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) và cá rô phi (Oreochromis mossambicus) là những loài cá phổ biến ở Đông Nam Á Gần đây, một loại bệnh đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho cá trê vàng (Clarias macrocephalus), dẫn đến cái chết của 90% cá trê giống trong các ao nuôi chỉ trong vòng 24 giờ.

1985) Ở nước ngọt, bệnh thường xuất hiện gây cá chết ở nhiệt độ 20-35 0 C, dưới

Bệnh Flavobacter ít khi xuất hiện ở nhiệt độ 15 độ C Theo nghiên cứu của Wakabayashi và Egusa (1972), ảnh hưởng của nhiệt độ đến bệnh này đã được thử nghiệm trên cá Misgurnus anguillicaudatus Các tác giả đã tiến hành nuôi cá trong môi trường có mật độ vi khuẩn cao để quan sát sự phát triển của bệnh.

F columnaris là 10 6 tế bào/ml ở các thang nhiệt độ 5-35 0 C (khoảng cách mỗi lô là 5 0 C) Kết quả cho thấy các lô từ 5-10 0 C cá không chết; 15 0 C có 25% cá đã chết bị bệnh; ở 20-35 0 C cá chết 100% Thời gian cá chết bệnh là 7,0; 3,0; 1,8; 1,0 ngày ở các lô nhiệt độ tương ứng là 15; 20; 25 và 35 0 C

Hình 4.15: Cá bống tượng bị tuột nhớt

Cá bị nhiễm Flavobacterium columnare có dấu hiệu bệnh lý rõ rệt, như cá tra xuất hiện tình trạng “thối đuôi”, trong khi cá điêu hồng bị thối mang, mòn đuôi và mất nhớt đuôi.

Bệnh lý do Flavobacterium maritimus ở cá biển biểu hiện qua các triệu chứng như cá hồi bị lở loét, cá chẽm bị mòn đuôi, tróc vẩy và thối mang Bệnh này đã được ghi nhận ở nhiều loài cá biển nuôi, bao gồm cá chẽm (Lates calcarifer), cá hồng (Lutjanus spp) và cá mú (Epinephelus spp) Thời điểm bệnh thường bùng phát là vào mùa xuân, sau khi cá được chuyển từ bể ương ra lồng nuôi khoảng 1-2 tuần, với kích thước cá khoảng 6 cm Mặc dù nhiệt độ nước tăng tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, nhưng bệnh không được phát hiện trong mùa hè và thu.

Flavobacter là tác nhân gây bệnh cơ hội cho cá, thường xảy ra khi cá bị tổn thương cơ học Sự bùng phát bệnh liên quan đến các yếu tố như nhiệt độ, độ mặn và điều kiện môi trường Môi trường có nhiều ion Ca, K và Mg có thể kích thích sự phát triển của vi khuẩn Tại Việt Nam, bệnh Flexibacter đã xuất hiện ở một số loài cá biển quý như cá mú và cá chẽm, đặc biệt vào mùa xuân và mùa thu ở miền Bắc, cũng như trong mùa mưa ở miền Nam Phương pháp chẩn đoán bệnh là cần thiết để kiểm soát tình trạng này.

Để chẩn đoán bệnh, cần dựa vào dấu hiệu bệnh lý và quan sát trực tiếp mẫu bệnh phẩm từ các tổn thương ở mang, da, và mắt cá Việc nhuộm mẫu và quan sát dưới kính hiển vi giúp phát hiện các tế bào dài, mảnh và cong, di chuyển bằng phương thức trượt Để xác định chính xác, có thể phân lập vi khuẩn trên môi trường Cytophaga agar và thực hiện các phản ứng sinh hóa Phòng bệnh hiệu quả thông qua việc cải thiện môi trường nuôi, thả cá với mật độ hợp lý, cung cấp thức ăn đầy đủ và chất lượng, cũng như tránh tổn thương do vận chuyển và ký sinh trùng Các biện pháp phòng ngừa khác bao gồm sử dụng nhiệt độ hoặc bổ sung vi khuẩn có lợi vào môi trường, và sát trùng cá bằng hóa chất như CuSO4, thuốc tím và formol trước khi thả Tắm cá biển bằng nước ngọt cũng là một phương pháp hữu ích Công nghệ vaccine đã chứng minh hiệu quả trong việc phòng bệnh cho cá nuôi, trong khi điều trị có thể sử dụng kháng sinh trộn vào thức ăn.

