Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Trong khuôn khổ thời gian và nguồn lực hạn chế, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích và kế thừa kiến thức từ 6 đề tài nghiên cứu trước, nhằm bổ sung cho đề tài "Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một" Đặc biệt, cuộc điều tra quy mô toàn quốc với 1350 phiếu khảo sát, trong đó có 516 phiếu gửi đến học sinh sinh viên và 337 phiếu cho phụ huynh, đã cung cấp những thông tin quý giá cho nghiên cứu của chúng tôi.
497 phiếu cho người lớn) ở 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Đà
Nghiên cứu của tác giả Vũ Dương Thúy Ngà (2012) cho thấy người dân Việt Nam có sự quan tâm đến việc đọc sách, với 59% học sinh sinh viên (HSSV) và 56,8% người lớn dành thời gian rảnh để đọc Tuy nhiên, nhu cầu đọc giữa HSSV và người lớn có sự khác biệt do độ tuổi và động lực đọc Trong khi 22% HSSV chọn sách để bổ sung kiến thức học tập, người lớn lại có nhu cầu giải trí cao với 22% chọn sách văn hóa nghệ thuật Nghiên cứu cũng chỉ ra những cản trở trong việc đọc sách của sinh viên, như 43% cho rằng thư viện mở trùng với giờ học và 30% cho rằng vốn sách còn nghèo nàn Điều này cho thấy HSSV chú trọng vào sách học tập để mở rộng kiến thức và hình thành nhân cách, nhưng cơ sở vật chất thư viện chưa đáp ứng đủ nhu cầu Do đó, cần chú trọng đến ba giải pháp: nâng cao nhận thức về văn hóa đọc, giáo dục thói quen và kỹ năng đọc cho HSSV, và cải thiện chất lượng hoạt động thư viện.
Ngô Hà Thủy Ngân đã thực hiện nghiên cứu về thực trạng đọc sách của sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII) trong bài viết “Văn hóa đọc của sinh viên trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII) trước ngưỡng cửa công nghệ thông tin” Kết quả cho thấy chỉ 18,2% sinh viên sử dụng thiết bị công nghệ để tìm kiếm sách báo, trong khi hơn 80% sinh viên chủ yếu dùng công nghệ cho nhu cầu giải trí Mặc dù văn hóa nghe nhìn chiếm ưu thế, nhưng văn hóa đọc vẫn tồn tại với tỷ lệ 81,8% Tất cả 6 sinh viên tham gia khảo sát đều bày tỏ sự yêu thích và quan tâm đến sách, trong khi những sinh viên không thích sách thường ít quan tâm hơn Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 59,9% sinh viên dành từ 0-2 giờ cho việc đọc sách, chủ yếu để phục vụ mục đích học tập (63,6%) hơn là sở thích cá nhân (20,5%) Một phần của nghiên cứu còn tìm hiểu nguyên nhân khiến sinh viên không quan tâm đến việc đọc sách, với 34,1% sinh viên nêu ra các lý do cụ thể.
Nhiều sinh viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đọc sách, với 29,5% chỉ muốn nắm kiến thức từ trường và một phần trong số đó thừa nhận lười đọc Trong khi 61,4% sinh viên khảo sát cho rằng việc nắm bắt nội dung và áp dụng vào cuộc sống là quan trọng, vẫn tồn tại nhiều rào cản đối với văn hóa đọc Những khó khăn như cơ sở vật chất và tài chính hạn chế, thư viện không đáp ứng nhu cầu sách (93,2%), cũng như ảnh hưởng của văn hóa mạng và phương pháp giáo dục từ phổ thông đã làm giảm thói quen đọc sách của sinh viên.
Cao Xuân Liễu đã tiến hành nghiên cứu nhằm khám phá các kỹ năng đọc sách của sinh viên, bên cạnh những nghiên cứu hiện có về thực trạng đọc sách trong nhóm đối tượng này.
“Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học” khi khảo sát
Một nghiên cứu tại Học viện Quản lí Giáo dục về thói quen đọc sách của 120 sinh viên năm 2 chuyên ngành Tâm lý học cho thấy 53,3% thời gian đọc sách diễn ra sau khi nghe giảng Hơn 40% sinh viên chỉ ghi nhớ thông tin mà không ghi chép, trong khi các hoạt động quan trọng như ghi chép và lập đề cương chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp Để cải thiện kỹ năng đọc sách chuyên ngành, tác giả đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm, trong đó việc cung cấp kiến thức về sách và kỹ năng đọc đã giúp sinh viên nâng cao khả năng xác định nội dung chính, phân tích và mô hình hóa tài liệu Kết quả cho thấy sự cải thiện đáng kể về cả số lượng và chất lượng khi đọc sách của sinh viên Tâm lý học (Cao Xuân Liễu, 2012).
Nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Thu Trang về kỹ năng đọc sách của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy chỉ có 7,4% sinh viên lập kế hoạch đọc sách một cách khoa học và thường xuyên Hơn nữa, việc thực hiện kế hoạch đọc sách của sinh viên chỉ đạt mức trung bình, cho thấy họ chưa nắm vững và thực hiện đầy đủ các phương pháp đọc Đặc biệt, trong kỹ năng đọc biết, chỉ có 6,3% sinh viên tham gia khảo sát cho thấy khả năng đọc hiệu quả.
Theo khảo sát, 25,8% sinh viên ghi chép theo hướng tự trả lời câu hỏi về nội dung quan trọng của từng chương Về kỹ năng đọc hiểu, 74% sinh viên thường xuyên đọc biết trước để xác định các mục cần chú ý, trong khi 63,2% sinh viên chỉ thỉnh thoảng hoặc không bao giờ ghi chép ý tưởng quan trọng và diễn đạt chúng bằng mô hình, sơ đồ Đặc biệt, 61,8% sinh viên thực hiện việc đọc biết và đọc hiểu trước khi đi sâu vào nội dung để xác định các mục cần tập trung.
Trong quá trình đọc hiểu, nhiều sinh viên gặp khó khăn trong việc tự tìm ví dụ minh họa cho nội dung đang đọc Cụ thể, có đến 81% sinh viên không thực hiện thao tác trả lời câu hỏi liên quan đến bài đọc.
