Tính tất yếu của hoạt động đầu t nớc ngoài trên thị trờng chứng khoán Việt Nam
1.1.1 Định hớng của Đảng và Nhà nớc
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động ĐTNN đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam, ngay từ những năm cuối thập kỷ
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vào năm 1980, quan điểm mở cửa được đưa ra nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế quốc dân Đảng và Nhà nước đã đề ra các chính sách, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và khai thác hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chủ động và khẩn trương hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định và có tính cạnh tranh cao Đồng thời, cần tăng cường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài Bên cạnh đó, cần thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt chú trọng đến các thị trường quan trọng như thị trường lao động và thị trường chứng khoán, hiện còn sơ khai.
1 Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá IX
Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và các văn bản liên quan nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn Các văn bản pháp luật này được nghiên cứu để đánh giá hiệu quả và kịp thời sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn kinh tế Quan điểm về hội nhập kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài được khẳng định trong giai đoạn 2001-2005 với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và nâng cao sức cạnh tranh Định hướng của Đảng và Nhà nước đã mở ra cơ hội cho mọi lĩnh vực tiếp cận nguồn lực bên ngoài, bao gồm cả ngân hàng tài chính và thị trường chứng khoán, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động đầu tư nước ngoài trên thị trường này.
1.1.2 Thực trạng nguồn vốn nớc ngoài chảy vào Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ sau hơn 10 năm đổi mới, với tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,4% Lạm phát đã giảm từ mức ba con số trong những năm 80 xuống còn một con số trong gần hết thập kỷ 90, góp phần cải thiện đáng kể đời sống của người dân Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường này.
Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam Mặc dù dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu mạnh mẽ từ đầu những năm 1990, nhưng mức độ không ổn định đã gây ra những thách thức Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, lượng vốn này đã giảm mạnh và hồi phục chậm chạp Tuy nhiên, sự đóng góp của đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào nền kinh tế Việt Nam là rất lớn, thể hiện qua tỷ trọng đóng góp của khu vực có vốn ĐTNN vào GDP tăng hàng năm.
Việt Nam hiện có bốn nguồn vốn chính: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vay thương mại và đầu tư danh mục chứng khoán (FPI) Trong đó, FDI là nguồn vốn quan trọng nhất, mang lại ý nghĩa lớn do tính chất dài hạn và không tạo ra nghĩa vụ nợ nước ngoài FDI không chỉ thúc đẩy sản xuất mà còn đi kèm với chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý Mặc dù FDI có thể gây ra một số tác động tiêu cực như chất lượng đầu tư thấp, cản trở đầu tư trong nước và ô nhiễm môi trường, nhưng lợi ích mà nó mang lại cho nền kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá cao.
Biểu đồ 1: Đ óng góp của đầu t n ớ c ngoài vào
Tăng tr ởng GDP Đ óng góp Đ TNN/GDP
Nguồn: Tổng cục Thống kê và World Bank cao hơn và có ảnh hởng lớn hơn trong công tác hoạch định chính sách thu hút ĐTNN
Tính đến cuối năm 2003, Việt Nam đã cấp giấy phép cho 5.424 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt 54,8 tỷ USD Trong số đó, có 4.376 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là 41 tỷ USD Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, với 66,9% số dự án và 57,2% tổng vốn đầu tư Lĩnh vực dịch vụ đứng thứ hai, trong khi nông, lâm nghiệp chỉ chiếm 13,6% tổng số dự án và 7% về vốn đăng ký.
Trong sè 64 n- ớc và vùng lãnh thổ có dự án đầu t tại
Singapore là nớc có số lợng dự án và tổng vốn đầu t ®¨ng ký lín nhÊt, tiếp theo là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông
Các thành phố lớn với điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi tiếp tục dẫn đầu trong việc thu hút đầu tư nước ngoài Cụ thể, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 26% tổng vốn đăng ký, trong khi Hà Nội đóng góp 11,1% Ngoài ra, Bình Dương và Đồng Nai cũng nhận được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài.
Biểu đồ 2: Đ ầu t trực tiếp n ớ c ngoài theo ngành
Công nghiệp Nông, lâm nghiệp Dịch vụ
80% Đ ầu t thực hiện TVĐ T Tỷ trọng số dự án
Nguồn: Cục Đầu t n ớc ngoài – Bộ Kế hoạch và §Çu t
Tính đến hết năm 2003, các dự án đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã đạt tổng doanh thu gần 70 tỷ USD, không bao gồm doanh thu từ dầu khí Trong ba năm 2001-2003, doanh thu đạt khoảng 38,8 tỷ USD Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, với mức tăng trung bình trên 20% mỗi năm, góp phần làm tăng tỷ trọng của khu vực này trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước qua các năm.
Kết quả tích cực từ năm 2001 đến năm 2003, với tỷ lệ tăng trưởng lần lượt là 24,4%, 27,5% và 31,4%, cho thấy sự đúng đắn của chính sách đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế Điều này đã tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư và là tiền đề cho các luồng vốn nước ngoài, đặc biệt là qua kênh thị trường chứng khoán, di chuyển vào Việt Nam trong thời gian tới.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Việc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng với nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã giúp các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đạt được sự tăng trưởng kinh tế đáng kể ODA, với đặc điểm cho không hoặc cho vay ưu đãi và thời gian ân hạn dài, luôn thu hút sự quan tâm của các quốc gia Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng đi kèm với áp lực từ các điều kiện ràng buộc của nhà tài trợ và yêu cầu về vốn đối ứng Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác phát triển với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi Chính phủ, qua đó đã huy động được tổng cộng 19,94 tỷ USD từ ODA.
Nhằm đa lợng vốn cam kết này vào thực hiện, Việt Nam đã tiến hành ký kết các Điều ớc quốc tế cụ thể với các nhà tài trợ.
Tình hình thực hiện ODA đợc thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1: Tình hình thực hiện vốn ODA tại Việt Nam
Năm Cam kết ODA (triệu
USD) Thực hiện ODA (triệu
Nguồn: World Bank; Bộ Kế hoạch và Đầu t
Tình hình thực hiện ODA đã có bớc tiến triển khá, năm sau cao hơn năm trớc, và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hàng năm.
