1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tính độc lập là một nguyên tắc đạo đức quan trọng đối với kiểm toán viên

42 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tính Độc Lập Là Một Nguyên Tắc Đạo Đức Quan Trọng Đối Với Kiểm Toán Viên
Tác giả Phạm Thị Hoài Thanh_KT15, Trần Thị Hoa_KT13, Nguyễn Thùy Ngọc_KT15, Nguyễn Lờ Cụng_KT15, Nguyễn Tấn Tài_KT15
Người hướng dẫn Ths Phạm Thị Ngọc Bích
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp Hồ Chí Minh
Thể loại Đề Tài Nghiên Cứu
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 42
Dung lượng 394,45 KB

Cấu trúc

  • Phần I. Nhận thức về kiểm toán viên và tính độc của kiểm toán viên (3)
    • 1.1. Khái niệm, chức năng và vai trò của kiểm toán viên (3)
      • 1.1.1. Thế nào là kiểm toán viên (3)
      • 1.1.2. Chức năng và vai trò của kiểm toán viên (8)
      • 1.2.1. Tính độc lập là gì? (12)
      • 1.2.2. Phân biệt tính độc lập thật sự và độc lập bề ngoài (0)
      • 1.2.3. Sự thể hiện của tính độc lập trong từng loại hình kiểm toán (15)
      • 1.2.4. Những nhân tố ảnh hởng đến tính độc lập (22)
    • 2.1. Chất lợng kiểm toán và cách đánh giá về chất lợng kiểm toán (26)
    • 2.2. Cỏc nhân tố ảnh hởng đến chất lợng kiểm toán (0)
  • Phần III. Tác động cụ thể của tính độc lập đến chất lợng kiểm toán (32)
  • Phần IV. Ví dụ minh họa (35)
  • Phần V. Kết luận (39)
  • Tài liệu tham khảo (41)

Nội dung

Nhận thức về kiểm toán viên và tính độc của kiểm toán viên

Khái niệm, chức năng và vai trò của kiểm toán viên

1.1.1.Thế nào là kiểm toán viên

Kiểm toán viên là khái niệm chung chỉ về những ngời làm công tác kiểm toán cụ thể có trình độ nghiệp vụ tơng xứng với công việc đó.

Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế, kiểm toán viên cần sở hữu kỹ năng và khả năng nghề nghiệp vững vàng Họ cũng phải thể hiện tính chính trực, khách quan và độc lập trong công việc, đồng thời tôn trọng sự bí mật của thông tin mà họ tiếp cận.

Theo quy định về kiểm toán độc lập tại Việt Nam, kiểm toán viên cần phải là công dân Việt Nam hoặc công dân nước ngoài có giấy phép cư trú tại Việt Nam Họ cũng phải đăng ký hành nghề tại một tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam.

Công dân Việt Nam đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây sẽ được công nhận là kiểm toán viên và có quyền đăng ký hành nghề tại tổ chức kiểm toán độc lập tại Việt Nam.

Để đảm bảo tính minh bạch và trung thực trong công việc, cá nhân cần có lý lịch rõ ràng, phẩm chất liêm khiết, và nắm vững các quy định về luật pháp, chính sách, cũng như chế độ kinh tế, tài chính, kế toán và thống kê của Nhà nước Đồng thời, người đó phải không có tiền án, tiền sự để được đánh giá cao trong môi trường làm việc.

Để đủ điều kiện làm việc trong lĩnh vực tài chính và kế toán, ứng viên cần có bằng tốt nghiệp đại học hoặc trung học chuyên ngành liên quan Đối với những người tốt nghiệp đại học, yêu cầu có ít nhất 5 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tài chính hoặc kế toán, trong khi đối với những người tốt nghiệp trung học, kinh nghiệm yêu cầu là từ 10 năm trở lên.

Để trở thành kiểm toán viên, ứng viên cần vượt qua kỳ thi tuyển do hội đồng thi cấp Nhà nước tổ chức và nhận chứng chỉ từ Bộ trưởng Bộ Tài chính Các yêu cầu này là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng và năng lực của các kiểm toán viên trong ngành.