Oxytetracyline 50-75 mg/ kg cá/1 ngày; Sulphonamid 220 mg/kg cá/1 ngày và cho cá ăn 10 ngày liên tục Cũng có thể dùng kháng sinh tắm cho cá bênh: Dùng oxolinic acid 1ppm tắm trong 24 h

Bệnh do vi khuẩn Mycobacterium

Giống Mycobacterium thuộc họ Mycobacteriaceae là vi khuẩn hiếu khí, không di động, không sinh bào tử, có dạng hình que Đa số loài thuốc

Mycobacterium là vi khuẩn gram dương yếu Kích thước tế bào 0,2-0,6 x 1,0- 10,0

Hầu hết các vi khuẩn này sống tự do trong môi trường đất và nước, trong đó một số loài có khả năng gây bệnh cho con người và động vật thủy sản Đã có 151 loài vi khuẩn được phân lập từ các vùng nước ngọt và nước mặn, chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới Trong số đó, ba loài thường gặp là M marinum, gây bệnh cho cá nước lợ; và M fortuitum, M chelonae, gây bệnh cho cá nước ngọt.

Vi khuẩn M marinum có tốc độ sinh trưởng chậm, cần 2-3 tuần để phát triển khuẩn lạc trên môi trường thạch ở nhiệt độ 25°C Khuẩn lạc có đặc điểm nhẵn, ướt, xù xì, khô, bằng phẳng hoặc nhô cao, thường kéo dài theo đường cấy và phát triển trong bóng tối mà không sinh sắc tố Tuy nhiên, khi được nuôi trong ánh sáng, vi khuẩn này có thể tạo ra sắc tố màu vàng chanh đến vàng cam Ngược lại, M fortuitum và M chelonae phát triển nhanh hơn, hình thành khuẩn lạc trong vòng 7 ngày ở cùng nhiệt độ, với M fortuitum có khả năng sinh trưởng ở 37°C Cả hai loài này không sinh sắc tố và khuẩn lạc có màu kem.

Bệnh do vi khuẩn Mycobacterium là một bệnh nhiễm khuẩn hệ thống ở cá, với các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào loài Các dấu hiệu chung bao gồm mắt cá lồi, mất sắc tố trên da, hoại tử, loét, và sự xuất hiện của các đốm trắng nhỏ trên bề mặt cơ thể Vây cá có thể bị xơ và mòn cụt Ở giai đoạn nặng, các nội quan như gan, thận và tụy có thể xuất hiện các đốm trắng thưa hoặc mau, kèm theo hoại tử mô Bệnh này có khả năng lây lan và gây chết rải rác cá trong các ao, lồng nuôi.

Mycobacterium là tác nhân gây bệnh cho cá sống trong môi trường nước ngọt, nước lợ và nước mặn, thường gặp ở các loài như cá quả lóc (Ophiocephalus striatus), cá trác (Seriola) và cá hồi Thái Bình Dương Các loài vi khuẩn như M marinum, M fortuitum và M chelonae không chỉ gây bệnh cho cá mà còn có thể ảnh hưởng đến động vật máu nóng và con người Ngoài ra, một số loài tôm biển cũng bị nhiễm bệnh đốm nhỏ, với sự xuất hiện của sắc tố melanin màu đen và nâu trong các mô như cơ, tim và mang.

Vi khuẩn Mycobacterium spp có nhiệt độ thích hợp từ 15-37 0 C, nhưng trong nuôi cấy, thường tiến hành ở nhiệt độ 28-30 0 C d Chẩn đoán bệnh

Để chẩn đoán sơ bộ bệnh, cần dựa vào các dấu hiệu bệnh lý đã mô tả Chẩn đoán chính xác yêu cầu phân lập vi khuẩn trên môi trường Lowenstein-Jensen, nơi khuẩn lạc phát triển sau 3-5 ngày ở nhiệt độ 28°C Trên môi trường Ogawa, khuẩn lạc có màu vàng chói và mịn như kem khi chiếu sáng Ngoài ra, vi khuẩn cũng có thể được phân lập trên các môi trường sinh học thông thường như BHIA, TSA, và Macconkey ở nhiệt độ 20-30°C, với thời gian nuôi cấy từ 2-30 ngày.

Phòng bệnh: Nước trước khi dùng nuôi tôm, cá cần phải khử trùng bằng

Chloramin T hoặc B liều lượng 10 ppm thời gian 24 giờ

Tránh sử dụng thực phẩm hỏng như ôi thiu, mốc hoặc vón cục Đối với các loại hải sản như tôm và cá, cần nấu chín kỹ để ngăn ngừa nguy cơ nhiễm Mycobacterium và bảo vệ sức khỏe tiêu hóa.

