THẮNG LỢI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG NĂM 1972
CUỘC TẬP KÍCH ĐƯỜNG KHÔNG CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ VÀO MIỀN BẮC VIỆT NAM CUỐI THÁNG 12 NĂM 1972
1 Bối cảnh diễn ra cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ vào miền Bắc Việt Nam cuối tháng 12 năm 1972
Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và dẫn đến sự chia cắt tạm thời đất nước thành hai miền Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng và thống nhất đất nước Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, đế quốc Mỹ đã thay thế Pháp, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài và biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, đồng thời thiết lập căn cứ quân sự để chống lại miền Bắc và phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu.
Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn vào đầu năm 1965, khi Mỹ chuyển sang "Chiến tranh cục bộ" với việc đưa quân vào miền Nam Việt Nam và tiến hành không kích miền Bắc Sau nhiều thất bại, vào ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc và chuyển sang "Việt Nam hóa chiến tranh" Đến đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết định, giành nhiều thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, đe dọa sự sụp đổ của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" Để cứu vãn tình hình, vào ngày 6/4/1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn ra lệnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai với quy mô lớn hơn và tàn bạo hơn, sử dụng máy bay B.52 tấn công các tỉnh miền Bắc như Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hoá, Hải Phòng Tuy nhiên, quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu và đánh bại các cuộc tập kích đường không của địch.
Thắng lợi này đã thay đổi cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta, trong khi Mỹ không đạt được mục tiêu trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai Sự kéo dài của chiến tranh càng làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn nội bộ và khó khăn kinh tế, chính trị, xã hội ở Mỹ Khi cuộc bầu cử Tổng thống gần kề, áp lực từ cử tri và phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tổng thống Ních-xơn Sau 4 năm đàm phán tại Paris, Mỹ vẫn chưa tìm được lối thoát, nhưng đến đầu tháng 10/1972, ta đã đưa ra dự thảo Hiệp định "Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" và phía Mỹ đã chấp thuận.
Sau khi Tổng thống Ních-xơn tái đắc cử, Mỹ đã vi phạm thỏa thuận trước đó bằng cách yêu cầu sửa đổi 126 điểm trong dự thảo Hiệp định mà họ đã đồng ý Kít-xinh-giơ tuyên bố ngừng đàm phán với Việt Nam vô thời hạn.
Vào ngày 17 tháng 12 năm 1972, Tổng thống Nixon đã ra lệnh thực hiện cuộc không kích chiến lược vào miền Bắc Việt Nam, được biết đến với tên gọi Chiến dịch "Lai-nơ-bếch-cơ".
2 Âm mưu, thủ đoạn, sử dụng lực lượng và tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc tập kích đường không chiến lược cuối tháng 12 năm 1972
Đế quốc Mỹ đã thực hiện cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B.52 nhằm gây sức ép buộc Việt Nam phải ký Hiệp định Pari theo các điều khoản sửa đổi của họ Hành động này không chỉ đánh phá và hủy diệt tiềm lực kinh tế - quốc phòng của miền Bắc mà còn hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam, làm tê liệt ý chí chiến đấu của dân tộc Đồng thời, cuộc tấn công này còn đe dọa phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới.
Đế quốc Mỹ đã thực hiện một cuộc huy động lực lượng lớn nhất kể từ sau Thế chiến II vào năm 1972, với sự tham gia của 193 máy bay chiến lược B.52 trong tổng số 400 chiếc và 1.077 máy bay không quân chiến thuật trong tổng số 3.043 chiếc, bao gồm cả một biên đội máy bay F.111.
Hạm đội 7 tại Thái Bình Dương sở hữu 50 chiếc tàu ngầm, 6 trong số 24 tàu sân bay, hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không, cùng nhiều loại máy bay khác như máy bay gây nhiễu từ xa, máy bay trinh sát chiến lược và chiến thuật, máy bay chỉ huy, liên lạc dẫn đường, và cấp cứu, cùng với 60 tàu chiến các loại.