Kiểm toán viên cần sở hữu những kỹ năng nghề nghiệp đặc biệt, bao gồm kiến thức lý thuyết vững vàng và khả năng áp dụng thực tế vào công việc.

Kiểm toán viên cần duy trì trình độ chuyên môn trong suốt quá trình hành nghề và chỉ thực hiện những công việc mà bản thân hoặc công ty của họ đủ khả năng hoàn thành Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên rất quan trọng; họ phải trung thực, thẳng thắn, và có lương tâm nghề nghiệp Kiểm toán viên cần phải giữ vững tính công minh và không để định kiến cá nhân ảnh hưởng đến tính khách quan trong công việc.

Kiểm toán viên phải có thái độ vô t, không bị các lợi ích vật chất chi phối và điều đó không phù hợp với tính khách quan chính trực.

Kiểm toán viên cần điều chỉnh bản thân để phù hợp với uy tín của ngành, uy tín cá nhân và của công ty Họ cũng phải kiên trì với đức tính cẩn thận trong quá trình thực hiện và lập báo cáo kiểm toán.

Kiểm toán viên cần phải có tính cẩn thận trong quá trình thực hiện kiểm toán và lập báo cáo Họ không nên vội vàng trong việc đưa ra quyết định, mà luôn phải đánh giá kỹ lưỡng các bằng chứng có sẵn.

Kiểm toán viên cần duy trì tính độc lập và vô tư trong mọi hoạt động kiểm toán Họ không được để các yếu tố chủ quan, khách quan hay áp lực vật chất ảnh hưởng đến sự độc lập của mình đối với khách hàng Việc thể hiện thái độ độc lập và vô tư là rất quan trọng, không chỉ trong quá trình thực hiện kiểm toán mà còn trong việc lập báo cáo kiểm toán.

Nếu kiểm toán viên gặp phải sự hạn chế về tính độc lập, họ cần nỗ lực để khắc phục vấn đề này Trong trường hợp không thể giải quyết, việc nêu rõ vấn đề trong báo cáo kiểm toán là điều cần thiết.

Kiểm toán viên không có quyền lợi gì về kinh tế ở đơn vị mà kiểm toán viên đang nhận làm kiểm toán

Kiểm toán viên cần tôn trọng bí mật thông tin thu thập được trong quá trình kiểm toán Họ không được phép tiết lộ bất kỳ thông tin nào cho bên thứ ba mà không có sự ủy quyền đặc biệt hoặc yêu cầu từ trách nhiệm pháp lý và nghề nghiệp.

Kiểm toán viên cần phải tôn trọng và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, chế độ và nguyên tắc pháp luật của Nhà nước, cũng như các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế.

Kiểm toán viên có trách nhiệm pháp lý đối với hoạt động nghề nghiệp và các nhận xét, đánh giá trong báo cáo kiểm toán của mình.

Chất lợng kiểm toán và cách đánh giá về chất lợng kiểm toán

Vụ kiện liên quan đến thuế hoặc dịch vụ không phải kiểm toán, cũng như việc kiện cả công ty khách hàng và công ty kiểm toán từ một bên thứ ba, thường không ảnh hưởng đến tính độc lập của công ty kiểm toán Tuy nhiên, việc xem xét các vụ kiện này có thể tác động đến khả năng duy trì tính khách quan và sự thoải mái trong việc bình luận của Ban quản trị công ty khách hàng và nhân viên công ty kiểm toán.

Ph ầ nII Ả nh hởng của tính độc lập đến chất lợng kiểm toán

2.1.Chất lợng kiểm toán và cách đánh giá về chất lợng kiểm toán.

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá về chất lợng kiểm toán, có quan điểm cho rằng nó đợc thể hiện ở nh÷ng ®iÓm sau:

 Sự tuân thủ theo đúng các chuẩn mực kiểm toán.

Sự thỏa mãn của khách hàng đối với dịch vụ được cung cấp chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đáp ứng đúng nhu cầu của họ Điều này thể hiện rõ qua những ý kiến và phản hồi từ khách hàng, giúp họ thực hiện hiệu quả công tác quản lý tài chính kế toán.

 Tính chuyên nghiệp của kiểm toán viên.