Trị bệnh: có thể dùng kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá theo các liều chỉ dẫn như các bệnh nhiễm khuẩn đã giới thiệu ở trên

Bệnh vi khuẩn dạng sợi ở giáp xác

Các bệnh do vi khuẩn dạng sợi thuộc họ Cytophagcae như Leucothrix mucor, Cytophagr sp, Flexibacter sp, Thiothrix sp, và Flavobacterium sp gây ra, thường tập trung ở mang, thân và các phần phụ của tôm Những vi khuẩn này tồn tại ở dạng dinh dưỡng, không hình thành quả thể hay bào tử, và sống trong môi trường nước biển và cửa sông Dấu hiệu bệnh lý ở ấu trùng và hậu ấu trùng bao gồm tình trạng bẩn, khó bơi lội, khó lột xác, và có thể chết hàng loạt trong điều kiện oxy hòa tan thấp Khi quan sát dưới kính hiển vi, vi khuẩn dạng sợi có thể thấy bám trên các phần phụ và bề mặt cơ thể tôm Đối với tôm lớn hơn trong ao nuôi, nhiễm vi khuẩn ở cường độ thấp có thể không gây triệu chứng rõ ràng, nhưng khi nhiễm nặng, tôm sẽ có dấu hiệu lờ đờ, kém ăn, và màu sắc cơ thể chuyển từ trắng ngà sang vàng hoặc đen do xác tảo và mảnh vụn hữu cơ bám vào vi khuẩn Tôm bệnh nặng thường dạt bờ và chết rải rác.

Mang tôm nhiễm vi khuẩn dạng sợi Leucothrix mucor có thể quan sát được qua các mẫu tươi không nhuộm với độ phóng đại khác nhau, cho thấy sự ảnh hưởng nghiêm trọng của loại vi khuẩn này Bệnh vi khuẩn dạng sợi có sự phân bố rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt phổ biến ở giáp xác nuôi tại Việt Nam, bao gồm cả trong bể ấp, ao nuôi và lồng bè Bệnh có thể xảy ra ở nhiều giai đoạn phát triển của tôm, từ ấu trùng, hậu ấu trùng, ấu niên cho đến tôm nuôi trưởng thành.

Bệnh vi khuẩn dạng sợi đã được ghi nhận trên nhiều loài ký chủ như tôm he (Penaeus spp), tôm hùm (Panulirus spp, Homarus spp) và cua (Callinectes spp, Scylla serrata) ở Việt Nam, đặc biệt là trên tôm sú (P monodon), tôm hùm nuôi lồng và một số loài cua (Scylla spp) Vi khuẩn này chỉ ký sinh ở các cơ quan bên ngoài và không xâm nhập vào các tổ chức bên trong cơ thể Chúng là một phần phổ biến trong hệ vi sinh vật biển và cửa sông, có khả năng sống tự do, bám trên vật thể như thành bể, dụng cụ, hoặc ký sinh trên bề mặt của các sinh vật có xương sống và không có xương sống trong nước.

Sự phát triển và lây lan của vi khuẩn dạng sợi trong hệ thống nuôi giáp xác là dấu hiệu cho thấy chất lượng môi trường đang xấu đi Những vi khuẩn này thường phát triển mạnh trong các ao nuôi có mật độ dinh dưỡng cao, nuôi thâm canh với mật độ lớn và hàm lượng oxy thấp Bệnh vi khuẩn dạng sợi thường bùng phát mạnh mẽ tại các trại sản xuất giống tôm và trong các ao nuôi tôm thâm canh Phương pháp chẩn đoán bệnh này cần được áp dụng kịp thời để bảo vệ sức khỏe của tôm nuôi.

Kiểm tra ấu trùng và các phần phụ của tôm thịt bằng kính hiển vi có độ phóng đại từ 100X trở lên cho phép phát hiện vi khuẩn dạng sợi bám trên bề mặt cơ thể, mang và phần phụ của tôm.

Có thể nuôi vi khuẩn trên môi trường Cytophaga aga hoặc sử dụng phương pháp mô bệnh học với thuốc nhuộm H và E để phát hiện tác nhân vi khuẩn dạng sợi Để phòng ngừa bệnh, cần đảm bảo chất lượng môi trường tốt và quản lý chất thải hữu cơ Khi phát hiện vi khuẩn dạng sợi nhưng chưa có triệu chứng bệnh, có thể sử dụng hóa chất chứa đồng với nồng độ 0,1 – 0,2 ppm Cu để ngâm tôm cua.

Các hợp chất vô cơ chứa đồng (Cu), như CuSO4 và CuCl2, thường khó tan và có thể kết tủa trong môi trường nước mặn có độ cứng và độ kiềm cao Ion Cu++ thường kết tủa dưới dạng CaCO3, làm hạn chế hiệu quả diệt vi khuẩn Tuy nhiên, theo nghiên cứu của DV Lightner (1996), việc sử dụng CuCl2 với nồng độ 1ppm có thể ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn dạng sợi trên mang và bề mặt cơ thể tôm Bên cạnh đó, một số loại thuốc diệt khuẩn khác cũng có thể được sử dụng để điều trị bệnh này.

Thuốc tím KMnO4: 2,5 – 5 ppm/ 4h Dùng Formol : 20- 25 ppm - không giới hạn thời gian

50 – 100 ppm dùng trong 8 – 12 h Neomycine : 10ppm – không giới hạn thời gian.