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Trang chỉ ra rằng sinh viên không thường xuyên áp dụng các kỹ năng đọc hiểu sâu khi đọc sách, dẫn đến việc họ chưa nắm vững các phương pháp đọc biết, đọc hiểu và đọc hiểu sâu Điều này là một vấn đề đáng lưu ý, đặc biệt khi sinh viên thường xuyên tham gia vào hoạt động học tập và nghiên cứu.
Nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Lợi tại trường Đại học Trà Vinh đã khảo sát việc sử dụng kỹ năng đọc sách của 376 sinh viên năm nhất, cho thấy 39% sinh viên nhận thức được tầm quan trọng cao của việc tổ chức và tóm lược nội dung sách Trong khi chỉ 3% không tập trung khi đọc, thì 70% có mức độ tập trung tương đối cao và 27% rất cao Đặc biệt, 65% sinh viên cho biết họ tự đặt câu hỏi và trả lời khi đọc, và 87% thường đánh dấu các vấn đề quan tâm Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đi sâu vào nguyên nhân và giải pháp, dẫn đến việc chưa có tính ứng dụng cao trong thực tiễn.
Nghiên cứu của Phạm Đình Gấm và Vũ Đình Mạnh về “Thực trạng kỹ năng đọc sách của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang” đã chỉ ra rằng 190 sinh viên năm nhất và năm ba của Khoa THCS và Khoa Mần non có nhận thức khá đầy đủ về vai trò và ý nghĩa của việc đọc sách trong quá trình học tập và phát triển bản thân Cụ thể, điểm trung bình cho việc đọc sách giúp “hình thành năng lực tự học” đạt 5,18, cho thấy tầm quan trọng của việc đọc trong việc nâng cao kỹ năng tự học của sinh viên.
Nghiên cứu cho thấy sinh viên có xu hướng đọc sách chủ yếu để giải trí và giết thời gian, với điểm số chỉ đạt 3,49 cho việc đọc nhằm mở rộng tri thức Điều này dẫn đến việc 34% sinh viên chỉ đọc sách khi có thi cử Mặc dù sinh viên đã nắm bắt được các kỹ năng đọc cơ bản, nhưng vẫn ở mức độ thấp Giáo viên đã chú trọng đến việc đọc giáo trình và tài liệu, nhưng chưa thực sự hướng dẫn cách đọc hiệu quả cho sinh viên.
Sau khi nghiên cứu tài liệu thứ cấp, chúng tôi nhận thấy có thể kế thừa nội dung từ các nghiên cứu trước về thực trạng đọc sách của sinh viên Các yếu tố được xem xét bao gồm thời gian đọc sách, tiêu chí chọn mua sách và các thể loại sách phổ biến trong sinh viên Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn tìm hiểu sự khác biệt về độ tuổi, giới tính, học lực và điều kiện sống đối với nhận thức về vai trò của việc đọc sách trong sinh viên các trường đại học.
Trong khuôn khổ nghiên cứu về Thủ Dầu Một, chúng tôi nhận thấy chưa có nghiên cứu nào áp dụng phương pháp định tính để khám phá nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách trong hoạt động học tập Đây sẽ là một hướng đi mới mà chúng tôi dự định thực hiện để thu thập thông tin cho đề tài của mình.
Mục tiêu đề tài
Mục tiêu chung
Đối với đề tài này, nhóm nghiên cứu muốn Tìm hiểu thực trạng đọc sách của
Vai trò của việc đọc sách rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và phát triển kỹ năng cho sinh viên Để cải thiện thói quen đọc sách của sinh viên TDMU cũng như sinh viên các trường ĐH, CĐ khác, cần áp dụng các giải pháp phù hợp như tổ chức các câu lạc bộ sách, khuyến khích việc chia sẻ kiến thức qua các buổi thảo luận, và tạo ra môi trường thuận lợi để sinh viên tiếp cận sách một cách dễ dàng hơn.
Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu thứ nhất: Tìm hiểu thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.
Mục tiêu thứ hai: Tìm hiểu các yếu tố chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Mục tiêu thứ ba: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường Đại học Thủ DầuMột về vai trò của việc đọc sách.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu thực trạng đọc sách và nhận thức của sinh viên tại trường Đại học Thủ Dầu Một được thực hiện thông qua bảng hỏi, nhằm thu thập thông tin và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách Dữ liệu thu thập sẽ được xử lý và phân tích định lượng bằng phần mềm SPSS, giúp đưa ra cái nhìn rõ nét về thói quen đọc sách của sinh viên.
Do số lượng sinh viên tại trường Đại học Thủ Dầu Một rất đông, nhóm nghiên cứu không thể tiến hành khảo sát toàn bộ sinh viên Thay vào đó, nhóm chỉ khảo sát một số lượng sinh viên nhất định, phù hợp với ngân sách, thời gian và nguồn nhân lực hiện có.
Phương pháp chọn nhóm nghiên cứu được áp dụng là chọn mẫu ngẫu nhiên có điều kiện, với tiêu chí sinh viên đã đọc sách Số lượng sinh viên tham gia khảo sát là 300, được phân bố theo số lượng và giới tính như thể hiện trong bảng 1.
Ngoại ngữ 7 50,0% 7 50,0% Điện - Điện tử 11 84,6% 2 15,4%
Bảng 1 Số lượng sinh viên các Khoa theo giới tính thực hiện khảo sát
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
Phương pháp nghiên cứu định tính
Ngoài việc áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, nghiên cứu này còn sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu trong nghiên cứu định tính nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách.
Cách thức thu thập thông tin: Phỏng vấn ngẫu nhiên đến khi thông tin “Nhận thức về vai trò của việc đọc sách” bảo hòa thì dừng lại
Số lượng mẫu thực hiện khảo sát: 6 sinh viên thuộc các Khoa Công tác xã hội,
Sư phạm và Xây dựng.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng đọc sách của SV TDMU hiện nay như thế nào?
- Nhận thức của SV TDMU về vai trò của việc đọc sách như thế nào?
- Các yếu tố chủ quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU không?
- Các yếu tố khách quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU không?
Giả thuyết nghiên cứu
- SV TDMU không dùng nhiều thời gian vào việc đọc sách.
- SV TDMU hiện nay có nhận thức chưa đúng về vai trò của việc đọc sách.
- Các yếu tố chủ quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU
- Các yếu tố khách quan cũng có khả năng chi phối việc đọc sách của SVTDMU.