Từ năm 1993 đến hết năm 2001, vốn ODA giải ngân khoảng 9,5 tỷ USD, tơng đơng 47,91% tổng nguồn vốn ODA đã cam kết
Nguồn vốn ODA đã được phân bổ chủ yếu cho các lĩnh vực phát triển kinh tế và xã hội theo ưu tiên của Chính phủ, bao gồm ngành giao thông (27,5%), năng lượng điện (24%), phát triển nông nghiệp và nông thôn (12,74%), cùng với các lĩnh vực y tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ - môi trường (11,78%), và ngành cấp thoát nước (7,8%).
Kết quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 1993 đến nay cho thấy sự đóng góp quan trọng của nguồn ngoại lực này đối với phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam Thành công này có được nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành của Chính phủ trong việc xây dựng mối quan hệ gắn kết và uy tín với các nhà tài trợ, cũng như trong công tác chỉ đạo, giám sát và thực hiện ODA Những kinh nghiệm trong huy động, sử dụng và quản lý ODA sẽ hỗ trợ Chính phủ trong việc thu hút các nguồn vốn nước ngoài khác, bao gồm cả nguồn vốn từ thị trường chứng khoán.
Vay thương mại là hình thức cung ứng vốn giữa cá nhân, tổ chức hoặc chính phủ một quốc gia với đối tác quốc tế, dựa trên nguyên tắc thương mại thuần túy, yêu cầu hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo thời hạn đã xác định Các nguyên tắc vay thương mại không có ưu đãi, tuân theo lãi suất thương mại quốc tế như LIBOR hoặc SIBOR Trong nhiều năm qua, hình thức tài trợ này đã tạo ra dòng vốn lớn vào các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi Mặc dù người vay có quyền quyết định sử dụng vốn, nhưng họ cũng đối mặt với nguy cơ gia tăng nợ lãi và gốc, cùng áp lực lạm phát Tại Việt Nam, vay thương mại đã phát triển từ sớm nhưng phải chịu lãi suất và điều kiện thương mại, dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng Vay thương mại đã làm tăng tổng nợ nước ngoài của Việt Nam từ 10,7 tỷ USD năm 1999 lên 15,1 tỷ USD năm 2003.
Vốn đầu t qua thị tr ờng chứng khoán (FPI)
Vốn nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán đang ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc gia Với tính thanh khoản cao, dòng vốn này dễ dàng bị ảnh hưởng khi điều kiện kinh tế trong nước thay đổi, dẫn đến sự biến động lớn trong các luồng vốn vào và ra.
Đầu t nớc ngoài trên thị trờng chứng khoán
1.2.1 Các hình thức tham gia của nhà đầu t nớc ngoài vào thị trờng chứng khoán
1.2.1.1 Tại thị trờng chứng khoán các quốc gia trên thế giíi
Thị trờng chứng khoán manh nha phát triển từ thế kỷ thứ 15.
Sau nhiều biến động, nhiều quốc gia đã chứng kiến sự phát triển sôi động của các thị trường với sự tham gia đa dạng từ các nhà đầu tư khác nhau Đối với nhà đầu tư nước ngoài, thường có các hình thức tham gia như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và hợp tác kinh doanh.
Hình thức đầu tư trực tiếp là khi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thành lập các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán, và các tổ chức liên quan như tổ chức lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán, cũng như tổ chức định mức tín nhiệm Những tổ chức này hoạt động như pháp nhân tại quốc gia sở tại, thực hiện mua bán chứng khoán cho chính mình, cung cấp dịch vụ tự doanh và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán, công ty niêm yết, công ty cổ phần và nhà đầu tư.
Hình thức đầu tư tổ chức, thường đến từ các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực tài chính, nhân lực, công nghệ và trình độ quản trị cao, tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ lên thị trường chứng khoán trong nước Do đó, cơ quan quản lý thị trường, đặc biệt tại các thị trường mới, luôn chú trọng giám sát chặt chẽ các nhà đầu tư này để vừa tận dụng thế mạnh của họ, vừa hạn chế sự chi phối của nước ngoài và kiểm soát các biến động khó lường.
Đầu tư trực tiếp cho phép nhà đầu tư liên doanh với đối tác trong nước hoặc thành lập tổ chức kinh doanh 100% vốn nước ngoài Tùy thuộc vào chính sách của từng quốc gia và mức độ phát triển thị trường, các tổ chức kinh doanh chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài có thể tham gia vào thị trường với các mức độ hạn chế và khuyến khích khác nhau Thị trường phát triển mạnh thường cho phép đầu tư nước ngoài 100% vốn để thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán và trở thành thành viên Sở giao dịch Ngược lại, ở các thị trường mới phát triển với khả năng quản lý yếu, hình thức tham gia trực tiếp thường bị hạn chế và không cho phép thành lập tổ chức liên doanh hoặc trở thành thành viên Sở giao dịch, cũng như không được cung cấp một số dịch vụ liên quan đến chứng khoán.
Đầu tư gián tiếp của người nước ngoài vào thị trường thường được thực hiện qua các nhà đầu tư riêng lẻ hoặc tổ chức, không có tư cách pháp nhân tại nước sở tại Do đó, họ không được phép kinh doanh các dịch vụ liên quan đến chứng khoán Hoạt động duy nhất liên quan đến chứng khoán mà họ có thể tham gia là mua cổ phần, cổ phiếu hoặc các loại chứng khoán khác của các công ty và tổ chức trong nước, bất kể chúng đã được niêm yết hay chưa.
Hình thức đầu tư này có khả năng chi phối thị trường mạnh mẽ, nhưng việc quản lý trở nên khó khăn do sự chênh lệch lớn giữa các khoản vốn đầu tư và tính lỏng cao, khiến vốn nhạy cảm với biến động thị trường Mặc dù chịu sự điều chỉnh của pháp luật, các nhà đầu tư vẫn có thể lợi dụng kẽ hở để thực hiện giao dịch cổ phiếu và trái phiếu, gây ra sự xáo trộn trên thị trường Hiện tượng này đã diễn ra phổ biến tại nhiều thị trường chứng khoán, đặc biệt là ở các thị trường mới nổi, dẫn đến việc nhiều quốc gia áp dụng các quy định nghiêm ngặt đối với loại hình đầu tư này.
Phát hành một loại cổ phiếu dành riêng cho nhà ĐTNN
Tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty được quy định dựa trên tính trọng yếu và tầm ảnh hưởng của từng ngành nghề đối với thị trường, nền kinh tế và an ninh quốc gia.