Chất lượng kiểm toán được hiểu là mức độ mà các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán mong muốn nhận được ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và kế toán của đơn vị kiểm toán, trong thời gian và chi phí hợp lý Để hiểu rõ về chất lượng kiểm toán, cần xuất phát từ nhận thức về mục tiêu kiểm toán, vì mỗi đối tượng sử dụng có những tiêu chí đánh giá chất lượng riêng.

Các nhà đầu tư thường lo lắng về độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, đặc biệt là tình hình công nợ và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Ý kiến nhận xét từ kiểm toán viên đóng vai trò quan trọng trong việc xác minh tính chính xác và đáng tin cậy của các số liệu này.

Các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thuế cần xem xét ý kiến của kiểm toán viên để xác định liệu doanh nghiệp có tuân thủ nghiêm ngặt các chế độ và chính sách pháp luật hay không.

Đối với doanh nghiệp và công chúng, thông tin kiểm toán rất quan trọng, đặc biệt là ý kiến đánh giá về tính trung thực và khách quan của các số liệu trong báo cáo tài chính được công bố.

Chất lượng kiểm toán chủ yếu phản ánh mức độ tin cậy về tính trung thực và khách quan trong các ý kiến đánh giá của kiểm toán viên đối với số liệu trên báo cáo tài chính.

Chất lượng kiểm toán được đánh giá không chỉ qua kết quả mà còn thông qua ý kiến tư vấn của kiểm toán viên, nhằm khắc phục những sai phạm được phát hiện trong quá trình kiểm toán.

Chất lượng kiểm toán chủ yếu phụ thuộc vào độ tin cậy về tính trung thực và khách quan trong các đánh giá của kiểm toán viên đối với số liệu và tài liệu được kiểm toán Sau mỗi cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần đưa ra ý kiến cụ thể trong những trường hợp nhất định.

Ý kiến chấp nhận toàn bộ là sự xác nhận rằng số liệu báo cáo tài chính và thông tin tài chính của đơn vị được kiểm toán là trung thực và hợp pháp Kiểm toán viên nhận xét rằng các thông tin này tuân thủ các nguyên tắc kế toán, chế độ quản lý và pháp luật của Nhà nước, cũng như các quy định trong quy chế kiểm soát nội bộ của đơn vị.

Ý kiến khác với ý kiến chấp nhận toàn bộ có thể bao gồm ý kiến xác nhận từng phần, trong đó kiểm toán viên chỉ công nhận tính xác thực, trung thực và hợp pháp của một số nội dung trong báo cáo tài chính Đối với những nội dung không được chấp nhận, kiểm toán viên cần chỉ rõ các số liệu và chỉ tiêu có sai phạm về tính trung thực và hợp pháp, đồng thời nêu rõ phạm vi kiểm toán không đảm bảo tính đầy đủ và độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán.

Ý kiến nhận xét trái ngược (bác bỏ) là ý kiến được đưa ra khi các thông tin trong báo cáo tài chính và các thông tin liên quan không tuân thủ quy định, sai nguyên tắc kế toán hoặc có những sai phạm trọng yếu.

Trong trường hợp này, kiểm toán viên cần đánh giá rủi ro kiểm toán và áp dụng các biện pháp kiểm soát từ giai đoạn lập kế hoạch đến thực hiện, nhằm hạn chế rủi ro kiểm toán ở mức chấp nhận được.

Trong trường hợp kiểm toán viên không thể đưa ra nhận xét, điều này xảy ra khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn đến mức không thể thu thập đủ bằng chứng kiểm toán cần thiết.

Ngoài những tiêu thức trên đây, chất lợng kiểm toán còn đợc đánh giá tùy thuộc vào tính chất đặc thù của từng loại hình kiểm toán.

Chất lượng kiểm toán độc lập được đánh giá không chỉ qua kết quả mà còn qua chi phí tài chính hợp lý cho cuộc kiểm toán Chi phí này cần phải tương xứng với những ý kiến xác đáng về số liệu kiểm toán và những trao đổi hữu ích giữa kiểm toán viên và các nhà quản lý của đơn vị.

Cỏc nhân tố ảnh hởng đến chất lợng kiểm toán

Để cải thiện chất lượng kiểm toán, các cơ quan kiểm toán cần thiết lập quy chế kiểm soát cho từng giai đoạn của quá trình kiểm toán.