Khung phân tích
+ Giới tính + Ngành học + Năm học + Học lực + Cách đọc
+Nơi đọc sách + Việc làm thêm + Người cùng đọc sách
Thực trạng đọc sách của sinh viên
Hệ thống khái niệm và cơ sở lý thuyết của đề tài
Hệ thống khái niệm chính có liên quan đến đề tài
Theo định nghĩa trong "Từ điển Tiếng Việt thông dụng" (Huyền Linh, 2014), sinh viên là những người theo học tại các trường đại học và cao đẳng, nơi họ nhận được kiến thức chuyên sâu về ngành nghề để chuẩn bị cho sự nghiệp tương lai Họ được xã hội công nhận thông qua các bằng cấp đạt được trong quá trình học tập chính quy, mà trước đó đã trải qua bậc tiểu học và trung học.
Sách được định nghĩa là tri thức có nội dung nhất quán, được ghi chép liên tục chủ yếu bằng chữ viết và hình vẽ Vật liệu cơ bản của sách là giấy, với số lượng trang in theo quy định.
Đọc sách được định nghĩa bởi Dương Quỳnh Tương (2012) là hành động tập trung tâm trí vào các trang sách và tài liệu để hiểu nội dung, ý nghĩa, và rút ra những vấn đề quan trọng từ các nguồn tài liệu đáng tin cậy Hành động này không chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập mà còn bao gồm việc phản biện các tài liệu có nội dung sai lệch, thiếu chân thực và khách quan, đồng thời đưa ra những ý kiến xác đáng về vấn đề đó.
Trong giới văn học, nhiều tác giả đã đề cập đến các phương pháp đọc sách đa dạng Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi đã lựa chọn ba phương pháp đọc cơ bản để phân tích và tìm hiểu.
Đọc toàn văn là phương pháp đọc phổ biến hiện nay, trong đó người đọc chú trọng vào từng câu, từng chữ và suy ngẫm một cách kỹ lưỡng để nắm bắt ý nghĩa tổng thể của văn bản.
- Đọc lướt: đọc nhanh từng đoạn của một văn bản nhằm nắm bố cục, những ý cốt lỗi nhất của văn bản đó.
Đọc từ khóa là một kỹ năng quan trọng, yêu cầu người đọc phải có khả năng quan sát và phân tích để nhanh chóng xác định nội dung cốt lõi và các vấn đề chính được đề cập.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trần Minh Hoàng, nhận thức được định nghĩa là khả năng nhận ra và hiểu rõ ý nghĩa của sự việc.
Trong bối cảnh nghiên cứu này, nhận thức được định nghĩa là khả năng của sinh viên trong việc nhận ra và hiểu rõ tầm quan trọng của việc đọc sách, không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà còn trong quá trình học tập.
Theo định nghĩa của Trần Minh Hoàng (Trần Minh Hoàng, 2005), vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó”
1.6 Khái niệm: “Vai trò của việc đọc sách” Đã có rất nhiều những nghiên cứu nói về vai trò của việc đọc sách đối với mỗi cá nhân, tuy nhiên trong giới hạn của chúng tôi, chúng tôi tìm hiểu vai trò của việc đọc sách thông qua một tài liệu trên báo Vietnamnet (Waka.vn, 2015).
Nghiên cứu cho thấy việc đọc sách có tác dụng kích thích tinh thần, giúp làm chậm tiến triển của bệnh Alzheimer và mất trí nhớ Hoạt động này giữ cho bộ não luôn hoạt động, ngăn ngừa tình trạng mất năng lượng và duy trì sức khỏe tinh thần.
Giống như bất kỳ các cơ quan khác trong cơ thể, não đòi hỏi phải được tập thể dục để luôn mạnh khoẻ.
Dù bạn đang phải đối mặt với căng thẳng từ công việc hay các mối quan hệ cá nhân, tất cả sẽ được xoa dịu khi bạn đắm chìm trong một câu chuyện thú vị Một cuốn sách hay có khả năng đưa bạn vào một thế giới mới, trong khi một bài báo hấp dẫn giúp bạn tập trung vào hiện tại, từ đó làm giảm căng thẳng và mang lại cảm giác thư giãn.
Việc đọc sách sẽ cung cấp cho bạn những thông tin mới mẻ và thú vị, giúp bạn trang bị kiến thức cần thiết để vượt qua các thử thách trong cuộc sống Dù bạn có thể gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, như mất việc, tài sản hay sức khỏe, nhưng một điều chắc chắn là tri thức sẽ luôn đồng hành cùng bạn và không bao giờ mất đi.
Đọc nhiều mang lại lợi ích lớn cho việc mở rộng vốn từ vựng, giúp bạn nói lưu loát và thu hút hơn trong công việc Những người có khả năng đọc và hiểu biết rộng thường thăng chức nhanh hơn so với những người có vốn từ hạn hẹp Hơn nữa, việc đọc sách cũng hỗ trợ hiệu quả trong việc học ngôn ngữ mới, giúp người học hiểu rõ cách sử dụng từ trong từng ngữ cảnh, từ đó nâng cao khả năng nói và viết.
Khi đọc sách, bạn cần ghi nhớ các nhân vật, thông tin về họ, hoài bão, lịch sử và các tình tiết hình thành lối sống trong mỗi câu chuyện Mặc dù có thể cảm thấy quá tải, nhưng não bộ có khả năng tuyệt vời để lưu trữ mọi thứ một cách dễ dàng Mỗi ký ức mới không chỉ tạo ra nếp nhăn não mới mà còn củng cố nếp nhăn cũ, giúp cải thiện khả năng nhớ lại và cân bằng cảm xúc Thật thú vị phải không?
(6) Khả năng phân tích của tư duy mạnh mẽ hơn
Bạn đã từng giải quyết một bí ẩn trong tiểu thuyết kỳ bí trước khi đọc xong? Nếu có, bạn đã áp dụng tư duy phê bình và phân tích vào công việc của mình Hãy ghi lại tất cả các chi tiết và xâu chuỗi chúng như trong một câu chuyện trinh thám.