Hình thức đầu tư gián tiếp được coi là dễ tiếp cận và thực hiện hơn, với các quy định và thủ tục đơn giản, điều này làm cho nó trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Niêm yết cổ phiếu của công ty có vốn n ớc ngoài trên Sở giao dịch
Trên thị trường chứng khoán, có sự xuất hiện của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm các công ty liên doanh giữa đối tác trong nước và nước ngoài, cũng như các công ty 100% vốn nước ngoài Những công ty này có thể được thành lập và đặt trụ sở tại quốc gia niêm yết cổ phiếu, trở thành pháp nhân của quốc gia đó, hoặc cũng có thể được thành lập ở nước ngoài, là pháp nhân nước ngoài và niêm yết cổ phiếu trên thị trường trong nước.
Các công ty lớn và đa quốc gia đặc biệt quan tâm đến việc niêm yết và huy động vốn qua thị trường chứng khoán trong nước vì đây là nhu cầu thiết yếu cho sự phát triển của họ Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc này không chỉ giúp họ hoạt động hiệu quả tại thị trường sở tại mà còn đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô Hơn nữa, các công ty nước ngoài thường tìm kiếm nguồn vốn từ thị trường chứng khoán quốc tế do thị trường trong nước không đủ khả năng cung cấp vốn cần thiết cho sự phát triển bền vững của họ.
Thị trường chứng khoán trong nước không thể tiêu thụ hết cổ phiếu phát hành, do đó việc niêm yết tại thị trường tiềm năng hoặc mục tiêu sẽ giúp công ty xây dựng vị thế và củng cố hình ảnh toàn cầu Niêm yết trên thị trường quốc tế cũng cho phép giao dịch bằng đồng bản tệ mà không cần vay mượn hay mua bán ngoại tệ qua ngân hàng thương mại Ngoài ra, phát hành cổ phiếu chỉ ở thị trường nội địa sẽ giới hạn số lượng cổ đông, dẫn đến việc một số ít nhà đầu tư lớn nắm giữ hầu hết cổ phần Ngược lại, niêm yết quốc tế giúp công ty đa dạng hóa cổ đông và giảm thiểu biến động giá cổ phiếu khi các cổ đông lớn bán cổ phần.
Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tham gia giao dịch và niêm yết trên thị trường có nhiều lợi thế, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn Việc thu hút vốn của những công ty này rất nhạy cảm, do đó họ phải chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt từ các cơ quan quản lý thị trường.
Các công ty cần tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về tính minh bạch tài chính, triển vọng phát triển, nhu cầu vốn tương lai, cơ cấu cổ đông và các tiêu chuẩn khác theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Chỉ những quốc gia có thị trường phát triển và tính thanh khoản cao mới có khả năng thu hút dòng vốn ra vào thị trường, vì các công ty phải đảm bảo khả năng tiêu thụ cổ phiếu phát hành và đạt được lợi ích như mong muốn.
Trên thị trường chứng khoán toàn cầu, các hình thức đầu tư nước ngoài (ĐTNN) có những đặc điểm và điều kiện áp dụng khác nhau, mang lại cả lợi thế và hạn chế riêng Điều này cho thấy rằng không phải tất cả các thị trường đều có khả năng duy trì và khuyến khích mọi hình thức đầu tư phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng phản ánh tính chất này, với những yếu tố riêng biệt ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của các hình thức ĐTNN.
1.2.1.2 Tại thị trờng chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam từ những ngày đầu đã chú trọng đến hoạt động đầu tư nước ngoài (ĐTNN) Các văn bản pháp lý quy định rõ các hình thức ĐTNN được phép tham gia và mức độ giới hạn của họ trên thị trường Dù các quy định này nằm trong những văn bản có hiệu lực pháp lý khác nhau, nhưng nhìn chung, một số hình thức ĐTNN có thể tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam đã được xác định rõ ràng.
Hình thức đầu t trực tiếp
Kinh nghiệm các nớc trong việc thu hút đầu t nớc ngoài trên thị trờng chứng khoán
1.3.1 Thực trạng hoạt động đầu t nớc ngoài tại một số thị trờng chứng khoán khu vực Châu á
Trong giai đoạn đầu xây dựng và vận hành thị trường chứng khoán, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách cho phép người nước ngoài tham gia với quy mô phù hợp Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết cho sự phát triển của thị trường Vấn đề không chỉ là cho phép đầu tư mà còn là xây dựng chính sách quản lý hiệu quả để tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro cho thị trường và nền kinh tế Chính sách ban đầu thường quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ chứng khoán và hình thức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường, tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài và các hình thức tham gia của họ cũng đã được mở rộng đáng kể.
1.3.1.1 Hình thức đầu t trực tiếp
Hầu hết các quốc gia không cho phép công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài hoạt động độc lập trong giai đoạn đầu của thị trường mới thành lập Các quy định yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải hợp tác với đối tác trong nước thông qua hình thức liên doanh với tỷ lệ góp vốn nhất định Khi thị trường phát triển, tỷ lệ này sẽ được nâng cao, cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài và các tổ chức kinh doanh chứng khoán khác tham gia sâu hơn và độc lập hơn vào thị trường.
Mức tham gia cao nhất là bên nớc ngoài đợc độc lập kinh doanh và đợc tạo điều kiện là thành viên Sở giao dịch.
Thị trường chứng khoán Nhật Bản được thành lập vào năm 1878 với Sở Giao dịch Chứng khoán Tokyo Đến năm 1972, Nhật Bản mới cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài mở chi nhánh tại quốc gia này.
Theo quy định, các công ty chứng khoán nước ngoài muốn mở chi nhánh tại Nhật Bản cần được Bộ Tài chính Nhật Bản phê duyệt Đối với các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng nước ngoài, cấu trúc sở hữu phải tối đa 50% từ các ngân hàng đa năng châu Âu hoặc ngân hàng thương mại Mỹ Năm 1986, công ty chứng khoán nước ngoài đầu tiên gia nhập thị trường Nhật Bản, và sau 10 năm, số lượng công ty này đã tăng lên 55 với 72 chi nhánh Hiện nay, trong tổng số 125 công ty chứng khoán tại Nhật, có 24 công ty là nước ngoài.
