1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN

107 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Biện Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Nhóm Mặt Hàng Nông Sản Chủ Lực Của Việt Nam
Người hướng dẫn PGS.TS Đặng Đình Đào
Trường học Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Thể loại chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Năm xuất bản 2001 - 2010
Định dạng
Số trang 107
Dung lượng 732,32 KB

Cấu trúc

  • I.1. Hội nhập kinh tế của việt nam (3)
    • 1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (5)
    • 2. Những tồn tại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam (6)
  • I.2. Vai trò của mặt hàng nông sản trong hệ thống các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (7)
  • I.3. Nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với qúa trình hội nhập quốc tế (12)
  • II. Nội dung và hình thức xuất khẩu hàng nông sản (14)
    • II.1. Nội dung (14)
      • 1. Nghiên cứu thị trường nông sản xuất khẩu (14)
      • 2. Lập dự án kinh doanh (15)
      • 4. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng (16)
      • 5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu (17)
      • 6. Đánh giá việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu (17)
    • II.2. Hình thức xuất khẩu hàng nông sản (17)
      • 1. Xuất khẩu trực tiếp (18)
      • 2. Xuất khẩu uỷ thác (18)
      • 3. Xuất khẩu hàng đổi hàng (19)
      • 5. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá (19)
  • III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản của việt (20)
    • III.1. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam (20)
      • 1. Tiến bộ khoa học kỹ thuật liên quan đến sản xuất,vận chuyển phân phối bảo quản và chế biến hàng nông sản (20)
      • 2. Ảnh hưởng của tình hình cung cầu hàng hoá nông sản trên thị trường Quốc Tế (21)
      • 3. Quan hệ thương mại và chính sách của các nước bạn hàng nhập khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam (22)
    • III.2. Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam (23)
      • 2. Sự hạn chế trong việc xâm nhập và tạo lập ổn định thị trường (24)
      • 3. Khả năng và điều kiện sản xuất các mặt hàng nông sản trong nước (24)
      • 4. Nhận thức về vai trò ,vị trí của xuất khẩu và định hướng chính sách phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Chính Phủ (24)
      • 5. Quy hoạch và kế hoạch phát triển hàng nông sản xuất khẩu (25)
      • 6. Tổ chức điều hành xuất khẩu (25)
    • III.3. Hiệu quả xuất khẩu nông sản chủ lực : Gạo (26)
  • CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA (3)
    • I. Đặc điểm về những mặt hàng nông sản phẩm và thị trường xuất khẩu (30)
      • I.1. Đặc điểm về một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (31)
        • 1. Gạo (31)
        • 3. Điều (33)
        • 5. Chè (34)
      • I.2. Thực trạng về mậu dịch gạo thế giới (35)
      • I.3 Đặc điểm về thị trường xuất khẩu (38)
    • II. Phân tích thực trạng xuất khẩu mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam (40)
      • II.1. Phân tích về khối lượng, kim ngạch và thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam qua các năm (40)
      • II. 2. Phân tích về thị trường (51)
        • 1. Các khối thị trường nhập khẩu nông sản của Việt Nam (51)
        • 2. Phân tích về khả năng cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới (55)
      • II.3 Phân tích về mặt hàng nông sản phẩm xuất khẩu chủ lực: Gạo (58)
        • 1. Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam (59)
        • 2. Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam (60)
        • 3. Giá cả và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (61)
        • 4. Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam (62)
      • III.1. Những thuận lợi trong cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam (64)
      • III.2. Những khó khăn trong cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam (66)
        • 1. Khó khăn do khách quan (66)
        • 2. Khó khăn do chủ quan (67)
  • CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU, NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NHÓM MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI (30)
    • I. Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành hàng nông nghiệp Việt Nam và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới (70)
      • I.1. Mục tiêu chiến lược xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 (70)
      • I.2. Những thời cơ và thách thức (72)
        • 1. Những thời cơ (72)
        • 2. Những thách thức (73)
    • II. Biện pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu nông sản (77)
      • II.1. Các biện pháp liên quan đến nguồn hàng nông sản cho xuất khẩu (77)
        • 1. Biện pháp về đầu ra cho nguồn hàng nông sản xuất khẩu (77)
        • 2. Biện pháp về tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu (79)
        • 3. Hướng mở rộng xuất khẩu (80)
      • II.2. Các biện pháp liên quan đến tài chính và tín dụng (81)
      • II.3. Các biện pháp liên quan đến thể chế tổ chức (82)
    • III. Hệ thống chính sách và biện pháp hỗ trợ để thực hiện định hướng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 (83)
      • III.1. Chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu hàng hoá - dịch vụ (83)
        • 1. Về hàng hoá (83)
        • 2. Về dịch vụ (84)
      • III.2. Các giải pháp về thị trường (84)
      • III.3. Hoàn thiện môi trường pháp lý và tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu (86)
      • III.4. Về hội nhập quốc tế (87)
      • III.5. Về đào tạo cán bộ (88)
    • IV. Một số biện pháp cụ thể khác (90)
      • IV.1. Biện pháp về chiến lược sản phẩm (90)
      • IV.2. Quy hoạch nông sản xuất hàng hoá tập trung (91)
      • IV.3. Tăng cường năng lực chế biến và kiểm soát chất lượng để nâng cao giá trị xuất khẩu (92)
      • IV.4. Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản (93)
      • IV.5. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản (93)
      • IV.6. Cải tiến cơ chế quản lý xuất khẩu (94)
      • IV.7. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu (94)
        • 2. Sự ổn định của biểu thuế (95)
        • 3. Chính sách thuế (95)
      • IV.8. Đào tạo cán bộ và chính sách khoa học công nghệ (96)
      • IV.9. Đẩy mạnh đầu tư và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ (97)
    • V. Một số kiến nghị với Nhà nước (98)
  • KẾT LUẬN (99)

Nội dung

Hội nhập kinh tế của việt nam

Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA), đồng thời tiếp thu nhiều thành tựu mới trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý.

Đưa hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh từng bước giúp hình thành tư duy kinh tế mới, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Để xây dựng một đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý kinh doanh, cần thích nghi với điều kiện mới, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới.

Chúng ta đã từng bước thực hiện chủ trương kết hợp phát huy nội lực và ngoại lực, từ đó hình thành sức mạnh tổng hợp để đạt được những kết quả tích cực.

Nghị quyết số 07/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị đã đề ra những định hướng quan trọng cho hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm đạt được các thành tựu kinh tế - xã hội nổi bật Đồng thời, nghị quyết nhấn mạnh việc giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo vệ an ninh quốc gia và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập.

Tuy nhiên quá trình hội nhập kinh tế vừa qua cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém

Những tồn tại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam

Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng, nhưng nhận thức về nội dung, bước đi và lộ trình vẫn chưa đạt sự nhất trí cao Nhiều cán bộ chưa tận dụng được cơ hội và chưa nhận thức đầy đủ về các thách thức, dẫn đến việc chưa có kế hoạch hiệu quả để thúc đẩy nền kinh tế hội nhập Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa phát huy được lợi thế so sánh, và nhiều chính sách chưa được đổi mới kịp thời để đáp ứng yêu cầu hội nhập.

Công tác hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay chủ yếu được thực hiện tại các cơ quan trung ương và một số thành phố lớn Tuy nhiên, sự tham gia của các ngành, cấp và doanh nghiệp còn yếu và chưa đồng bộ, dẫn đến việc chưa hình thành sức mạnh tổng hợp cần thiết để đảm bảo hiệu quả cao trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gặp nhiều khó khăn do thiếu hiểu biết về thị trường toàn cầu và luật pháp quốc tế Năng lực quản lý còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, và hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao Ngoài ra, tư tưởng ỷ lại vào sự hỗ trợ và bảo vệ từ Nhà nước vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mặc dù môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có nhiều cải thiện, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề yếu kém Hệ thống pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, rõ ràng và nhất quán; kết cấu hạ tầng phát triển chậm; bộ máy hành chính còn nhiều biểu hiện quan liêu và tham nhũng, cùng với trình độ nghiệp vụ yếu kém Hơn nữa, nguồn nhân lực chưa được đào tạo một cách bài bản.

Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại hiện còn thiếu hụt và yếu về tổ chức chỉ đạo, dẫn đến việc các cấp, các ngành chưa quan tâm đúng mức đến việc hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội nhập Thiếu sự chỉ đạo kịp thời và hiệu quả chính là nguyên nhân sâu xa gây ra những yếu kém và khuyết điểm trong hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nền nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức mới, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu nông sản Điều này đòi hỏi các sản phẩm nông sản chủ lực phải nâng cao tính cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Vai trò của mặt hàng nông sản trong hệ thống các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam

Theo FAO, hàng nông sản được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau, bao gồm sản phẩm nhiệt đới, ngũ cốc, thịt, sữa cùng các sản phẩm từ sữa, nguyên liệu nông sản, và dầu mỡ cùng các sản phẩm liên quan.

Hàng chủ lực là những sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu nhờ vào thị trường nước ngoài ổn định và điều kiện sản xuất thuận lợi trong nước.

Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà Nước đặt ra từ cuối những năm 1960, nhưng chỉ khi nền kinh tế chuyển sang thị trường, các mặt hàng này mới được nhìn nhận một cách nghiêm túc Hàng xuất khẩu chủ lực hình thành từ quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, trải qua cạnh tranh gay gắt trên thị trường toàn cầu, đồng thời yêu cầu tổ chức sản xuất trong nước quy mô lớn với chất lượng phù hợp nhu cầu người tiêu dùng Để được công nhận là mặt hàng chủ lực, các sản phẩm cần đạt các tiêu chuẩn nhất định.

Một là : có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó

Hai là : Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi trong buôn bán

Ba là : Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước

Hiện nay, số lượng và quy mô các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang gia tăng đáng kể Cụ thể, các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 50 triệu USD/năm trở lên đã tăng từ 6 mặt hàng vào năm 1991 lên 14 nhóm mặt hàng trong năm gần đây.

Năm 1999, Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng đa dạng về mặt hàng xuất khẩu, bao gồm lạc nhân, cao su, chè, điều, gạo, hạt tiêu, than đá, dầu thô, thuỷ sản, rau quả, hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, cùng hàng thủ công mỹ nghệ Nếu năm 1991 chỉ có 4 mặt hàng đạt kim ngạch từ 100 triệu USD/năm trở lên, thì đến năm 1999, con số này đã tăng lên 11 mặt hàng.