Cơ sở lý thuyết của đề tài
2.1 Quan điểm lý thuyết hành động xã hội của Max Weber
Quan điểm lý thuyết trong giáo trình nhập môn Xã hội học của Trần Thị Kim Xuyến và Nguyễn Thị Hồng Xoan (2005) đề cập đến những nội dung cơ bản liên quan đến các khái niệm và nguyên lý nền tảng của xã hội học, giúp người đọc hiểu rõ hơn về các vấn đề xã hội và mối quan hệ giữa con người trong cộng đồng.
Vào thế kỷ XX, Max Weber phát triển lý thuyết hành động, nhấn mạnh rằng lý thuyết tập trung vào cá nhân không thể thiếu các yếu tố chủ quan như cảm xúc, suy nghĩ và tư tưởng của từng cá nhân.
Để nghiên cứu con người, cần đặt mình vào hoàn cảnh của từng đối tượng và thấu hiểu thế giới nội tâm của họ, bao gồm tình cảm và tư duy Con người không chỉ hành động vì lợi ích mà còn vì những giá trị mà họ coi là có ý nghĩa Do đó, M Weber đã phát triển một hệ thống khuôn mẫu với 4 kiểu hành động, giúp các nhà nghiên cứu phân tích hành vi trong bối cảnh thực tế.
Hành động do cảm xúc chiếm phần lớn trong hành vi con người, với tính tự phát và sự khác biệt rõ rệt Cùng một người trong cùng một hoàn cảnh có thể có những phản ứng khác nhau dựa vào cảm xúc của họ Loại hành động này thường khó kiểm soát và nghiên cứu, cho thấy sự phức tạp trong tâm lý con người.
Hành động mang tính truyền thống là khi con người thực hiện những thói quen được hình thành từ quá trình xã hội hóa từ khi còn nhỏ Điều này thể hiện sự tuân thủ các giá trị chuẩn mực của cộng đồng, dẫn đến việc lặp lại những hành động này trong cuộc sống hàng ngày Mỗi nền văn hóa sẽ có những truyền thống riêng biệt, phản ánh sự đa dạng trong cách mà con người tương tác và duy trì các giá trị xã hội.
Hành động hợp lý về giá trị là hành động được định hướng bởi các giá trị, trái ngược với hành động truyền thống Trong khi hành động theo cách truyền thống thường không yêu cầu nhiều suy nghĩ, hành động dựa trên giá trị đòi hỏi người thực hiện phải xem xét và đánh giá xem hành động đó có thực sự mang lại giá trị hay không.
Khi thực hiện hành động, con người thường xem xét tính phù hợp của hành động đó với địa vị xã hội của mình, và các giá trị được thể hiện qua những chuẩn mực khác nhau Chẳng hạn, sự chung thủy có thể được hiểu khác nhau trong chế độ đa thê so với chế độ một vợ, một chồng Đối với những hành động có mục đích, người thực hiện cần phải suy nghĩ và quyết định về mục đích mình chọn cũng như phương tiện để đạt được mục đích đó.
Trong xã hội hiện đại, hành động hợp mục đích trở nên phổ biến, đặc biệt trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản, nơi mà hành động này thường mang tính chiếm ưu thế.
Khi phân tích bốn loại hành động xã hội, ông nhấn mạnh rằng chúng không thể tách rời một cách rõ ràng trong cuộc sống Những hành động này đan xen với nhau, và để hiểu con người, cần hình dung bốn loại hành động này trong từng trường hợp cụ thể Việc xác định giới hạn quan hệ giữa các hành động này trong từng nền văn hóa là điều cần thiết.
Cách tiếp cận lý thuyết hành động xã hội của Max Weber cung cấp một khung lý thuyết quan trọng để nghiên cứu mục tiêu đọc sách của sinh viên tại trường Đại học Thủ Dầu Một Lý thuyết này giúp phân tích động cơ và hành vi của sinh viên trong việc tiếp cận tri thức qua việc đọc sách, từ đó làm rõ những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến thói quen đọc của họ Việc áp dụng lý thuyết này không chỉ mang lại cái nhìn sâu sắc về hành vi đọc sách mà còn góp phần vào việc cải thiện phương pháp giảng dạy và học tập tại trường.
2.2 Quan điểm lý thuyết lựa chọn hợp lý của A Marshall
Lý thuyết lựa chọn hợp lý, hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý, được Lê Ngọc Hùng (2009) nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội học, có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ 18 và 19 Theo một số nhà triết học, bản chất con người mang tính vị kỷ, luôn hướng đến việc tìm kiếm sự hài lòng, thỏa mãn và tránh né nỗi khổ đau.
Thuật ngữ “lựa chọn” nhấn mạnh sự cần thiết phải cân nhắc và tính toán để quyết định phương tiện hoặc cách thức tối ưu nhằm đạt được mục tiêu trong bối cảnh nguồn lực khan hiếm Ban đầu, khái niệm này mang tính chất kinh tế học với trọng tâm là lợi ích vật chất, nhưng sau đó đã được các nhà xã hội học mở rộng để bao gồm cả lợi ích xã hội và tinh thần.
Alfred Marschal, nhà kinh tế chính trị người Anh, cho rằng cá nhân bị thúc đẩy bởi nhu cầu tâm lý bên trong để hành động, nhưng động lực và hướng đi của hành động lại phụ thuộc vào lợi ích từ các yếu tố bên ngoài Các cá nhân chỉ tham gia vào việc trao đổi hàng hóa khi chúng mang lại lợi ích cho họ Tác giả khẳng định rằng con người là những quyết định hợp lý trong bối cảnh khan hiếm nguồn lực, dựa trên việc xem xét và đánh giá lợi ích kinh tế của từng lựa chọn.
Lý thuyết lựa chọn hợp lý phân tích hành động lựa chọn của cá nhân trong bối cảnh hệ thống xã hội, bao gồm nhu cầu, mong đợi và khả năng lựa chọn của họ Nó cũng xem xét các sản phẩm đầu ra từ từng lựa chọn và các đặc điểm liên quan khác.
Cách tiếp cận lý thuyết lựa chọn hợp lý giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình ra quyết định của mỗi cá nhân
Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Thời gian đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Thời gian đọc sách là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong việc đạt được mục tiêu của người đọc Tuy nhiên, sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một chưa đầu tư đủ thời gian cho việc này Cụ thể, có đến 3/4 sinh viên được khảo sát chỉ đọc sách dưới một giờ mỗi ngày, trong đó 26,8% sinh viên đọc sách từ 0-30 phút và một số khác đọc từ 30-60 phút.