Tại thị trờng chứng khoán Thái Lan, cho tới cuối thập kỷ
Trong những năm 80, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Thái Lan rất hạn chế Tuy nhiên, vào thập kỷ 90, Thái Lan đã có những biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua việc nới lỏng quy định cho các công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 49% vốn cổ phần của một công ty chứng khoán, và chỉ 35% đối với các công ty tài chính-chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Malaysia, giống như nhiều thị trường mới nổi khác, có các quy định hạn chế đối với sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài Các công ty chứng khoán nước ngoài chỉ được hoạt động thông qua hình thức liên doanh với các công ty trong nước, với tỷ lệ góp vốn ban đầu là 30%, sau đó tăng lên 49% vào cuối thập kỷ 80 Tuy nhiên, sự quản lý chặt chẽ từ nhiều cơ quan nhà nước trong việc cấp phép cho các công ty chứng khoán liên doanh, cùng với nhiều yêu cầu khắt khe đối với nhà đầu tư nước ngoài, đã khiến thị trường chứng khoán Malaysia trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện cha có công ty liên doanh nào nâng mức góp vốn liên doanh trên 30%.
Thị trường chứng khoán Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ nhờ nền tảng kinh tế vững chắc và các chính sách huy động nguồn lực hợp lý Ban đầu, chính phủ chỉ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài hoạt động dưới hình thức liên doanh với các công ty trong nước Tuy nhiên, từ tháng 12/1992, theo luật mở rộng, các công ty chứng khoán nước ngoài được phép trở thành thành viên của Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KSE) sau khi được Ủy ban giám sát tài chính cấp phép Để mở chi nhánh tại Hàn Quốc, các công ty này cần đáp ứng các điều kiện về tình hình tài chính, sự ổn định trong hoạt động kinh doanh và cơ sở vật chất kỹ thuật.
Tại thị trờng chứng khoán Singapore, đến tháng 3/1992,
Sở Giao dịch Chứng khoán đã cấp phép cho 7 công ty chứng khoán nước ngoài trở thành thành viên của Sở Ban đầu, các công ty này chỉ được sở hữu tối đa 49% cổ phần trong công ty thành viên, sau đó tỷ lệ này đã tăng lên 70% và hiện tại là 100% Các thành viên nước ngoài có quyền giao dịch trên thị trường thứ cấp, đại diện cho các công ty liên đới nước ngoài hoặc cho người bản xứ, với điều kiện mỗi giao dịch không nhỏ hơn 3,1 triệu USD.
Vốn tối thiểu cho công ty thành viên nớc ngoài là 12,5 triệu USD.
1.3.1.2 Hình thức đầu t gián tiếp
Hình thức đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán thể hiện sự linh hoạt của các nhà quản lý trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi Họ thường áp dụng các quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như quy định về các ngành nghề và phát hành các loại cổ phiếu riêng biệt cho nhà đầu tư nước ngoài Những biện pháp này nhằm thu hút hiệu quả dòng vốn từ bên ngoài vào từng thị trường cụ thể.
Thị trường chứng khoán Nhật Bản cho phép đầu tư nước ngoài không bị giới hạn tại các công ty Nhật Bản, tuy nhiên, một số ngành công nghiệp nhất định có quy định về ngưỡng sở hữu tối đa.
Các quy định về đầu tư thay đổi tùy thuộc vào từng công ty trong các ngành công nghiệp khác nhau và sẽ được kiểm tra vào thời điểm dự kiến thực hiện Chẳng hạn, giới hạn sở hữu cổ phiếu thường là 33% đối với các công ty hàng không và 20% đối với công ty truyền thông Ngoài ra, các yêu cầu về báo cáo hoặc xin phép có thể áp dụng cho "các khoản đầu tư trong nước trực tiếp", tùy thuộc vào pháp luật của địa phương nơi nhà đầu tư thực hiện đầu tư và ngành công nghiệp mà công ty hoạt động.
Tại thị trường chứng khoán Thái Lan, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài bị giới hạn tùy theo hoạt động kinh doanh, điều này được quy định bởi Luật kinh doanh nước ngoài Theo luật này, các hoạt động kinh doanh được phân chia thành ba nhóm khác nhau.
Nhóm 1 là những hoạt động kinh doanh mà ngời nớc ngoài không đợc phép đầu t lên tới 100% vốn nếu không đợc chấp thuËn.
Nhóm 2 bao gồm các hoạt động kinh doanh mà người nước ngoài được phép đầu tư sau khi nhận giấy phép từ Bộ Thương mại theo Nghị quyết của Chính phủ Tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài trong nhóm này có thể đạt tới 60%, và trong một số trường hợp đặc biệt, có thể lên tới 75% đối với một số công ty.
Nhóm 3 bao gồm các hoạt động kinh doanh mà người Thái vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ để cạnh tranh với đối thủ nước ngoài Tuy nhiên, người nước ngoài vẫn có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh thuộc nhóm này.
Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc và sự phát triển Thị trờng chứng khoán Việt Nam
2.1.1 Quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà níc thêi gian qua
Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách và biện pháp tích cực để đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là thông qua hoạt động cổ phần hóa Sự đóng góp của cổ phần hóa đối với sự phát triển và cải thiện hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước là rất lớn.
Chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được triển khai thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1992, khởi đầu cho quá trình cải cách hệ thống DNNN Tuy nhiên, trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế từ 1993 đến 1997, tiến trình cổ phần hóa đã gần như bị ngừng lại Đến cuối thập kỷ 90, cổ phần hóa đã được thúc đẩy mạnh mẽ, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong cải cách kinh tế.
Chương trình 'hồi sinh' DNNN được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng khóa IX, nhằm sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 đã thiết lập khung pháp lý cho việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, hỗ trợ quá trình đổi mới Gần đây, vào ngày 30/3/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 11/CT-TTg, nhấn mạnh việc đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN.
Theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX, việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Tính tới cuối năm 2003, tổng số DNNN đợc cổ phần hoá lên tới gần
1400 doanh nghiệp, riêng gần 3 năm từ 2001, số doanh nghiệp đ- ợc CPH là 979, chiếm 71,6% tổng số doanh nghiệp đã CPH Số l- ợng doanh nghiệp CPH tăng mạnh vào năm 2003:
Nguồn: Thông tin tổng hợp
Các bộ và địa phương thực hiện cổ phần hóa hiệu quả bao gồm Bộ Công nghiệp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng với các tỉnh như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Thanh Hóa, Hà Tây và Thái Nguyên Đặc biệt, năm 2003 ghi nhận sự gia tăng số lượng doanh nghiệp quy mô lớn được cổ phần hóa so với trước đây.
2003, có 7,9% doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn Nhà nớc từ 10 tỉ đồng trở lên, năm 2003 có 15%).
Theo báo cáo từ hơn 500 doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh có sự chuyển biến tích cực Các chỉ tiêu như vốn điều lệ tăng từ 5-100%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, và nộp ngân sách nhà nước tăng 45% Thu nhập của người lao động cũng tăng 63%, trong khi cổ tức thực hiện trung bình năm 2002 đạt 15,5% Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc và kỹ thuật hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế.