Việt Nam có 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, được phân chia thành 3 nhóm chính: nông, lâm, thủy sản; nhiên liệu, khoáng sản; và công nghiệp cùng thủ công mỹ nghệ Trong bài viết này, tôi sẽ tập trung vào 5 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam, bao gồm gạo, cà phê, hạt điều, cao su và chè.

Nông nghiệp là ngành khởi đầu và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp rất đa dạng, kết hợp từ công nghệ đơn giản đến những kỹ thuật tiên tiến.

Ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng thu nhập và tích lũy tài chính để phát triển các ngành công nghiệp khác Sự phát triển của nông nghiệp không chỉ nâng cao mức sống mà còn ổn định tình hình chính trị xã hội Nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế, cung cấp nguyên liệu cho các lĩnh vực khác, từ đó thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế Ngược lại, sự lớn mạnh của ngành công nghiệp cũng sẽ tạo động lực cho nông nghiệp phát triển bền vững.

Việt Nam, một quốc gia nông nghiệp chủ yếu dựa vào sản xuất lúa gạo, đóng góp khoảng 42% GDP và 71% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp Với tổng diện tích tự nhiên hơn 33,1 triệu ha, trong đó 8,1 triệu ha đất nông nghiệp phù hợp cho việc trồng lúa và các cây công nghiệp như cao su, cà phê, và hạt tiêu, Việt Nam có nhiều lợi thế về tài nguyên đất Bên cạnh đó, nguồn nước dồi dào, khí hậu ẩm ướt, nhiệt độ và lượng mưa lớn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp Việt Nam sở hữu nguồn nhân lực lớn với gần 29 triệu lao động, chiếm 70% lực lượng lao động quốc gia Những ưu thế này ngày càng trở nên rõ ràng trong bối cảnh khó khăn của tình hình lương thực toàn cầu, tuy nhiên, để thành công trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mỗi quốc gia cần tập trung vào xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao nhất.

Hoạt động xuất khẩu nông sản chủ lực đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp ngoại tệ cho quốc gia, từ đó giúp nhập khẩu các nguyên liệu cần thiết phục vụ cho quá trình Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước.

Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi phù hợp là cần thiết để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển Để thực hiện công nghiệp hóa trong thời gian ngắn, cần một nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc và thiết bị công nghệ tiên tiến Ngoài ra, xuất khẩu nông sản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

Thị trường thế giới đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và xuất khẩu, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sự phát triển sản xuất.

 Xuất khẩu sẽ tạo điềukiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển

 Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn định sản xuất

 Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia

Xuất khẩu nông sản Việt Nam không chỉ giúp các doanh nghiệp cạnh tranh hiệu quả trên thị trường toàn cầu về giá cả và chất lượng, mà còn thúc đẩy họ cải tổ quy trình sản xuất và xây dựng cơ cấu sản xuất hợp lý Điều này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm để thích ứng với sự biến động của thị trường quốc tế Hơn nữa, xuất khẩu nông sản còn góp phần tích cực vào việc tạo ra công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người dân.

Xuất khẩu nông sản có tác động rõ rệt đến đời sống nhân dân, thể hiện qua việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm với thu nhập ổn định Đồng thời, xuất khẩu nông sản cũng mang lại ngoại tệ để nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân Hơn nữa, thông qua xuất khẩu, chúng ta có thể nắm bắt yêu cầu của thị trường đối với nông sản, từ đó cải thiện mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản xuất trong nước, góp phần nâng cao trình độ và hiệu quả của nền công nghiệp.

Nông sản hiện là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu và mang lại nhiều lợi ích cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việc xuất khẩu hàng nông sản giúp tích lũy vốn và khai thác hiệu quả lợi thế về đất đai và khí hậu Nhờ phát huy lợi thế so sánh của các vùng sinh thái, Việt Nam đã hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa nông sản xuất khẩu quy mô lớn, như lúa gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với qúa trình hội nhập quốc tế

Với chính sách đổi mới và mở cửa, Việt Nam đang trở thành một thị trường cạnh tranh hấp dẫn cho các công ty đa quốc gia Điều này buộc Việt Nam phải nỗ lực cạnh tranh với các quốc gia khác để đưa hàng hóa vào thị trường toàn cầu, đồng thời hướng tới việc gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) Những cơ hội này tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, mở rộng thị trường nước ngoài và thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức khi hội nhập vào thị trường toàn cầu, bao gồm chất lượng và khối lượng nông sản chưa đạt yêu cầu, thị trường tiêu thụ không ổn định, và giá cả biến động Sản phẩm và dịch vụ trong nước phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa nước ngoài, điều này đòi hỏi Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Để tồn tại và phát triển trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, việc cải cách nền kinh tế, cơ chế, luật pháp và phương thức quản lý là rất cần thiết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản, từ đó giúp Việt Nam hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Theo các chuyên gia kinh tế, năm 2006 đánh dấu thời điểm sức ép gia tăng mạnh mẽ lên nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam do tác động của AFTA và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Khi hoàn tất lộ trình thực hiện chương trình CEPT, thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm xuống còn từ 0-5% và hàng rào phi thuế quan sẽ bị xoá bỏ, dẫn đến việc hàng hóa từ các nước ASEAN tràn vào thị trường Việt Nam.

Việt Nam với giá thấp hơn hiện nay rất nhiều do thuế xuất nhập khẩu giảm.

Việt Nam cần đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ bây giờ để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp ASEAN, vì thời gian không còn sớm nữa Mặc dù CEPT mở ra cơ hội cho hàng hóa Việt Nam vào thị trường ASEAN, giá FOB cảng Việt Nam vẫn cao và số lượng hàng hóa xuất khẩu còn hạn chế, khiến khả năng chiếm lĩnh thị trường ASEAN của Việt Nam không cao ASEAN, với khoảng 500 triệu dân, là một thị trường tiềm năng lớn, nhưng hàng hóa của các nước trong khu vực thường có chất lượng và số lượng vượt trội hơn Các nước như Thái Lan và Indonesia đã có vị thế vững chắc trong xuất khẩu gạo và cao su, trong khi hàng hóa ASEAN lại được hưởng lợi từ biểu thuế AFTA khi vào thị trường Việt Nam, làm tăng thêm áp lực cho cán cân thương mại của chúng ta.

Việt Nam cần chủ động hội nhập theo lộ trình phù hợp, chú trọng các cam kết song phương và đa phương Doanh nghiệp xuất khẩu cần nhận thức rõ về những thuận lợi và thách thức trong quá trình hội nhập Để đạt được điều này, cần thực hiện lộ trình trong cơ chế mới 2001-2005, từng bước cắt giảm biện pháp bảo hộ và bao cấp cũ, đồng thời phát triển bền vững, tránh cách làm ăn chụp giật Hàng hóa xuất khẩu cần đảm bảo chất lượng, kiểu dáng và giá cả hấp dẫn Trong khi nhập khẩu, cần tìm kiếm công nghệ cao và thị trường gốc để cạnh tranh hiệu quả với hàng nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa.

Để nâng cao xuất khẩu nông sản, cần cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường, áp dụng các biện pháp mạnh mẽ như qui vùng, đổi mới giống, cải tiến qui trình sản xuất, bảo quản và chế biến Sản phẩm không chỉ phải đạt năng suất cao mà còn phải đảm bảo chất lượng tốt và giá cả hợp lý, đáp ứng nhu cầu của khách hàng quốc tế Đồng thời, cần có các chính sách ưu đãi để khuyến khích thực hiện những nội dung này.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, phát huy nội lực và đảm bảo độc lập, bình đẳng cùng có lợi Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế, đặc biệt là giảm thuế quan, đồng thời áp dụng chính sách bảo hộ có điều kiện phù hợp với tiến trình hội nhập Tích cực thực hiện các cam kết trong hợp tác song phương và đa phương, chú trọng ASEAN, ASEM, APEC, và tiếp tục đàm phán gia nhập WTO Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bạn bè truyền thống, các nước đang phát triển tại Châu Á, Châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh, đồng thời thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và tổ chức kinh tế quốc tế.

Nội dung và hình thức xuất khẩu hàng nông sản

Nội dung

Việt Nam, với nền tảng nông nghiệp vững mạnh, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, chiếm khoảng 42% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sử dụng 71,9% lực lượng lao động cả nước.

Trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đã chọn hướng phát triển kinh tế theo mô hình xuất khẩu, với ngành nông nghiệp đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu bằng sản phẩm nội địa hiệu quả hơn Để xuất khẩu hàng hóa, cần thực hiện nhiều nghiệp vụ từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn sản phẩm, giao dịch với đối tác, đàm phán hợp đồng, đến thực hiện hợp đồng và chuyển giao hàng hóa Mỗi bước trong hoạt động xuất khẩu đều quan trọng và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo hiệu quả cao nhất cho sản xuất và tiêu dùng.

1 Nghiên cứu thị trường: Nông sản xuất khẩu

Để khai thác và phát triển nguồn hàng, các doanh nghiệp ngoại thương cần liên tục tìm kiếm cách tiếp cận thị trường Thị trường được xem như một yếu tố khách quan liên quan đến lợi ích của sản xuất và lưu thông hàng hóa; nơi nào có sản xuất và lưu thông thì nơi đó sẽ có thị trường.

Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết và đầu tiên đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới.

Nghiên cứu thị trường là quá trình tìm kiếm cơ hội bán hàng cho sản phẩm, nhằm đảm bảo rằng doanh nghiệp chỉ cung cấp những gì thị trường cần Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường giúp xác định thị trường tiềm năng nhất cho sản phẩm, lượng hàng hóa có thể bán, đối tượng khách hàng và phương pháp bán hàng phù hợp Việc nghiên cứu thị trường toàn cầu đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế.

2 Lập dự án kinh doanh:

Lập dự án kinh doanh cần thiết phải tiến hành nghiên cứu thị trường trước Dựa trên kết quả nghiên cứu, doanh nghiệp phải xây dựng phương án kinh doanh, đây là kế hoạch chiến lược xác định hướng đi và mục tiêu hoạt động kinh doanh sao cho khả thi nhất.

Theo kế hoạch của Bộ NN-PTNT, ngành nông nghiệp phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất 2,5% và lâm nghiệp 3% so với năm 2001 trong năm 2002 Sản lượng lương thực có hạt dự kiến đạt 34,5 triệu tấn, trong đó thóc từ 32-32,3 triệu tấn, ngô từ 2,3-2,5 triệu tấn, và cà phê.

Trong năm qua, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm sản đạt 3 tỷ USD, với các mặt hàng chủ yếu như gạo 3,8 triệu tấn, cà phê 750 ngàn tấn, cao su mủ khô 310 ngàn tấn, hạt tiêu 46 ngàn tấn, hạt điều 140 ngàn tấn và chè 80 ngàn tấn Cụ thể, sản lượng hạt điều cả vỏ đạt 146 ngàn tấn và chè búp khô là 60 ngàn tấn.