Máy bay chiến lược B.52, hay còn gọi là "Siêu pháo đài bay B.52", là một trong những máy bay chiến đấu hiện đại nhất của không lực Hoa Kỳ vào thời điểm đó, với khả năng mang theo tải trọng vũ khí lên đến 18 tấn.
Máy bay B.52 có khả năng mang 30 tấn bom, có thể mang theo từ 12-20 quả tên lửa hành trình ALEM hoặc 8 tên lửa hành trình tàng hình ACM, cùng với 4 pháo 20 mm hoặc một pháo 20mm 6 nòng, gấp 10 lần sức mạnh so với máy bay cường kích B.52 có thể bay ở độ cao tối đa 16.765m, thường ở khoảng 10.000 - 13.000m, với tầm bay xa từ 12.000 - 16.000km Máy bay này có khả năng bay liên tục 9 giờ mà không cần tiếp dầu, và nếu được tiếp dầu, có thể bay lâu hơn hoặc vượt quãng đường 18.000 - 20.000km.
8 lần cải tiến, là vũ khí chiến lược, được trang bị tên lửa hành trình loại A6M-86B để tiến công từ xa với cự ly 2.500km.
Cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam vào cuối tháng 12/1972 là một cuộc ném bom tàn khốc, kéo dài 12 ngày đêm Trong thời gian này, Mỹ đã sử dụng 663 máy bay B.52 và 3.920 máy bay chiến thuật, ném hơn 100 ngàn tấn bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác Tại Hà Nội, 441 máy bay B.52 đã tấn công, gây ra sự tàn phá lớn với hàng ngàn tấn bom rơi xuống các khu vực đông dân cư, bao gồm cả sân bay, bệnh viện và trường học Hậu quả là nhiều phố phường và làng mạc bị hủy diệt, 5.480 ngôi nhà bị phá sập, trong đó có gần 100 cơ sở công nghiệp, giáo dục và y tế; 2.368 người dân vô tội thiệt mạng và 1.355 người khác bị thương.
Ních-xơn đã chỉ đạo máy bay B.52 thực hiện cuộc không kích tàn khốc tại phố Khâm Thiên, khu vực đông dân nhất Hà Nội, gây ra sự hủy diệt trên diện rộng Hơn 1.200 mét của khu phố bị bom Mỹ tàn phá, với gần 2.000 ngôi nhà, đền, chùa, trường học và trạm xá bị sập Hậu quả thảm khốc đã khiến 287 người thiệt mạng và 290 người bị thương Ngoài ra, máy bay B.52 còn ném bom xuống hơn 100 điểm dân cư khác trong thành phố, như Bệnh viện Bạch Mai, Gia Lâm, Yên Viên, Uy Nỗ và An Dương, làm hơn 1.000 người chết và bị thương.
SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG ĐỐI PHÓ VỚI CUỘC TẬP KÍCH ĐƯỜNG KHÔNG CHIẾN LƯỢC CUỐI THÁNG 12 NĂM 1972
1 Chủ động nhận định, dự báo tình hình, chuẩn bị mọi mặt, trước hết là về chiến lược
Từ năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo và chỉ đạo Bộ Tư lệnh Phòng không cần theo dõi chặt chẽ hoạt động của máy bay B.52 Ngày 7/8/1964, sau "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ", Bác khẳng định rằng nhân dân Việt Nam yêu hòa bình nhưng sẽ đánh bại kẻ xâm lược nếu bị đe dọa Ngày 18/6/1965, Mỹ lần đầu tiên sử dụng B.52 ném bom ở Bến Cát, và vào ngày 9/7/1965, Hồ Chủ Tịch đã động viên cán bộ, chiến sĩ rằng dù có nhiều máy bay Mỹ, Việt Nam vẫn có thể chiến thắng Ngày 12/4/1966, B.52 bắt đầu ném bom miền Bắc, và Bác đã chỉ thị quân đội phải tìm cách đánh bại loại máy bay này Đầu năm 1968, Bác triệu tập các lãnh đạo quân đội để báo cáo tình hình và đưa ra nhận định quan trọng về khả năng đối phó với B.52.