Bệnh đục cơ của tôm càng xanh

Cầu khuẩn Lactococcus garvieae (Enterococcus seriolicida) là tác nhân gây bệnh chính, thuộc nhóm vi khuẩn gram dương, có hình dạng cầu hoặc hình trứng Chúng phát triển tốt trong khoảng nhiệt độ từ 10-40 độ C, với độ muối thích hợp từ 0,5-6,0 ‰ và pH lý tưởng là 9,6, theo nghiên cứu của Winton Cheng và Jiann-Chu Chen (1998-2001).

Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã tiến hành phân lập một mẫu tôm càng xanh bị bệnh đục thân tại Hải Phòng, trong đó phát hiện cầu khuẩn gram dương và trực khuẩn dung huyết mạnh gram âm Dấu hiệu bệnh lý này cho thấy sự hiện diện của các tác nhân gây bệnh nghiêm trọng trong tôm.

Tôm bị bệnh thường có biểu hiện kém ăn và hoạt động chậm chạp Ban đầu, phần đuôi của tôm chuyển sang màu trắng đục, có thể thấy rõ các vết trắng dưới ánh sáng mặt trời, sau đó màu trắng đục này lan dần lên phía đầu ngực Khi bệnh nặng, mang của tôm cũng chuyển màu trắng đục, vỏ tôm trở nên mềm, và khi luộc chín, tôm có màu hồng nhợt nhạt, mất đi sắc tố đỏ đặc trưng của tôm khỏe mạnh Tỷ lệ chết của tôm mắc bệnh này rất cao.

Bệnh đục cơ ở tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) đã xảy ra tại Trung Quốc và Đài Loan với tỷ lệ nhiễm bệnh từ 30-75% Tại Việt Nam, bệnh này xuất hiện từ năm 2000 khi tôm giống nhập từ Trung Quốc về Thanh Trì, Hà Nội, dẫn đến hiện tượng tôm bị đục cơ và chết hàng loạt Đến đầu năm 2002, một trại sản xuất tôm giống ở Hải Phòng đã ghi nhận bệnh đục cơ ở đàn tôm bố mẹ, với tỷ lệ sống sót của ấu trùng chỉ đạt khoảng 1% Vào tháng 5 năm 2002, một số ao nuôi tôm ở Thanh Trì cũng ghi nhận tình trạng tương tự, với tỷ lệ nhiễm bệnh dao động từ 6-90%.

Dựa vào dấu hiệu bệnh lý như đã mô tả để nhận biết về bệnh đục cơ Có thể phân lập vi khuẩn để xác định bệnh

Hình 4.20: Bệnh đục cơ trên tôm càng xanh e Phòng và trị bệnh

Để phòng bệnh cho tôm nuôi, cần duy trì ổn định các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn, pH, DO và các yếu tố khác nhằm tránh gây sốc cho tôm Việc sử dụng vôi sống CaCO3 với liều lượng 1-2 kg cũng rất quan trọng trong quá trình này.

Để duy trì sức khỏe cho tôm trong môi trường nước ao, cần sử dụng 100m³ nước và áp dụng các chất vô cơ chứa ClO để diệt trùng đáy Đồng thời, nên bổ sung vitamin C cho tôm với liều lượng 2-3g cho mỗi 1kg thức ăn cơ bản, thực hiện mỗi tuần một lần và mỗi tháng cho ăn 2 đợt.

Để trị bệnh cho tôm, có thể sử dụng kháng sinh trộn vào thức ăn Nếu trong ao hoặc bể có nhiều tôm còn bắt mồi, nên dùng Ciprofloxacin với liều lượng 100mg cho mỗi 1kg tôm trong ngày đầu tiên Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7, giảm liều xuống còn 50mg cho mỗi kg tôm mỗi ngày.

Bệnh nấm trên động vật thủy sản

2.1 Đặc điểm chung của nấm

Ngành nấm (Eumycophyta- Eumycete) bao gồm các thực vật bậc thấp không chứa diệp lục tố và không có khả năng tự dưỡng Chúng thường sống hoại sinh trên các vật chất hữu cơ hoặc có thể sống cộng sinh hoặc ký sinh trên động vật và thực vật Các nấm thể sợi là nguyên nhân gây bệnh cho động vật thủy sản, với những đặc điểm chung đáng chú ý.

Nấm gây bệnh ở động vật thủy sản có cấu tạo hình sợi phân nhánh, sinh trưởng nhanh ở đầu mút sợi nấm và tạo thành đám chằng chịt Các sợi nấm này được gọi là khuẩn ty Có hai loại nấm ký sinh gây bệnh: nấm bậc thấp với cấu tạo sợi đa bào không có vách ngăn, như các giống Lagenidium, Saprolegnia, Achlya; và nấm bậc cao có vách ngăn giữa các tế bào.