Theo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu của Bộ Thương Mại, trong giai đoạn 2001-2010, Việt Nam dự kiến xuất khẩu khoảng 4-4,5 triệu tấn gạo mỗi năm do nhu cầu thế giới ổn định khoảng 20 triệu tấn Đối với nhân điều, kim ngạch xuất khẩu có thể tăng từ 144 triệu USD lên 400 triệu USD nhờ nhu cầu cao Hạt tiêu có khả năng gia tăng kim ngạch từ 160 triệu USD lên 230-250 triệu USD nhờ mở rộng sản xuất Cà phê dự kiến xuất khẩu 750 ngàn tấn với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, mặc dù giá cả và sản lượng phụ thuộc vào thời tiết Đối với cao su, kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010, trong khi chè có tiềm năng tăng từ 200 triệu USD lên 800 triệu USD nhờ nhu cầu toàn cầu tăng cao.

3.Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu:

Công tác thu mua nguồn hàng cho xuất khẩu bao gồm một loạt các công việc và nghiệp vụ, trong đó việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu đóng vai trò quan trọng.

Nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường là việc xác định mặt hàng kinh doanh xuất khẩu phù hợp với nhu cầu thị trường nước ngoài, dựa trên các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và giá cả trong nước so với giá quốc tế Cần nắm rõ chính sách quản lý của nhà nước về mặt hàng xuất khẩu, xác định xem mặt hàng đó có được phép xuất khẩu hay không Một trong những yếu tố quyết định thành công trong nghiên cứu thị trường là khả năng dự đoán xu hướng biến động của hàng hóa, từ đó giảm thiểu rủi ro Đồng thời, tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình này.

Xây dựng hệ thống thu mua qua đại lý và chi nhánh giúp doanh nghiệp ngoại thương tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua Việc lựa chọn nhiều kênh và hình thức thu mua tạo ra nguồn hàng ổn định, giảm thiểu rủi ro trong quá trình xuất khẩu Ký kết hợp đồng trong thu mua là yếu tố quan trọng để đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu, đồng thời xúc tiến khai thác nguồn hàng này một cách hiệu quả.

Sau khi ký hợp đồng với đối tác và nhà sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương cần xây dựng kế hoạch thu mua, phân chia công việc và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch Điều này nhằm đảm bảo nguồn hàng đạt yêu cầu về cả chất lượng và số lượng cho xuất khẩu Cuối cùng, doanh nghiệp phải tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng hóa để giao hàng xuất khẩu.

4 Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng:

Sau khi hoàn tất giai đoạn nghiên cứu thị trường, bước tiếp theo là tiến hành giao dịch và thương lượng các điều kiện để ký kết hợp đồng Trong buôn bán quốc tế, quy trình giao dịch bao gồm các bước chính như hỏi giá, phát giá, đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận và cuối cùng là xác nhận.

Giao dịch đàm phán tức là trao đổi các điều kiện mua bán giữa hai bên thông qua thư tín, điện thoại hoặc các bên gặp gỡ trực tiếp.

Ký kết hợp đồng xuất khẩu là kết quả của quá trình giao dịch và đàm phán thành công, trong đó hai bên đạt được sự thống nhất về giá cả, chất lượng, điều kiện thanh toán, giao dịch và loại hàng hoá, tất cả được ghi rõ trong hợp đồng.

5 Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu:

Sau khi ký kết hợp đồng, các bên cần xác định rõ nội dung và trình tự công việc để tránh sai sót và vi phạm hợp đồng, vì mọi sai sót đều có thể dẫn đến khiếu nại Quá trình này thường bao gồm các bước như ký hợp đồng xuất khẩu, kiểm tra L/C, xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hóa, mua bảo hiểm, giao hàng lên tàu, làm thủ tục hải quan, kiểm nghiệm hàng hóa, ủy thác yêu cầu, thanh toán và giải quyết khiếu nại.

6 Đánh giá việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu

Hình thức xuất khẩu hàng nông sản

Chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu được xây dựng dựa trên nguyên lý tổng cầu và các yếu tố quyết định mức sản xuất Mục tiêu chính của chiến lược này là khai thác lợi thế so sánh và xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế, đồng thời mở rộng phân công lao động quốc tế.

Trước bối cảnh toàn cầu hiện nay, các quốc gia cần áp dụng những phương thức phù hợp và có chiến lược hợp lý để cải cách và chuyển đổi nền kinh tế, nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.

Theo nghị định 57/CP, thương nhân Việt Nam có quyền xuất khẩu mọi loại hàng hóa, không bị ràng buộc bởi ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ngoại trừ các mặt hàng nằm trong danh mục cấm xuất khẩu Đây là một quy trình mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.

Việt Nam đang nỗ lực cải thiện tính thông thoáng trong các thủ tục hành chính và pháp lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang thị trường toàn cầu.

Xuất khẩu không chỉ đơn thuần là hoạt động mua bán, mà là một hệ thống quan hệ giao thương và đầu tư từ trong nước ra quốc tế Mục tiêu của xuất khẩu là thúc đẩy hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý và nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời góp phần thực hiện văn minh xã hội.

Có nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau, tuy nhiên, việc phân chia chúng chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào góc độ mà chúng ta xem xét.

Theo Nghị định 57/CP, hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa được định nghĩa là giao dịch mua bán hàng hóa giữa tư nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài thông qua các hợp đồng thương mại Hoạt động này bao gồm cả tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa.

Trên thị trường toàn cầu, các giao dịch xuất khẩu được thực hiện theo những phương thức nhất định, mỗi phương thức quy định rõ ràng về thủ tục, điều kiện giao dịch, thao tác và chứng từ cần thiết Mỗi hình thức xuất khẩu đều có những đặc điểm và kỹ thuật riêng để đảm bảo hiệu quả trong quá trình giao dịch Dưới đây là một số hình thức xuất khẩu cơ bản.

Xuất khẩu tự doanh, hay còn gọi là xuất khẩu trực tiếp, là hình thức xuất khẩu trong đó các nhà sản xuất, công ty, xí nghiệp và nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bán hàng trực tiếp với các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài Hình thức này được thực hiện dưới sự cho phép của nhà nước và Bộ Thương mại.

Xuất khẩu uỷ thác, hay còn gọi là xuất khẩu qua trung gian, là hình thức xuất khẩu trong thương mại quốc tế, trong đó người xuất khẩu quyết định các điều kiện giao dịch như hàng hoá, giá cả, địa điểm giao nhận và phương thức thanh toán, nhưng phải thông qua một bên trung gian Các trung gian phổ biến trong thị trường này bao gồm đại lý và môi giới.

Xuất khẩu uỷ thác là giải pháp cho những doanh nghiệp không đủ điều kiện xuất khẩu trực tiếp, cho phép họ ủy quyền cho một doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện việc xuất khẩu hàng hóa Doanh nghiệp uỷ thác sẽ nhận được phí từ dịch vụ này, giúp tối ưu hóa quy trình xuất khẩu cho bên ủy thác.

3 Xuất khẩu hàng đổi hàng

Xuất khẩu hàng đổi hàng, hay còn gọi là buôn bán đối lưu, là một hình thức xuất khẩu trong đó người xuất khẩu cũng là người nhập khẩu Hình thức này diễn ra khi hai bên trao đổi hàng hóa và dịch vụ có giá trị tương đương với nhau.

Trong quá trinh mua bán ,ký hợp đồng , thanh quyết toán nhanh vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung

Là hoạt động tái xuất khẩu các mặt hàng đã nhập khẩu trước đó, bao gồm cả những sản phẩm được sơ chế hoặc không sơ chế.

Giao dịch tái xuất là quá trình nhập khẩu và xuất khẩu nhằm thu về số ngoại tệ lớn hơn so với số ngoại tệ ban đầu Hình thức giao dịch này luôn thu hút sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.

5 Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá

Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt nơi người mua và bán thực hiện giao dịch hàng hoá lớn thông qua các môi giới được chỉ định Tại đây, các sản phẩm có tính chất đồng loạt và có thể thay thế cho nhau được giao dịch, phản ánh mối quan hệ cung cầu tập trung trong một khu vực và thời điểm cụ thể.

Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản của việt

Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

1 Tiến bộ khoa học kỹ thuật liên quan đến sản xuất,vận chuyển phân phối bảo quản và chế biến hàng nông sản

Tiến trình toàn cầu hóa đã mang lại sự tiến bộ vượt bậc, thúc đẩy các cuộc cách mạng công nghệ hiện đại, giúp nâng cao năng suất lao động và tăng cường xuất khẩu Những thành tựu kỹ thuật trong sản xuất, vận chuyển và chế biến nông sản đã tạo ra các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng Nhờ vào khoa học kỹ thuật, chúng ta có khả năng sản xuất các sản phẩm chất lượng cao với hàm lượng công nghệ tiên tiến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Công nghệ sau thu hoạch và chế biến nông sản hiện nay vẫn còn lạc hậu và kém phát triển, mặc dù đã có sự quan tâm đáng kể Thị hiếu tiêu dùng ngày càng cao yêu cầu chất lượng và hình thức sản phẩm phải được cải thiện Trong 10 năm qua (1990-2001), đã có những chuyển biến tích cực và đổi mới trong công nghệ chế biến, dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ hàng nông sản chế biến với sự cải thiện rõ rệt về hình thức, chủng loại và mẫu mã sản phẩm.

Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp chế biến nông- lâm sản tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ 12-14% mỗi năm, hình thành nhiều nhà máy chế biến có công nghệ hiện đại Ngành xay xát gạo đạt sản lượng 18-20 triệu tấn/năm, gấp đôi so với năm 1990, với sự đổi mới trong công nghệ tách hạt và đánh bóng Ngành điều, mặc dù còn non trẻ, đã chuyển từ xuất thô sang xuất điều nhân chế biến, tăng gấp 80 lần, trong khi ngành cà phê và cao su cũng ghi nhận sự phát triển đáng kể Tuy nhiên, phần lớn nông sản Việt Nam vẫn chủ yếu ở dạng thô và sơ chế, với tỷ trọng chế biến sâu chỉ đạt 25% Chất lượng nguyên liệu thu gom không đồng đều do sản xuất phân tán, dẫn đến chất lượng sản phẩm chế biến thấp, với tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch gạo lên tới 13-16% Hệ số sử dụng công suất của các nhà máy chế biến chỉ đạt 50-60%, gây lãng phí nguyên liệu và năng lực sản xuất Việt Nam hiện được đánh giá có công nghệ chế biến ở trình độ trung bình thấp.