Đế quốc Mỹ cuối cùng sẽ phải sử dụng máy bay B-52 để tấn công Hà Nội, và chỉ sau khi thất bại, họ mới chấp nhận thua cuộc Do đó, chúng ta cần chuẩn bị cho tình huống này càng sớm càng tốt, để có thời gian suy nghĩ và lên kế hoạch Dù cho Mỹ có sức mạnh, nhưng ở Việt Nam, họ chắc chắn sẽ thất bại, và điều đó sẽ xảy ra sau khi họ thua trên bầu trời Hà Nội.
Vào ngày 5 tháng 4 năm 1972, Quân ủy Trung ương đã ra chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân và các quân khu, yêu cầu họ chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với khả năng không quân của Mỹ, bao gồm cả không quân chiến lược có thể tấn công trở lại miền Bắc.
Vào cuối tháng 10/1972, Trung ương Đảng đã nhận thức rõ sự ngoan cố và lật lọng của đế quốc Mỹ, chỉ đạo quân và dân miền Bắc nâng cao cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu để đối phó với mọi hành động quân sự của địch Các địa phương miền Bắc đã huy động lực lượng đông đảo trong chiến tranh nhân dân, xây dựng một lực lượng phòng không ba thứ quân vững mạnh, với Quân chủng Phòng không - Không quân là nòng cốt, nhằm đánh bại các cuộc tập kích đường không từ phía địch.
Tại Hà Nội, Thường vụ Thành ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề nhằm tăng cường công tác phòng không nhân dân trong bối cảnh mới Bộ Tư lệnh Thủ đô tổ chức các khóa tập huấn và diễn tập liên quan đến bắn máy bay, đánh địch đổ bộ đường không, cứu thương, cứu sập và sơ tán khẩn cấp Các địa phương khác ở miền Bắc cũng tích cực tuyên truyền giáo dục, nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân và lực lượng vũ trang, đồng thời thực hiện tốt công tác huấn luyện, xây dựng lực lượng và thế trận phòng không nhân dân, nhằm sẵn sàng ứng phó với các cuộc tập kích đường không quy mô lớn từ kẻ thù.
Cuối tháng 11/1972, Quân ủy Trung ương khẳng định rằng đế quốc Mỹ có thể sử dụng máy bay B.52 để ném bom Hà Nội và Hải Phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh, nhấn mạnh rằng kế hoạch của Mỹ nhằm tấn công Thủ đô Hà Nội, biểu tượng của cuộc kháng chiến, sẽ là một hành động gây sức ép cuối cùng để buộc Việt Nam phải nhượng bộ.
Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết đánh thắng chúng trên bầu trời Thủ đô.
Ngày 24/11/1972, Thượng tướng Văn Tiến Dũng phê chuẩn kế hoạch tác chiến để đối phó với cuộc tập kích B-52 của Mỹ, yêu cầu Quân chủng Phòng không - Không quân hoàn tất chuẩn bị trước ngày 3/12/1972 Trước khi Tổng thống Nixon nhậm chức, Mỹ có khả năng sẽ tiến hành không kích Hà Nội và Hải Phòng, vì vậy cần nắm chắc tình hình địch, không để bất ngờ, và tập trung mọi khả năng tiêu diệt B-52 Đầu tháng 12/1972, sau khi nghe báo cáo từ Tư lệnh Phòng không - Không quân Lê Văn Tri, Tổng Bí thư Lê Duẩn nhấn mạnh rằng Mỹ sẽ sử dụng B-52 để gây sức ép, và quân dân ta, đặc biệt là Quân chủng Phòng không - Không quân, phải kiên quyết làm thất bại âm mưu này.