Hình thức sinh sản của nấm: có nhiều hình thức sinh sản khác nhau

Sinh sản dinh dưỡng là quá trình mà các khuẩn ty phát triển ở đầu mút, tạo ra các bào tử có màng dày và các hạch nấm Những tế bào này sẽ tách rời khỏi cơ thể mẹ và phát triển thành các sợi nấm mới.

Sinh sản vô tính : có hai hình thức

Bào tử màng dày, hay còn gọi là bào tử dày (Chlamydospore), xuất hiện giữa các sợi nấm hoặc ở đầu mút của chúng Những tế bào hình cầu hoặc bầu dục này được bao bọc bởi một lớp màng dày, giúp chúng có khả năng chịu đựng điều kiện môi trường khắc nghiệt Khi gặp điều kiện thuận lợi, bào tử này có thể nảy mầm và phát triển thành sợi nấm mới.

Sinh bào tử kín (Sporangiospore) là phương thức sinh sản vô tính của tất cả các loài thuộc họ Saprolegniaceae, với bào tử được tạo ra trong túi bào tử (Sporangium) Khi túi bào tử vỡ, bào tử được phóng ra và nảy mầm thành khuẩn ty Túi bào tử hình thành trên cuống nang (Sporangiophore), có tiết diện lớn hơn khuẩn ty Ngoài ra, một số nấm như Fusarium spp còn sinh sản vô tính bằng bào tử đính (Macroconidia và Microconidia).

Sinh sản theo hình thức hữu tính : Nấm hình thành các túi giao tử

Túi giao tử đực, gọi là hùng khí (antheridium), và túi giao tử cái, gọi là noãn khí (oogonium), là hai cơ quan sinh sản chính của nấm Trên khuẩn ty, các cơ quan này thường nằm vuông góc với sợi nấm, trong đó túi giao tử đực có hình ống nhỏ, còn túi giao tử cái thường phình to thành hình cầu Một số giống nấm sinh sản hữu tính qua hình thức tiếp hợp, trong đó túi giao tử đực uốn cong bao lấy túi giao tử cái, tạo ra cầu nối nguyên sinh chất Qua cầu nối này, giao tử đực và cái kết hợp, hình thành hợp tử, từ đó nẩy mầm phát triển thành sợi nấm mới.

2.2 Bệnh nấm Ichthyophonosis a Tác nhân gây bệnh

Tác nhân gây bệnh là giống nấm hạt Ichthyophonus spp Thường gặp các loài

Ichthyophonus hoferi và Ich irregularis là hai loại nấm nội ký sinh, thường xuất hiện trên các cơ quan nội tạng của cá, bao gồm gan, tim, lá lách và cơ quan sinh dục.

Hình 4.21: Bệnh do nấm Ichthyophorus sp ký sinh ở cá

Cá hồi bị nhiễm nấm hạt Ichthyophorus sp thể hiện qua các triệu chứng bệnh lý rõ rệt Vết loét sâu và nhỏ trên thân cá (A và B) là dấu hiệu đầu tiên, trong khi tim cá có các điểm trắng nhỏ do nhiễm nấm (C) Gan cá cũng bị ảnh hưởng, với sự xuất hiện của các hạt trắng nhỏ trên mô gan (D) Hình ảnh mô học của cơ tim và lá lách cá hồi cho thấy sự nhiễm nấm hạt rõ rệt, được nhuộm H&E (E và F) (ảnh của R Kocan và G Saunders, 2003).

Dấu hiệu bên ngoài của bệnh có thể bao gồm các vết loét nhỏ, sâu trên thân Nấm nội ký sinh là nguyên nhân chính, và khi giải phẫu các cơ quan nội tạng như tim, gan, thận, lá lách và buồng trứng, có thể thấy các đốm trắng nhỏ Khi cắt mô, sự tồn tại của nấm hạt trong các tổ chức được thể hiện rõ ràng, cho thấy sự phân bố và lan truyền của bệnh.

Nấm Ichthyophonus hoferi là một loại nấm ký sinh nội tại trên hơn 80 loài cá biển, bao gồm cá hồi và cá trích (Clupea harengus) Ngoài ra, nấm Ich irregularis cũng ký sinh ở cá bơn vây vàng (Limanda ferruginea) Việc chẩn đoán bệnh do các loại nấm này gây ra là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của các loài cá biển.