Tác động cụ thể của tính độc lập đến chất lợng kiểm toán

Tính độc lập là yếu tố then chốt quyết định chất lượng kiểm toán Khi bàn về chất lượng kiểm toán, tính độc lập luôn là vấn đề cần được ưu tiên hàng đầu Sự ảnh hưởng của tính độc lập đến chất lượng kiểm toán thể hiện một cách rõ rệt.

Trong quá trình thu thập bằng chứng, kiểm toán viên cần duy trì sự độc lập với khách hàng để đảm bảo độ tin cậy của các bằng chứng Họ phải có quyền tự do truy cập vào tài liệu và sổ sách của công ty, đồng thời yêu cầu Ban quản trị và kiểm toán viên nội bộ cung cấp đầy đủ thông tin kế toán và quản trị doanh nghiệp Tuy nhiên, kiểm toán viên không nên hoàn toàn phụ thuộc vào các thông tin này, vì chúng có thể bị điều chỉnh theo ý muốn của Ban quản trị Mọi câu hỏi liên quan đến hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty đều cần được trả lời chính xác, nếu không, có thể dẫn đến những ý kiến sai lệch trong báo cáo tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kiểm toán.

Kiểm toán viên có trình độ tay nghề kém và không tuân thủ nguyên tắc nghề nghiệp sẽ dẫn đến những kết luận thiếu sót trong quá trình kiểm toán Điều này thường xảy ra với các kiểm toán viên mới vào nghề do thiếu kinh nghiệm thực tế trong việc thu thập bằng chứng một cách chính xác và hiệu quả Để đảm bảo chất lượng kiểm toán, các kiểm toán viên cần tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực kế toán và quy trình kiểm toán, bao gồm lập kế hoạch, thực hiện và kết thúc kiểm toán Việc thu thập bằng chứng đòi hỏi kiểm toán viên phải có kiến thức sâu rộng để hiểu và giải quyết vấn đề một cách hợp lý, đồng thời phải dựa vào ước lượng rủi ro kiểm toán để đánh giá và xác định lượng bằng chứng cần thiết nhằm phát hiện sai sót.

Nếu kiểm toán viên có mối quan hệ gần gũi với công ty khách hàng, như có người thân trong gia đình hoặc bạn bè làm việc tại đó, họ có thể bị áp lực tâm lý, dẫn đến hành vi thiên vị và che giấu sai phạm nghiêm trọng của công ty Điều này ảnh hưởng đến tính độc lập thực sự của kiểm toán viên Dù họ có thể cố gắng giữ thái độ độc lập, nhưng sự thiếu tin tưởng từ người khác đối với kết quả kiểm toán là điều khó tránh khỏi, vì nhiều người sẽ nghi ngờ rằng họ làm việc vì lợi ích cá nhân Kết quả là, những người quan tâm đến báo cáo tài chính sẽ mất niềm tin vào độ tin cậy của nó, có thể dẫn đến quyết định không đầu tư hoặc ngừng giao dịch với công ty, gây thiệt hại cho cả hai bên.

Khi kiểm toán viên có mối quan hệ thân thiết với đơn vị được kiểm toán, kết quả kiểm toán có thể thiên lệch và có lợi cho khách hàng Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp hoặc kiện tụng, kết quả này có thể không còn có lợi cho khách hàng Ý kiến của kiểm toán viên có thể thiếu tính khách quan, dẫn đến việc họ không cung cấp những tư vấn hữu ích cho công tác quản lý của công ty.

Độc lập của kiểm toán viên được thể hiện qua ba khía cạnh chính: sự độc lập trong việc xây dựng chương trình kiểm toán, độc lập trong quá trình điều tra và độc lập trong việc lập báo cáo.

Kết quả của báo cáo kiểm toán sẽ không có giá trị nếu không được điều tra kỹ lưỡng, điều này có thể gây bất lợi cho các giám đốc muốn che giấu thông tin Khi kiểm toán viên giảm bớt việc điều tra, khách hàng có thể dễ dàng giấu diếm thông tin và tiết kiệm chi phí kiểm toán Do đó, việc kiểm toán viên duy trì sự độc lập khỏi yêu cầu của khách hàng là rất quan trọng để nâng cao chất lượng công việc Tính độc lập này giúp đảm bảo rằng kiểm toán viên không bị ảnh hưởng bởi áp lực từ giám đốc, người có thể muốn giấu diếm các thông tin kế toán sai lệch.