Hình 1 - Các thể loại sách sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một chọn đọc
Tác phẩm văn học Sách chuyên ngành Giáo trình Tản vănSách điện tử Hạt giống tâm hồn Tạp chí Thể loại khác
Số lượng sinh viên dành nhiều thời gian cho việc đọc sách rất hạn chế, với chỉ 13,3% sinh viên đầu tư từ 1-2 giờ mỗi ngày và chỉ 5,3% sinh viên đọc sách trên 2 giờ mỗi ngày.
Theo nghiên cứu của Phạm Thụy Thùy Trâm (2016), chỉ có 4,7% sinh viên tham gia khảo sát (14 sinh viên) không duy trì thói quen đọc sách hàng ngày Thay vào đó, họ lựa chọn đọc sách khi có thời gian rảnh rỗi, với thời gian đọc có thể lên đến 3-4 giờ trong một ngày Khi không có thời gian, họ sẽ không dành thời gian cho việc đọc sách.
Các phương pháp đọc
3.1 Các phương pháp hỗ trợ việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
3.1.1 Giai đoạn trước khi đọc sách
Khi khảo sát về tần suất thực hiện thao tác chọn sách, 42,3% sinh viên cho biết họ rất thường xuyên thực hiện việc này Ngược lại, chỉ có 1% sinh viên tham gia khảo sát khẳng định rằng họ không bao giờ chọn sách.
Mức độ thường xuyên Tần số Tần suất
0-30 phút 30-60 phút 60 phút - 2 Trên hai giờ Khác 0
Hình 2 - Thời gian đọc sách trong một ngày của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Bảng 2- Mức độ thường xuyên chọn sách của SV TDMU
Một bộ phận nhỏ sinh viên trường ĐH Thủ Dầu Một có thể đang đọc sách một cách thụ động, chỉ dựa vào yêu cầu từ giáo viên hoặc lời giới thiệu từ gia đình và bạn bè, mà chưa chủ động tìm kiếm và khám phá thể loại sách mà họ thực sự mong muốn.
Một yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn sách của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một là nội dung sách, với 75,3% sinh viên (226 sinh viên) cho biết họ quan tâm đến điều này Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên ít quan tâm đến các yếu tố khác như bìa sách (84,7%), số trang (91,7%), giá cả (75%), tác giả/nhà xuất bản (59,7%) và nhận xét của người khác (78%).
STT Nội dung quan tâm Có Tần suất
5 Tác giả/ Nhà xuất bản
6 Nhận xét của người khác
Bảng 3 – Các yếu tố SV TDMU quan tâm khi chọn đọc một quyển sách
Trong quá trình thu thập thông tin định lượng, sinh viên đặc biệt quan tâm đến yếu tố "chất lượng sách mới/cũ".
Khi khảo sát về tần suất chọn không gian đọc sách, có hơn 109 trong số 300 sinh viên cho biết họ thường xuyên lựa chọn không gian để đọc Trong khi đó, chỉ có 16 sinh viên khẳng định rằng họ không bao giờ chọn không gian đọc sách.
Nhiều sinh viên thiếu tiêu chí cụ thể cho không gian đọc, họ thường chọn những nơi có đủ ánh sáng, không quá nóng, mặc dù có thể hơi ồn ào.
Sinh viên trường ĐH Thủ Dầu Một thường xuyên lựa chọn thời gian đọc sách phù hợp với bản thân Cụ thể, 13% sinh viên cho biết họ rất thường xuyên chọn thời gian đọc sách, 32,3% thường xuyên và 34,7% cho rằng mức độ thường xuyên của họ ở mức trung bình.
Rất thường xuyên Thường xuyên Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Hình 3 - Mức độ thường xuyên chọn không gian đọc sách của SV TDMU
Việc lựa chọn thời gian để đọc sách là một yếu tố quan trọng và không thể thiếu đối với đa số sinh viên tại trường Đại học Thủ Dầu Một, như đã được khẳng định bởi Phạm Thụy Thùy Trâm (2016).
Kết quả khảo sát cho thấy hơn 90% sinh viên tham gia đã thực hiện việc đặt mục tiêu trước khi đọc sách, cho thấy đây là một hoạt động phổ biến và quan trọng trong thói quen đọc sách của họ.
Theo nghiên cứu của Phạm Thụy Thùy Trâm (2016), mục tiêu đặt ra chủ yếu chỉ đạt mức trung bình, với 98 trong số 300 sinh viên cho thấy rằng số lượng này chiếm phần lớn, trong khi việc thiết lập mục tiêu thường xuyên và liên tục vẫn chưa được thực hiện đầy đủ.
Hình 4- Mức độ thường xuyên của việc chọn thời gian đọc sách của SV TDMU
Rất thường xuyên Thường xuyên Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Rất thường xuyên Thường xuyên Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Hình 5- Mức độ thường xuyên của việc xác định mục tiêu trước khi đọc sách của SV TDMU
Việc lập kế hoạch trước khi đọc sách là một thao tác quan trọng mà hầu hết sinh viên thực hiện, với 286 sinh viên tham gia, chiếm tỷ lệ đáng kể.
Theo khảo sát, 79,3% sinh viên cho biết họ có thói quen lập kế hoạch trước khi đọc sách Tuy nhiên, có đến 21,7% sinh viên, tương đương 1/5 số người được khảo sát, cho biết họ không bao giờ lập kế hoạch trước khi đọc.
(Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
3.1.2 Giai đoạn đọc sách Ở giai đoạn này, mỗi sinh viên có những lựa chọn khác nhau về phương pháp đọc và mức độ thường xuyên áp dụng phương pháp đó để một quyển sách. Đối với phương pháp đọc toàn văn là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất với số lượng 282/300 sinh viên được khảo sát có sử dụng phương pháp đó Và
Rất thường xuyên Thường xuyên Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Theo bảng 4, trong số sinh viên TDMU, 92/300 sinh viên cho biết họ thường xuyên lập kế hoạch trước khi đọc sách, trong khi 77/300 sinh viên thực hiện điều này ở mức trung bình.
