Tính u việt của thuế giá trị gia tăng và phơng pháp kế toán thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT đợc áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
a Thuế giá trị gia tăng là gì?
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, được áp dụng trên giá trị gia tăng của hàng hoá và dịch vụ trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tại Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, ngoại trừ những đối tượng không thuộc diện chịu thuế theo quy định của pháp luật.
Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) bao gồm các tổ chức và cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, được gọi chung là cơ sở kinh doanh, cùng với các tổ chức và cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT, được gọi là người nhập khẩu Cả hai nhóm này đều có trách nhiệm nộp thuế GTGT.
- Đối tợng không thuộc diện chịu thuế GTGT
Theo quy định của luật thuế hiện hành, có 26 khoản mục không phải chịu thuế, bao gồm các sản phẩm từ nông nghiệp, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, cũng như dịch vụ tín dụng từ quỹ đầu tư.
- Các văn bản pháp luật về thuế GTGT tại Việt Nam.
+ Quốc hội đã thông qua luật thuế GTGT vào ngày 10/5/1997.
+ Nghị định 28/1998/NĐ/CP của Chính phủ đã ban hành ngày 11/5/1998.
+ Thông t số 89/1998/TT - BTC của Bộ Tài chính ngày 27/6/1998.
+ Thông t số 100/1998/TT - BTC của Bộ Tài chính ngày 15/7/1998 b Ph ơng pháp tính thuế GTGT.
Do thuế GTGT (VAT) chỉ tính trên phần tăng thêm của giá trị hàng hoá nếu về mặt lý thuyết đợc hình thành theo công thức:
VAT nộp trong kỳ = VAT thu hộ - VAT trả hộ
VAT thu hộ được tính dựa trên thuế suất VAT áp dụng cho doanh thu bán hàng chưa bao gồm thuế, trong khi VAT trả hộ được xác định theo thuế suất VAT trên chi phí mua hàng chưa bao gồm thuế.
Căn cứ để tính là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính VAT đợc quy định cụ thể nh sau:
Đối với hàng hóa và dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh cung cấp, giá tính thuế được xác định là giá bán chưa bao gồm thuế VAT.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu Giá tính VAT là giá nhập khẩu + thuÕ nhËp khÈu.
Trong hoạt động cho thuê, giá tính thuế được xác định là số tiền thuê nhận được Ngoài ra, tiền thuế trả trước cho một khoảng thời gian nhất định cũng phải chịu thuế VAT.
Trong hoạt động bán hàng hóa trả góp, giá tính thuế VAT được xác định là giá bán của hàng hóa đã xuất bán, không bao gồm lãi suất trả góp và không tính theo số tiền trả góp từng kỳ.
- Đối với hoạt động xây dựng và lắp đặt Giá tính thuế VAT và giá xây dựng và lắp đặt theo hợp đồng cha có thuế.
Đối với hàng hóa và dịch vụ đặc thù, như chứng từ nhãn hiệu, vé cước vận tải hay vé số kiến thiết, giá thanh toán đã bao gồm thuế GTGT Giá chưa có thuế được xác định dựa trên giá đã có thuế này.
Giá cha có thuế VAT = Giá thanh toán/1 + thuế suất (%)
Theo điều 8 luật GTGT, hiện nay có 4 mức thuế suất 0%, 5%, 10%, 20%.
Theo luật VAT ở Việt Nam, VAT đợc tính theo 2 cách:
- Cách 1: Phơng pháp khấu trừ thuế
VAT phải nộp = VAT đầu ra – VAT đầu vào VAT đầu ra = Giá tính VAT của hàng hoá, dịch vụ X thuÕ suÊt
VAT đầu vào được xác định bằng tổng số VAT đã thanh toán được ghi trên hóa đơn hoặc chứng từ nộp thuế VAT hàng hóa nhập khẩu Đối tượng áp dụng bao gồm các tổ chức kinh doanh như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, ngoại trừ các đối tượng tính thuế theo phương pháp trực tiếp.