Tính độc lập của kiểm toán viên ảnh hưởng trực tiếp đến mọi giai đoạn của quá trình kiểm toán và từng công việc mà họ thực hiện Nếu kiểm toán viên không duy trì được sự độc lập và khách quan, báo cáo kiểm toán sẽ trở nên không đáng tin cậy đối với người sử dụng.

Ví dụ minh họa

4.1 Xử lý công ty kiểm toán cho Bông Bạch Tuyết : Quá nhẹ tay???

Vào năm 2009, vụ bê bối kiểm toán tại CTCP Bông Bạch Tuyết (BBT) đã kết thúc với việc công ty bị ủy ban chứng khoán (UBCK) phạt 90 triệu đồng, trong khi hai công ty kiểm toán cũng bị khiển trách Mặc dù mức xử lý đối với các cá nhân liên quan được coi là hợp lý, nhưng hình thức xử lý các công ty kiểm toán của UBCK đã khiến nhiều nhà đầu tư và thành viên ngạc nhiên.

Sai phạm vẫn được vào danh sách kiểm toán được chấp thuận

Theo kết luận của Đoàn thanh tra UBCK, Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn (A&C) đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trong việc kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) của BBT năm 2005 Cụ thể, kiểm toán viên đã không loại trừ khoản chi phí quảng cáo trong BCTC và không cung cấp thư quản lý sau kiểm toán Điều này đặt ra câu hỏi về tính nghiêm trọng của sai phạm, khi A&C chỉ bị khiển trách, cho thấy trách nhiệm thuộc về toàn bộ công ty chứ không chỉ riêng kiểm toán viên Thông tin trên BCKT thiếu tính khách quan và độc lập, dẫn đến việc kiểm toán không kỹ lưỡng, làm giảm giá trị của BCKT và gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.

Công ty TNHH Kiểm toán và Dịch vụ Tin học (AISC) đã thực hiện kiểm toán cho BBT trong hai năm 2006 và 2007, tuy nhiên, Đoàn thanh tra nhận định rằng các ý kiến loại trừ của kiểm toán viên trong báo cáo không đầy đủ, gây hiểu nhầm cho nhà đầu tư Kết quả kinh doanh năm 2006 của BBT đã bị hồi tố, chuyển từ lãi sang lỗ, và kiểm toán viên ước lượng rằng các khoản ngoại trừ có thể ảnh hưởng trọng yếu đến kết quả kinh doanh nhưng không được nêu rõ trong báo cáo Ngoài ra, Đoàn thanh tra chỉ ra một số khiếm khuyết khác, như báo cáo tài chính kiểm toán năm 2007 có các khoản điều chỉnh hồi tố từ năm 2006 mà không được đề cập trong thư kiểm toán; AISC không cung cấp thư quản lý theo hợp đồng kiểm toán năm 2006; và AISC đã không thông báo kịp thời cho UBCK về các sai phạm trọng yếu tại BBT.

KTV đã có sự độc lập trong quá trình kiểm toán hay chưa, khi mà thông tin không rõ ràng và các sai phạm trọng yếu không được thông báo kịp thời?

Trách nhiệm của hai công ty A&C và AISC trong vụ việc này rất lớn, tuy nhiên, cả hai vẫn xuất hiện trong danh sách các công ty kiểm toán và kiểm toán viên được UBCK chấp thuận vào năm 2009, đợt 3.

Theo Công văn số 2359/UBCK-QLPH, UBCK đã khiển trách A&C do những sai sót trong kiểm toán BCTC năm 2005 của BBT Cơ quan này không chấp thuận tư cách kiểm toán viên cho bà Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh và ông Lê Minh Tài (Phó tổng giám đốc A&C) trong các năm 2009 và 2010, liên quan đến việc ký báo cáo kiểm toán năm 2005.