Mức độ thường xuyên Đọc toàn văn Đọc lướt Đọc từ khóa
Tần suất (%) Tần số Tần suất
Bảng 4 – Mức độ thường xuyên áp dụng các phương pháp đọc của SV TDMU (Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
Phương pháp đọc lướt, tương tự như đọc toàn văn, được áp dụng phổ biến và chiếm khoảng 1/3 tổng số sinh viên tham gia khảo sát.
Nhận thức của sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một về vai trò của việc đọc sách
Mục đích đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Mỗi cá nhân đọc sách với những mục đích đa dạng, từ việc tìm kiếm kiến thức đến giải trí Một số người chỉ đọc sách vì một lý do cụ thể, trong khi những người khác có thể có nhiều mục tiêu khác nhau khi tiếp cận văn bản.
Khi được khảo sát về mục đích đọc sách để kích thích tinh thần, 81,3% sinh viên cho biết họ không có mục đích này.
Sách là nguồn tài liệu quý giá ghi chép kiến thức và kinh nghiệm lịch sử xã hội, giúp con người kế thừa và phát huy Tại trường Đại học Thủ Dầu Một, đa số sinh viên đã nhận thức rõ điều này, với 213 trong số 300 sinh viên được khảo sát đặt mục tiêu đọc sách.
Bảng 8 – Mục đích trao dồi kiến thức khi đọc sách của SV
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm,
Hình 8 - Mục đích kích thích tinh thần khi đọc sách của SV TDMU
Gần 1/3 sinh viên tham gia khảo sát cho biết họ không đọc sách để trau dồi kiến thức, điều này phản ánh một thực trạng đáng suy ngẫm trong cộng đồng học sinh sinh viên hiện nay.
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một cho biết họ không có mục đích củng cố vốn từ và cách hành văn khi đọc sách Kết quả khảo sát cho thấy có đến 2/3 số sinh viên, tương đương 201 sinh viên, đã trả lời "Không" khi được hỏi về việc này.
Nghiên cứu của Phạm Thụy Thùy Trâm (2016) cho thấy phần lớn sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một không xem việc đọc sách chỉ là cách để giết thời gian Kết quả khảo sát đã chỉ ra rằng sinh viên có những mục đích rõ ràng và ý nghĩa hơn trong việc đọc sách.
Hình 9- Mục đích củng cố vốn từ và cách hành văn khi đọc sách của SV
82,3% sinh viên trả lời “Không” khi được hỏi có phải mục đích của việc giải trí là giết thời gian (Bảng 9).
Giải trí Giết thời gian
Cải thiện khả năng tập trung
Tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo
Bảng 9 – Mục đích đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Theo khảo sát, 54,7% sinh viên, tương đương 164 trên 300 sinh viên, cho rằng đọc sách là một hoạt động giải trí.
Sinh viên không coi việc đọc sách là một phương tiện để "Hoàn thiện nhân cách", "Cải thiện khả năng tập trung" và "Tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo", với tỷ lệ lần lượt là 67,3%, 79,3% và 55%.
Tuy nhiên, có một điều đáng lưu ý đó là sinh viên trường Đại học Thủ Dầu
Một cũng không có mục đích hoàn thành yêu cầu của giáo viên
Mục đích hoàn thành yêu cầu của giáo viên khi đọc sách chỉ đạt 23% trong tổng số sinh viên được khảo sát, như thể hiện trong hình 10.
(Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
Vai trò của việc đọc sách đối với việc học của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Nhận thức đúng về vai trò của việc đọc sách là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của sinh viên Điều này ảnh hưởng đến cách thức họ thực hiện các bước trong quá trình đọc sách.
Mặc dù sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một đang nỗ lực học tập, thực trạng đọc sách của họ vẫn chưa đạt yêu cầu Điều này cho thấy rằng sinh viên tại đây vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đọc sách trong quá trình học tập và phát triển bản thân.
Sinh viên TDMU nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc đọc sách trong học tập, giúp họ trau dồi kiến thức Khi đọc sách, họ thường đặt ra những mục tiêu cụ thể, như mở rộng hiểu biết về các lĩnh vực mới Đây là mục tiêu thiết yếu mà hầu hết sinh viên mong muốn đạt được thông qua hoạt động đọc sách.
Cùng suy nghĩ đó, bạn Đ.Q.T cũng khẳng định: “Sách cung cấp kiến thức cho mình” (Phụ lục 7- gỡ băng phỏng vấn sâu sinh viên Đ-Q-T) và bạn H., sinh viên năm
Đọc sách đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung kiến thức và phát triển vốn từ vựng Qua việc tìm hiểu và học hỏi từ nội dung sách, người đọc có thể mở rộng hiểu biết và nâng cao khả năng tư duy.
Nhiều sinh viên vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của việc đọc sách trong việc hoàn thiện nhân cách, cải thiện khả năng tập trung, và tăng cường tư duy, phân tích, sáng tạo Một ví dụ điển hình là sinh viên năm 2, khoa Xây dựng, bạn L., đã chia sẻ: “Mình thì thích sách nào đọc sách đó thôi chứ không quan trọng,” cho thấy sự thiếu hiểu biết về lợi ích của việc đọc sách.
Một số sinh viên có nhận thức cao về tầm quan trọng của việc đọc sách, như N.Q.N, sinh viên năm nhất khoa Công tác xã hội, đã chia sẻ rằng việc đọc sách giúp cải thiện khả năng suy nghĩ và phán đoán, đồng thời hỗ trợ cho việc học tập và cuộc sống Cùng quan điểm, L.T.N, sinh viên năm nhất khoa Sư phạm, nhấn mạnh rằng đọc sách rất quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng, giúp bình tĩnh và phát triển tư duy, đồng thời kích thích não bộ hoạt động và cải thiện sự minh mẫn.
Dựa vào các số liệu phân tích, sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một đã nhận thức được vai trò của việc đọc sách trong học tập và đời sống Tuy nhiên, nhận thức này vẫn chưa đầy đủ, chỉ một bộ phận nhỏ sinh viên nhận ra tầm quan trọng của việc đọc sách không chỉ trong học tập mà còn trong nhiều lĩnh vực khác Điều này giải thích lý do tại sao sinh viên vẫn chưa dành nhiều thời gian và công sức cho việc đọc sách.
Những yếu tố chi phối việc đọc sách của sinh viên
Những yếu tố chủ quan chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
1.1 Kết quả học tập và việc đọc sách
Có một mối liên hệ khá là chặt chẽ giữa học lực và thời gian mà sinh viên trường ĐH Thủ Dầu Một đọc sách.