Cổ phần hoá đã đạt được một số mục tiêu theo Nghị quyết, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế Mặc dù tiến độ cổ phần hoá đã được cải thiện, chỉ đạt hơn 60% kế hoạch đề ra Việc thực hiện cổ phần hoá không đồng đều giữa các bộ, ngành và địa phương, dẫn đến tình trạng chồng chéo trong quản lý và kinh doanh Các doanh nghiệp cổ phần hoá thường có quy mô nhỏ, hạn chế khả năng huy động vốn và thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư tiềm năng về vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự chậm trễ và chất lượng chưa cao trong cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ yếu xuất phát từ nhận thức của cán bộ quản lý và người lao động, cũng như các cơ quan chủ quản Sự thiếu quyết tâm trong việc chỉ đạo và thực hiện theo đề án tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phản ánh sự không thông suốt trong nhận thức Thêm vào đó, thời gian xây dựng và trình duyệt đề án kéo dài, cùng với quy trình thực hiện CPH chưa thực sự hợp lý, gây ra nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc định giá doanh nghiệp, cơ chế phát hành cổ phiếu và giải quyết nợ tồn đọng.
Trước thực tế cần thiết phải cải cách, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đặc biệt nhấn mạnh vào việc cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn và tổng công ty Phương thức bán cổ phiếu sẽ được thực hiện thông qua đấu giá trên thị trường chứng khoán, không chỉ giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp Trong năm 2004, Tổng công ty Điện tử-tin học Việt Nam, Tổng công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam, cùng Tổng công ty Thương mại và xây dựng đã nằm trong danh sách các tổng công ty đầu tiên thực hiện cổ phần hóa Đồng thời, Chính phủ cũng đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước gấp rút chuẩn bị đề án cổ phần hóa hai ngân hàng thương mại quốc doanh là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long.
Nhìn lại hơn 10 năm bắt đầu thí điểm cổ phần hoá
DNNN đang trải qua những kết quả tích cực mặc dù vẫn còn nhiều thách thức cần khắc phục Chính sách đẩy mạnh cổ phần hóa (CPH) sâu rộng hứa hẹn sẽ mang lại nguồn hàng phong phú và chất lượng cao cho thị trường trong tương lai Sự đa dạng và chất lượng của hàng hóa sẽ là yếu tố then chốt thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển Thị tr- ờng Chứng khoán Việt Nam
2.1.2.1 Sự ra đời thị trờng chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán (TTCK) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và hoàn thiện thị trường tài chính Chính vì vậy, việc thiết lập và phát triển TTCK đã được đặt ra từ đầu thập kỷ 90 Chính phủ Việt Nam đã tiến hành chuẩn bị một cách thận trọng và công phu cho sự ra đời của TTCK.
Ngày 21/12/1990, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Công ty, quy định hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần Luật này đã được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp vào ngày 12/6/1999, mở ra cơ hội phát triển cho các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là công ty cổ phần và công ty TNHH, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được khởi động từ đầu những năm 90 nhằm cải cách DNNN, nâng cao mức độ xã hội hóa của đầu tư và cải thiện hiệu quả quản lý cũng như hoạt động của các doanh nghiệp Đây cũng là giải pháp quan trọng để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán trong tương lai.
Cùng với sự phát triển của cổ phiếu, trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu doanh nghiệp cũng được chú trọng trong quá trình phát hành Những quy định mới về phát hành, quản lý và chuyển nhượng cổ phiếu cũng như trái phiếu đã được thiết lập rõ ràng, tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động giao dịch trên thị trường.
Ngày 28/11/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/CP thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, cơ quan quản lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán Trong thời gian ngắn, Uỷ ban đã hoàn thành nhiều công việc quan trọng, chuẩn bị cho sự ra đời của thị trường chứng khoán Nhờ quá trình chuẩn bị tích cực, vào ngày 11/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cùng với quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Thực trạng tham gia thị trờng chứng khoán Việt
2.3.1 Nhà đầu t nớc ngoài mua chứng khoán của doanh nghiệp Nhà nớc cổ phần hoá
2.3.1.1 Nguyên tắc và quy trình bán chứng khoán cho nhà đầu t nớc ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về việc doanh nghiệp Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm các hướng dẫn cụ thể để đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành.
Về đối t ợng doanh nghiệp đ ợc bán cổ phần:
Doanh nghiệp Nhà nớc thực hiện cổ phần hoá
Công ty cổ phần được thành lập thông qua quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và tham gia vào 35 lĩnh vực, ngành nghề theo quy định pháp luật Các lĩnh vực này bao gồm nông lâm nghiệp và chế biến, du lịch, khách sạn và nhà hàng, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, cùng với các hoạt động trong khoa học công nghệ, y tế và giáo dục.
Về đối t ợng mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam là ng ời n ớc ngoài:
27 Quyết định 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 và Thông t 73/2003/TT-BTC ngày 31/7/2003
Tổ chức kinh tế tài chính nớc ngoài thành lập theo pháp luật n- ớc ngoài và hoạt động kinh doanh tại nớc ngoài hoặc tại Việt Nam
Ngời nớc ngoài không thờng trú tại Việt Nam
Ngời nớc ngoài thờng trú tại Việt Nam
Ngời Việt Nam có quốc tịch Việt Nam và ngời gốc Việt Nam c trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nớc ngoài.
Quy trình bán cổ phiếu, cổ phần cho nhà đầu t n ớc ngoài trên thị tr ờng sơ cấp đ ợc diễn ra nh sau:
1 Chuẩn bị phơng án bán cổ phần cho nhà ĐTNN:
Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện cổ phần hóa và có nhu cầu huy động vốn, kỹ thuật cùng kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài, cần lập phương án cổ phần hóa xác định giá trị cổ phần dự kiến bán cho nhà đầu tư nước ngoài Phương án này sau đó sẽ được trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt.
Đối với các công ty cổ phần đang hoạt động và có nhu cầu huy động vốn, Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc công ty cần xây dựng phương án đầu tư và phát hành thêm cổ phiếu.
ChuÈn bị ph ơng án bán cổ phÇn cho nhà §TNN
Thông báo trên ph ơng tiện thông tin đại chúng
Nhà ĐTNN thực hiện mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam
Doanh nghiệp Việt Nam thực hiện bán cổ phÇn
Thông báo kết quả bán cổ phần, bao gồm việc bán cho nhà đầu tư nước ngoài, sẽ được trình bày tại Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị để đưa ra quyết định.
2 Thông báo trên các phơng tiện thông tin đại chúng:
Sau khi nhận được quyết định từ cơ quan có thẩm quyền, trong vòng 30 ngày trước khi tiến hành bán cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam cần công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng những thông tin quan trọng như số lượng cổ phần sẽ bán, số vốn góp, tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp trong năm báo cáo cùng hai năm trước đó, điều kiện tham gia đấu giá, phương thức thanh toán và các vấn đề liên quan khác.
3 Nhà ĐTNN thực hiện mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam
Khi nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam, họ cần giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp hoặc thông qua tổ chức tài chính trung gian Để thực hiện việc này, nhà đầu tư phải mở tài khoản tại một tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại Việt Nam hoặc ngân hàng thương mại nước ngoài hoạt động tại Việt Nam Tất cả các giao dịch mua bán cổ phần, nhận cổ tức và chuyển tiền đầu tư ra vào Việt Nam đều phải được thực hiện qua tài khoản này.
4 Doanh nghiệp Việt Nam thực hiện bán cổ phần
Bán cổ phần lần đầu của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong quá trình cổ phần hóa được thực hiện theo giá bán quy định tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002, cùng với các thông tư 79/2002/TT-BTC và 80/2002/TT-BTC, cả hai đều ban hành ngày 12/9/2002.
Bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán phải tuân thủ quy định pháp luật về chứng khoán và thực hiện theo giá thị trường hiện hành.
Việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài của công ty cổ phần niêm yết có thể thực hiện trực tiếp tại công ty hoặc thông qua tổ chức tài chính trung gian Giá bán sẽ được thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, tuy nhiên không được thấp hơn giá bán cho nhà đầu tư trong nước.
Khi nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký góp vốn hoặc mua cổ phần với tổng giá trị vượt quá tỷ lệ cho phép, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiến hành đấu giá theo quy định pháp luật hoặc tự chọn các nhà đầu tư nước ngoài ưu tiên theo chiến lược.
Sau khi xác định nhà ĐTNN đợc mua cổ phần, doanh nghiệp sẽ xác nhận sở hữu cổ phần, cổ phiếu của họ dới một trong hai hình thức:
Chứng chỉ là cổ phiếu ghi tên hoặc không ghi tên
Ghi sổ kế toán Kèm theo thông báo kết quả gửi cho nhà ĐTNN đã mua đợc cổ phần, cổ phiếu.
5 Thông báo kết quả bán cổ phần và gửi báo cáo
Sau 15 ngày kết thúc việc bán cổ phần cho nhà ĐTNN, doanh nghiệp gửi báo cáo kết quả đến:
Đối với DNNN thực hiện cổ phần hoá, báo cáo đợc gửi tới cấp có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá DNNN nh đã nêu trên.
Đối với Công ty cổ phần, báo cáo đợc gửi tới cơ quan cấp giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2.3.1.2 Kết quả mua cổ phần của nhà đầu t nớc ngoài tại các công ty cổ phần
Theo Quyết định số 228/QĐ-NH5 ngày 2/12/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng Việt Nam được phép gọi vốn cổ phần từ cổ đông nước ngoài, đánh dấu bước đầu tiên cho phép đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Quy định này thể hiện sự cởi mở của Nhà nước trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính Ngân hàng Cổ phần Á Châu (ACB) đã nhanh chóng bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài ngay khi quyết định có hiệu lực Từ năm 1993, với vốn điều lệ 20 tỷ đồng và 27 cổ đông, đến nay ACB đã tăng vốn lên 353,711 tỷ đồng với 533 cổ đông, trong đó có 4 cổ đông nước ngoài chiếm 25,4% tổng vốn điều lệ Điều này cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng của nhà đầu tư nước ngoài đối với cơ hội đầu tư tại Việt Nam.
Công ty Cơ điện lạnh TP Hồ Chí Minh đã được Chính phủ cho phép phát hành trái phiếu chuyển đổi trị giá hơn 5 triệu USD cho Quỹ đầu tư Việt Nam Enterprise Limited, thuộc Công ty tài chính Dragon Capital của Anh Số tiền này chiếm hơn 40% tổng vốn điều lệ của công ty, tương đương 150 tỷ đồng.
Kể từ khi Chính phủ ban hành Quyết định 145/1999/QĐ-TTg vào ngày 28/6/1999 cho phép bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, đã có 9 công ty cổ phần (CTCP) thực hiện việc này trong tổng số 631 công ty đã tiến hành cổ phần hóa tính đến ngày 31/5/2001.
CTCP Cơ điện lạnh TP.HCM bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 2,6 tỷ đồng (chiếm 16,33% tổng vốn điều lệ)
CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 1,06 tỷ đồng (chiếm 29,5% vốn điều lệ)
CTCP May Bình Minh thuộc Tổng Công ty dệt may bán cổ phần cho nhà ĐTNN 3,6 tỷ đồng (chiếm 20% vốn điều lệ)
CTCP Đồ hộp Hạ Long thuộc Bộ Thuỷ sản bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 7,4 tỷ đồng (chiếm 27% vốn điều lệ)
CTCP Giao nhËn vËn chuyÓn container quèc tÕ (INFACON) thuộc tổng Công ty Hàng Hải bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 1 tỷ đồng (chiếm gần 10% vốn điều lệ)
CTCP Kho vận và Giao nhận ngoại thơng (TRANSIMEX) bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 1,1 tỷ đồng (chiếm 5% vốn điều lệ)
CTCP Thuỷ sản số 1 thuộc Bộ Thuỷ sản bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 4 tỷ đồng (chiếm 20% vốn điều lệ)
CTCP Nhựa Tân Hoá TP.HCM bán cổ phần cho nhà ĐTNN là 4,6 tỷ đồng (chiếm 10% vốn điều lệ)
CTCP Dịch vụ vận tải Sài Gòn thuộc Bộ Giao thông vận tải bán cổ phần cho nhà ĐTNN 6 tỷ đổng (chiếm 20% vốn điều lệ)
Tính đến ngày 31/5/2001, tỷ lệ cổ phần của các công ty cổ phần (CTCP) bán cho nhà đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 1,43% tổng số CTCP, với số vốn huy động đạt hơn 30 tỷ đồng.