Việt Nam hiện còn lạc hậu về trình độ sản xuất và trang thiết bị máy móc, vì vậy cần chú trọng áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để cải tạo và phát triển giống cây trồng mới, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng, đồng thời chịu được điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên Bên cạnh đó, cần phát triển công nghiệp chế biến hàng hóa nông sản sâu và tinh để nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

Qua nghiên cứu, điều tra thì tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của ta là rất lớn, điều này dẫn đến chi phí sản xuất tăng

Biểu I.3: Tỷ lệ tổn thất hao hụt sau thu hoạch

Chỉ tiêu Tỷ lệ tổn thất %

Tổn thất lúc thu hoạch 1,3 –1,7

Tổn thất lúc vận chuyển 1,2 – 1,5

Tổn thất lúc đạp, tuốt 1,4 – 1,8

Tổn thất lúc phơi sấy, làm sạch 1,9 – 2,1

Tổn thất lúc bảo quản 3,2 – 3,9

Tổn thất lúc xay xát 4,0 – 4,5

Nguồn: Số liệu điều tra cảu viện nghiên cứu sau khi thu hoạch và tổng cục thống kê

2 Ảnh hưởng của tình hình cung cầu hàng hoá nông sản trên thị trường Quốc Tế

Khi nền kinh tế toàn cầu phát triển, nhu cầu về nông sản gia tăng không chỉ ở các nước phát triển mà cả ở các quốc gia đang phát triển và kém phát triển Thị trường nông sản trở nên biến động và mở rộng hơn bao giờ hết Các nước phát triển yêu cầu nông sản chất lượng cao với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, trong khi các nước đang phát triển chấp nhận hàng hóa có chất lượng thấp hơn, dẫn đến giá trị thu lại cũng thấp hơn Do đó, Việt Nam cần tập trung vào việc cung cấp hàng hóa chất lượng cao và hàng tinh chế để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường thế giới.

3 Quan hệ thương mại và chính sách của các nước bạn hàng nhập khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam

Việt Nam đang nỗ lực mở rộng quan hệ ngoại giao và thương mại với các quốc gia trên toàn cầu, nhằm tăng cường hợp tác và mở cửa thị trường Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã mang lại quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) cho Việt Nam, tạo cơ hội lớn để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là nông sản, vào thị trường Mỹ Với mức thuế suất thấp, thậm chí có thể bằng không, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam sẽ được nâng cao, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

Để thúc đẩy xuất khẩu, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và nghị định như Nghị định 57/1998/NĐ-CP và Nghị định 44/2001/NĐ-CP nhằm mở rộng hoạt động thương mại và quy định chi tiết về xuất- nhập khẩu Chỉ thị số 31/2001 của Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện chế độ Tham Tán nông nghiệp tại các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc do sự bấp bênh của thị trường nông sản Tuy nhiên, cơ chế quản lý kinh tế và xuất nhập khẩu thay đổi thường xuyên đã gây khó khăn cho doanh nghiệp Để khắc phục, Quyết Định số 46/2001/QĐ-TTg đã ban hành cơ chế quản lý xuất nhập khẩu ổn định cho giai đoạn 2001-2005 và bãi bỏ quy định đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu gạo.

Nhận thức rõ ràng về lợi thế và bất lợi trong sản xuất kinh doanh nông sản là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả chỉ đạo sản xuất và thị trường Cần kết hợp các lợi thế so sánh và phát huy tối đa hiệu quả của chúng, điều này đòi hỏi nỗ lực từ toàn xã hội và sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, cấp và địa phương Vai trò điều tiết của chính phủ là rất quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược xuất khẩu, từ đó tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam

1 Chất lượng và công nghệ sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu

Chất lượng sản phẩm đóng vai trò quyết định trong việc phản ánh mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng và sở thích Do đó, các sản phẩm thô và sơ chế cần phải được cải thiện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thói quen tiêu dùng hiện nay.

Chất lượng và công nghệ là yếu tố then chốt trong cuộc cạnh tranh hiện nay, phản ánh sự cạnh tranh về kỹ thuật và công nghệ trên toàn cầu.

Chất lượng hàng nông sản Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua, với sự đa dạng hóa sản phẩm và ra đời nhiều chủng loại mới Công nghệ chế biến cũng đã được nâng cao, đặc biệt là trong việc xuất khẩu sản phẩm Việt Nam chú trọng vào chất lượng sản phẩm xuất khẩu, như công nghệ tách hạt và đánh bóng Năm 1989, gạo phẩm cấp cao 5% tấm chỉ chiếm 32% tổng khối lượng hàng xuất khẩu, nhưng đến năm 1994, tỷ lệ này đã tăng lên 44,83% Đối với hạt điều, trước đây chủ yếu xuất thô, nhưng từ năm 1996 đến 1998, Việt Nam đã xuất khẩu điều nhân và nhập điều thô để chế biến tái xuất khẩu.

Mặc dù Việt Nam đã có những bước chuyển biến trong việc tăng tỷ lệ hàng chế biến xuất khẩu, nhưng phần lớn nông sản vẫn ở dạng thô, dẫn đến chất lượng hàng hóa thấp và không đồng đều Công nghệ chế biến hiện tại vẫn lạc hậu, chủ yếu dựa vào thiết bị từ thời Liên Xô cũ, không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay Các cơ sở sản xuất và máy móc cồng kềnh nhưng kém hiệu quả, cùng với định mức tiêu hao nguyên liệu cao, đã ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Dù có nhiều doanh nghiệp nỗ lực đổi mới công nghệ, nhưng nguồn vốn hạn hẹp và hệ thống quản lý cồng kềnh vẫn là rào cản lớn trong cạnh tranh.

2 Sự hạn chế trong việc xâm nhập và tạo lập ổn định thị trường

Doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động trên thị trường toàn cầu trong bối cảnh phân chia thị trường và lao động quốc tế đã ổn định Tuy nhiên, các doanh nghiệp còn non trẻ này phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp lớn có kinh nghiệm lâu năm Hơn nữa, công tác tổ chức thông tin còn yếu kém, thiếu đồng bộ và chất lượng chưa cao Bên cạnh đó, trình độ quản lý, điều hành xuất nhập khẩu và khả năng tiếp thị của doanh nghiệp Việt Nam cũng cần được cải thiện để nâng cao sức cạnh tranh.

3 Khả năng và điều kiện sản xuất các mặt hàng nông sản trong nước Đây là điều kiện nguồn hàng cho xuất khẩu một nước chỉ có thể xuất khẩu được khi các nguồn hàng trong nước đủ để đáp ứng nhu cầu cũng như việc sản xuất, thu gom, bảo quản chế biến, sản phẩm chế biến không đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế Sau những năm phát triển lương thực nền sản xuất nước ta đã tăng trưởng đáng kể, công nghệ mới được sử dụng rộng rãi tay nghề của người lao động được nâng cao ở một số nơi , có những doanh nghiệp có đủ khả năng sản xuất và chế biến nhiều mặt hàng nông sản đáp ứng được nhu cầu thị trường Nhưng số đó còn rất nhỏ, đại đa số các đơn vị sản xuất còn thiếu thốn, công nghệ chủ yếu còn lạc hậu chưa thoả mãn với nhu cầu ngày một nâng cao của khách hàng nước ngoài

4 Nhận thức về vai trò ,vị trí của xuất khẩu và định hướng chính sách phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Chính Phủ

Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế về đất đai, lao động và điều kiện sinh thái, tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế cao Với dân số khoảng 81 triệu người và gần 29 triệu lao động, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, đặc biệt là lao động nông thôn có chất lượng cao và trẻ, với gần 50% lao động ở độ tuổi dưới 29 Lịch sử lâu dài trong sản xuất nông nghiệp đã giúp Việt Nam xuất khẩu nhiều sản phẩm như gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su và điều Trong những năm tới, Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục phát triển kinh tế xã hội bằng cách khai thác lợi thế nông nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhưng vẫn giữ nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu.

5 Quy hoạch và kế hoạch phát triển hàng nông sản xuất khẩu

Chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước chỉ là định hướng chiến lược, trong khi khả năng thực thi chính sách phụ thuộc vào kế hoạch và quy hoạch phát triển Việc chậm trễ trong xây dựng và phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội đã dẫn đến thiếu cơ sở cho quy hoạch và kế hoạch phát triển xuất, nhập khẩu, đặc biệt là hàng nông sản Hơn nữa, hạn chế về tầm nhìn đã gây ra sự bị động và lúng túng trong việc xử lý các quan hệ với ASEAN, APEC, EU, Mỹ và WTO Do đó, cần xác định thị trường trọng điểm cho từng mặt hàng để có kế hoạch phát triển nguồn hàng thu mua và chế biến hợp lý.

6 Tổ chức điều hành xuất khẩu

Việc quản lý xuất khẩu bao gồm xác định hàng hóa được phép xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc tự do, phân chia hạn ngạch, và đề ra chính sách khuyến khích xuất khẩu Chính phủ và các bộ ngành tại Việt Nam thực hiện điều hành xuất khẩu, và trong trường hợp cần thiết, có thể thành lập Uỷ ban riêng Chúng ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ việc tổ chức điều hành xuất khẩu gạo trong thời gian qua.

Hiện nay, do thiếu tổ chức hợp pháp và sự hợp lực chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp Trung ương và địa phương, thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, cùng tham gia vào sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu một mặt hàng mà không có quan hệ ngành hàng rõ ràng Tình trạng này dẫn đến sự lộn xộn trong hoạt động mua bán, với việc mỗi doanh nghiệp tự hoạt động mà không có sự quản lý, hướng dẫn hay phân công hợp lý Hậu quả là giá mua trong nước tăng cao trong khi giá bán ở thị trường nước ngoài giảm, gây thiệt hại lớn cho lợi ích xã hội và đặc biệt là cho những người trực tiếp sản xuất hàng hóa.

THỰC TRẠNG VỀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Đặc điểm về những mặt hàng nông sản phẩm và thị trường xuất khẩu

Thị trường nông sản toàn cầu rất phong phú và đa dạng, với nhiều loại hàng hóa và nguồn gốc sản phẩm khác nhau, thường liên quan đến đặc trưng tự nhiên của từng vùng sản xuất Đặc biệt, hàng nông sản có tính chất thời vụ và yêu cầu chi phí đầu tư cũng như trồng trọt phân tán Để tiêu thụ nông sản hiệu quả, cần thiết phải hình thành các khu vực thị trường sản xuất và tiêu thụ truyền thống, nơi có những thỏa thuận thương mại khác biệt theo thời gian và không gian, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro Do thời gian lưu thông ngắn của nông sản, nhà xuất khẩu cần tổ chức thu mua và vận chuyển hàng hóa nhanh chóng để đảm bảo chất lượng và mẫu mã sản phẩm.