Để thực hiện các chỉ thị và kế hoạch, công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương Quân chủng tập trung huy động và điều chỉnh lực lượng theo thế trận chiến tranh nhân dân trên toàn miền Bắc, đồng thời triển khai Sở chỉ huy dự bị các cấp Các báo cáo được gửi đến Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương nhằm chỉ đạo tăng cường các hoạt động quân sự chống lại Mỹ và Ngụy trên chiến trường miền Nam, với mục tiêu phân tán lực lượng địch ở cả hai miền.
2 Chủ động chuẩn bị về mặt chiến dịch, chiến thuật
Vào tháng 5 năm 1966, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã điều Trung đoàn Tên lửa 238 đến tuyến lửa Vĩnh Linh, phối hợp cùng lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương để không chỉ đánh trả mà còn nghiên cứu chiến thuật đối phó với B.52.
Vào ngày 15/3/1967, máy bay B.52 lần đầu tiên xuất hiện, Trung đoàn 238 đã tổ chức trận đánh tập trung nhưng không thành công Đến ngày 17/9/1967, sau thời gian nghiên cứu và nhận dạng, Tiểu đoàn 84 thuộc Trung đoàn 238 đã bắn rơi thành công một chiếc B.52, đánh dấu lần đầu tiên quân đội ta tiêu diệt "Siêu pháo đài bay B.52" của đế quốc.
Chiến công chống lại các cuộc tập kích đường không bằng B.52 của địch đã củng cố tinh thần quyết chiến của quân và dân ta, khẳng định khả năng đánh thắng Cuốn "Cẩm nang đỏ" về "Cách đánh B.52 của Bộ đội Tên lửa" là kết quả của quá trình nghiên cứu và tổng kết thực tiễn chiến đấu, giúp phổ biến và huấn luyện cách đánh B.52 cho các kíp chiến đấu Ngày 31/10/1972, Quân chủng tổ chức Hội nghị cán bộ để thảo luận về chiến thuật này, sau đó tiến hành công tác giáo dục chính trị và xây dựng quyết tâm Đến ngày 3/12/1972, Quân chủng Phòng không - Không quân đã hoàn tất công tác chuẩn bị, sẵn sàng đối phó và bắn rơi máy bay địch, bao gồm cả B.52.
3 Chỉ đạo, tổ chức sử dụng và phát huy các lực lượng tài tình, sáng tạo
Với chiến lược chiến tranh nhân dân đúng đắn và sự chủ động trong các kế hoạch, chúng ta đã xây dựng một hệ thống phòng không nhân dân vững mạnh và rộng khắp Điều này tạo ra sức mạnh tổng hợp, kết hợp hiệu quả với các lực lượng chủ yếu như Bộ đội Ra đa và Bộ đội Tên lửa Phòng không.
Bộ đội pháo phòng không, Không quân tiêm kích và lực lượng phòng không địa phương cùng với công an nhân dân đã được huy động tối đa để hỗ trợ sơ tán nhân dân, bảo đảm an ninh trật tự và sửa chữa cơ sở hạ tầng như sân bay Các lực lượng này cũng tham gia làm trận địa tên lửa, cao xạ, và ra đa, đồng thời thực hiện nhiệm vụ bảo quản vũ khí, báo động về nguy cơ tấn công, tuyên truyền về chiến thắng, và động viên tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong công tác bảo vệ bầu trời.
Trước cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ vào miền Bắc cuối tháng 12/1972, chúng ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật Lực lượng được tổ chức xây dựng phù hợp, giúp chúng ta hoàn toàn chủ động trong việc đối phó và không bị bất ngờ trước bất kỳ tình huống nào.