- Cách 2: Phơng pháp tính VAT trực tiếp trên GTGT
Số thuế VAT phải nộp = GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
X Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó.
GTGT của hàng hoá, dịch vụ = Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào t- ơng ứng.
Giá thanh toán đã bao gồm thuế, áp dụng cho cá nhân sản xuất kinh doanh là người Việt Nam, cũng như tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài, và các cơ sở kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ Thuế giá trị gia tăng (GTGT) có nhiều ưu điểm so với thuế doanh thu, bao gồm việc tạo ra nguồn thu ổn định hơn cho ngân sách nhà nước và khuyến khích sản xuất, tiêu dùng.
Bắt đầu từ ngày 01/01/1999, thuế giá trị gia tăng (GTGT) chính thức có hiệu lực, đánh dấu sự thay thế thuế doanh thu Sự chuyển đổi này không chỉ là thay đổi kỹ thuật mà còn phản ánh sự thay đổi căn bản về nội dung và tư tưởng chính sách thuế Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình cải cách thuế tại Việt Nam.
Thuế GTGT không ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì doanh nghiệp chỉ là người "thu thuế hộ Nhà nước", và người tiêu dùng mới là người chịu thuế Tuy nhiên, người tiêu dùng không phải là người chịu thiệt thòi, bởi họ chỉ quan tâm đến số tiền thực tế phải chi để mua hàng hóa, dịch vụ Khi áp dụng thuế doanh thu, số nộp ngân sách Nhà nước thường cao hơn, và doanh nghiệp sẽ tăng giá bán để duy trì lợi nhuận, khiến người tiêu dùng chịu thiệt thòi hơn Ngược lại, thuế GTGT mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhờ tính trung lập về kinh tế, góp phần tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp Hơn nữa, thuế GTGT chỉ thu trên phần giá trị gia tăng, khuyến khích chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong sản xuất, giúp giảm giá thành và nâng cao năng suất Đây là ưu điểm quan trọng của thuế GTGT trong việc thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa sản xuất.
Thuế GTGT có ưu thế hơn thuế doanh thu trong việc kích thích sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh khó khăn huy động vốn hiện nay Nhiều tổ chức và cá nhân ngần ngại đầu tư do lo ngại bị đánh thuế doanh thu mặc dù chưa có lãi, điều này làm giảm động lực kinh doanh Ngược lại, thuế GTGT chỉ áp dụng trên phần giá trị tăng thêm, tạo tâm lý thoải mái cho các nhà đầu tư, khuyến khích họ mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất Điều này phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế đa thành phần và phát huy nội lực của nền kinh tế.
Thuế GTGT không chỉ giúp thúc đẩy xuất khẩu mà còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, khi hàng hóa xuất khẩu không phải chịu thuế GTGT và được hoàn trả toàn bộ số thuế GTGT đã nộp tại các khâu trước đó.
Phơng pháp kế toán thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ các quy định của luật thuế GTGT, bao gồm doanh thu từ bán hàng, thu nhập từ hoạt động tài chính, bất thường, cũng như giá trị của vật tư, hàng hóa, tài sản cố định và dịch vụ mua vào.
Doanh thu bán hàng, thu nhập hoạt động tài chính bất thờng
- Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tợng nộp thuế GTGT theo phơng pháp khấu trừ thuế :
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ bao gồm toàn bộ số tiền thu được từ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ, không bao gồm thuế giá trị gia tăng (GTGT) Doanh thu này cũng bao gồm các khoản phụ thu và phí phát sinh ngoài giá bán, nếu có, mà cơ sở kinh doanh nhận được.
+ Thu nhập hoạt động tài chính, bất thờng là tổng thu nhập (cha cã thuÕ GTGT)
Cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp trực tiếp trên thuế giá trị gia tăng (GTGT) và hàng hóa, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT cần lưu ý quy định về việc nộp thuế Việc hiểu rõ các đối tượng này sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế một cách chính xác và hiệu quả.