Bảng 4: Danh sách và tỷ lệ các CTCP bán cổ phiếu cho nhà ĐTNN (tính đến ngày 31/5/2001)
T Công ty Trụ sở Tỷ lệ sở hữu của nhà §TNN
1 CTCP Cơ điện lạnh TP HCM 16,33%
2 CTCP ChÕ biÕn HXK Long An 29,5%
4 CTCP Đồ hộp Hạ Long Hải Phòng 27%
8 CTCP Nhựa Tân Hoá Tp.HCM 10%
9 CTCP Dịch vụ vận tải Sài Gòn
(Nguồn: Ban Kinh tế Trung Ương)
Định hớng phát triển thị trờng chứng khoán đến n¨m 2010
3.1.1 Quan điểm định hớng chiến lợc phát triển TTCK Việt Nam Định hớng phát triển TTCK Việt Nam phải tuân theo đúng đờng lối và định hớng phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nớc.
Trong chiến lợc phát triển thị trờng chứng khoán Việt Nam phải quán triệt những quan điểm sau:
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và quản lý thị trường, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường theo đúng đường lối và định hướng của Đảng và Chính phủ.
Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức thị trường chứng khoán thông qua việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) để quản lý và phát triển thị trường Các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) được thành lập và sau này phát triển thành Sở giao dịch chứng khoán, với sự hỗ trợ của khung pháp lý cho hoạt động này Trong giai đoạn đầu, nhà nước sở hữu các TTGDCK nhằm đảm bảo quản lý thống nhất, tạo điều kiện cho thị trường phát triển an toàn và hiệu quả, đồng thời bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Khi thị trường trưởng thành, nhà nước sẽ dần rút vốn hoặc cổ phần hóa các TTGDCK, nhằm tối ưu hóa vai trò trung gian trong giao dịch chứng khoán, phù hợp với xu hướng phát triển toàn cầu.
Để đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động thông suốt, an toàn và hiệu quả, cần có một cơ quan quản lý nhà nước thống nhất, đó là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) UBCKNN, cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đồng thời tham mưu cho Chính phủ trong việc hoạch định chính sách và phát triển thị trường Cơ quan này cũng ban hành khung pháp lý cho hoạt động của thị trường và quản lý các tổ chức, cá nhân tham gia, góp phần duy trì sự ổn định và hiệu quả của thị trường chứng khoán.
Việc xây dựng một thị trường chứng khoán tổ chức, an toàn và hiệu quả là mục tiêu quan trọng cho Việt Nam, nhằm đáp ứng điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể của đất nước Thị trường cần được phát triển theo quy mô và trình độ phù hợp, đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả Đồng thời, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, Việt Nam cần chủ động xây dựng chiến lược hội nhập với thị trường chứng khoán khu vực và thế giới.
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán cần được thực hiện từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ mức độ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, nhằm phù hợp với bối cảnh kinh tế hiện tại và khả năng phát triển trong tương lai.
Với tình hình kinh tế, xã hội, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực hiện tại, việc xây dựng một thị trường chứng khoán hiện đại, tương đương với các nước phát triển là điều không khả thi Do đó, quan điểm này cần được coi là phương châm hành động xuyên suốt trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong những năm tới cũng như lâu dài.
3.1.2 Định hớng phát triển TTCK Việt Nam đến n¨m 2010
Mục tiêu của chiến lợc phát triển kinh tế xã hội đến năm
Năm 2010 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, trong đó việc hoàn thiện thị trường chứng khoán trở thành một yêu cầu cấp thiết Việc phát triển thị trường chứng khoán không chỉ giúp hoàn thiện cấu trúc của thị trường tài chính mà còn đóng góp vào việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn một cách hiệu quả, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 163/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 Mục tiêu chính của chiến lược này là xây dựng và hoàn thiện một thị trường chứng khoán đồng bộ, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, thị trường tập trung và giao dịch qua quầy, cũng như thị trường giao ngay và kỳ hạn Thị trường sẽ được vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, ổn định và công bằng giữa các chủ thể tham gia Đồng thời, cần duy trì trật tự, an toàn và mở rộng hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn vốn trung hạn và dài hạn cho nền kinh tế Nó không chỉ là công cụ hỗ trợ cho sự hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và quốc tế, mà còn giúp tối đa hóa các lợi ích từ việc huy động vốn trong và ngoài nước Thị trường này còn là cầu nối cho các nhà đầu tư Việt Nam tham gia vào thị trường tài chính toàn cầu, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực từ quá trình toàn cầu hóa, góp phần đảm bảo an ninh tài chính trong quá trình phát triển.
Nh vậy, định hớng phát triển TTCK Việt Nam từ nay đến năm 2010 cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Mục tiêu mở rộng quy mô thị trường chứng khoán tập trung nhằm nâng tổng giá trị thị trường lên 2% - 3% GDP vào năm 2005 và đạt 10% - 15% GDP vào năm 2010 Để đạt được điều này, cần phát triển thị trường trái phiếu và tăng số lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Việc xây dựng và vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán hiện đại là cần thiết để cung cấp các dịch vụ đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hóa Sở giao dịch chứng khoán cần kế thừa những đặc điểm ưu việt từ các sở giao dịch quốc tế, đồng thời phản ánh đặc trưng của thị trường chứng khoán Việt Nam Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát hành và kinh doanh chứng khoán, khuyến khích huy động vốn dài hạn trong và ngoài nước, đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, đồng thời bảo vệ quyền hợp pháp của nhà đầu tư.
Sở giao dịch sẽ có hai trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động độc lập, với nhiệm vụ khác nhau: một trung tâm quản lý thị trường giao dịch chứng khoán tiêu chuẩn cao, và trung tâm còn lại quản lý thị trường giao dịch chứng khoán của doanh nghiệp vừa và nhỏ Đến năm 2010, sẽ chuẩn bị điều kiện để chuyển đổi thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Thị trường giao dịch bảng 2 không chỉ niêm yết chứng khoán của doanh nghiệp vừa và nhỏ mà còn cho phép các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn từ bảng 1 đăng ký niêm yết tại đây Điều này mang lại tính linh hoạt trong hoạt động niêm yết và giao dịch, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa hai bảng Sự cạnh tranh này là yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả của toàn bộ thị trường, đồng thời là bước đệm cần thiết để xây dựng thành công thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) ở Việt Nam vào năm 2010.
Việc phát triển các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân là rất quan trọng Cần sớm thiết lập hệ thống các nhà đầu tư tổ chức như ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm và quỹ đầu tư Điều này sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tham gia thị trường với vai trò nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, đồng thời thực hiện chức năng của nhà tạo lập thị trường Bên cạnh đó, cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân.
Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu t nớc ngoài trên thị trờng chứng khoán Việt Nam
Dựa trên những phân tích lý luận trong chương 1, kinh nghiệm từ các nước trong khu vực và điều kiện thực tế của Việt Nam, việc thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một yêu cầu khách quan và cần thiết Dựa vào chủ trương định hướng của Đảng và Nhà nước, có thể xem xét và áp dụng một số giải pháp cho vấn đề nghiên cứu này.
3.2.1 ổn định và cải thiện môi trờng kinh tế vĩ mô
Một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và phát triển là yếu tố then chốt thu hút các hoạt động kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán Do đó, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện và tăng cường các giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao tính hấp dẫn của nền kinh tế.
Việc tiếp tục thực hiện đường lối cải cách và đổi mới nền kinh tế, cùng với chính sách kinh tế mở, đã chứng minh tính đúng đắn qua hơn 15 năm đổi mới Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, trở thành một yêu cầu tất yếu của thời đại Chính sách kinh tế mở, với việc tăng cường hợp tác kinh tế song phương và đa phương, cũng như tham gia các tổ chức kinh tế lớn nhỏ, cần được duy trì và phát triển, đồng thời khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Tiếp tục cải cách cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và khuyến khích sự phát triển của khối kinh tế tư nhân Hiện nay, DNNN cổ phần hóa đóng vai trò chủ yếu trên thị trường chứng khoán, trong khi việc giải thể các doanh nghiệp yếu kém sẽ giảm gánh nặng cho Nhà nước và tối ưu hóa nguồn lực Khối kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ và đóng góp đáng kể vào nền kinh tế, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lớn Tuy nhiên, sự quan tâm của Chính phủ đối với khối này chưa tương xứng với vai trò của nó Để nâng cao chất lượng hoạt động, cần có các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ về thông tin, đào tạo nhân lực, quản lý doanh nghiệp, mở rộng lĩnh vực hoạt động và thực hiện ưu đãi thuế cho khối kinh tế tư nhân.
Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách cải cách hệ thống tài chính – tiền tệ nhằm duy trì ổn định lãi suất và tỷ giá, từ đó tác động tích cực đến thị trường chứng khoán và tính sinh lời của vốn đầu tư nước ngoài Để đảm bảo sự ổn định này, cần duy trì chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý cùng với các công cụ tiền tệ gián tiếp Đồng thời, việc thu chi ngân sách Nhà nước cần dựa trên nguyên tắc thu đủ và chi hợp lý Mặc dù thu ngân sách có chiều hướng gia tăng, nhưng tình trạng thất thu và trốn thuế vẫn diễn ra phổ biến Hơn nữa, việc chi tiêu không đúng mục đích và không hiệu quả đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Chính phủ và các Bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Tài chính, phải có biện pháp quản lý và khắc phục.
3.2.2 Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chứng khoán và TTCK
Thị trường chứng khoán (TTCK) được coi là "con dao hai lưỡi", có thể mang lại lợi ích lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu không được quản lý đúng cách Để đảm bảo TTCK hoạt động an toàn và hiệu quả, cần thiết phải xây dựng một môi trường pháp lý phù hợp nhằm phát huy tối đa tác dụng của thị trường.
Mới đây, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-
CP đã thay thế Nghị định 48, tuy nhiên các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định vẫn đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung Do đó, nhiều quy định trong Nghị định hiện tại vẫn cần dựa vào các văn bản hướng dẫn của Nghị định 48 như tài liệu tham khảo duy nhất.
Nghị định 144, mặc dù mới ban hành, đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan Do đó, cần tiến hành rà soát Nghị định một cách nhanh chóng và hiệu quả để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường.
Để đảm bảo sự đồng bộ và thống nhất trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, cần xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các văn bản liên quan một cách phù hợp với các quy định mới Việc này sẽ giúp tránh tình trạng lúng túng cho các nhà quản lý và các đơn vị thực hiện.
Để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, cần xây dựng các văn bản pháp luật như Pháp lệnh và Luật Chứng khoán với hiệu lực pháp lý cao hơn Tuy nhiên, do thị trường còn non trẻ và thiếu ổn định, việc xây dựng Luật Chứng khoán cần thực hiện từng bước thận trọng và không kéo dài quá lâu Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là UBCKNN, cần khẩn trương nghiên cứu và soạn thảo dự thảo Pháp lệnh, sau đó nâng cấp thành Luật Chứng khoán, nhằm tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho sự phát triển của thị trường.
3.2.3 Tăng cung hàng hoá về mặt số lợng và chất lợng Đây là một giải pháp phát triển chiến lợc lâu dài đối với bất kỳ thị trờng nào, dới bất kỳ cơ chế quản lý nào Nhà đầu t chỉ tiến hành đầu t khi họ nhìn thấy khả năng sinh lời từ tài sản hàng hoá trên thị trờng Đối với Việt Nam, hàng hoá trên TTCK có
3.2.3.1 Thúc đẩy cổ phần hoá các DNNN
Trong bối cảnh đổi mới và mở cửa của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm tỷ trọng lớn và hoạt động trong các ngành kinh tế chủ chốt Quá trình cải cách kinh tế nhà nước và cổ phần hóa DNNN đã tạo ra nguồn hàng phong phú cho thị trường chứng khoán (TTCK) Tình hình cổ phần hóa hiện nay yêu cầu cần có cơ chế phù hợp để thúc đẩy quá trình này trong tương lai.
Mở rộng đối tượng cổ phần hóa bao gồm tổng công ty, doanh nghiệp quy mô lớn và nông, lâm trường quốc doanh Đồng thời, thu hẹp đối tượng mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối không dựa vào quy mô vốn, mà dựa vào tính chất ngành nghề kinh doanh và vị trí của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ.
Đổi mới phương thức định giá doanh nghiệp bằng cách loại bỏ cơ chế định giá qua Hội đồng, thay vào đó là thực hiện định giá thông qua các tổ chức kế toán, kiểm toán và thuê tư vấn tài chính trong nước cũng như quốc tế Điều này nhằm nâng cao uy tín, tính công khai minh bạch và gia tăng giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa.
Bổ sung giá trị hữu hình và vô hình, cũng như giá trị quyền sử dụng đất và giá trị của vườn cây, rừng trồng, vào tổng giá trị doanh nghiệp là một bước quan trọng trong quá trình thực hiện bán cổ phần.