Bảng 10 – Ảnh hưởng của học lực đến thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 9 cells (45,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 1,00.
Kết quả từ bảng kiểm định Chi-Square Tests cho thấy Sig = 0,044, nhỏ hơn a = 0,05, cho phép chúng tôi kết luận rằng học lực có ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU.
Theo bảng 10, hơn 50% sinh viên dành từ 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách Nhóm sinh viên có học lực giỏi chủ yếu đọc sách từ 60 phút đến 2 giờ, chiếm 28,1% tổng số sinh viên giỏi tham gia khảo sát Trong khi đó, sinh viên có học lực khá và trung bình khá đọc sách với thời gian tương đương mức trung bình, lần lượt chiếm 57,8% và 53,7% Đặc biệt, nhóm sinh viên có học lực trung bình lại dành ít thời gian đọc sách hơn mức trung bình, với 47,8% trong nhóm này chỉ đọc từ 0-30 phút mỗi ngày.
1.2 Giới tính và việc đọc sách Đã có một sự phân bố đồng đều theo giới tính trong việc dành thời gian đọc sách mỗi ngày từ 30-60 phút Dễ dàng nhận thấy nhất là ở khoảng thời gian 30-60 phút đều chiếm tỷ lệ cao nhất ở từng nhóm giới tính và lần lượt chiếm 52% ở nam và 49,6% ở nữ (bảng 11).
Trên hai giờ Tần số 8 3 11
Bảng 11 – Ảnh hương của giới tính và thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 2 cells (20,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 4,42.
Kết quả từ bảng kiểm định Chi-Square Tests cho thấy Sig = 0,152, lớn hơn mức ý nghĩa a = 0,05, do đó giả thuyết Ho được chấp nhận Điều này cho thấy giới tính không ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU.
1.3 Năm học và việc đọc sách
Theo số liệu thống kê, tỉ lệ sinh viên dành từ 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách không có sự khác biệt qua các năm học Mặc dù tỉ lệ này không đồng đều, nhưng vẫn chiếm đa số ở tất cả các năm học, cho thấy rằng sinh viên từ năm nhất đến năm tư đều có thói quen đọc sách trong khoảng thời gian này.
Năm tư Thời gian đọc sách
Bảng 12 – Ảnh hưởng của năm học đến việc đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 2 cells (20,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 4,42.
Kiểm định Chi-square Test một lần nữa khẳng định điều này khi số Sig=0,152
> a = 0,05 nên chấp nhận H0, tức là chấp nhận giả thuyết “yếu tố năm học không có tác động gì đến thời gian đọc sách của SV TDMU”.
1.4 Ngành học và việc đọc sách
Ngành học không phải là yếu tố quyết định đến thói quen đọc sách của sinh viên TDMU, điều này được chứng minh qua việc thời gian đọc sách giữa các Khoa không có sự khác biệt rõ rệt.
Ngành Sư phạm dẫn đầu về số lượng sinh viên đọc sách với tỷ lệ 14%, tiếp theo là ngành Luật với 13,3% Ngành Công nghệ thông tin chiếm 8% sinh viên đọc sách, trong khi sinh viên từ khoa Kinh tế và khoa Tài nguyên Môi trường có tỷ lệ đọc sách gần tương đương, đạt 7,3%.
Khoa Khoa học Tự nhiên và Khoa Xây dựng nổi bật với tỷ lệ sinh viên đọc sách cao nhất, đạt 6,7% Theo sau là sinh viên Khoa Ngoại ngữ và Khoa Công tác xã hội, với tỷ lệ 6%.
Tại các khoa như Khoa Sử, Khoa Điện – Điện tử, Khoa Ngôn ngữ Trung Quốc và Khoa Ngữ văn, tỷ lệ sinh viên đọc sách lần lượt đạt 5,3%; 5,3%; 4,7% và 4,7% (bảng 13).
Ngoại ngữ 3 5,0 8 6,8 0 0,0 0 0,0 3 30,0 14 6,1 Điện - Điện tử 3 5,0 7 6,0 0 0,0 3 27,
Bảng 13 – Ảnh hưởng của ngành học đến thời gian đọc sách của SV TDMU
N of Valid Cases 231 a 53 cells (75,7%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,39.
Học lực là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU, với những sinh viên có học lực cao thường dành nhiều thời gian cho việc đọc sách hơn so với những sinh viên có học lực thấp.
Yếu tố khách quan chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
2.1 Không gian đọc sách và việc đọc sách
Thời gian và địa điểm đọc sách của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một có mối liên hệ chặt chẽ Theo khảo sát, sinh viên dành từ 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách, chủ yếu tại nhà hoặc phòng trọ (50,4%) Tiếp theo, quán cà phê sách là nơi phổ biến thứ hai với 20,5%, trong khi 14,5% sinh viên chọn đọc tại nhà sách Thư viện thu hút 11,1% sinh viên, và cuối cùng, lớp học cùng công viên đều có tỷ lệ 1,7% cho hoạt động đọc sách.
Thời gian đọc sách Đọc sách ở đâu
2 giờ Tần suất (%) 18,2 24,2 39,4 9,1 0,0 6,1 3,0 100,0 Trên hai giờ
Bảng 14 - Ảnh hưởng của nơi đọc sách đến thời gian đọc của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 22 cells (62,9%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,17.
Kết quả phân tích cho thấy Sig = 0,001 < a = 0,05, cho phép chúng ta chấp nhận giả thuyết H1, tức là có mối liên hệ giữa nơi đọc sách và thời gian đọc sách của sinh viên TDMU Điều này khẳng định rằng nơi đọc sách là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên tại trường.
2.2 Việc làm thêm và việc đọc sách
Nhiều người thường nghĩ rằng sinh viên làm thêm sẽ không có đủ thời gian để đọc sách, nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy quan niệm này không còn đúng Việc làm thêm không ảnh hưởng đáng kể đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU, với tỷ lệ sinh viên làm thêm là 51,3% so với 48,7% sinh viên không làm thêm, cho thấy sự chênh lệch không lớn.