III ĐÁNH THẮNG CUỘC TẬP KÍCH ĐƯỜNG KHÔNG CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, LÀM NÊN CHIẾN THẮNG HÀ NỘI- ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG CUỐI THÁNG 12/1972
Vào lúc 10h30' ngày 17/12/1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn đã ra lệnh tiến công không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố miền Bắc Trước tình hình này, quân và dân miền Bắc đã nhanh chóng vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, quyết tâm đánh bại cuộc tập kích chiến lược của đế quốc Mỹ.
Ngày 18/12/1972 - những trận đánh đầu tiên, hạ gục tại chỗ "Siêu pháo đài bay B.52
"- thần tượng của không lực Hoa Kỳ:
NGUYÊN NHÂN, Ý NGHĨA LỊCH' SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CHIẾN THẲNG "HÀ NỘI - ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG"
Chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân cơ bản là:
Một là, sự lãnh dạo, chỉ đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Trung ương đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương.
Lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng thể hiện qua việc giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm tập trung cho kháng chiến thắng lợi.
Trong cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ miền Bắc, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận định tình hình và quyết tâm đánh bại các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ Điều này không chỉ tạo niềm tin mà còn củng cố ý chí chiến đấu cho quân và dân Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương luôn chủ động trong chiến lược và chiến dịch, kịp thời dự báo và đánh giá đúng tình hình, nghiên cứu âm mưu của địch, từ đó tập trung lãnh đạo và chỉ đạo để chuẩn bị và đối phó thắng lợi trước mọi tình huống chiến tranh.
Trung ương Đảng đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, tổ chức lực lượng chiến đấu và sơ tán dân cư để đảm bảo an toàn Quân ủy Trung ương chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân tổ chức đánh địch đồng thời nghiên cứu và sáng tạo các phương pháp tác chiến Đảng đã chỉ đạo các cơ quan báo chí và tuyên truyền mở các đợt tuyên truyền liên tục, đưa đường lối kháng chiến đến mọi tầng lớp nhân dân, vạch trần âm mưu của đế quốc Mỹ và động viên tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Quân và dân ta đã thể hiện tinh thần anh hùng cách mạng với sự dũng cảm, kiên cường và sáng tạo, quyết tâm đánh bại kẻ thù.
Sức mạnh chính trị tinh thần trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại bằng đường không thể hiện qua tinh thần dám đánh, quyết tâm chiến thắng và lòng tin vào khả năng bắn rơi máy bay địch Trong khi kẻ thù sử dụng vũ khí hiện đại, chúng ta dựa vào yếu tố con người, nghị lực chiến đấu và nghệ thuật tác chiến cao để giành thắng lợi, với phương châm "Người trước - súng sau" Đảng, Nhà nước và Quân đội luôn chủ động xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần vững mạnh từ thời bình, chú trọng tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức chính trị và cảnh giác cách mạng cho toàn dân Trong 12 ngày đêm quyết liệt chống lại các đợt tập kích của địch, chúng ta đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ý chí quyết thắng của toàn quân, toàn dân.
Quân và dân miền Nam kiên cường phối hợp với đồng bào miền Bắc, tích cực tấn công quân Mỹ và Ngụy, tổ chức chiến đấu trên toàn bộ chiến trường miền Nam Hành động này buộc địch phải phân tán lực lượng để ứng phó trên nhiều mặt trận, làm suy yếu sức chiến đấu và tạo ra tâm lý chán nản, hoang mang trong hàng ngũ binh lính Mỹ và Ngụy Một ví dụ điển hình là việc đánh bại cuộc phản kích của không quân và hải quân đối phương.
Mỹ đã triển khai hoạt động tại Bình Trị Thiên, Bắc Bình Định và Tây Nguyên Các mặt trận ở Quảng Trị, Nam Bộ và Trung Bộ đã phối hợp tiến công mạnh mẽ, mở rộng vùng giải phóng, tạo ra thế bao vây và uy hiếp đối với Mỹ và Ngụy.