I.1 Đặc điểm về một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đóng vai trò quan trọng trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của đất nước và có ảnh hưởng đến thị trường quốc tế Từ năm 1991, số lượng mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 50 triệu USD/năm trở lên đã tăng từ 6 nhóm lên 14 nhóm vào các năm 1998 và 1999 Những mặt hàng này bao gồm lạc nhân, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, than đá, dầu thô, thủy sản, rau quả, hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, cùng với hàng thủ công mỹ nghệ.

Nếu tính đạt kim ngạch từ 100 triệu USD/năm trở lên thì số mặt hàng này năm 1991 chỉ có 4, năm 1999 đã lên tới 11

Dựa trên việc khai thác lợi thế so sánh của các vùng sinh thái và địa phương trên toàn quốc, nhiều vùng chuyên canh sản xuất nông sản xuất khẩu quy mô lớn đã được hình thành, điển hình như vùng lúa gạo Đồng Bằng Sông Cửu Long và Đồng Bằng Sông Hồng.

Cà phê Tây Nguyên nổi tiếng với hương vị đặc trưng, trong khi cao su ở Đông Nam Bộ đóng góp lớn cho nền kinh tế Chè từ các vùng miền núi và trung du phía Bắc mang đến chất lượng cao, và cây có dầu tại Duyên Hải Miền Trung cũng rất phát triển Ngoài ra, một số cây ăn quả đặc sản của Việt Nam cũng thu hút sự chú ý từ thị trường.

Chuyên đề này tập trung nghiên cứu 5 mặt hàng nông sản chủ lực gồm gạo, cà phê, điều, cao su và chè Tất cả các mặt hàng, ngoại trừ chè, đều có kim ngạch xuất khẩu vượt 100 triệu USD mỗi năm.

Sản xuất lương thực là ngành sản xuất chính và quan trọng của nước ta.

Trước đây, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 0,5 triệu tấn gạo mỗi năm do thiếu lương thực Tuy nhiên, từ năm 1989, nước ta đã sản xuất đủ lương thực tiêu dùng trong nước và gia tăng xuất khẩu, đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo với 4,5 triệu tấn vào năm 1999 Sản lượng gạo tăng trung bình từ 0,8 đến 1,0 triệu tấn mỗi năm, với sự phát triển nhanh chóng và ổn định về diện tích, năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Thế giới có hai mảng thị trường nhập khẩu gạo với đặc điểm khác nhau Mảng đầu tiên bao gồm các thị trường như Trung Đông và Nam Á, nơi nhu cầu gạo rất cao và thường xuyên biến động.

Mỹ, Châu Á và Châu Phi thường nhập khẩu gạo chất lượng thấp và có sức mua yếu, trong khi Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Singapore lại ưa chuộng gạo chất lượng cao với sức mua lớn Trong hơn mười năm qua, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được vị thế vững chắc trên các thị trường tiêu thụ gạo cao cấp.

Do chất lượng hạn chế, thị trường tiêu thụ gạo của Việt Nam chủ yếu tập trung tại Châu Á và Châu Phi, chiếm tới 79% tổng lượng gạo xuất khẩu Trong số đó, Indonesia là một trong ba quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam.

Thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào Châu Âu và Châu Mỹ, nhưng chỉ chiếm khoảng 13% và 8% tổng lượng xuất khẩu Ba nước nhập khẩu chủ yếu từ Việt Nam là Mỹ, Cuba và Brazil Hơn nữa, xuất khẩu gạo của Việt Nam thường qua trung gian, dẫn đến việc chưa xây dựng được mối quan hệ thương mại vững chắc.

Kể từ quý II năm 1994, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu gạo, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lĩnh vực thị trường gạo xuất khẩu của nước này.

Mỹ là thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, nổi bật với yêu cầu nghiêm ngặt về hệ thống pháp luật kinh tế và thương mại.

Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đã mở rộng ra hơn 50 quốc gia trên toàn thế giới, chiếm 20% thị phần gạo toàn cầu Tuy nhiên, chỉ có 8-9 bạn hàng lớn, chiếm 15-18% tổng số đối tác, thường xuyên mua gạo với số lượng lớn và ổn định Các bạn hàng chính bao gồm 4 quốc gia châu Á (Singapore, Philippines, Malaysia, Hong Kong), 2 quốc gia châu Âu (Thụy Sĩ, Hà Lan), cùng với Iraq ở Trung Đông và Mỹ.

Thái Lan và Việt Nam hiện đang là hai đối thủ chính trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, giữ vị trí hàng đầu trong ngành này Vào ngày 20/9/2000, hai quốc gia đã ký biên bản ghi nhớ thành lập quỹ gạo xuất khẩu chung, nhằm ngăn chặn tình trạng giảm giá do cạnh tranh và góp phần ổn định giá gạo trên thị trường.

Cà phê Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm và hiện nay đã khẳng định vị trí quan trọng trong xuất khẩu nông sản Vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là hai khu vực trồng cà phê chủ yếu, chiếm 80-90% diện tích và 85-98% sản lượng cà phê cả nước Việt Nam là một trong ba quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất khu vực, với những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất, đặc biệt là năng suất cao so với thế giới trong những năm gần đây.

GIẢI PHÁP VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU, NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NHÓM MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành hàng nông nghiệp Việt Nam và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới

I.1 Mục tiêu chiến lược xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001- 2010.

Chiến lược 10 năm 2001-2010 do Đại hội IX đề ra nhằm mục tiêu nâng GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi so với năm 2000, đồng thời cải thiện hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp và nền kinh tế Mục tiêu cũng bao gồm việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, gia tăng sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu Nội lực kinh tế được kỳ vọng đạt trên 30% GDP, với nhịp độ xuất khẩu tăng gấp đôi so với tăng trưởng GDP Cơ cấu GDP dự kiến có tỷ trọng nông nghiệp 16-17%, công nghiệp 40-41% và dịch vụ 42-43%, trong khi tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn khoảng 50% Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản được đặt mục tiêu đạt 9-10 tỷ USD.

Dựa trên tình hình trong và ngoài nước, cùng với các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001-2010 đã được thông qua tại đại hội IX của Đảng, các nội dung cơ bản về công tác xuất nhập khẩu trong 10 năm tới đã được xác định và định hướng cụ thể.

Nỗ lực tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu và chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng là cần thiết Cần tập trung vào sản phẩm chế biến, chế tạo và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao Đối với nhập khẩu, ưu tiên thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất, đặc biệt là công nghệ tiên tiến Mục tiêu là đảm bảo cán cân thương mại hợp lý, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, đồng thời hội nhập thành công vào kinh tế khu vực và thế giới Cần chớp thời cơ để tạo ra sự phát triển đột phá, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách kinh tế với các nước trong khu vực.

Chiến lược xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2010 được thiết lập để hiện thực hóa các định hướng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng Mục tiêu của chiến lược này là đưa ra những hướng đi và biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chỉ tiêu xuất nhập khẩu phụ thuộc vào các chỉ tiêu chung của Nhà Nước Theo dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 của Bộ Thương mại, GDP dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong 10 năm tới, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 7,2% Giá trị sản lượng nông nghiệp dự kiến tăng 4,5% mỗi năm, với sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn vào năm 2010, nông nghiệp chiếm 16-17% GDP, trong đó tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 18,6% lên 20-25% và sản lượng thủy sản đạt khoảng 2,5-3 triệu tấn Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chiếm 40-41% GDP, với ngành chế biến chiếm khoảng 80% giá trị sản xuất công nghiệp.

Biểu III.1: Dự kiến xuất khẩu nông sản của Việt nam thời kỳ

Số lượng 1000 tấn 3.550 4.000 4.000 4.500 5.000 21.050 Trị giá Tr USD 5883 7500 8000 1.0000 1.2500 3.388,3

Nguồn : Vụ kế hoạch-BTM

Dự thảo chiến lược đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi so với tăng trưởng GDP, đạt khoảng 14,4% mỗi năm Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nông sản chế biến dự kiến đạt 6-7 tỷ USD, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, trong khi khoáng sản đạt khoảng 3 tỷ USD Sản phẩm công nghiệp sẽ chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu.

I.2 Những thời cơ và thách thức:

Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ với cả những mặt tích cực và tiêu cực, tạo ra sự hợp tác và đấu tranh phức tạp giữa các đối tác Điều này mở ra cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức cạnh tranh gay gắt Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây đã chỉ ra rằng kinh tế thế giới và khu vực vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có khả năng dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam và hoạt động xuất nhập khẩu.

1 Những thời cơ: Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hiện đại hoá và đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực tạo cho Việt Nam có điều kiện phát triển, mở rộng phạm vi kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và hầu hết các nước trên thế giới Việc gia nhập vào ASEAN đã tạo cho Việt Nam thế đứng khá vững chắc trong lòng bạn bè thế giới Với chính sách ưu đãi thuế quan khi gia nhập AFTA hàng hoá của Việt Nam ngày càng có những thuận lợi như: dễ dàng thâm nhập vào thị trường các nước trong khu vực vì thủ tục của nó đơn giản hơn, không phải chịu thuế nên lợi nhuận cao hơn điều này đúng cho tất cả các nghành hàng trong đó có hàng nông sản xuất khẩu Hơn thế nữa Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng lớn trong việc sản xuất hàng nông sản xuất khẩu.

Bước vào thập kỷ 2001-2010, “thế” và “lực” của nước ta đã khác trước.

Việt Nam đã thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, với hàng hóa hiện diện tại các thị trường lớn Nguồn lực trong nước, bao gồm lao động, đất đai và tài nguyên, vẫn còn phong phú, cùng với sự cải thiện về cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và xuất khẩu Mặc dù hội nhập quốc tế mang lại thách thức, nhưng cũng mở ra cơ hội để mở rộng thị trường và tăng cường quan hệ thương mại Quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam đang được mở rộng, và khả năng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ giúp tận dụng các ưu đãi cho các nước đang phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài và công nghệ.

Một số ngành sản xuất trong nước đang phát triển nhanh chóng, tạo ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, ổn định với giá thành cạnh tranh cả trên thị trường nội địa và quốc tế Chính sách thương mại của Nhà Nước ngày càng thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động.