Thời gian đọc sách 0-30 phút Tần số 28 32 60
Trên hai giờ Tần số 7 4 11
Bảng 15 – Ảnh hưởng của việc làm thêm đến thời gian đọc sách của SV
TDMU (Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 1 cells (10,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 4,98.
Mặc dù thống kê cho thấy sinh viên có việc làm dành 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách nhiều hơn so với sinh viên không đi làm, nhưng chúng ta không thể rút ra kết luận chắc chắn Dựa trên kết quả kiểm định Chi-Square với giá trị Sig = 0,802, lớn hơn mức ý nghĩa a = 0,05, chúng tôi kết luận rằng việc làm thêm không ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU.
2.3 Nguồn sách và việc đọc sách Đối với khung thời gian đọc sách từ 30-60 phút mỗi ngày, sinh viên có nguồn sách tự mua là chiếm đa số với tỉ lện 38,5%; tiếp theo là những sinh viên có nguồn sách mượn (36,8%); kế đến là những sinh viên sử dụng nguồn sách từ Internet, có lẽ là do điều kiện cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ; Một nguồn kế tiếp đó là sách thuê/mướn, có lẽ do tốn khá nhiều chi phí cho việc thuê mướn nếu không đọc nhanh nên đa phần sinh viên cũng tranh thủ đọc và cuối cùng là sách được tặng với tỉ lệ 5,1% (bảng 16).
Mặc dù các số liệu hiện có chưa đủ để khẳng định rằng nguồn sách ảnh hưởng đến thời gian đọc, nhưng để có bằng chứng cụ thể và khoa học hơn, chúng ta sẽ áp dụng kiểm định Chi-Square Test.
Thuê/ mướn Mượn Được tặng
Bảng 16- Ảnh hưởng của nguồn sách đến thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm)
N of Valid Cases 231 a 19 cells (63,3%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,17.
Kết quả kiểm định Chi-Square Test cho thấy giá trị Sig=0, nhỏ hơn mức ý nghĩa a=0,05, điều này cho phép chúng tôi khẳng định rằng nguồn sách là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên TDMU.
2.4 Đối tượng cùng đọc sách và việc đọc sách
Trong khoảng thời gian từ 30-60 dành cho việc đọc sách mỗi ngày thì có đến 77,8%
Sinh viên chủ yếu chọn cách đọc sách một mình, với chỉ 22,2% sinh viên tham gia vào việc đọc cùng người khác Trong số đó, tỷ lệ đọc cùng người thân chỉ đạt 0,9%, đọc cùng thầy cô là 4,3%, và đọc cùng bạn bè chiếm 17,1%.
Người thân trong gia đình
Một mình Thời gian đọc sách
Tần suất (%) 0,0 0,0 18,2 81,8 100,0 Trên hai giờ
Bảng 17 - Ảnh hưởng của đối tượng cùng đọc sách đối với thời gian đọc sách của SV TDMU (Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 12 cells (60,0%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,09.
Kết quả kiểm định Chi-Square Test cho thấy Sig = 0,159, lớn hơn mức ý nghĩa a = 0,005, cho phép khẳng định rằng việc đọc sách của sinh viên TDMU không bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh cùng đọc sách.
Nhiều yếu tố khách quan ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên TDMU, trong đó, địa điểm đọc sách là yếu tố nổi bật nhất Đặc biệt, hầu hết sinh viên thường đọc sách tại nhà trọ với thời gian từ 30-60 phút mỗi ngày.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, nhóm chúng tôi đã được giảng viên tận tình hướng dẫn và gợi ý, giúp ứng dụng hiệu quả các kiến thức và kỹ năng đã học Sự hỗ trợ này đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Sau khi nghiên cứu thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một, chúng tôi nhận thấy rằng họ hiểu rõ vai trò quan trọng của việc đọc sách trong việc cung cấp tri thức mới và rèn luyện khả năng tập trung Nhờ vào nhận thức này, sinh viên đã dành từ 30-60 phút mỗi ngày cho việc đọc sách và khám phá nhiều thể loại khác nhau.
Thực trạng đọc sách của sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một vẫn chưa đạt yêu cầu, do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của việc đọc sách Các yếu tố chủ quan như học lực và yếu tố khách quan như môi trường đọc sách cũng ảnh hưởng đến thói quen đọc của sinh viên.
Mặc dù phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có điều kiện được sử dụng trong nghiên cứu định lượng, nhưng nó chưa phải là phương pháp đại diện tốt nhất Việc áp dụng lý thuyết để giải thích vấn đề vẫn chưa được thực hiện một cách phù hợp.
Kiến nghị
2.1 Về phía bản thân sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
- Tìm thêm các tài liệu hướng dẫn các kỹ năng đọc phù hợp với mỗi cá nhân
Tham gia tích cực các hội thảo, tập huấn và diễn đàn sẽ giúp nâng cao nhận thức và kỹ năng đọc sách Những hoạt động này không chỉ cung cấp kiến thức bổ ích mà còn tạo cơ hội giao lưu, học hỏi từ những người có cùng sở thích Việc cải thiện kỹ năng đọc sách là rất quan trọng trong việc phát triển bản thân và mở rộng tri thức.
Chủ động kết nối với các cá nhân và tổ chức sở hữu nguồn sách phong phú sẽ giúp bạn mở rộng tài liệu tham khảo và tăng cường khả năng tiếp cận tri thức mới.
- Nâng cao số lượng, chất lượng của sách ở tại Thư viện để kích thích hoạt động đọc của sinh viên
Chúng tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động như hội thảo, tập huấn và diễn đàn, trong đó sinh viên được tham gia thảo luận về các chủ đề liên quan đến việc đọc sách Những sự kiện này không chỉ khuyến khích thói quen đọc mà còn tạo cơ hội để sinh viên chia sẻ ý kiến và kinh nghiệm của mình.
- Nhân viên thư viện niềm nở, tận tình hướng dẫn sinh viên đọc sách
2.3 Về phía nhóm nghiên cứu
- Tìm thêm các tài liệu có nội dung liên quan đến phương pháp nghiên cứu khoa học và xã hội học nhằm cải thiện năng lực nghiên cứu.
Nghiên cứu sâu về nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách là cần thiết để hiểu rõ hơn về thói quen đọc hiện tại Đồng thời, cần đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện khả năng đọc sách của sinh viên, giúp họ phát triển kỹ năng này trong bối cảnh hiện đại.