Để đánh bại B.52, quân và dân ta đã thể hiện sự mưu trí và sáng tạo, cần có sức mạnh tổng hợp từ lãnh đạo, trí tuệ và bản lĩnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việc tìm ra cách đánh B.52, một biểu tượng của không lực Hoa Kỳ, là vấn đề được thế giới quan tâm, bởi cho đến nay, chỉ Việt Nam mới có thể bắn rơi B.52 Từ tháng 5/1966, ta đã chủ động chuẩn bị lực lượng và phương tiện vũ khí để đối phó với B.52, đồng thời nghiên cứu cách đánh Cuốn "Cẩm nang đỏ" mang tên "Cách đánh B.52 của bộ đội tên lửa" đã được phát hành kịp thời, tổng hợp kinh nghiệm gần 7 năm đối đầu với B.52 và các chiến thuật của Không quân Mỹ, từ đó tìm ra phương pháp đánh hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế về vũ khí và trang bị.
Để phát hiện B.52, cần vạch nhiễu và bố trí hệ thống radar từ xa nhằm phát hiện máy bay này trước khi chúng vào miền Bắc Trong chiến dịch "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", khi B.52 đến Hà Nội, yếu tố bất ngờ của địch đã không còn hiệu quả, và cường độ nhiễu của B.52 bị phân tán Các đơn vị tên lửa đã thành công trong việc phân biệt B.52 giữa màn nhiễu dày đặc của máy bay hộ tống, khắc phục hạn chế về tính năng kỹ thuật, nhận diện mục tiêu thật và giả, đồng thời tránh được tên lửa tự dẫn của địch Quân và dân ta đã nghiên cứu điểm mạnh, yếu của địch, đảm bảo mọi lực lượng, kể cả dân quân tự vệ và bộ đội địa phương, đều có khả năng tiêu diệt máy bay địch, phối hợp tiêu diệt máy bay chiến thuật hộ tống để tạo điều kiện cho Bộ đội tên lửa và Không quân hạ gục B.52.
Sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ từ bè bạn quốc tế cùng với nhân loại tiến bộ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không".
Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II gặp phải sự phản đối mạnh mẽ trên toàn cầu, với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam và lên án các cuộc ném bom của đế quốc.
Nhiều quốc gia phương Tây, cùng với chính phủ và báo chí, đã chỉ trích mạnh mẽ hành động của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam Tòa án lương tri quốc tế được thành lập nhằm xét xử các tội ác chiến tranh của Mỹ, đã góp phần thúc đẩy lương tri tiến bộ toàn cầu phản đối cuộc chiến này và ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam Ngay cả trong nước Mỹ, phong trào tiến bộ cũng đã kêu gọi Chính phủ chấm dứt các cuộc ném bom ở miền Bắc Việt Nam.
Các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, và Cuba đã bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ trước các cuộc không kích của không quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam Liên Xô không ngừng hỗ trợ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam qua việc cung cấp vũ khí và đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự, giúp Việt Nam khai thác hiệu quả vũ khí hiện đại Sự hỗ trợ từ Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng, với các trang bị được cung cấp từ đầu cuộc kháng chiến tiếp tục phát huy tác dụng trên các chiến trường.
- "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" là một trong những chiến thắng vĩ đại ở thế kỷ
XX, viết tiếp những trang sử vàng chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" là một trong những chiến công vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, thể hiện sức mạnh và trí tuệ của dân tộc Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, chiến thắng này không chỉ là biểu tượng của bản lĩnh Việt Nam mà còn là minh chứng cho sức mạnh chính trị, tinh thần và lòng dũng cảm của toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" không chỉ bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà còn giữ vững thành quả cách mạng, tạo ra bước chuyển chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Đế quốc Mỹ đã thực hiện nhiều cuộc chiến tranh phá hoại, đặc biệt là cuộc tập kích đường không chiến lược cuối tháng 12/1972 nhằm tiêu diệt miền Bắc Tuy nhiên, chiến thắng này đã đập tan âm mưu của kẻ thù, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời thúc đẩy toàn dân đoàn kết, quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hướng tới thắng lợi hoàn toàn ở cả hai miền Nam - Bắc.
PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG "HÀ NỘI - ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG" TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG "HÀ NỘI - ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG", ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Hiện nay, tình hình thế giới đang phức tạp với nhiều xung đột dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, đặc biệt tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm Đông Nam Á Mặc dù có những thuận lợi, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, bao gồm âm mưu "diễn biến hòa bình" và bạo loạn từ các thế lực thù địch Để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, nhiệm vụ quan trọng là củng cố tiềm lực quốc phòng, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia Việc chủ động ngăn chặn các hoạt động chống phá là cần thiết để không bị động trong mọi tình huống.
Quân đội và các lực lượng vũ trang nhân dân luôn duy trì sự cảnh giác cao độ, sẵn sàng tự vệ để ngăn chặn mọi hành động xâm lược, đồng thời kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Họ tiếp tục nâng cao chất lượng trong việc xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại hóa.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh và thế trận an ninh nhân dân chắc chắn là mục tiêu hàng đầu, nhằm nâng cao tiềm lực quốc gia và sẵn sàng đối phó với mọi loại hình chiến tranh xâm lược Cần quán triệt phương hướng xây dựng quốc phòng toàn diện, hiện đại, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng - an ninh Đồng thời, phối hợp chặt chẽ giữa các hoạt động quốc phòng và an ninh đối ngoại, phát huy tinh thần tự lực, tự cường và chủ động hội nhập quốc tế để xây dựng nền quốc phòng vững mạnh.
40 năm trôi qua, chúng ta càng hiểu rõ hơn ý nghĩa và giá trị sâu sắc của Chiến thắng
Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không thể hiện niềm tin và tự hào về Đảng ta, một Đảng mác xít kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng đã lãnh đạo toàn dân vượt qua nhiều thử thách, từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Tự hào về truyền thống bất khuất và kiên cường của dân tộc, lòng yêu nước và ý chí quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân là nguồn sức mạnh nội lực trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
QUÁ TRÌNH BUỘC MỸ PHẢI XUỐNG NẤC THANG CHIẾN TRANH ĐỂ KÝ VÀO HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, Mỹ đã thay thế Pháp, thiết lập chế độ thuộc địa mới tại miền Nam Việt Nam Điều này dẫn đến một cuộc kháng chiến dài hơi của người Việt Nam chống lại sự can thiệp của Mỹ, culminated in the signing of the Paris Agreement on January 27, 1973.
Năm 1968, sau nhiều thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ", cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Chính phủ Hoa Kỳ chính thức bắt đầu tại Pari Phái đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Xuân Thuỷ dẫn đầu khẳng định lập trường không thay đổi rằng Mỹ phải chấm dứt ngay lập tức các cuộc ném bom và mọi hoạt động chiến tranh khác chống lại Việt Nam Dân chủ cộng hoà trước khi bàn về các vấn đề liên quan Phái đoàn Mỹ do Hariman đứng đầu.
Hội nghị hai bên ở Pari năm 1968 không giải quyết được vấn đề cốt lõi nhưng đã khởi đầu cho giai đoạn Việt Nam tấn công ngoại giao trực diện vào Mỹ Trong quá trình này, phái đoàn Việt Nam khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ, yêu cầu Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, chấm dứt ném bom miền Bắc và từ bỏ chế độ Sài Gòn, đồng thời yêu cầu đáp ứng lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Vào ngày 1/11/1968, trước sự kiên quyết của phái đoàn Việt Nam và bối cảnh thất bại nặng nề trên chiến trường cũng như tình hình Mỹ trước bầu cử Tổng thống, Tổng thống Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom và mọi hành động chiến tranh chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Sự kiện này đã khởi đầu một cuộc đấu tranh mới giữa Việt Nam và Mỹ, tập trung vào hình thức và thành phần của hội nghị, dẫn đến việc thống nhất tổ chức Hội nghị Bốn bên, bao gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà.