Có nhiều phương pháp để chẩn đoán bệnh, bắt đầu từ việc dựa vào dấu hiệu bệnh lý để thực hiện chẩn đoán sơ bộ Để đạt được chẩn đoán chính xác, cần áp dụng phương pháp mô bệnh học hoặc nuôi cấy phân lập nấm trong môi trường Eagle's Minimum Essential Medium (MEM) hoặc môi trường Leibovitz L-15 Cả hai loại môi trường này cần được bổ sung penicillin, streptomycin và gentamycin nhằm ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn trong mẫu bệnh phẩm Quá trình nuôi cấy nên được thực hiện ở nhiệt độ ≤15 o C trong khoảng thời gian 7-10 ngày, sau đó tiến hành kiểm tra nấm Ichthyophonus dưới kính hiển vi với độ phóng đại 400 lần.

Chưa có các biện pháp phòng trị bệnh

2.3 Hội chứng lở loét ở cá (The Epizootic Ulcerative Syndrome of físh-EUS)

EUS, hay còn gọi là bệnh EUS, là một căn bệnh nguy hiểm đang lây lan nhanh chóng và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cá nuôi cũng như cá tự nhiên tại nhiều quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương Tác nhân gây ra bệnh này đang trở thành mối đe dọa lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản và hệ sinh thái nước.

Nghiên cứu về bệnh lở loét ở cá đã phát hiện nhiều tác nhân gây bệnh, trong đó có virus Rhabdovirus ARN từ gan cá lóc và cá trê, cũng như Binavirus từ cá bống tượng và cá lóc Tuy nhiên, các virus này chỉ được tìm thấy ở giai đoạn đầu của bệnh và không còn ở giai đoạn sau, cho thấy chúng có thể làm giảm sức đề kháng của cá, tạo điều kiện cho các tác nhân khác gây ra bệnh EUS Ngoài ra, vi khuẩn như Vibrio anguillarum, Aeromonas hydrophila và Pseudomonas sp cũng đã được phân lập từ các loại cá nước mặn và nước ngọt bị bệnh EUS Kể từ năm 1983, Viện Nghiên cứu Thủy sản I (Việt Nam) đã phân lập nhiều vi khuẩn gây bệnh từ các loài cá như cá lóc, cá tai tượng, cá sặt rằn, cá trắm cỏ, cá trê, cá rô đồng, cá bống cát, cá ba sa, cá he và cá mè vinh, đặc biệt là Aeromonas hydrophila.

Các ký sinh trùng như Monogenea, Protozoa và Crustacae thường xuất hiện trên cơ thể cá mắc bệnh EUS Những ký sinh trùng này không chỉ là tác nhân cơ hội mà còn có thể gây tổn thương, tạo điều kiện cho các tác nhân khác xâm nhập và gây hại cho cá.

Một số giống nấm bậc thấp như Aphanomyces spp, Saprolegnia spp và Achlya đã được phát hiện trên cơ thể cá mắc bệnh EUS Tuy nhiên, việc xác định tác nhân chính gây ra hiện tượng hoại tử nghiêm trọng trên cá đã được thảo luận trong nhiều hội thảo khoa học suốt gần 30 năm qua.

Hình 4.22: Khuẩn ty nấm Aphanomyces invadans phân lập từ cá bệnh EUS

BỆNH DO VIRUS TRÊN ĐỘNG VẬT THUỶ SẢN

Bệnh virus trên tôm

Kiểm tra (định kỳ)/ôn tập/T hi Ôn thi 1 0 0 1

Thi kết thúc học phần 1 0 0 1

NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ NGHIÊN CỨU BỆNH VI KHUẨN VÀ

Bài học này cung cấp cái nhìn tổng quan và chuyên sâu về nghiên cứu bệnh ở động vật thủy sản, bao gồm các phương pháp thu thập và bảo quản mẫu, cũng như các kỹ thuật thu thập thông tin và chẩn đoán bệnh cho cá và tôm.

 Kiến thức: Trình bày về nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh, phương pháp thu mẫu và chẩn đoán bệnh trên cá tôm

 Kỹ năng: Thành thạo về các kỹ thuật thu mẫu và chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản

Năng lực tự chủ và trách nhiệm trong nghiên cứu và chẩn đoán bệnh do vi sinh vật gây hại trên động vật thủy sản rất quan trọng Việc phát triển ý thức trung thực và khách quan giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu, từ đó cải thiện hiệu quả trong việc phát hiện và điều trị bệnh Điều này không chỉ đảm bảo sức khỏe cho động vật thủy sản mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngành thủy sản.

1 Nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh

Nguyên nhân gây bệnh là yếu tố quyết định sự xuất hiện của bệnh, nhưng không phải lúc nào sự hiện diện của tác nhân gây bệnh cũng dẫn đến bệnh lý Sự phát bệnh còn phụ thuộc vào một số đặc điểm khác nhau.