Công văn số 2360/UBCK-QLPH chỉ ra rằng UBCK đã khiển trách AISC về những sai sót trong kiểm toán báo cáo tài chính năm 2006 của BBT Đồng thời, UBCK không công nhận tư cách kiểm toán viên cho ông Nguyễn Quang Tuyên trong các năm 2009 và 2010, cũng như không chấp thuận ông Nguyễn Hữu Trí (Giám đốc AISC) trong việc soát xét và ký duyệt báo cáo kiểm toán năm 2006.

Nhiều ý kiến cho rằng, theo "Quy chế lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán", mức độ xử lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với hai công ty kiểm toán là chưa đủ nghiêm khắc.

Theo quy định, kiểm toán viên sẽ bị đình chỉ hoặc thu hồi tư cách kiểm toán nếu vi phạm nghĩa vụ trong quá trình kiểm toán Khi phát hiện tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết hoặc doanh nghiệp chứng khoán không tuân thủ pháp luật và quy định liên quan đến báo cáo tài chính (BCTC), kiểm toán viên phải thông báo và kiến nghị biện pháp khắc phục cho đơn vị được kiểm toán Đồng thời, họ cần ghi nhận ý kiến về các sai phạm chưa được xử lý trong báo cáo kiểm toán hoặc thư quản lý theo quy định của chuẩn mực kiểm toán.

Sau khi phát hành báo cáo kiểm toán, nếu phát hiện sai phạm trọng yếu liên quan đến việc không tuân thủ pháp luật và quy định về báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thông báo cho đơn vị được kiểm toán, bên thứ ba và Ủy ban Chứng khoán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán.

Theo Điều 27 của Nghị định 105/2004/NĐ-CP, doanh nghiệp kiểm toán không được thực hiện kiểm toán trong một số trường hợp, bao gồm cả khi "đơn vị được kiểm toán có những yêu cầu vi phạm đạo đức nghề nghiệp, yêu cầu chuyên môn hoặc quy định pháp luật."

Chờ "phán quyết" của Bộ Tài chính

Bà Hà Thị Ngọc Hà, Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán thuộc Bộ Tài chính, thông báo rằng Vụ sẽ trình lãnh đạo Bộ công văn yêu cầu hai công ty thực hiện các công việc tiếp theo sau kiểm tra Đồng thời, Bộ sẽ gửi công văn nhắc nhở các công ty kiểm toán Việc xử lý sẽ được thực hiện theo đúng tinh thần của Nghị định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập.

Yêu cầu từ nhà đầu tư và các thành viên thị trường là Bộ Tài chính cần có sự nghiêm minh trong việc xử lý sai phạm của công ty kiểm toán Điều này đặc biệt quan trọng vì báo cáo tài chính kiểm toán tại các công ty đại chúng, đặc biệt là những công ty đã niêm yết, có ảnh hưởng lớn đến đông đảo nhà đầu tư.

Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã đưa ra thông báo về việc chấn chỉnh hoạt động của các hội viên sau vụ việc tại BBT Hội yêu cầu các thành viên cần thực hiện kiểm toán một cách cẩn trọng hơn và nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán.

Vụ bê bối này bắt nguồn từ việc Ban biên tập (BBT) cung cấp thông tin không trung thực, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực trong báo cáo kiểm toán Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cũng có trách nhiệm khi không thẩm định kịp thời độ tin cậy của báo cáo và vẫn cho phép công bố thông tin, gây thiệt hại cho nhà đầu tư Bên cạnh đó, trách nhiệm của Kiểm toán viên (KTV) cũng rất quan trọng khi đưa ra nhận xét sai lệch và thiếu khách quan về tình hình của BBT, làm tổn hại đến quyền lợi của cổ đông và nhà đầu tư Hình thức xử lý của UBCK đối với hai công ty kiểm toán vẫn chưa đủ nghiêm minh và thỏa đáng.

Ngày đăng: 19/10/2022, 20:36

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán (ĐH KTQD) Khác
2. Kiểm toán- Alvin A.Aren Khác
6. Tạp chí Kế toán Khác
7. Tạp chí Kinh tế và phát triển Khác
8. Tạp chí Tài chính Khác
9. Tạp chí Tổ chức Nhà nớc Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w