Vào tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4 bên về Việt Nam chính thức khai mạc tại Paris Lập trường của hai bên Việt Nam và Mỹ trong giai đoạn đầu rất khác biệt và mâu thuẫn, dẫn đến các cuộc tranh luận căng thẳng trên bàn hội nghị, thậm chí phải tạm ngừng thương lượng Trong bối cảnh này, cả hai bên đều nỗ lực giành chiến thắng quân sự quyết định để thay đổi cục diện chiến trường, tạo áp lực cho các giải pháp chấm dứt chiến tranh Những thắng lợi quân sự của Việt Nam trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia năm 1971, cùng các chiến dịch tiến công Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định và Khu 8 Nam Bộ năm 1972 đã góp phần tạo ra sức mạnh trên bàn đàm phán.
Mỹ và ngụy đã chịu thiệt hại nặng nề, dẫn đến việc làm thất bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từ đó tạo ra lợi thế cho ta trong các cuộc đàm phán.
Vào ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đã trình bày bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để ký kết Mặc dù ban đầu các bên đồng thuận với dự thảo, nhưng đến ngày 22/10/1972, phía Mỹ đã thay đổi lập trường và viện dẫn yêu cầu sửa đổi từ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52
Cuộc đụng đầu lịch sử kéo dài 12 ngày đêm, được gọi là "Trận Điện Biên Phủ trên không", đã dẫn đến việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội Thất bại của Mỹ ở miền Nam cùng với sự sụp đổ của không quân chiến lược tại Hà Nội đã đẩy Mỹ vào thế thua không thể cứu vãn, buộc họ phải chấp nhận thất bại và nối lại đàm phán tại Pari Trong vai trò bên chiến thắng, phái đoàn Việt Nam tại cuộc đàm phán đã kiên quyết bảo vệ nội dung của dự thảo Hiệp định đã được thống nhất.
Vào ngày 22/1/1973, tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký tắt bởi Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ vào lúc 12 giờ 30 phút (giờ Pari) Đến ngày 27/11/1973, Hiệp định này được ký chính thức giữa các Bộ trưởng Ngoại giao của các bên liên quan.
Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ViệtNam.
Hoa Kỳ cần chấm dứt hoàn toàn chiến tranh xâm lược và can thiệp quân sự vào miền Nam Việt Nam Điều này bao gồm việc rút toàn bộ quân đội Mỹ và các nước khác, cùng với các cố vấn và nhân viên quân sự, cũng như vũ khí và dụng cụ chiến tranh Ngoài ra, cần hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự hiện có.
Tôn trọng quyền tự quyết và bảo vệ các quyền tự do dân chủ là điều quan trọng đối với nhân dân miền Nam Việt Nam Nhân dân miền Nam có quyền tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua việc tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ.
Lễ cuốn cờ ở Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Sài Gòn để rút quân ra khỏi Việt Nam (ảnh tư liệu)
Vào ngày 29 tháng 3 năm 1973, lễ cuốn cờ được tổ chức tại Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn, đánh dấu sự rút lui của đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam, dưới sự giám sát của sĩ quan Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên.
Trong vòng 5 năm, Hiệp định Pari đã tổ chức 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo và 1.000 cuộc phỏng vấn, cùng hàng nghìn cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam và phản đối chiến tranh Việt Nam đã không bỏ qua bất kỳ vấn đề quan trọng nào liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, tập trung vào hai yêu cầu chính: rút hết quân Mỹ và quân đội của 5 nước thân Mỹ khỏi miền Nam, đồng thời yêu cầu tôn trọng quyền dân tộc và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam Trong khi đó, Mỹ vẫn giữ quan điểm “có đi có lại”, yêu cầu cả hai bên, bao gồm quân đội miền Bắc tại miền Nam, cùng rút quân.