- Phụ thuộc vào độc lực của tác nhân gây bệnh

- Phụ thuộc vào số lượng của tác nhân gây bệnh

- Phụ thuộc vào con đường xâm nhập của các tác nhân gây bệnh đến cơ thể ký chủ

Trên động vật thuỷ sản nguyên nhân gây bệnh có thể kể đến các tác nhân sau:

- Tác nhân gây bệnh là virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng có kích thước siêu vi, hiển vi hoặc có thể nhận biết được bằng mắt thường

Tác nhân gây hại trong môi trường nước là những sinh vật không ký sinh, nhưng có khả năng tiết ra các chất độc, ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan như hệ thần kinh, hô hấp và tuần hoàn, ví dụ như độc tố từ tảo, dẫn đến các bệnh lý nghiêm trọng.

- Tác nhân gây bệnh là các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, các loại khí độc như NH3, H2S, NO2,

Thiếu hụt một số vitamin, khoáng chất và axit béo thiết yếu trong khẩu phần ăn của động vật thủy sản có thể là nguyên nhân dẫn đến các vấn đề sức khỏe.

1.2 Điều kiện để phát sinh bệnh

Sức đề kháng của vật nuôi phụ thuộc vào bản chất của loài, các giai đoạn phát triển, chế độ dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh

Các yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng trong sự bùng phát của bệnh Khi các tác nhân gây bệnh tồn tại trong môi trường thuận lợi, chúng sẽ sinh sản mạnh mẽ và tăng cường độc lực, từ đó nâng cao khả năng gây bệnh cho ký chủ Ngược lại, nếu môi trường không thuận lợi, các tác nhân này sẽ bị kìm hãm, không thể gây bệnh và có nguy cơ bị tiêu diệt Hơn nữa, sự biến động của các yếu tố môi trường cũng có thể dẫn đến sự xuất hiện của bệnh do các yếu tố vô sinh.

Khi sống trong môi trường không thuận lợi sức đề kháng của vật nuôi sẽ giảm và dễ dàng bị mắc bệnh

Các yếu tố môi trường quan trọng như nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan, pH, độ kiềm, độ cứng và khí độc có thể ảnh hưởng đáng kể đến tác nhân gây bệnh.

2 Phương pháp thu và bảo quản mẫu bệnh cá, tôm

2.1 Qui trình chung khi lấy mẫu bệnh cá, tôm a Chuẩn bị trước khi lấy mẫu

Để chẩn đoán bệnh hiệu quả, cần xác định số lượng mẫu thu thập, trong đó số mẫu cần thu cho chẩn đoán bệnh phải nhiều hơn so với các nguyên nhân khác Không thu mẫu từ cá chết; thay vào đó, có thể thu mẫu từ cá bệnh và cá, tôm có biểu hiện khỏe mạnh cùng một nơi nuôi để so sánh kết quả.

Mẫu có thể được bảo quản sống, ướp đá, hoặc cố định bằng hóa chất Cần thông báo cho phòng thí nghiệm về số lượng, loại mẫu và ngày tiếp nhận để họ chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, thiết bị và hóa chất cần thiết cho quá trình chẩn đoán.

Tất cả các mẫu cần cung cấp thông tin chi tiết như lý do gửi mẫu (chẩn đoán bệnh, xét nghiệm, chứng nhận) Cần ghi nhận các thông tin tổng thể về thức ăn, tình trạng bắt mồi, lịch sử sử dụng thuốc và hóa chất, cùng với các chỉ tiêu môi trường Bên cạnh đó, thông tin về nguồn gốc, quá trình chăm sóc và địa điểm của các nguồn cá khác nhau, nếu không cùng nguồn gốc, cũng rất quan trọng.

Thông tin này làm rõ rằng việc vận chuyển, thay đổi môi trường và các tác nhân lây nhiễm là những yếu tố quan trọng cần chú ý Điều này không chỉ giúp tăng tốc quá trình chẩn đoán các mối nguy mà còn hỗ trợ xây dựng lộ trình điều trị hiệu quả Việc lấy mẫu để kiểm tra sức khỏe cũng là một bước thiết yếu trong quá trình này.

Việc lấy mẫu để chẩn đoán bệnh cần chú ý đến một số yếu tố quan trọng, bao gồm số lượng mẫu phải đủ, lựa chọn các mẫu nghi ngờ có khả năng mẫn cảm với bệnh, và đảm bảo lấy mẫu từ các nhóm tuổi khác nhau trong các mùa để tăng khả năng phát hiện bệnh Những thông tin này sẽ được trình bày trong các phần liên quan đến từng bệnh cụ thể.

Để chẩn đoán bệnh hiệu quả, các mẫu gửi đi cần cung cấp thông tin chi tiết như lý do gửi mẫu (cá, tôm chết hoặc có dấu hiệu tăng trưởng bất thường) Ngoài ra, cần lưu ý đến các hoạt động của con người như làm sạch lồng/lưới, phân cỡ cá, thay đổi địa điểm nuôi và việc đưa loài mới vào nuôi Bên cạnh đó, những thay đổi môi trường như chất lượng nước đột ngột biến động, nước mặn xâm nhập vào ao nước ngọt và hiện tượng thời tiết bất thường cũng cần được ghi nhận.