Đảng và Nhà Nước xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đặc biệt chú trọng đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản Những ưu đãi đầu tư và các chính sách ưu tiên trong lĩnh vực sản xuất nông sản, đặc biệt là đối với cây lâu năm như cao su và cà phê, đã tạo động lực mới cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.

Với tiềm năng to lớn của mình triển vọng về hàng nông sản xuất khẩu trong những năm tới là rất sáng sủa.

Biểu III.2: Kim ngạch và cơ cấu xuất nhập khẩu dự kiến 2010.

Tổng kim ngạch hàng hoá 48.000-50.000 100

(Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê).

Bên cạnh những thời cơ đã nêu trên chúng ta cũng gặp không ít những khó khăn mà biểu hiện rõ nhất là:

Mở cửa nền kinh tế sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn, tuy nhiên, hàng nông sản của chúng ta lại không có chất lượng cao, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh.

Là một quốc gia nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế về đất đai và khí hậu Tuy nhiên, đất nước cũng phải đối mặt với những thiên tai như lũ lụt và hạn hán, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nông nghiệp, dẫn đến tình trạng mất mùa Hệ quả là khối lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp không ổn định, ảnh hưởng đến đời sống người nông dân.

Thị trường cà phê toàn cầu đang trải qua nhiều biến động mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam Việc nắm bắt thông tin về thị trường này còn hạn chế có thể dẫn đến sự mất phương hướng trong kinh doanh, gây ra hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả trong các giao dịch.

Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm tại Việt Nam vẫn còn thấp, khiến chúng ta phải đối mặt với cuộc đua khốc liệt hơn trên thị trường khu vực và toàn cầu Kể từ năm 2006, khi Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết về AFTA, nhận thức và hành động trong quá trình hội nhập đã gặp nhiều khó khăn và thách thức.

Biện pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Sự đổi mới nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ việc cải cách cơ chế và chính sách quản lý kinh tế trong nông nghiệp, với Nghị quyết 10 của BCH (4/1988) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và đời sống kinh tế nông nghiệp Thành công lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp là chuyển đổi từ nền nông nghiệp thuần canh sang phát triển sản xuất hàng hóa, khai thác lợi thế của các địa phương và vùng sinh thái, hình thành các mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê, cao su, chè, điều và hạt tiêu, góp phần quan trọng vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Để tăng cường sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu, cần dựa vào động lực từ chính người sản xuất và kinh doanh, cùng với sự khuyến khích về lợi ích vật chất và nhu cầu phát triển Đồng thời, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào hệ thống chính sách của Nhà nước và cơ chế vận hành thực tế, trong đó chính sách hợp lý sẽ có tác động tích cực, thúc đẩy hiệu quả sản xuất.

II.1 Các biện pháp liên quan đến nguồn hàng nông sản cho xuất khẩu.

1 Biện pháp về đầu ra cho nguồn hàng nông sản xuất khẩu: tạo lập môi trường cho thị trường đầu ra của nông sản phẩm Trước hết vấn đề có tính cơ bản để tạo lập môi trường tiêu thụ nông sản phải đặt dưới giác độ của nền kinh tế thị trường là cấu trúc thị trường và môi trường pháp lý cho phương thức và cơ chế vận hành của thị trường.

Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ, việc tự do hóa thương mại khu vực và toàn cầu đang diễn ra, yêu cầu các quốc gia phải tái cấu trúc thị trường và môi trường pháp lý để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm theo hướng mở và cạnh tranh Tuy nhiên, sự điều chỉnh này cần dựa trên lợi thế so sánh và mức độ tham gia vào phân công hợp tác quốc tế để đảm bảo lợi ích quốc gia Tại Việt Nam, sự chênh lệch trong trình độ sản xuất giữa các vùng và hạ tầng yếu kém đã tạo ra nhiều bất cập trong cấu trúc thị trường và pháp lý Hơn nữa, sự điều tiết vĩ mô của chính phủ còn bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng giá cả không ổn định và dư thừa nông sản như chè, gạo, cà phê Nhiều thị trường vẫn ở trạng thái hoang sơ, cạnh tranh hỗn loạn và có nhiều yếu tố đầu cơ trục lợi.

Để xây dựng đồng bộ các loại thị trường và tạo ra môi trường thuận lợi cho sự vận động năng động của hàng hóa theo cơ chế thị trường có trật tự, cần thực hiện các nội dung cụ thể trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Để phát triển bền vững, cần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản cả trong và ngoài nước, tăng cường giao lưu nông sản giữa các vùng Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội Đồng thời, việc áp dụng và đổi mới công nghệ cần được tăng cường, giúp từng bước tham gia vào phân công lao động quốc tế và thực hiện chính sách thương mại mở.

Để thúc đẩy thị trường hàng hóa, cần đa dạng hóa các kênh lưu thông và các cấp độ phân phối, đặc biệt chú trọng vào các kênh vừa và nhỏ phù hợp với quy mô cung cầu tại khu vực Đồng thời, việc xây dựng các kênh lưu thông hàng hóa sẽ giúp thống nhất thị trường toàn quốc, đáp ứng nhu cầu hàng hóa đa dạng Hệ thống thương mại trung gian cũng cần được hoàn thiện, tạo ra các kênh tiêu thụ lớn nhưng không độc quyền, từ đó cải thiện mối quan hệ cung cầu trên toàn quốc và hỗ trợ sản xuất thông qua vốn và công nghệ.

Trong cấu trúc thị trường đa dạng, mô hình "chợ, tụ điểm thương mại" ở nông thôn đóng vai trò quan trọng Việc gắn kết các chợ nông thôn và các tụ điểm kinh tế sẽ góp phần hiện đại hóa thị trường một cách từng bước Điều này có thể thực hiện thông qua phát triển các tụ điểm kinh tế - văn hóa, kỹ thuật, thương mại và dịch vụ, nhằm phục vụ cho các vùng sản xuất hàng hóa và các cơ sở sản xuất bảo quản.

Để mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản nước ngoài, cần thành lập tổ chức khuyến khích thương mại thuộc chính phủ nhằm thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Tổ chức này sẽ cung cấp thông tin về hệ thống thương mại của Việt Nam và các quốc gia khác, hỗ trợ điều tra thông tin kinh doanh cho các đối tác trong và ngoài nước, cũng như cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế Các bộ liên quan như Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, từ đó củng cố và phát triển thị trường, đồng thời hoàn thiện các quy định hỗ trợ xuất khẩu trong quá trình hội nhập quốc tế.

Để xây dựng một môi trường tiêu thụ nông sản hoàn thiện, cần thiết phải phát triển đồng bộ các thị trường như thị trường hàng tiêu dùng, nông sản, vật tư, vốn, hối đoái và lao động Sự hoàn thiện của cấu trúc thị trường sẽ thúc đẩy môi trường pháp lý, từ đó nâng cao trình độ phát triển và tính thương mại của các yếu tố trong quá trình sản xuất và kinh doanh Hàng hóa phải tuân theo quy luật thị trường, nhưng vẫn cần có sự điều tiết và kiểm soát từ Nhà nước thông qua các quy định pháp luật.

2 Biện pháp về tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu: Đối với các vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu, khuyến khích hình thành các kênh tiêu thụ dài, sâu và rộng với cấp độ lưu thông tiêu thụ hàng hoá lớn đủ sức cạnh tranh Tức là sự gắn kết trở thành những nền kinh tế kỹ thuật từ Trung ương đến hộ, trên các mặt sản xuất, kỹ thuật, vốn, công nghệ và thị trường, tạo ngành hàng và nguồn hàng, bạn hàng, đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới đông thời hạn chế độc quyền bằng việc mở rộng các đầu mối xuất khẩu, có cả thành phần kinh tế tư nhân và công ty đa quốc gia tham gia trực tiếp xuất khẩu một cách độc lập và bình đẳng Do đó phải tổ chức hệ thống thương mại trung gian, tránh các biểu hiện “ nhiễu kênh, nhiễu sóng” gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu dùng, khuyến khích sự liên kết giữa thương mại chế biến và cơ sở sản xuất.

Các công ty xuất khẩu được chọn cần chứng minh năng lực chế biến đạt tiêu chuẩn và có hệ thống kho tàng cùng đại lý mua gom trực tiếp từ nông dân qua hợp đồng Việc tổ chức lại hệ thống thương mại trung gian sẽ khuyến khích các công ty xuất khẩu mở rộng mạng lưới đại lý, từ đó giảm thiểu tình trạng đầu mối thương mại trung gian chụp giật, góp phần ổn định thị trường.

Để hỗ trợ nông dân sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường, cần xác định và quy định các tổ chức thương mại trung gian Đối với nông sản hàng hóa phục vụ tiêu thụ nội địa tại các vùng sản xuất chưa phát triển, cần chú trọng vào hình thức lưu thông cấp độ vừa và nhỏ, đồng thời phát triển kênh tiêu thụ trực tiếp qua các chợ và cụm kinh tế thương mại – dịch vụ – chế biến Điều này sẽ khuyến khích hình thành các kênh tiêu thụ dài hạn, rộng và sâu hơn Đối với vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến nông sản, cần khuyến khích các công ty chế biến và thương mại mở rộng đại lý thu gom nông sản nguyên liệu thông qua hợp đồng với nông dân, từ đó mở rộng đại lý tiêu thụ sản phẩm và từng bước chiếm lĩnh thị trường, góp phần ổn định điều hòa thị trường toàn quốc.

Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành và điều chỉnh nhiều luật liên quan đến thuế xuất nhập khẩu, hải quan, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần và hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại Tuy nhiên, để xây dựng nền kinh tế thị trường tự do và cạnh tranh bình đẳng, cần nghiên cứu thêm các nội dung pháp lý như luật thương mại, luật chống độc quyền và đầu cơ, cũng như luật bảo vệ người tiêu dùng, hiện đang còn thiếu.

Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ dẫn đến sự mất cân bằng giữa cung và cầu, gây ra biến động trên thị trường Để khắc phục tình trạng này, chính phủ cần chủ động can thiệp bằng cách lập quỹ bình ổn giá cả, hỗ trợ lãi suất vay để mua nông sản dự trữ, từ đó ổn định cung cầu và bảo vệ quyền lợi của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng.