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ bao gồm toàn bộ số tiền thu được từ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ, bao gồm cả các khoản phụ thu và phí phát sinh ngoài giá bán (nếu có) Tổng doanh thu này được tính là tổng giá thanh toán, bao gồm cả thuế.
+ Thu nhập hoạt động tài chính, bất thờng là tổng thu nhập (tổng giá thanh toán).
Giá trị vật t hàng hoá, tài sản cố định, dịch vụ mua vào.
Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, giá trị hàng hóa, tài sản cố định và dịch vụ mua vào được tính theo giá mua thực tế không bao gồm thuế GTGT đầu vào Trong khi đó, đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và những cơ sở không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, giá trị hàng hóa, tài sản cố định và dịch vụ mua vào sẽ là tổng giá thanh toán, bao gồm cả thuế GTGT đầu vào.
Các cơ sở kinh doanh cần tuân thủ chế độ hóa đơn chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính Dưới đây là một số loại hóa đơn và chứng từ liên quan đến kế toán thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Hoá đơn tự in, chứng từ đặc thù
Bảng kê hàng hoá, dịch vụ
Bảng kê thu mua hàng nông sản, lâm sản và thủy sản của người trực tiếp sản xuất là một phần quan trọng trong kế toán Để thực hiện kế toán thuế GTGT, cần bổ sung tài khoản 133 "Thuế GTGT được khấu trừ" vào hệ thống tài khoản kế toán hiện hành và đổi tên, nội dung tài khoản 3331 cho phù hợp.
Tài khoản 133 - Thuế GTGT được khấu trừ là tài khoản dùng để ghi nhận số thuế giá trị gia tăng đầu vào mà doanh nghiệp đã khấu trừ, đang khấu trừ và còn khả năng khấu trừ trong tương lai.
Hạch toán tài khoản 133 theo các qui định sau:
- Tài khoản 133 chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tợng nộp thuế GTGT theo phơng pháp khấu trừ thuế.
Các cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào phục vụ cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT.
Trong trường hợp hàng hóa và dịch vụ mua vào được sử dụng hóa đơn chứng từ đặc thù (như nhãn bu điện, vé cước vận tải ) ghi rõ giá thanh toán đã bao gồm thuế GTGT, cơ sở kinh doanh có thể dựa vào giá hàng hóa và dịch vụ đã có thuế để xác định giá chưa có thuế.
- Thuế GTGT đầu vào phát sinh trong tháng nào thì đợc kê khai khấu trừ khi xác định số thuế GTGT của tháng đó.
- Kết cấu và nội dung phản ánh của tài khoản 133 Bên nợ: Số thuế GTGT đầu vào đợc khấu trừ
- Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ
- Kết chuyển só thuế GTGT đầu vào không đợc khấu trừ
- Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại.
Số d bên nợ: Số thuế GTGT đầu vầo còn đợc khấu trừ, số thuế
GTGT đầu vào đợc hoàn lại nhng NSNN cha hoàn trả.
Tài khoản 133 có 2 tài khoản cấp 2:
+ Tài khoản 1331 - Thuế GTGT đợc khấu trừ của hàng hoá dịch vô.
Tài khoản 1331 được sử dụng để ghi nhận thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào được khấu trừ từ vật tư, hàng hóa và dịch vụ mua ngoài, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
+ Tài khoản 1332 - Thuế GTGT đợc khấu trừ của tài sản cố định.
Tài khoản 1332 được sử dụng để ghi nhận thuế GTGT đầu vào trong quá trình đầu tư và mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
Đổi tên tài khoản 3331 "Thuế doanh thu" thành tài khoản
Tài khoản 3331 được sử dụng để ghi nhận số thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT đã nộp, và số thuế GTGT còn phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Tài khoản này áp dụng chung cho đối tợng nộp thuế GTGT theo phơng pháp khấu trừ thuế và đối tợng nộp thuế GTGT theo phơng pháp trực tiếp.
Kết cấu và nội dung phản ánh cuả TK 3331
- Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ
- Số thuế GTGT đợc giảm trừ vào số thuế GTGT phải nộp
- Số thuế GTGT đã nộp vào NSNN
- Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại.
- Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ ;
- Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ.
- Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính, thu nhËp bÊt thêng.
- Số thuế GTGT phải nộp của hàng hoá nhập khẩu.
Số d bên có : Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ.
Số d bên nợ : Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách Nhà nớc.
Tài khoản 3331 có 2 tài khoản cấp 3 :
Tài khoản 33311 - Thuế GTGT đầu ra được sử dụng để ghi nhận số thuế GTGT đầu ra, bao gồm số thuế GTGT phải nộp, đã nộp và số thuế còn phải nộp đối với hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ.
+ Tài khoản 33312 - Thuế GTGT hàng nhập khẩu : Dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng nhập khÈu.
C2 Phơng pháp hạch toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phơng pháp khÊu trõ thuÕ.
Khi doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, sẽ phải chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ Kế toán ghi nhận các khoản chi phí này một cách hợp lý để đảm bảo tuân thủ quy định về thuế.
Nợ 133 - Thuế GTGT đợc khấu trừ
Có TK 111, 112, 331, (Tổng giá thanh toán ).
Một số ý kiến đề xuất nhằm giải quyết những vấn đề có nảy sinh khi áp dụng thuế GTGT
Mối quan hệ chặt chẽ giữa tài chính và kế toán thuế GTGT
Thuế đóng vai trò quan trọng trong chính sách tài chính quốc gia, giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế và định hướng phát triển các ngành nghề Với hiệu lực rộng lớn, thuế ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội Trong nền kinh tế thị trường, chính sách thuế tác động mạnh mẽ đến tất cả các khía cạnh hoạt động của doanh nghiệp.
Hạch toán kế toán là môn khoa học quan trọng, giúp phản ánh và giám sát hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan Nó cung cấp cái nhìn toàn diện, liên tục và có hệ thống về các loại tài sản, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế diễn ra.
Thuế là một khoản chi quan trọng của doanh nghiệp, vì vậy nó cần được phản ánh và giám sát chặt chẽ bởi giám đốc Đặc biệt, thuế GTGT có mối liên hệ mật thiết với tất cả các hoạt động của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh mua sắm vật tư và tiêu thụ hàng hóa tồn kho ngày càng tăng, nhu cầu kế toán chính xác thuế GTGT trở nên cấp thiết Nền kinh tế thị trường với sự đa dạng hàng hóa từ các loại hình doanh nghiệp và hoạt động kinh tế phong phú đòi hỏi tính hợp lý và minh bạch trong kế toán thuế GTGT.
ý kiến về việc triển khai thuế GTGT
a) Cơ sở để thực hiện thành công thuế GTGTlà một nền kinh tế phát triển ổn định
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á lan rộng, nền kinh tế nước ta mặc dù không bị tàn phá nặng nề như Thái Lan, Hàn Quốc hay Indonesia, nhưng vẫn phải điều chỉnh một số chỉ tiêu Đây là giai đoạn khó khăn không chỉ cho khu vực mà còn cho nền kinh tế nước ta Chúng ta đang thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động, nhưng các doanh nghiệp vẫn đối mặt với tình trạng kém hiệu quả kéo dài Thêm vào đó, thị trường xuất nhập khẩu bị thu hẹp do sức mua giảm, tạo ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp Việc áp dụng thuế GTGT cũng gặp khó khăn, vì cần có một nền kinh tế tăng trưởng ổn định để thành công Để xây dựng nền kinh tế vững mạnh và hạn chế tác động của khủng hoảng, các doanh nghiệp cần tự cơ cấu lại sản xuất, tăng cường nghiên cứu phát triển thị trường, nâng cao năng suất và chất lượng, đồng thời hạ giá thành để cạnh tranh và vượt qua thử thách.