Thông tin này sẽ giúp xác định liệu tác động của con người, biến đổi môi trường hay các tác nhân lây nhiễm có phải là nguyên nhân gây ra hiện tượng tôm cá chết bất thường Việc thu thập thông tin này là cần thiết để chẩn đoán nhanh chóng và chính xác, đồng thời tập trung vào các quy trình điều tra bệnh theo yêu cầu Hơn nữa, việc lấy mẫu sống để vận chuyển cũng là một bước quan trọng trong quá trình này.

Để giảm thiểu số lượng tôm cá chết trong quá trình vận chuyển, nên lấy mẫu sống càng gần giờ xuất bến càng tốt Điều này đặc biệt quan trọng đối với những con cá có nguy cơ chết cao hoặc đang mắc bệnh.

Ngày đăng: 19/10/2022, 21:13

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1. Mô hình chức năng của bộ điều khiển nhiệt độ PID. - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 1. Mô hình chức năng của bộ điều khiển nhiệt độ PID (Trang 11)
Hình 2.1: Cấu tạo giải phẫu của cá (Melba et al., 2005) - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 2.1 Cấu tạo giải phẫu của cá (Melba et al., 2005) (Trang 13)
Hình 2.3: Cấu tạo giải phẫu của tôm he (Melba et al., 2005) - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 2.3 Cấu tạo giải phẫu của tôm he (Melba et al., 2005) (Trang 15)
Hình 2.2: Cấu tạo giải phẫu của tơm sơng (Nguồn: Selfomy.com) - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 2.2 Cấu tạo giải phẫu của tơm sơng (Nguồn: Selfomy.com) (Trang 15)
-Pseudomonas Bệnh xuất huyết Cá Chình - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
seudomonas Bệnh xuất huyết Cá Chình (Trang 31)
Hình 4.4: Tơm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) bị bệnh đốm nâu: A- tôm càng bị đen mang; B,C- Tôm càng bị bệnh có râu, chân bị, chân bơi, - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.4 Tơm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) bị bệnh đốm nâu: A- tôm càng bị đen mang; B,C- Tôm càng bị bệnh có râu, chân bị, chân bơi, (Trang 36)
Hình 4.7: Ếch bị xuất huyết do - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.7 Ếch bị xuất huyết do (Trang 37)
khuẩn V. anguillarum; V. vulnificus gây bệnh nhiễm khuẩn máu ở cá chình, V. - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
khu ẩn V. anguillarum; V. vulnificus gây bệnh nhiễm khuẩn máu ở cá chình, V (Trang 43)
c. Đặc điểm phân bố và lây truyền - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
c. Đặc điểm phân bố và lây truyền (Trang 44)
Edwardsiella thuộc họ Enterobacteriaceae. Vi khuẩn có dạng hình que - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
dwardsiella thuộc họ Enterobacteriaceae. Vi khuẩn có dạng hình que (Trang 50)
Hình 4.12: Dấu hiệu bệnh lý của cá nhiễm  vi  khuẩn  Edwadsiella  sp.:  A,B,C,D-  cá  thát  lát  còm  nhiễm  vi  khuẩn  E - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.12 Dấu hiệu bệnh lý của cá nhiễm vi khuẩn Edwadsiella sp.: A,B,C,D- cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn E (Trang 52)
Hình 4.14: Cá bị bệnh xuất xuyết do - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.14 Cá bị bệnh xuất xuyết do (Trang 55)
Hình 4.16: Dấu hiệu bệnh lý của cá bị nhiễm Flavobacterium. Cá tra bị “Thối đuôi” do nhiễm Flavobacterium columnare; cá điêu hồng bị thối mang, mịn đi và tuột - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.16 Dấu hiệu bệnh lý của cá bị nhiễm Flavobacterium. Cá tra bị “Thối đuôi” do nhiễm Flavobacterium columnare; cá điêu hồng bị thối mang, mịn đi và tuột (Trang 57)
Hình 4.15: Cá bống tượng bị tuột nhớt - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.15 Cá bống tượng bị tuột nhớt (Trang 57)
Hình 4.17: Dấu hiệu bệnh lý của cá biển nhiễm Flavobacterium maritimus: Cá hồi bị lở loét; Cá chẽm bị mịn đi, tróc vẩy, thối mang - Giáo trình Bệnh truyền nhiễm 1 (Nghề: Bệnh học thuỷ sản - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Hình 4.17 Dấu hiệu bệnh lý của cá biển nhiễm Flavobacterium maritimus: Cá hồi bị lở loét; Cá chẽm bị mịn đi, tróc vẩy, thối mang (Trang 58)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

  • Đang cập nhật ...

TÀI LIỆU LIÊN QUAN