3 Hướng mở rộng xuất khẩu

Nghiên cứu về thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam cho thấy cần mở rộng và củng cố các thị trường chiến lược Đối với gạo, cần tìm kiếm đối tác và thiết lập thị trường ổn định, đặc biệt chú trọng vào khu vực ASEAN, Trung Đông, Mỹ Latinh, Châu Phi, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản Cà phê cần tăng cường tiếp thị và duy trì mối quan hệ bền vững với thị trường truyền thống tại Châu Âu, đồng thời mở rộng sang Mỹ và các nước Tây Âu cũng như thị trường Châu Á Cao su nên duy trì quan hệ với thị trường truyền thống SNG và Đông Âu, đồng thời củng cố các thị trường mới như Mỹ và Trung Quốc Đối với hạt điều, cần duy trì và phát triển các thị trường lớn như Mỹ, Úc, Nhật Bản, Canada và chú trọng khai thác thị trường trong khu vực Châu Á Cuối cùng, chè cần củng cố thị trường đã có, nâng cao uy tín và chất lượng để phát triển bền vững, đặc biệt là tại các thị trường truyền thống như Trung Cận Đông và Châu Âu.

II.2 Các biện pháp liên quan đến tài chính và tín dụng.

Hệ thống chính sách và biện pháp hỗ trợ để thực hiện định hướng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010

III.1 Chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu hàng hoá - dịch vụ

Cần ưu tiên cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, trong khi đối với các ngành thay thế nhập khẩu đã có khả năng sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu, không nên tăng cường đầu tư, kể cả từ nguồn vốn nước ngoài.

Trong đầu tư, cần tập trung vào các ngành hàng chủ lực và dự án nâng cao cấp độ chế biến để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Đối với nông sản, việc đầu tư vào đổi mới giống cây trồng và công nghệ là rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đồng thời phải chú trọng đến khâu sau thu hoạch, hiện đang còn hạn chế.

Nhà nước chú trọng đầu tư trực tiếp cho xuất khẩu thông qua việc phát triển cơ sở hạ tầng như cảng, kho tàng và trung tâm thương mại ở nước ngoài Bên cạnh đó, việc tìm kiếm đối tác và cung cấp thông tin, hướng dẫn doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn và mẫu mã thị trường cũng được ưu tiên Đặc biệt, cần hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu tài chính, nhân lực và thông tin, đồng thời đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cho cán bộ quản lý.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, do đó cần cải thiện đồng bộ môi trường đầu tư để thu hút cả đầu tư trong nước và FDI, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất phục vụ xuất khẩu Việc duy trì môi trường đầu tư ổn định sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư Đồng thời, phát triển hợp lý các khu chế xuất và khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào hoạt động xuất khẩu là cần thiết Hơn nữa, mở rộng thị trường sẽ giúp thu hút các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường lớn.

Nhà nước nên tập trung đầu tư vào các lĩnh vực cần vốn lớn như nghiên cứu khoa học, hạ tầng, kho bãi, và bến cảng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Đối với các lĩnh vực khác, Nhà nước cần ban hành chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp tự chủ đầu tư sản xuất, kinh doanh, đồng thời giảm thiểu và hướng tới việc loại bỏ hoàn toàn cơ chế "xin – cho" và các hình thức bao cấp.

2 Về dịch vụ Để đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 15% trong thời kỳ 2001 – 2010, đưa kim ngạch xuất khẩu dịch vụ lên 8,1 tỷ USD vào năm 2010 và đồng thời xuất siêu 4,7 tỷ USD về dịch vụ, cần tập trung mọi nguồn lực nâng cao sức cạnh tranh của mọi ngành dịch vụ, tận dụng cơ hội cũng như đối phó với thách thức do hội nhập quốc tế đem lại

Dịch vụ đang phát triển nhanh chóng và đa dạng, nhưng hội nhập kinh tế quốc tế mang đến nhiều thách thức mới Cạnh tranh gia tăng do sự xuất hiện của nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài, cùng với việc giảm dần các hình thức bảo hộ theo nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia của GATS Do đó, các ngành dịch vụ cần nỗ lực chuyên nghiệp hóa phương thức kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế để phát triển trong bối cảnh hội nhập.

III.2 Các giải pháp về thị trường Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá các đối tác cần được đổi mới công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô trong theo các hướng sau:

Để phát triển mạnh mẽ công tác thị trường, cần tập trung vào cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời khắc phục tình trạng "ỷ lại vào Nhà nước" và "phó mặc cho doanh nghiệp" Việc đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương là cần thiết để tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp, bao gồm mở cửa thị trường mới, hướng tới thương mại cân bằng với các thị trường nhập siêu, thống nhất hóa các tiêu chuẩn vệ sinh và kỹ thuật, cũng như nới lỏng các hàng rào phi thuế quan.

Công tác thị trường xuất khẩu và nhập khẩu có mối liên hệ chặt chẽ, giúp tăng cường sức mạnh trong đàm phán quốc tế Đồng thời, việc này cũng hỗ trợ doanh nghiệp chuyển dịch từ nhập khẩu chủ yếu từ thị trường siêu nhập (Châu Á) sang thị trường xuất siêu (Bắc Mỹ và Tây Âu).

Để nâng cao hiệu quả công tác thông tin về các thị trường, cần tập trung vào việc cung cấp cái nhìn tổng quát về tình hình chung, các cơ chế chính sách của từng quốc gia, cũng như dự báo xu hướng cung cầu hàng hóa và dịch vụ.

Để phát triển kinh tế bền vững, cần chú trọng thu hút đầu tư từ các tập đoàn xuyên quốc gia và nhà sản xuất “chìa khoá trao tay”, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin Điều này không chỉ giúp đảm bảo thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống phân phối toàn cầu mà còn tạo tiền đề cho giai đoạn sau, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghệ cao.

Để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam mở rộng đầu tư ra thị trường quốc tế, cần tăng cường các biện pháp nhằm hoàn thiện quy trình sản xuất nông sản và thực phẩm, đặc biệt trong lĩnh vực chế biến và đóng gói như chè và cà phê Điều này giúp doanh nghiệp tránh được các rào cản thuế và phi thuế quan từ các quốc gia nhập khẩu.

Để duy trì và mở rộng thị phần lớn trên thị trường quốc tế cho các mặt hàng như gạo, cà phê và hạt tiêu, cần tăng cường áp dụng các biện pháp chiến lược và chiến thuật Việc kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia vào các kế hoạch quốc tế và điều tiết nguồn cung trong khả năng cho phép sẽ giúp tác động tích cực đến thị trường và giá cả, từ đó mang lại lợi ích cho chúng ta.

Để thúc đẩy thương mại và xuất khẩu, cần tăng cường hoạt động thu thập, phổ biến thông tin và dự báo nhằm định hướng sản xuất Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại với sự đóng góp từ doanh nghiệp để hỗ trợ các hoạt động hội chợ, trưng bày và triển lãm Cần tăng cường nghiên cứu các chương trình xuất khẩu trọng điểm để nâng cao tiêu thụ nông sản, từ điều tra, quy hoạch đến tổ chức sản xuất và tiêu thụ Cần có chế độ khuyến khích hợp lý như miễn giảm thuế thu nhập cá nhân và cho phép tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp cho các tổ chức và cá nhân, bao gồm cả cơ quan đại diện ngoại giao và ngoại thương của Việt Nam ở nước ngoài, nhằm hỗ trợ tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế.

Một số biện pháp cụ thể khác

IV.1 Biện pháp về chiến lược sản phẩm

Nguyên nhân cản trở xuất khẩu nông sản chủ yếu là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định và không đồng đều, cùng với khối lượng phân tán nhỏ lẻ và mẫu mã không hấp dẫn Để thúc đẩy xuất khẩu, cần áp dụng các biện pháp nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh và tạo ra sản phẩm đa dạng đáp ứng nhu cầu khách hàng Giải pháp về sản phẩm cần được xem là chiến lược quan trọng trong ngắn hạn và dài hạn Hướng phát triển chủ đạo trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng Đầu tư vào giống và công nghệ sau thu hoạch, bao gồm đóng gói, bảo quản và vận chuyển, là cần thiết để tạo ra đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm.

IV.2 Quy hoạch nông sản xuất hàng hoá tập trung

Quy hoạch nông sản xuất hàng hóa tập trung nhằm phát triển vùng nguyên liệu chất lượng cao, kết nối chặt chẽ với hệ thống tiêu thụ để phục vụ cho chế biến và xuất khẩu.

Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, cần xác định và quy hoạch đồng bộ các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo ra nguồn nguyên liệu chất lượng cho chế biến Vùng lúa gạo chất lượng cao tại ĐBSCL với 1 triệu ha và ĐBSH với 300.000 ha dự kiến cung cấp 70% gạo xuất khẩu hàng năm Bên cạnh đó, vùng cà phê thâm canh ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Trung Bộ sẽ được phát triển trên khoảng 700.000 ha; vùng chè ở miền núi phía Bắc khoảng 100.000 ha; và vùng điều tập trung thâm canh tại Duyên hải miền Trung và Đông Nam cũng sẽ được chú trọng.

Bộ với diện tích khoảng 300 ngàn ha.

Sự đổi mới trong luật đất đai và thuế sử dụng đất đã mang lại tác động tích cực cho người nông dân, giúp họ sử dụng và khai thác hiệu quả các nguồn đất đai có khả năng canh tác nông – lâm nghiệp Nhờ đó, diện tích gieo trồng đã gia tăng thông qua ba phương diện chính: khai hoang phục hoá, thâm canh tăng vụ và đổi mới hệ thống cây trồng.

Hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất đang gia tăng, với nhiều địa phương đã cải cách cơ cấu cây trồng mùa vụ từ 1-2 vụ lên 3-4 vụ mỗi năm Hệ số sử dụng đất canh tác đã tăng từ 1,54 lên 1,96 lần, và nhiều mô hình canh tác 4-5 vụ/năm đã được phát triển Những thay đổi này không chỉ nâng cao hiệu quả và giá trị sử dụng đất trong nông nghiệp mà còn tạo ra các mô hình sản xuất mang lại lợi nhuận từ hàng chục triệu đến hàng trăm triệu đồng trên mỗi hecta.

Chính sách đất đai đã thúc đẩy sự phát triển của các trang trại sản xuất, hiện cả nước có khoảng 115.000 trang trại Nhiều trang trại chuyên môn hóa với quy mô lớn tập trung ở các vùng sản xuất như chè, cà phê, cao su, lúa và cây ăn quả.