Kể từ khi luật thuế GTGT được ban hành, đã có 18 tháng để chuẩn bị, nhưng công tác ban hành khung pháp lý lại diễn ra chậm chạp, với Nghị định của chính phủ và hai thông tư của Bộ Tài chính mất hơn 12 tháng Điều này đã khiến công tác chuẩn bị trở nên khẩn trương và gấp gáp Hiện tại, nhiều người nộp thuế, bao gồm cả doanh nghiệp và hộ kinh doanh, vẫn chưa hiểu rõ bản chất của các khái niệm cơ bản và nghiệp vụ liên quan đến loại thuế mới này.
Việc áp dụng thuế GTGT đòi hỏi một thời gian chuẩn bị dài để đảm bảo thành công Tại Pháp, quốc gia tiên phong trong việc triển khai thuế này, quá trình thực hiện đã kéo dài 14 năm, từ 1954 đến 1968, để mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế Tương tự, Indonesia cũng đã điều chỉnh thời điểm áp dụng thuế từ năm 1983 sang 1985, cho thấy sự cần thiết phải chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi triển khai.
Thuế GTGT tại Việt Nam có cơ hội học hỏi từ kinh nghiệm của hơn 100 quốc gia áp dụng trên toàn thế giới Để tổ chức thực hiện hiệu quả, cần xây dựng thói quen sử dụng hóa đơn chứng từ trong cộng đồng, vì hóa đơn bán hàng là cơ sở quan trọng cho việc tính thuế GTGT đầu vào và đầu ra Hiện tại, chưa có thống kê chính thức về số lượng hàng hóa luân chuyển không có hóa đơn, nhưng thực tế cho thấy con số này rất lớn, đặc biệt trong các doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể Trong số hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước, trên 50.000 công ty TNHH và cổ phần, cùng gần 40.000 hộ kinh doanh đã mở sổ sách kế toán và sử dụng hóa đơn, vẫn còn hơn 600.000 hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện việc này.
Việc chấn chỉnh chế độ hóa đơn chứng từ là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài, đóng vai trò quyết định trong sự thành công của thuế GTGT Để thực hiện điều này, cần tập trung vào việc cải thiện các yếu tố liên quan một cách hiệu quả.
Tổ chức tuyên truyền đa dạng về quyền và nghĩa vụ của nhân dân trong việc chấp hành chế độ hóa đơn chứng từ là rất quan trọng Việc tuyên truyền về thuế GTGT cần được triển khai rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, bao gồm tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về thuế GTGT và các đợt vận động quy mô lớn, tương tự như khi chúng ta thu thập ý kiến về luật dân sự.
- Tăng cờng công tác thanh tra kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán hoá đơn , chứng từ trong các doanh nghiệp
Để hình thành thói quen sử dụng hóa đơn, cần kết hợp các biện pháp tuyên truyền với quy định của Nhà nước và kiểm soát hàng hóa lưu thông Việc xử phạt các trường hợp vận chuyển hàng hóa không có hóa đơn, chứng từ là cần thiết, mặc dù có thể gây khó khăn trong giai đoạn hiện nay Tuy nhiên, khi mọi người nhận thức được lợi ích của thuế GTGT và vai trò của thuế trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, họ sẽ sẵn sàng chấp hành Biện pháp xử phạt này nên chỉ áp dụng trong giai đoạn đầu để hình thành ý thức và thói quen, trong khi việc tuyên truyền vẫn là yếu tố cơ bản.
ý kiến đề xuất về qui chế tài chính và kế toán thuế GTGT
a) Vấn đề xử lý tài sản cố định và hàng hoá tồn kho trong thời kú chuyÓn tiÕp gi÷a hai luËt thuÕ
Trong luật thuế GTGT, không đề cập đến việc bồi hoàn thuế cho tài sản cố định và hàng hoá tồn kho trước 01/01/1998, dẫn đến việc doanh nghiệp chần chừ trong việc mua sắm tài sản cố định Để tránh thuế GTGT, từ 20/11/1998, nhiều hộ buôn bán và nhà sản xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giảm giá và khuyến mãi hàng công nghiệp tồn kho Đến đầu tháng 12/1998, giá hàng điện tử giảm từ 10 đến 15% so với giữa tháng 11 và giảm 20 đến 25% so với cùng kỳ năm trước, trong khi các mặt hàng khác cũng chịu tình trạng tương tự Sự xáo trộn này gây thiệt hại cho các hộ kinh doanh, đặt ra câu hỏi về tính đúng đắn của cách xử lý này Cần xem xét hai phương án xử lý tài sản cố định mua sắm trước thời điểm hiệu lực thuế và hàng hoá tồn kho đưa vào sử dụng sau 01/01/1998.
- Tiếp tục áp dụng thuế doanh thu đối với lợng hàng tồn kho
Áp dụng ngay thuế GTGT cho hàng hoá tồn kho và tài sản cố định là một giải pháp quan trọng Giải pháp thứ hai có hai phương án xử lý khác nhau, giúp doanh nghiệp linh hoạt trong việc quản lý thuế và tài sản.
+ Cho phép số tài sản cố định hàng hoá tồn kho này đợc khấu trừ thuế GTGT đầu vào
Việc không hoàn thuế cho những trường hợp cụ thể trong thời kỳ quá độ có thể gây ra cú sốc về giá cả, làm ảnh hưởng đến sự chủ động của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh Nếu áp dụng đồng thời cả thuế doanh thu và thuế GTGT, khách hàng sẽ khó phân biệt hàng hóa mua trước và sau thời điểm áp dụng thuế, dẫn đến tình trạng nâng giá tuỳ tiện Đặc biệt, với các mặt hàng chịu thuế GTGT cao, việc tiếp tục áp dụng thuế doanh thu sẽ tạo ra cơn sốt hàng hóa, khi doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để hưởng lợi từ thuế doanh thu Do đó, giải pháp này không thể chấp nhận được.
Việc áp dụng thuế GTGT đối với hàng hóa tồn kho sẽ tối ưu hóa lợi ích của loại thuế này Tuy nhiên, có hai phương án xử lý khác nhau Theo lý thuyết, đa số các nhà kinh tế đồng thuận rằng Nhà nước cần hoàn trả số thuế gián thu mà doanh nghiệp đã nộp, với nhiều lý do hợp lý.
+ Bảo đảm số thuế GTGT không bị trùng lắp trên số thuế gián thu đã bao gồm trong tài sản cố định trong hàng hoá vật t tồn kho
Ngăn chặn sự tăng giá không hợp lý của tài sản cố định là cần thiết để tránh việc các nhà sản xuất bù đắp thuế gián thu đã nộp, điều này có thể dẫn đến tăng giá lâu dài nếu không có sự kiểm soát giá chặt chẽ từ Nhà nước Đối với hàng hóa tồn kho, doanh nghiệp cũng có khả năng tăng giá do không được khấu trừ thuế đầu vào.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ ứng phó với luật thuế mới bằng cách hoãn đầu tư vào tài sản cố định và giảm lượng hàng hóa vật tư tồn kho, điều này có thể dẫn đến sự bất ổn định trong giai đoạn đầu áp dụng thuế GTGT.
Cách xử lý bồi hoàn và khấu trừ thuế GTGT cho tài sản cố định và hàng hóa vật tư gặp khó khăn do thiếu hóa đơn chứng từ, dẫn đến nguy cơ thất thu cho ngân sách nhà nước Việc xác định đối tượng và số lượng bồi hoàn đòi hỏi công tác kiểm kê phức tạp và tốn kém, như đã xảy ra ở Hà Lan với 32% thuế doanh thu năm 1968 và 8% ở Đức Do đó, giải pháp không khấu trừ và bồi hoàn thuế GTGT là hợp lý trong bối cảnh ngân sách Việt Nam còn khó khăn và thâm hụt Mặc dù điều này có thể không công bằng với các cơ sở kinh doanh, nhưng trên tổng thể nền kinh tế, những hạn chế này có thể chấp nhận được so với chi phí xác định thuế doanh thu và áp lực ngân sách Để giảm thiểu biến động, có thể cho phép doanh nghiệp có tài sản cố định chưa khấu hao nhiều hoặc hàng hóa tồn kho được kê khai làm căn cứ giảm thuế GTGT trong tương lai.
Doanh nghiệp có hàng hoá tồn kho cần hạch toán khoản chênh lệch vào tài khoản TK159 "Dự phòng giảm giá hàng tồn kho" Ngoài ra, cần lưu ý đến vấn đề thuế GTGT đầu vào liên quan đến tài sản cố định.
Thuế GTGT đầu vào của doanh nghiệp đợc qui định nh sau :
Cơ sở kinh doanh có thuế đầu vào của tài sản cố định (TSCĐ) được khấu trừ cần kê khai khấu trừ thuế đầu vào cho TSCĐ, khác với hàng hóa Nếu số thuế đầu vào của TSCĐ lớn, cơ sở sẽ được khấu trừ dần Trong trường hợp sau 3 tháng khấu trừ mà vẫn còn số thuế chưa được khấu trừ, doanh nghiệp có quyền yêu cầu cơ quan thuế xem xét hoàn thuế.
Cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế GTGT nhưng là cơ sở đầu tư mới, chưa có doanh thu bán hàng và chưa phát sinh thuế đầu ra, có thể được hoàn thuế đầu vào nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên, hoàn thuế sẽ được xem xét theo từng năm Trong trường hợp phát sinh lớn, có thể giải quyết hoàn thuế theo từng quý.
Việt Nam đã áp dụng các giải pháp xử lý thuế GTGT đầu vào của TSCĐ theo xu hướng toàn cầu, nhưng việc hoàn thuế theo năm gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở sản xuất mới, dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn Thời gian hoàn thuế một năm là quá dài, trong khi nhiều quốc gia hỗ trợ các cơ sở sản xuất nhỏ mới thành lập bằng cách cho phép họ đăng ký nộp thuế GTGT để hưởng khấu trừ thuế đầu vào Để khắc phục vấn đề này, thông tư đã quy định rằng "trong trường hợp có thuế phát sinh lớn, cơ sở sẽ được hoàn thuế theo từng quý".
Theo quan điểm cá nhân, việc xác định số thuế GTGT phát sinh lớn hay nhỏ nên dựa trên tỷ lệ phần trăm của số thuế GTGT đầu vào được hoàn trả so với tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp Tuy nhiên, thông tư hiện tại chưa chỉ rõ tiêu chí cụ thể nào cho việc xác định số thuế GTGT phát sinh lớn và cơ quan có thẩm quyền quyết định vấn đề này.
Trong một nền kinh tế đa dạng với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư có quy mô khác nhau, việc sử dụng số tương đối là cần thiết để tránh sự bất bình đẳng trong khái niệm về thuế giá trị gia tăng (GTGT) Điều này cho thấy rằng không thể đánh giá một cách tuyệt đối mức thuế GTGT phát sinh mà không xem xét đến các yếu tố khác nhau trong nền kinh tế Vấn đề thuế suất cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính công bằng và hợp lý.
Thuế suất đóng vai trò quan trọng trong chính sách thuế, việc chuyển đổi từ thuế doanh thu với 11 mức thuế suất (0% đến 30%) sang thuế giá trị gia tăng với 4 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 20%) đã giúp giảm bớt sự phức tạp và nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế Tuy nhiên, so với thuế giá trị gia tăng trên thế giới, Việt Nam vẫn cần cải thiện để phù hợp hơn với các tiêu chuẩn quốc tế.
Mức thuế suất hiện tại ở nước ta vẫn còn phức tạp và lạc hậu, trong khi nhiều quốc gia công nghiệp phát triển chỉ áp dụng hai mức thuế suất là 8% cho mức ưu đãi và 10% cho mức thông dụng Một số nước, như Indonesia, chỉ quy định duy nhất một mức thuế suất 10% Việc có quá nhiều mức thuế suất dẫn đến tình trạng nhấp nhằng và tùy tiện trong thực hiện, đồng thời tạo cơ hội cho việc trốn thuế và tăng chi phí cho công tác thanh tra, kiểm soát thuế.