Biểu III.3: Diện tích các loại cây trồng Đơn vị tính: 1000 ha

Cây hàng năm Cây lâu năm

Nguồn: Niên giám thống kê 1999 và 2000

IV.3 Tăng cường năng lực chế biến và kiểm soát chất lượng để nâng cao giá trị xuất khẩu

Giải pháp này nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam bằng cách tăng khối lượng và chất lượng sản phẩm, từ khâu chọn giống đến thương mại hóa, đồng thời tiếp cận thị trường có lợi ích xuất khẩu lớn và hạn chế biên độ giao động giá Xu hướng toàn cầu cho thấy các nước xuất khẩu nông sản đang tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu để nâng cao giá trị và đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nhập khẩu Đối với Việt Nam, việc phát triển nông nghiệp hàng hóa mạnh vào xuất khẩu là rất quan trọng trong giai đoạn tới Để nâng cao chất lượng nông sản, Nhà nước cần hỗ trợ công nghiệp chế biến thông qua việc giới thiệu công nghệ mới, hỗ trợ chuyển giao công nghệ và cải tiến công nghệ hiện tại, cùng với các chính sách về thuế, tín dụng và khấu hao.

Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ đào tạo và hướng dẫn về hệ thống kiểm soát chất lượng cho nông sản xuất khẩu, giúp người sản xuất và chế biến nắm rõ yêu cầu chất lượng đồng bộ Đồng thời, cần sớm thiết lập hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để đảm bảo tiêu thụ hết hàng hóa nông sản trong mọi tình huống.

IV.4 Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Đây là giải pháp mang ý nghĩa trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm nông sản Việt Nam xâm nhập thị trường mới và duy trì ổn định các thị trường truyền thống.

Thông qua các hoạt động ngoại giao và đàm phán, Việt Nam đã tiếp cận các thị trường ưu đãi mậu dịch cho nông sản, đặc biệt là thị trường Mỹ và các nước Tây Âu.

Việc đàm phán ký kết các thoả thuận thương mại song phương và đa phương là rất quan trọng, bao gồm đàm phán hạn ngạch xuất khẩu cho các mặt hàng có hạn chế, cân bằng xuất – nhập khẩu với các thị trường mà Việt Nam đang gặp thâm hụt, và ký kết các hiệp định Chính Phủ cũng như các thỏa thuận mua bán hàng hóa giữa các quốc gia.

Việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Việt Nam và các tổ chức kinh tế thương mại toàn cầu như ASEAN, APEC, WTO, AFTA, và FC là rất quan trọng Việt Nam cần tích cực tham gia vào các hiệp hội xuất khẩu nông sản, bao gồm Hiệp hội cao su, Hiệp hội cà phê và Hiệp hội chuối, nhằm nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản trên thị trường quốc tế.

Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để nhanh chóng mở rộng thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam.

Mậu dịch hàng nông sản đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận thị trường xuất khẩu, nhưng thường bị hạn chế bởi hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các quốc gia Do đó, cần có các cuộc đàm phán cấp quốc gia để đạt được thỏa thuận, đôi khi điều này trở thành điều kiện cho các thỏa thuận thương mại khác Chính phủ cần có vai trò chủ động trong việc xây dựng, củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu, đặc biệt là đối với thị trường nông sản.

IV.5 Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản

Thị trường quốc tế lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước, nhưng lại có sự biến động phức tạp, khiến các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản gặp khó khăn trong việc nghiên cứu thị trường Tại Việt Nam, thông tin về thị trường quốc tế còn thiếu và độ chính xác không cao, dẫn đến tình trạng bị động trong hoạt động xuất khẩu Để hỗ trợ các doanh nghiệp, Nhà nước cần thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại, đặc biệt là trung tâm xúc tiến nông sản xuất khẩu, nhằm cung cấp thông tin thị trường nông sản thế giới, giúp doanh nghiệp tổ chức xúc tiến xuất khẩu hiệu quả và tiết kiệm chi phí.

Một số kiến nghị với Nhà nước

Hiện nay, nhóm hàng nông, lâm thủy sản chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, với các mặt hàng chủ yếu như gạo, cà phê, cao su, chè, điều, rau quả và thủy sản, trong đó hầu hết đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thị trường thế giới đã bão hòa về cung cầu, và chất lượng cũng như số lượng nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều hạn chế, dẫn đến giá cả các mặt hàng này rất bấp bênh Do đó, cần có các giải pháp hiệu quả từ Nhà nước để khắc phục những hạn chế này.

Nhà nước cần cải thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các bộ luật liên quan đến kinh tế, nhằm tạo ra một môi trường pháp lý đồng bộ Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp có cơ sở vững chắc để xây dựng kế hoạch sản xuất hiệu quả.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cần duy trì ổn định các chính sách kinh tế và tránh gây ra biến động trong môi trường kinh doanh.

Nhà nước cần tăng cường đàm phán thương mại song phương và đa phương nhằm mở rộng thị trường mới, hướng tới việc đạt được thương mại cân bằng với các thị trường mà Việt Nam thường xuyên nhập siêu Đồng thời, cần thống nhất các tiêu chuẩn vệ sinh và kỹ thuật, cũng như nới lỏng các hàng rào phi thuế quan để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại.

Nhà nước cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần gia tăng xuất khẩu Để hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động tại thị trường quốc tế, cần xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép thành lập Văn phòng đại diện và đơn giản hoá quy trình mở tài khoản giao dịch Đối với các mặt hàng có thị phần lớn như gạo, cà phê, hạt tiêu, cần tăng cường áp dụng các biện pháp thông tin, chiến lược, và kiềm chế tốc độ bán ra, đồng thời tham gia các kế hoạch điều tiết nguồn cung nhằm tác động tích cực đến thị trường và giá cả.

Tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển các quan hệ quốc tế.

Trong bối cảnh kinh doanh hiện đại, việc phát triển quan hệ quốc tế là vô cùng quan trọng, giúp doanh nghiệp và nền kinh tế tận dụng lợi thế so sánh để tăng trưởng Đặc biệt, đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, hội nhập quốc tế không chỉ là cơ hội học hỏi từ các quốc gia khác mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng quan hệ quốc tế Để đạt được điều này, nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào thị trường toàn cầu.

Mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới.

Hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là các điều luật có liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp xúc với các bạn hàng nước ngoài.

Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài tham quan học hỏi kinh nghiệm.

Tổ chức các hội chợ quốc tế tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế khác.

Đơn giản hoá thủ tục hải quan để các doanh nghiệp dễ dàng quan hệ với các bạn hàng nước ngoài.

Nhà nước cần nghiên cứu và triển khai các hình thức bảo hiểm cho cây trồng, thiết lập quỹ bảo hiểm cho từng ngành sản phẩm nông nghiệp như lúa, cà phê, và cao su Các quỹ này sẽ can thiệp vào thị trường khi giá cả giảm xuống dưới mức giá sàn, đồng thời hỗ trợ sản xuất trong những tình huống khó khăn do thiên tai Nguồn tài chính cho các quỹ này sẽ được trích từ thuế xuất khẩu và các khoản đóng góp khác liên quan đến từng loại nông sản.

Tiếp tục triển khai các quy định giá tối thiểu cho các loại nông sản xuất khẩu chủ yếu.

Ngày đăng: 14/10/2022, 08:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
5. Giáo trình QTDNTM : PGS TS Nguyễn Thừa Lộc 6. Giáo trình QTDNXK : PSG TS Nguyễn Chí Thành.II. Báo, Tạp chí Khác
9. Báo Kinh tế thương mại, Lao động... III. Các tài liệu khác từ Bộ thương mại 1. Báo cáo hàng năm của Bộ thương mại Khác
2. Báo cáo tình hình tổng kết thương mại 2001, phương hướng nhiệm vụ năm 2002 Khác
3. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu 2001-2010 Khác
4. Phác thảo phương hướng phát triển ngành thương mại trong thập kỷ tới 2001-2010 Khác
5. Cục diện kinh tế thế giớiNgoài ra còn nhiều tài liệu tham khảo có liên quan khác: Chuyên đề thực tập, một số các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Căn cứ vào kết quả điều tra giáo viên thiết lập một bảng tổng hợp điều tra độ tuổi từ 0-5 tuổi, giáo viên điều tra cập nhật số liệu học sinh phải từ phiếu điều  tra sang bảng tổng hợp phải chính xác, khớp số lượng trẻ từng năm, nam, nữ, trẻ,  dân tộc, trẻ - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
n cứ vào kết quả điều tra giáo viên thiết lập một bảng tổng hợp điều tra độ tuổi từ 0-5 tuổi, giáo viên điều tra cập nhật số liệu học sinh phải từ phiếu điều tra sang bảng tổng hợp phải chính xác, khớp số lượng trẻ từng năm, nam, nữ, trẻ, dân tộc, trẻ (Trang 5)
Hiện nay, nhất là đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện về nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ mầm non, vấn đề giáo dục  kỹ năng tự lập, tự phục vụ cho trẻ đã được quan tâm nhiều hơn - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
i ện nay, nhất là đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện về nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ mầm non, vấn đề giáo dục kỹ năng tự lập, tự phục vụ cho trẻ đã được quan tâm nhiều hơn (Trang 6)
2. Ảnh hưởng của tình hình cung cầu hàng hố nông sản trên thị trường Quốc Tế. - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
2. Ảnh hưởng của tình hình cung cầu hàng hố nông sản trên thị trường Quốc Tế (Trang 21)
Biểu II.5: Tình hình phát triển càphê của Việt Nam - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
i ểu II.5: Tình hình phát triển càphê của Việt Nam (Trang 45)
Biểu II.7: Tình hình sản xuất- xuất khẩu điều Việt Nam - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
i ểu II.7: Tình hình sản xuất- xuất khẩu điều Việt Nam (Trang 47)
Biểu II.11: Tình hình sản xuất & xuất khẩu chè của Việt Nam - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
i ểu II.11: Tình hình sản xuất & xuất khẩu chè của Việt Nam (Trang 50)
Nhìn vào bảng có thể đánh giá một cách tổng quan rằng sản xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay đã ngày một tăng - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
h ìn vào bảng có thể đánh giá một cách tổng quan rằng sản xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay đã ngày một tăng (Trang 60)
Để đáp ứng yêu cầu thực tế tình hình trong thời gian tới, ngày 04.4.2001 chính Phủ đã quyết định số 46/2001/QĐ - TTg về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 – 2005 - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
p ứng yêu cầu thực tế tình hình trong thời gian tới, ngày 04.4.2001 chính Phủ đã quyết định số 46/2001/QĐ - TTg về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 – 2005 (Trang 65)
Chính sách đất đai đã tạo điềukiện cho quá trình hình thành các trạng trại sản xuất, hiện nay cả nước có khoảng 115.000 trang trại - Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của VN
h ính sách đất đai đã tạo điềukiện cho quá trình hình thành các trạng trại sản xuất, hiện nay cả nước có khoảng 115.000 trang trại (Trang 91)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN