NCKH2019 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI NGUYỄN MINH QUANG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠ. NCKH2019 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI NGUYỄN MINH QUANG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠ.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1.1.1.Khái niệm về hợp đồng tín dụng
Các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là ngân hàng, đóng vai trò trung gian tài chính với chức năng chính là "đi vay để cho vay" Ngân hàng huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ xã hội để cho các cá nhân và tổ chức có nhu cầu vay mượn, nhằm thu lợi nhuận Theo pháp luật Việt Nam, cho vay là hình thức cấp tín dụng của TCTD, cho phép cung cấp khoản tiền cho mục đích xác định trong thời gian nhất định Hình thức cho vay được thể hiện qua hợp đồng tín dụng (HĐTD), trong đó bên cho vay phát hành công cụ nợ và bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả khoản nợ theo thỏa thuận HĐTD là kết quả của sự gặp gỡ ý chí giữa hai bên, được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và độc lập, đảm bảo quyền lợi của mỗi bên trong khuôn khổ pháp luật và trật tự công cộng.
Một khái niệm về HĐTD tiếp cận dựa trên cấu trúc quan hệ hợp đồng, cụ thể
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và các tổ chức, cá nhân vay tiền, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình vay, sử dụng và thanh toán tiền vay HĐTD có giá trị pháp lý, làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên, đồng thời ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các cam kết HĐTD cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành, cụ thể là Luật các tổ chức tín dụng 2010.
1 Nguyễn Bích Thảo (2018), Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, tr.9
2 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.317-318
3 Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.31
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) thường dài và chứa nhiều điều khoản hạn chế nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng (TCTD) Điều này xuất phát từ việc mọi rủi ro tín dụng thuộc về TCTD khi ngân hàng không thể kiểm soát việc sử dụng vốn vay sau khi giải ngân Bên cạnh đó, rủi ro từ việc thẩm định thông tin không chính xác và hành vi không trung thực của người vay có thể dẫn đến việc sử dụng vốn sai mục đích, từ đó gia tăng khả năng nợ xấu Do đó, các bên cho vay luôn ưu tiên các điều khoản trong HĐTD nhằm đảm bảo quyền lợi và khả năng thẩm định thực tế của người vay.
Pháp luật quy định hợp đồng tín dụng (HĐTD) với các điều khoản cơ bản nhằm đảm bảo rằng giao dịch cho vay diễn ra một cách hợp pháp và an toàn Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia mà còn mang lại lợi ích nhất định cho họ, như đã đề cập trong khoản 1 Điều
Theo quy định tại Điều 23 của Thông tư 39, thỏa thuận cho vay cần được lập thành văn bản và phải bao gồm các nội dung chính như: số tiền cho vay, hạn mức cho vay trong trường hợp cho vay theo hạn mức, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, thời hạn cho vay, và lãi suất cho vay theo thỏa thuận.
Trong những năm gần đây, xu hướng bảo vệ quyền lợi của bên đi vay ngày càng được chú trọng, nhằm thực hiện nguyên tắc cân bằng quyền lợi giữa các bên trong quan hệ tín dụng Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể vay vốn mà còn cho phép điều chỉnh các điều khoản hợp đồng khi có sự thay đổi cơ bản trong hoàn cảnh thực hiện Việc đề cập đến tính cân bằng vị thế và quyền lợi giữa các bên là phù hợp với nguyên tắc giao dịch dân sự được quy định tại Điều 1, Bộ luật Dân sự 2015.
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) được định nghĩa là một hình thức pháp lý bằng văn bản, ghi nhận thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và người vay, bao gồm cả tổ chức và cá nhân Theo đó, TCTD cung cấp nguồn vốn vay cho bên vay trong một khoảng thời gian nhất định và với mục đích rõ ràng HĐTD ràng buộc bên vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi, đồng thời cần đảm bảo tính tự nguyện và cân bằng quyền lợi giữa các bên, không vi phạm các điều cấm của pháp luật.
4 Nguyễn Văn Ngọc (2015), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, tr.189
Trong tác phẩm "Hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng" của Lương Khải Ân (2021), tác giả đã phân tích một cách sâu sắc về lý luận và thực tiễn áp dụng của hợp đồng cho vay Nội dung chính của cuốn sách cung cấp cái nhìn toàn diện về các khía cạnh pháp lý và quy trình thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực ngân hàng, từ đó giúp nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
6 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (30), tr.85
1.1.2.Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Quan hệ tín dụng ngân hàng xuất phát từ quan hệ vay mượn tài sản, trong đó hợp đồng tín dụng (HĐTD) là một dạng đặc biệt của hợp đồng vay tài sản dân sự, với nghĩa vụ hoàn trả của bên vay cho bên cho vay Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu tài sản của bên cho vay cho đến khi bên vay hoàn thành nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi suất Điều này đảm bảo rằng nghĩa vụ không thể bị vô hiệu hóa vì bất kỳ lý do nào Tuy nhiên, quan hệ tín dụng có những đặc điểm riêng về đối tượng, cơ chế giao dịch và phạm vi điều chỉnh Mặc dù cả hai quan hệ đều cung cấp vốn cho thị trường, nhưng quan hệ tín dụng có mức độ tập trung và điều tiết nguồn vốn cao hơn nhờ vào chức năng nhận tiền gửi và cấp tín dụng của các định chế tài chính Do đó, HĐTD không chỉ mang đặc điểm của hợp đồng vay mượn tài sản mà còn chứa đựng những yếu tố đặc biệt riêng biệt.
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) là hợp đồng song vụ, trong đó các bên có quyền và nghĩa vụ đối xứng với nhau Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia; cụ thể, bên vay phải trả lãi suất cho bên cho vay để được vay vốn Theo quy định pháp luật, khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ, mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình đúng hạn, không được hoãn lại vì lý do bên kia chưa thực hiện Tuy nhiên, bên có nghĩa vụ thực hiện có quyền hoãn nếu khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia bị suy giảm nghiêm trọng Ví dụ, tổ chức tín dụng có thể hoãn giải ngân khoản vay nếu nhận thấy tình hình tài chính của bên vay xấu đi HĐTD cũng là hợp đồng ưng thuận, có hiệu lực từ thời điểm các bên thỏa thuận xong nội dung cần thiết, bất kể đã bắt đầu thực hiện hay chưa.
7 Khoản 1, Điều 410, Bộ luật Dân sự 2015
8 Khoản 1, Điều 411, Bộ luật Dân sự 2015
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) yêu cầu tổ chức tín dụng (TCTD) phải thực hiện nghĩa vụ giải ngân khoản vay đúng thời hạn và số lượng đã cam kết với bên đi vay ngay từ thời điểm hợp đồng được ký kết Do đó, HĐTD có hiệu lực ngay khi các bên giao kết, thể hiện đặc điểm của hợp đồng ưng thuận.
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) có tính chất đền bù, trong đó bên cho vay nhận lãi suất từ khoản vốn cho bên đi vay HĐTD thể hiện sự trao đổi lợi ích giữa hai bên: bên đi vay nhận tín dụng từ tổ chức tín dụng (TCTD), trong khi TCTD thu lợi từ chênh lệch lãi suất Điều này tạo ra nghĩa vụ hoàn trả cả tiền vay lẫn lãi suất của bên vay, phù hợp với chức năng kinh doanh tiền tệ của TCTD Mức lãi suất trong HĐTD được điều chỉnh theo quy định của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng 2010, không bị giới hạn bởi mức lãi trần 20%/năm theo Bộ Luật Dân Sự Các bên sẽ thỏa thuận mức lãi suất dựa trên quy luật cung cầu vốn, nhu cầu vay, và độ tín nhiệm của bên vay trong các giao dịch trước đó.
Vào thứ tư, quyền sở hữu "tạm thời" đối với khoản vay được chuyển giao từ TCTD sang bên đi vay khi khoản nợ đã được giải ngân Từ thời điểm này, TCTD không còn quyền kiểm soát số tiền đã cho vay, và bên đi vay có quyền sử dụng khoản vay theo thỏa thuận trong HĐTD Sau thời gian sử dụng đã cam kết, bên vay phải hoàn trả quyền sở hữu khoản vay cho TCTD Tuy nhiên, bên đi vay có thể vi phạm nghĩa vụ sử dụng khoản vay nếu TCTD không thực hiện kiểm tra hợp đồng, dẫn đến khả năng giả mạo hồ sơ báo cáo Điều này xâm phạm quyền sở hữu khoản vay của TCTD, đòi hỏi cần có quy định pháp luật để đảm bảo khả năng thu hồi sau thời gian "tạm thời" HĐTD còn thể hiện các đặc trưng của quan hệ cấp tín dụng, khác với hợp đồng vay tài sản trong dân sự về chủ thể, đối tượng, mục đích, nội dung và hình thức.
9 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.131-132
10 Nguyễn Bích Thảo (2018), tlđd (24), tr.11
11 Nguyễn Bích Thảo (2018), tlđd (24), tr.12
12 Công văn 1576/NHNN-CSTT năm 2017 giải đáp câu hỏi liên quan đến quy định tại Thông tư 39
13 Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2012), Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay, Nhà xuất bản Tư Pháp, tr.18
Đối tượng hợp đồng vay vốn chủ yếu là tiền tệ, với các tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp khoản vay dưới hình thức tiền mặt (đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ) để phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu hoặc tiêu dùng của bên vay Việc cho vay bằng hiện vật gặp khó khăn trong việc định giá, bảo quản và sử dụng tài sản, do đó cho vay tiền giúp TCTD tăng tính thanh khoản, dễ dàng cấp vốn theo nhu cầu và đơn giản hóa việc thu hồi nợ Tuy nhiên, TCTD có thể gặp rủi ro do biến động thị trường, khi bên vay chỉ chịu trách nhiệm với số tiền thực nhận.
Thứ hai, lòng tin là yếu tố quyết định hiệu quả trong HĐTD Tín dụng bao gồm
Ba yếu tố quan trọng trong quan hệ tín dụng bao gồm thời gian, sự tín nhiệm và hứa hẹn hoàn trả Sự tín nhiệm là yếu tố cốt lõi, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành quan hệ tín dụng Tổ chức tín dụng (TCTD) cần thẩm tra uy tín và khả năng hoàn trả của người vay, dựa trên các tiêu chí đánh giá định tính và định lượng, nhằm đảm bảo an toàn và mở rộng hoạt động kinh doanh Các yếu tố như thu nhập, tài sản đảm bảo và khả năng kiểm soát tuân thủ nội bộ sẽ được xem xét kỹ lưỡng Hệ thống chấm điểm tín nhiệm và thông tin về khách hàng nợ xấu giúp TCTD đánh giá rủi ro khi cho vay Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện nghiêm túc công tác này để tránh các khoản vay dưới chuẩn, nhằm bảo vệ hệ thống ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
Chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng
1.2.1.Khái niệm về chủ thể đi vay
Theo Khoản 1, 3 Điều 2 Thông tư 39, chủ thể đi vay là khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm cả cá nhân và pháp nhân Khách hàng sẽ nhận một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong thời gian nhất định, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi Đối với pháp nhân, cần được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam hoặc có giấy phép hoạt động tại Việt Nam nếu thành lập ở nước ngoài Trong khi đó, cá nhân đi vay phải có quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch nước ngoài, do đó, hợp đồng tín dụng không thể được ký kết với cá nhân không có quốc tịch.
Bên đi vay trong hợp đồng tín dụng (HĐTD) có quyền yêu cầu ngân hàng giải ngân đúng hạn và nghĩa vụ cung cấp thông tin, trả nợ cùng thuế khấu lưu đối với khoản vay nước ngoài Trước khi ký kết HĐTD, bên đi vay cần kiểm tra các hạn chế pháp lý và quy định nội bộ, bao gồm việc phê duyệt khoản vay từ cấp thẩm quyền Trong quan hệ cho vay, bên đi vay phải tự nguyện cung cấp thông tin hoặc theo yêu cầu của bên cho vay, đồng thời không được giấu giếm thông tin quan trọng và phải cam kết đảm bảo tính chính xác của thông tin đã cung cấp.
Sức mạnh đàm phán của bên vay trong các khoản vay và hợp đồng phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng và số lượng nợ hiện tại của họ.
Nhu cầu huy động vốn và các yếu tố quyết định đến sự linh hoạt của giá trị khoản vay, lãi suất phải trả là rất quan trọng trong quá trình đàm phán Bên vay có thể tận dụng các quy định pháp luật hoặc chính sách ngân hàng để tiếp cận khoản vay ưu đãi, phục vụ cho mục đích nông nghiệp và nông thôn Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như khoa học công nghệ, công nghiệp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ cao, chuyển giao công nghệ xanh, và xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững thông qua chương trình tín dụng xanh, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong quá trình vay vốn, bên đi vay thường chủ động lựa chọn tổ chức tín dụng (TCTD) phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng của mình Họ có thể dựa vào lãi suất, ưu đãi và hợp đồng mẫu để tìm kiếm TCTD cung cấp vốn với chi phí thấp nhất Khi tham gia hợp đồng tín dụng, bên vay có quyền đàm phán lãi suất, nghĩa là họ sẽ thỏa thuận mức chi phí để “mua” quyền sử dụng khoản vay Bên cạnh đó, rủi ro hệ thống như rủi ro pháp lý, tín dụng và thu hồi nợ mà bên vay có thể tạo ra cho TCTD cũng ảnh hưởng đến lãi suất Rủi ro càng cao thì lãi suất càng biến động, từ đó xác định mức lãi suất vay hợp lý, đảm bảo bên vay có khả năng chi trả và TCTD có lợi nhuận từ hoạt động cho vay Qua đó, có thể thấy rằng quan hệ hợp đồng tín dụng giữa các bên là bình đẳng và tự nguyện.
Chủ thể đi vay, theo định nghĩa của quy định pháp luật và lý luận về vị trí trong hợp đồng tín dụng, được hiểu là bên khách hàng, bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, thực hiện giao dịch tại tổ chức tín dụng.
17 Nguyễn Hồng Năng (2016), tlđd (17), tr.157
18 Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
19 Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Bài viết của Viên Thế Giang và Võ Thị Mai Hương (2019) trong Tạp chí Ngân hàng số 23 tập trung vào chính sách phát triển tín dụng xanh và những thách thức liên quan đến quy định pháp luật về cấp tín dụng Tác giả phân tích các vấn đề pháp lý đang tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng xanh, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế Nội dung bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều chỉnh chính sách tín dụng để hỗ trợ các dự án bảo vệ môi trường và phát triển năng lượng tái tạo.
22 Điều 8, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017
Mô hình CAPM được ứng dụng để dự báo rủi ro và tỷ suất sinh lợi trên thị trường chứng khoán Việt Nam, theo nghiên cứu của Trần Quang Dũng (2010) trong luận văn Thạc sĩ tại trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh.
Việc tiếp cận nguồn vốn vay là một quá trình quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống hoặc phục vụ cho hoạt động kinh doanh Điều này cần được thực hiện trên nguyên tắc trung thực, với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi Các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng tín dụng đều phải bình đẳng và tự nguyện, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên được tôn trọng.
1.2.2 Phân loại chủ thể đi vay
Trong giao dịch cho vay, chủ nợ và con nợ thường được ràng buộc bởi hợp đồng, trong đó các tổ chức tín dụng (TCTD) là bên cho vay Ngân hàng thực hiện giao dịch cho vay qua các chi nhánh và phòng giao dịch, tiếp cận nhiều nhóm đối tượng có nhu cầu vốn Các chủ thể đi vay được phân loại thành ba nhóm: tổ chức có tư cách pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình hoặc tổ hợp tác Doanh nghiệp, không bao gồm doanh nghiệp tư nhân, là tổ chức có tư cách pháp nhân và phải được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp để tham gia vào hợp đồng tín dụng Giao dịch tín dụng của pháp nhân được thực hiện qua người đại diện pháp luật, như Giám đốc hoặc Chủ tịch Hội đồng Việc rà soát năng lực và thẩm quyền của người ký kết là cần thiết để tránh hợp đồng bị vô hiệu Đối với đơn vị phụ thuộc, TCTD cần kiểm tra các tài liệu chứng minh năng lực của người đứng đầu Năng lực pháp nhân có thể thay đổi theo thời gian, do đó cần thực hiện kiểm tra định kỳ để đảm bảo tính hợp pháp trong giao dịch.
Việc thay đổi năng lực pháp luật có thể tạo ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng, đặc biệt khi chuyển sang các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hoặc chứng khoán, làm giảm khả năng thu hồi vốn Đối với cá nhân vay vốn, họ cần có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để tự mình thực hiện hợp đồng tín dụng và chịu trách nhiệm cho các hành vi của mình Khi giao dịch với cá nhân có đủ năng lực, tổ chức tín dụng chỉ cần thẩm định hồ sơ pháp lý như căn cước công dân và chứng minh thu nhập, đồng thời kiểm tra thông tin nợ xấu trên hệ thống của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) Tuy nhiên, với cá nhân có một phần năng lực hành vi dân sự, tổ chức tín dụng phải đối mặt với rủi ro cao hơn, vì hợp đồng có thể bị vô hiệu nếu người đại diện pháp luật yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Việc cho vay đối với các đối tượng có khả năng khó thu hồi vốn là một rủi ro lớn cho tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt khi đã giải ngân dòng vốn Do đó, cần tiến hành rà soát kỹ lưỡng các hồ sơ pháp lý để đảm bảo năng lực vay vốn của khách hàng, nhằm bảo vệ an toàn trong hoạt động cho vay.
Đối với cá nhân nước ngoài vay vốn tại Việt Nam, họ cần có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự theo quy định của quốc gia mà họ mang quốc tịch, dựa trên các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Năng lực pháp luật của người nước ngoài có thể bị hạn chế, như quy định tại Điều 159, Luật Nhà ở 2014, chỉ cho phép một số trường hợp cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam Nghị định 99/2015/NĐ-CP cũng cấm người nước ngoài mua nhà để bán lại kiếm lợi nhuận và giới hạn số lượng nhà được bán nếu cá nhân là chủ đầu tư Do đó, các ngân hàng cần chú ý đến tính thanh khoản của tài sản khi cá nhân nước ngoài sử dụng tài sản đó để thế chấp cho khoản vay.
Trong nghiên cứu của Lê Thị Ngân Hà (2014), tác giả đã phân tích pháp luật liên quan đến việc hạn chế rủi ro tín dụng trong quá trình thẩm định cho vay tại các ngân hàng thương mại Nội dung này được trình bày chi tiết trong cuốn sách xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, trang 58-59 Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các quy định pháp lý nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay và giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra.
26 Lê Thị Ngân Hà (2014), tlđd (9), tr.77
27 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (30), tr.324-325
28 Điều 79, Nghị định 99/2015/NĐ-CP
Đối với các hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức không có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân), việc vay vốn tại tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu được thực hiện bởi các cá nhân và pháp nhân Trong các trường hợp này, các thành viên của hộ gia đình hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân sẽ trực tiếp tham gia vào việc xác lập và thực hiện giao dịch, hoặc có thể ủy quyền cho người đại diện để tham gia vào quá trình vay vốn.
Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay
1.3.1 Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay phát sinh theo quy định pháp luật
Trong hoạt động cấp tín dụng, cho vay là giao dịch chủ yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế và tạo ra sự luân chuyển tiền tệ trong hệ thống Pháp luật quy định các nguyên tắc tối thiểu cho quan hệ cho vay thông qua hợp đồng tín dụng (HĐTD) Tổ chức tín dụng (TCTD) thường có lợi thế trong việc ký kết hợp đồng, vì quyết định cho vay thuộc quyền tự chủ của họ, điều này có thể dẫn đến việc áp đặt nghĩa vụ không hợp lý lên khách hàng vay Do đó, cần có sự điều chỉnh của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bên đi vay trong HĐTD Nội dung quyền và nghĩa vụ này không chỉ tuân thủ quy định chung về pháp luật dân sự và thương mại mà còn phải tuân theo các quy định của pháp luật ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng.
So với Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, Thông tư 39 không quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của bên vay, mà phân bổ rải rác trong các điều luật Tuy nhiên, pháp luật vẫn thiết lập các điều khoản bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ tối thiểu cho cả bên vay và bên cho vay Cụ thể, Điều 16 của Thông tư 39 nêu rõ nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ không chỉ thuộc về bên cho vay mà còn là trách nhiệm của bên vay.
Hoạt động cho vay của Tổ chức Tín dụng (TCTD) đối với khách hàng được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa bên vay và TCTD, đồng thời phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
In September 2021, the State Bank of Vietnam released a statistical report detailing key indicators, providing valuable insights into the country's economic performance The report is accessible online for further information and analysis.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Diễm (2018), tác giả đã phân tích quyền và nghĩa vụ của các bên vay trong hợp đồng tín dụng, đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng các quy định này tại Việt Nam Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, trang 14.
Pháp luật về hoạt động ngân hàng quy định nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận giữa các bên, nhưng cũng đặt ra các biện pháp nhằm ngăn chặn việc ngân hàng và tổ chức tín dụng (TCTD) lạm dụng vị trí đàm phán để gây thiệt hại cho người vay Theo Điều 4, Thông tư 39, pháp luật khẳng định quyền bình đẳng trong thỏa thuận, cho phép người vay từ chối đàm phán hoặc yêu cầu những điều không hợp lý Nếu TCTD trì hoãn giải ngân hoặc xâm phạm quyền bảo mật thông tin, người vay có quyền khởi kiện tại các cơ quan tài phán theo quy định về tố tụng hoặc trọng tài thương mại.
Các hợp đồng tín dụng thường thiếu các nội dung cụ thể, điều này có thể do sơ suất hoặc cố ý của các bên Khi xảy ra tranh chấp, các nội dung thiếu sẽ được cơ quan tài phán xem xét và áp dụng điều khoản dự phòng của pháp luật hoặc giải thích hợp đồng Quyền và nghĩa vụ của bên vay có thể phát sinh dựa trên quy định pháp luật Do đó, các quyền và nghĩa vụ trong văn bản quy phạm pháp luật cần đảm bảo tính tối thiểu và hỗ trợ hoạt động cho vay một cách lành mạnh.
1.3.2 Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay phát sinh theo thỏa thuận của các bên
Theo Điều 385, BLDS 2015, hợp đồng có hai đặc tính cơ bản: thể hiện thỏa thuận giữa các bên và xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên Hợp đồng tín dụng (HĐTD) ghi nhận các thỏa thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ giữa bên vay và bên cho vay, tạo ra ràng buộc pháp lý trong quan hệ cho vay Pháp luật tôn trọng kết quả thỏa thuận và công nhận giá trị pháp lý của nó, miễn là nội dung không vi phạm quy định pháp luật Do đó, ngoài quyền và nghĩa vụ theo luật định, các quyền và nghĩa vụ của các bên còn được xác lập dựa trên đàm phán và ký kết HĐTD.
Theo Khoản 2 Điều 23 Thông tư 39, bên cạnh những nội dung bắt buộc trong thỏa thuận cho vay theo Khoản 1, các bên có quyền tự do thỏa thuận thêm các nội dung khác.
39 Lê Minh Hùng (2015), tlđd (14), tr.25
Các bên tham gia hợp đồng cần tuân thủ quy định pháp luật và đạo đức xã hội, đồng thời tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng Việc đàm phán các điều khoản thương mại là cần thiết để xác định cấu trúc giao dịch, bao gồm các cam đoan và bảo đảm từ phía chủ đi vay Ngoài ra, các bên cũng phải cam kết thực hiện nghĩa vụ trung thực và tránh các hành động vi phạm hợp đồng.
Các điều khoản về cơ cấu giao dịch thường mang tính thương mại, phản ánh lợi ích và phân bổ rủi ro mà các bên mong muốn Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thể thỏa thuận áp dụng lãi suất cố định hoặc thả nổi Cần lưu ý rằng điều khoản lãi suất không áp dụng trần lãi suất của Bộ luật Dân sự, mà tuân theo mức trần do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành cho từng thời kỳ Lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất trong hạn và đối với nợ lãi, không vượt quá 10%/năm Các bên trong quan hệ tín dụng nên cân nhắc biến động lãi suất thị trường, chi phí huy động vốn và tình hình kinh doanh thực tế để đưa ra phương pháp tính lãi phù hợp với lợi ích hướng đến.
Bên cho vay có thể yêu cầu bên đi vay cung cấp các tuyên bố và thông tin cần thiết cho việc đánh giá tín dụng, kèm theo điều khoản cam đoan và bảo đảm Bên cung cấp thông tin phải đảm bảo tính trung thực và chính xác, nếu vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Pháp luật cho phép các bên tự quyết định thông tin nào là trọng yếu cần cung cấp Ngoài ra, bên đi vay có quyền bảo lưu những tuyên bố hoặc thông tin mà họ cho là ngoài khả năng hiểu biết và không quan trọng trong mối quan hệ.
Vào thứ ba, các bên có thể thống nhất về các điều khoản ràng buộc nghĩa vụ của bên vay trong việc duy trì khả năng tài chính và khả năng trả nợ Những cam kết này bao gồm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn thông qua thanh tra tài sản bảo đảm và yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính đầy đủ Bên vay cũng có quyền yêu cầu TCTD cam kết không thu hồi vốn trước hạn nếu không có lý do chính đáng liên quan đến vi phạm của bên vay.
40 Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng : Các vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Dân trí, tr.343
41 Nguyễn Hồng Năng (2016), tlđd (17), tr 177-213
Vào ngày thứ tư, các bên có quyền thỏa thuận các sự kiện vi phạm hợp đồng, từ đó xác định nghĩa vụ thanh toán gốc và lãi, cam kết và đảm bảo thực hiện đúng Khi xảy ra vi phạm, bên cho vay có quyền áp dụng các biện pháp khắc phục như phạt vi phạm (nếu có điều khoản thỏa thuận), thu hồi nợ trước hạn và xử lý tài sản bảo đảm Quy định này phản ánh những nghĩa vụ mà các bên cần tuân thủ hoặc không được phép thực hiện Nếu một bên vi phạm, bên còn lại có quyền yêu cầu khắc phục tương ứng.
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) thường được soạn thảo sẵn bởi tổ chức tín dụng (TCTD) và được các chủ thể đi vay chấp nhận mà không yêu cầu đàm phán lại, nhằm nhanh chóng giải ngân nguồn vốn HĐTD có tính phổ quát, ít ghi nhận các quyền và trường hợp đặc thù ngoài những quy định của pháp luật Việc bổ sung quy định trong các HĐTD mẫu có thể tạo ra sự phức tạp không cần thiết trong quản trị cam kết giữa TCTD và khách hàng vay Tuy nhiên, với sự cạnh tranh giữa các TCTD trong việc cung cấp vốn, các tổ chức này nên xem xét xây dựng các điều khoản ưu đãi, nới lỏng nghĩa vụ của chủ thể đi vay, và bổ sung quyền lợi cho khách hàng trong việc đàm phán Điều này không chỉ giúp khách hàng lựa chọn TCTD có quy trình đơn giản và điều khoản bảo vệ quyền lợi tốt hơn mà còn thể hiện tính bình đẳng và tự nguyện trong quan hệ HĐTD.
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Quy định pháp luật về quyền của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng
2.1.1 Quyền yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ giải ngân
Theo Thông tư số 21/2017/TT-NHNN, việc giải ngân vốn cho vay là quá trình TCTD chuyển giao khoản tiền cho người vay thông qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt hoặc tiền mặt, nhằm phục vụ mục đích vay vốn đã thỏa thuận Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của TCTD là điều kiện tiên quyết để phát sinh nghĩa vụ hoàn trả gốc và lãi của bên vay Khi TCTD xác nhận các điều kiện an toàn cho khoản vay, họ sẽ thực hiện việc bàn giao vốn, từ đó xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, theo quy định tại Điều 23 của Thông tư 39.
TCTD phải tuân thủ các thỏa thuận giải ngân và không được tự ý ngừng cung cấp khoản vay khi bên vay không vi phạm điều khoản nào Với vai trò là trung gian tài chính, TCTD có dữ liệu để đánh giá khả năng trả nợ của bên vay và phải dự phòng tín dụng hợp lý Việc từ chối giải ngân do hết vốn hoặc đánh giá sai hiệu quả sử dụng vốn vay sẽ vi phạm nghĩa vụ và dẫn đến trách nhiệm bồi thường theo Điều 360, BLDS 2015, với mức bồi thường dựa trên thiệt hại thực tế Bên vay có quyền yêu cầu TCTD tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giải ngân khi đủ điều kiện đã được thỏa thuận.
TCTD phải thực hiện giải ngân cho vay thông qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển tiền vào tài khoản thanh toán của bên thụ hưởng ngay trong ngày giải ngân hoặc vào ngày làm việc tiếp theo nếu sau giờ giao dịch Ngoài ra, TCTD có thể xem xét giải ngân bằng tiền mặt trong một số trường hợp cụ thể.
42 Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tr.163
43 Lê Duy Bảo Chinh (2022), Hợp đồng cho vay tiêu dùng tại công ty tài chính, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr.21
44 Khoản 1, Điều 4, Thông tư số 21/2017/TT-NHNN
Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán sẽ thực hiện chi trả cho bên thụ hưởng không có tài khoản thanh toán Trong trường hợp này, khách hàng là bên thụ hưởng cần sử dụng vốn tự có để thanh toán các chi phí liên quan đến phương án hoặc dự án kinh doanh Để đảm bảo quy trình, khách hàng phải ký văn bản cam kết xác nhận rằng bên thụ hưởng không có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Việc TCTD không thực hiện đúng cam kết giải ngân có thể dẫn đến thiếu hụt vốn trong doanh nghiệp, làm chậm trễ nghĩa vụ thanh toán hợp đồng thương mại và dân sự Quyền yêu cầu TCTD thực hiện nghĩa vụ giải ngân được ghi nhận nhằm tăng cường trách nhiệm của TCTD, hạn chế khả năng viện dẫn lý do không hợp lý để từ chối giải ngân vốn vay.
2.1.2 Quyền được tổ chức tín dụng cung cấp thông tin hợp đồng
Một trong những quy định quan trọng để đảm bảo tính thiện chí và trung thực trong hợp đồng là quyền của các TCTD cung cấp thông tin hợp đồng, được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 16, Thông tư 39 Các TCTD có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng cho chủ thể đi vay trước khi xác lập thỏa thuận cho vay Những thông tin này bao gồm lãi suất cho vay, nguyên tắc xác định lãi suất, lãi suất áp dụng cho dư nợ quá hạn, phương pháp tính lãi, loại phí và mức phí liên quan đến khoản vay, cùng các tiêu chí xác định khách hàng vay vốn Đặc biệt, chủ thể đi vay không phải trả bất kỳ loại phí nào khi nhận được thông tin này trước khi ký hợp đồng.
Mục đích của việc quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng (TCTD) là giúp cho người vay có khả năng so sánh các sản phẩm cho vay trên thị trường, từ đó đưa ra quyết định lựa chọn TCTD phù hợp Ngoài ra, quy định này cũng yêu cầu TCTD thực hiện minh bạch hóa thông tin dự kiến sẽ ký kết Thực tiễn quốc tế cho thấy, Nghị định số 2008/48/EC của Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu đã đề cập đến nghĩa vụ giải thích cho khách hàng về các thông tin được cung cấp và các đặc điểm của sản phẩm.
45 Điều 5, Thông tư số 21/2017/TT-NHNN
46 Khoản 1, Điều 387, Bộ luật Dân sự 2015
Việc vi phạm nghĩa vụ trả nợ có thể dẫn đến 25 hình thức xử lý đối với khách hàng, nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ thể vay Những biện pháp này được thiết lập để dự kiến và ứng phó với các nhu cầu cũng như tình hình tài chính của người vay.
Hầu hết các giao dịch tín dụng hiện nay được thực hiện qua hợp đồng mẫu, dẫn đến việc người vay thường không đọc kỹ nội dung hợp đồng Mặc dù hợp đồng mẫu điện tử mang lại nhiều lợi ích, nhưng nó cũng khiến người vay dễ ỷ lại và không hiểu rõ các điều khoản Nguyên nhân có thể do vị thế của bên vay, sự khó hiểu của thuật ngữ, và niềm tin rằng pháp luật sẽ bảo vệ họ khỏi các điều khoản bất lợi Để bảo vệ quyền lợi của người vay, các tổ chức tín dụng (TCTD) cần công khai những điều khoản có nguy cơ bất lợi và tạo cơ hội cho người vay rút lui trong một khoảng thời gian nhất định Người vay cũng có quyền yêu cầu TCTD giải thích quy trình phê duyệt tín dụng trực tuyến và các thông tin liên quan đến chữ ký điện tử và mã OTP Việc ghi nhận quyền này không chỉ giúp người vay hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý do vi phạm hợp đồng.
2.1.3 Quyền được bảo đảm bí mật thông tin
Theo Khoản 2, 3 Điều 14 LCTCTD 2010, các tổ chức tín dụng (TCTD) có trách nhiệm bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và giao dịch của khách hàng vay, trừ khi có yêu cầu cung cấp thông tin từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền Ngoài ra, Nghị định 117/2018/NĐ-CP cũng quy định nguyên tắc giữ bí mật và cung cấp thông tin, yêu cầu TCTD phải xây dựng quy định nội bộ để thực hiện.
Bài viết của Hoàng Thị Hải Yến (2019) trong Tạp chí Ngân hàng số 1, trang 29, phân tích nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng tín dụng, từ quy định của Bộ luật dân sự 2015 đến pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng Nội dung bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động cho vay.
Mẫu hợp đồng điện tử hiện nay thường bị người tiêu dùng bỏ qua, dẫn đến việc không đọc kỹ các điều khoản Nghiên cứu của Trần Nguyên Hạnh (2016) tại Trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh đã chỉ ra tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong bối cảnh này Việc không hiểu rõ hợp đồng có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng, do đó cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các bên liên quan.
Có 26 trường hợp mà các tổ chức được phép cung cấp thông tin khách hàng, bao gồm hình thức cung cấp và các quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc bảo mật thông tin Điều này bao gồm việc cung cấp thông tin của chủ thể đi vay và đảm bảo rằng quyền lợi của khách hàng được bảo vệ trong quá trình xử lý thông tin.
Để đảm bảo quá trình thẩm định của tổ chức tín dụng (TCTD) và tăng khả năng tiếp cận vốn cho cá nhân và doanh nghiệp, người vay cần cung cấp nhiều thông tin liên quan đến việc sử dụng vốn, hoạt động kinh doanh và báo cáo tài chính Những thông tin này có thể bao gồm dữ liệu cá nhân hoặc bí mật kinh doanh, trong đó bí mật kinh doanh phải đáp ứng các tiêu chí như không phải là kiến thức phổ thông, tạo lợi thế cho người nắm giữ, và được bảo mật bằng các biện pháp cần thiết Sự quan trọng của bí mật kinh doanh và thông tin cá nhân ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và đời sống cá nhân, từ đó hình thành cơ sở cho việc bảo mật thông tin Các giao dịch tài chính và dữ liệu kinh doanh cũng được phản ánh qua thông tin mà người vay cung cấp cho TCTD.
Bảo mật thông tin cá nhân của người vay là nghĩa vụ hợp đồng mặc nhiên mà các tổ chức tín dụng (TCTD) phải tuân thủ, thể hiện sự tận tâm và trung thực với khách hàng Họ không được phép tiết lộ thông tin tài khoản cho bên thứ ba, nhằm tôn trọng quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu cá nhân Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam quy định một số ngoại lệ cho phép cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho các mục đích như thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Hiện tại, pháp luật chưa xác định rõ ai có quyền yêu cầu thông tin khách hàng từ TCTD, cũng như phạm vi cung cấp và nghĩa vụ bảo mật của bên thứ ba Do đó, cần thiết lập các quy định nội bộ để áp dụng thống nhất trong hệ thống ngân hàng, đảm bảo quyền lợi cho người vay.
50 Điều 84, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung 2009, 2019
Quy định pháp luật về nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng
2.2.1 Nghĩa vụ cung cấp thông tin tín dụng
Theo quy định tại điểm l Khoản 1 Điều 23 Thông tư 39, nghĩa vụ cung cấp thông tin tín dụng của chủ thể đi vay là một nội dung tối thiểu trong hợp đồng tín dụng Thông tin này bao gồm các dữ liệu liên quan đến chủ thể vay, điều kiện vay vốn, quá trình vay và mục đích sử dụng tiền.
60 Lê Minh Hùng (2015), tlđd (14), tr.188
Khi vay vốn, bên vay phải tuân thủ các yêu cầu cung cấp thông tin trung thực và đầy đủ để TCTD đánh giá rủi ro và hiệu quả giao dịch Nghĩa vụ này không chỉ áp dụng trong quá trình ký hợp đồng mà còn trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng vay Thông tin thẩm định là yếu tố quan trọng cho việc phân tích và đánh giá, do đó, bên vay thường có xu hướng "làm sạch" hồ sơ, dẫn đến việc TCTD cần thu thập thêm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau Bên cho vay yêu cầu bên vay cam kết tính trung thực của thông tin liên quan đến tài sản bảo đảm và khả năng tài chính Bên vay cũng phải cung cấp báo cáo tài chính định kỳ và thông báo kịp thời về các vi phạm nếu có Trong trường hợp thông tin không trung thực, TCTD có quyền chấm dứt hợp đồng và thu hồi nợ trước hạn, đồng thời áp dụng các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi khoản vay.
62 Lương Khải Ân (2021), tlđd (1), tr.187
63 Lê Thị Ngân Hà (2014), tlđd (9), tr.40-41
64 Nguyễn Hồng Năng (2016), tlđd (17), tr.193
Điều 31 quy định rằng các tổ chức tín dụng (TCTD) có trách nhiệm cung cấp thông tin tín dụng, giúp họ nắm bắt tình trạng tài chính và pháp lý của bên vay Thông tin này là cơ sở để phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
2.2.2 Nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích
Nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích được Thông tư 39 đề cập tại Khoản
Khách hàng vay vốn từ tổ chức tín dụng phải đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích hợp pháp, theo quy định tại Điều 4 Việc sử dụng vốn sai mục đích có thể dẫn đến các chế tài xử lý như tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của tổ chức tín dụng Tổ chức tín dụng cũng có cơ chế kiểm soát riêng đối với các khoản vay đầu tư vào chứng khoán, bất động sản và các dự án đối tác công tư Do đó, mục đích sử dụng vốn vay cần được thẩm định kỹ lưỡng trước khi giải ngân, đảm bảo rằng khoản vay sẽ được sử dụng đúng cách và có khả năng thu hồi đúng hạn.
TCTD có quyền yêu cầu khách hàng vay báo cáo về việc sử dụng vốn vay và chứng minh rằng vốn vay được sử dụng đúng mục đích Việc thực hiện các báo cáo và cam kết đúng mục đích vay vốn là yếu tố quan trọng để ngân hàng thẩm định và đưa ra quyết định giải ngân TCTD cũng sẽ xem xét mục đích vay vốn trong quá trình thẩm định khả năng trả nợ Việc sử dụng khoản vay không đúng mục đích có thể dẫn đến rủi ro tín dụng gia tăng và vi phạm hợp đồng Bên vay có trách nhiệm duy trì việc sử dụng khoản vay theo yêu cầu của bên cho vay trong suốt thời gian vay.
Nếu bên vay vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng, như sử dụng khoản vay không đúng mục đích, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ Việc sử dụng vốn sai mục đích, chẳng hạn như kinh doanh hàng cấm, có thể dẫn đến việc tài sản bị Nhà nước tịch thu hoặc tiêu hủy, gây thiệt hại lớn cho bên cho vay Hậu quả là nguồn vốn đã giải ngân có thể không thu hồi được, tạo ra rủi ro đạo đức trong thị trường tài chính.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thường dựa vào mục đích vay để điều chỉnh chính sách cho vay trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán và bất động sản, những lĩnh vực có lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro Do đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) cần ghi rõ mục đích sử dụng vốn và tuân thủ các quy định về an toàn của NHNN khi cho vay vào các lĩnh vực này Bên đi vay phải sử dụng vốn đúng mục đích đã cam kết để giảm thiểu rủi ro tín dụng và tránh việc bị thu hồi vốn trước hạn, đồng thời giúp TCTD kiểm soát dòng tiền lưu thông trên thị trường.
2.2.3 Nghĩa vụ tuân thủ sự kiểm tra, giám sát của bên cho vay
Hoạt động kiểm tra, giám sát sử dụng vốn được quy định tại Khoản 1, 2 Điều
Thông tư 39 quy định rằng phòng ngừa rủi ro là việc ngăn chặn các tình huống bất lợi xảy ra Tại các tổ chức tín dụng (TCTD), việc này được thực hiện thông qua kiểm tra và giám sát, kịp thời can thiệp khi phát hiện vi phạm quy định nội bộ và pháp luật, nhằm bảo vệ vốn Một phần quan trọng trong công tác phòng ngừa là TCTD cần liên tục kiểm tra và xác nhận tình hình sử dụng vốn vay Để đảm bảo quy trình kiểm tra diễn ra hiệu quả, cần thiết phải ràng buộc trách nhiệm của khách hàng trong việc tuân thủ các quy định kiểm tra của TCTD TCTD cũng phải tiến hành kiểm tra việc sử dụng vốn vay từ khi giải ngân cho đến khi thu hồi hết nợ, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý rủi ro tài chính.
67 Khoản 1 Điều 95 LCTCTD 2010 và khoản 1 Điều 21 Thông tư 39
Bài luận án của Nguyễn Xuân Bang (2017) tại Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh nghiên cứu về pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam Tác giả phân tích các quy định pháp lý liên quan và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong lĩnh vực tín dụng, góp phần bảo vệ quyền lợi của cả ngân hàng và khách hàng.
Tài sản bảo đảm tiền vay đóng vai trò quan trọng trong quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam Theo Huỳnh Thế Du (2005), việc có tài sản đảm bảo giúp giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức này, từ đó tăng cường khả năng phê duyệt hồ sơ vay Điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của các tổ chức tín dụng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho người vay trong việc tiếp cận nguồn vốn.
70 Lương Khải Ân (2021), tlđd (1), tr.196
Để đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích và hiệu quả, các tổ chức tín dụng (TCTD) thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vay Việc kiểm soát dòng tiền, hiệu quả dự án và cách sử dụng vốn là rất quan trọng để kịp thời ngăn chặn sai phạm Nếu TCTD không kiểm tra mục đích sử dụng vốn, nguy cơ khách hàng sử dụng sai mục đích sẽ gia tăng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và khả năng thu hồi nợ Các quy trình kiểm tra và giám sát được quy định trong nội bộ TCTD, đòi hỏi hệ thống tuân thủ nghiêm ngặt và sự phối hợp giữa các bộ phận chuyên môn với công cụ kiểm toán.
Vi phạm nghĩa vụ của bên vay khi không cho phép TCTD thực hiện kiểm tra, giám sát có thể dẫn đến việc bên cho vay chấm dứt hợp đồng vay trước hạn theo quy định pháp luật Những vi phạm này gây khó khăn cho bên cho vay trong việc đánh giá rủi ro và kiểm soát dòng tiền Do đó, nghĩa vụ này giúp TCTD thực hiện kiểm tra một cách thuận lợi và theo dõi khả năng trả nợ của bên vay Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 24 Thông tư 39 chỉ quy định quyền kiểm tra, giám sát của TCTD, trong khi Khoản 2 Điều 14 Nghị định 88/2019/NĐ-CP lại xử phạt hành vi không kiểm tra, dẫn đến mâu thuẫn và hiệu quả xử phạt thấp Để đảm bảo an toàn và minh bạch trong hoạt động cho vay, cần sửa đổi pháp luật để ghi nhận nghĩa vụ kiểm tra đối với các khoản vay lớn và quan trọng.
2.2.4 Nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay
Theo Khoản 2 Điều 4 của Thông tư 39, các bên có nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi suất vay theo thỏa thuận đã ký kết Nguyên tắc này đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài chính giữa các bên liên quan.
71 Nguyễn Xuân Bang (2017), tlđd (2), tr.40
72 Điểm c, Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39
Hoạt động cấp tín dụng là quá trình mà tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp khoản vay cho khách hàng, yêu cầu khách hàng hoàn trả kèm lãi suất và phí vào cuối kỳ hạn Khi khoản vay được giải ngân, TCTD không còn kiểm soát việc sử dụng số tiền đó Do nhiều nguyên nhân như rủi ro thị trường và rủi ro vận hành, đến ngày đáo hạn, người vay có thể không đủ khả năng tài chính để thanh toán Sự kiện tín dụng xảy ra khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tạo ra rủi ro tín dụng cho bên cho vay Nguy cơ này có thể dẫn đến mất an toàn tín dụng liên ngân hàng, quyền sở hữu khoản vay không được bảo vệ, và làm cho doanh nghiệp, cá nhân rơi vào nhóm nợ xấu, ảnh hưởng đến khả năng vay mượn trong tương lai.
Theo quy định pháp luật, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi suất theo thỏa thuận giữa các bên Hợp đồng tín dụng cần nêu rõ các nội dung liên quan đến nghĩa vụ này, bao gồm cách thức, thời hạn và phương thức hoàn trả, cũng như mức lãi suất Lãi suất phải được xác định theo thỏa thuận và phù hợp với quy luật thị trường, nhu cầu vay vốn và độ tín nhiệm của bên vay Việc thanh toán khoản vay đúng hạn và đúng số lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các lần vay sau, giúp các tổ chức tín dụng đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh và uy tín của bên vay một cách tích cực.
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
3.1 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền của chủ thể đi vay
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) là một thỏa thuận quan trọng với giá trị lớn và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả tổ chức tín dụng (TCTD) và bên vay, do đó, nó thường chứa đựng nhiều điều khoản phức tạp và có thời hạn thực hiện dài Việc xác lập HĐTD yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật như Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Các Tổ chức Tín dụng 2010 Để được vay vốn, bên vay cần cung cấp tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay cho TCTD thẩm định và cam kết về tính xác thực của thông tin Tuy nhiên, việc này không đảm bảo rằng bên cho vay có nghĩa vụ giải ngân khi đủ điều kiện, bảo vệ thông tin mật của bên vay, hay điều chỉnh khoản vay theo yêu cầu hợp lệ của khách hàng Mặc dù HĐTD được thiết lập để bảo vệ quyền lợi của bên cho vay, nhưng theo nguyên tắc cân bằng quyền lợi trong pháp luật ngân hàng, quyền lợi của bên vay cũng cần được bảo vệ và xây dựng đối trọng với quyền của TCTD.
Thứ nhất, về quyền yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ giải ngân,
Hợp đồng tín dụng thực tiễn xác định nghĩa vụ giải ngân của tổ chức tín dụng (TCTD) khi mục đích giải ngân phù hợp với thỏa thuận giữa hai bên và hồ sơ vay đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, theo Điều 7.1 của Hợp đồng cho vay số 217/2020/VCBCT.PGDPĐ Nghĩa vụ này chỉ phát sinh khi hợp đồng đã được ký kết hoặc TCTD đã phát hành Thông báo tín dụng Các điều kiện giải ngân thường bao gồm chứng từ chứng minh mục đích vay và cam kết không vi phạm hợp đồng Tuy nhiên, một số hợp đồng không quy định rõ ràng các điều kiện này, dẫn đến việc bên vay phải phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của TCTD, gây khó khăn trong việc rút vốn Mặc dù các quy định về điều kiện giải ngân giúp TCTD giảm thiểu rủi ro từ bên vay, nhưng chúng cũng tạo ra thách thức cho bên vay trong việc hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu của TCTD, nhằm tránh nguy cơ hủy bỏ Thông báo tín dụng và thu hồi vốn đã giải ngân Ví dụ, TCTD có thể yêu cầu mua bảo hiểm cho tất cả khoản vay như một điều kiện bắt buộc để giải ngân.
Việc yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm chỉ nên áp dụng trong trường hợp vay vốn để đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hoặc chứng khoán, hoặc khi khoản vay không có biện pháp bảo đảm Do đó, hợp đồng tín dụng cần quy định rõ các trường hợp cụ thể mà việc mua bảo hiểm bắt buộc là cần thiết, nhằm phòng ngừa và chia sẻ rủi ro tín dụng.
Hiện nay, quy định pháp luật chưa rõ ràng về chế tài xử lý và trách nhiệm của TCTD khi không thực hiện giải ngân theo hợp đồng tín dụng hoặc thông báo tín dụng, dẫn đến thiệt hại cho khách hàng Quyền giải ngân của khách hàng tương tự như quyền yêu cầu TCTD thực hiện hợp đồng, và khi TCTD không thực hiện đúng cam kết, trách nhiệm dân sự của TCTD sẽ phát sinh để khôi phục trật tự hợp đồng thông qua bồi thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm Do đó, pháp luật cần nêu rõ nguyên tắc vi phạm về thời hạn và phương thức giải ngân, cũng như xác định mức độ vi phạm để tăng cường trách nhiệm của TCTD trong việc phê duyệt hồ sơ vay và cam kết sau này.
Các TCTD không có nghĩa vụ giải thích thông tin hợp đồng theo yêu cầu của khách hàng vay, mà chỉ cung cấp thông tin qua các cam đoan trong hợp đồng tín dụng Các điều khoản hiện tại thường yêu cầu khách hàng xác nhận đã nhận đầy đủ thông tin về lãi suất cho vay, nguyên tắc xác định lãi suất, cũng như các loại phí liên quan Mặc dù thông tin được cung cấp mang tính chất kinh tế, vẫn có nhiều trường hợp nhân viên tư vấn tín dụng không truyền đạt đầy đủ thông tin cho khách hàng.
Nghiên cứu của Vũ Thị Hồng Hà (2020) về quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, chi nhánh Tp Hồ Chí Minh, đã chỉ ra những phương pháp hiệu quả trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng Luận văn Thạc sĩ này, được thực hiện tại Trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các chiến lược và thực tiễn tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng.
79 Lương Khải Ân (2021), tlđd (1), tr.37
80 Điều 11.(d), Hợp đồng mẫu của Ngân hàng Bank of China (Phụ lục 2)
81 Xem Hợp đồng cho vay tại Phụ lục 1
Thông tin không rõ ràng về các loại phí, lãi suất và trách nhiệm khi vi phạm có thể gây nhầm lẫn cho người vay Rủi ro đạo đức từ áp lực doanh số đối với nhân viên tín dụng là một vấn đề thường trực, mặc dù các tổ chức tín dụng đã ban hành quy định nội bộ về việc cung cấp thông tin trung thực và tổ chức đào tạo chuyên môn Do đó, người vay cần chủ động kiểm tra thông tin và thực hiện quyền khiếu nại khi nhận thấy thông tin tư vấn không chính xác, nhằm tránh những trách nhiệm không cần thiết do thông tin sai lệch.
Trước sự phát triển của giao dịch cho vay điện tử, việc cung cấp và giải thích thông tin cho khách hàng cần được pháp luật điều chỉnh để tạo hành lang rõ ràng Khách hàng cần nắm rõ phương thức xét duyệt, hồ sơ cần thiết và các ràng buộc pháp lý liên quan Tổ chức tín dụng (TCTD) phải minh bạch trong quá trình thẩm định, đảm bảo an toàn và kịp thời trong việc giải ngân Hiện nay, dự thảo Nghị định về định danh và xác thực điện tử đang được thảo luận, với hai nội dung chính: khả năng TCTD khai thác dữ liệu quốc gia về dân cư và phạm vi điều chỉnh của Nghị định đối với hệ thống eKYC Quá trình đóng góp cho dự thảo có thể ảnh hưởng đến độ phức tạp của thông tin mà TCTD cần cung cấp cho khách hàng, bao gồm quy trình mở tài khoản trực tuyến và trách nhiệm giải thích khi có lỗi phát sinh từ kết nối thông tin qua bên thứ ba.
Trong quá trình thẩm định hồ sơ vay, các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận thông tin quan trọng như tài chính, dữ liệu khách hàng, hợp đồng giao dịch và thông tin tài sản bảo đảm Do đó, TCTD có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin này Theo thông lệ quốc tế, ngân hàng có trách nhiệm bảo vệ bí mật của khách hàng và sẽ phải chịu trách nhiệm nếu để lộ thông tin cá nhân.
82 Tố Uyên (2018), Vay tiêu dùng: Cần thận trọng vì lợi bất cập hại, Thời báo Tài chính Việt Nam,
[https://thoibaotaichinhvietnam.vn/vay-tieu-dung-can-than-trong-vi-loi-bat-cap-hai-28224.html], truy cập ngày 12/6/2022
Hiệp hội Ngân hàng đã đóng góp ý kiến quan trọng trong việc xây dựng Nghị định về định danh và xác thực điện tử, nhằm nâng cao tính minh bạch và bảo mật trong hoạt động ngân hàng Việc này không chỉ hỗ trợ cho các ngân hàng trong việc thực hiện các giao dịch trực tuyến mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Thông qua những ý kiến này, Hiệp hội Ngân hàng thể hiện vai trò chủ động trong việc cải cách và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Vụ kiện Tournier v National Provincial – Union Bank of England [1924] 1 KB 461 đã được Tòa Phúc thẩm Anh phán quyết rằng nhân viên ngân hàng có trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng vay Quyết định này nhấn mạnh nghĩa vụ giữ bí mật trong mối quan hệ giữa ngân hàng và bên vay, tạo ra một tiền lệ quan trọng trong lĩnh vực tài chính và bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam cần xây dựng cơ chế bảo mật thông tin khách hàng Pháp luật hiện hành cho phép TCTD tiết lộ thông tin khách hàng cho bên thứ ba nhằm hỗ trợ quản lý và hoạt động kinh doanh Điều này đồng nghĩa với việc TCTD có thể chia sẻ thông tin tín dụng mà không cần sự đồng ý của khách hàng Ví dụ, trong hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Bank of China, có điều khoản cho phép bên cho vay công bố thông tin tín dụng liên quan đến hợp đồng cho các bên liên quan, bao gồm cả cơ quan nhà nước, phù hợp với quy định pháp luật.
“Đồng ý cho Bên Cho Vay công khai, công bố các thông tin có liên quan đến việc
Bên Vay vi phạm các cam kết và điều khoản trong Hợp đồng có thể dẫn đến việc ngân hàng cung cấp thông tin tín dụng của khách hàng cho bên thứ ba, điều này gây bất lợi cho bên đi vay Tác giả cho rằng thông tin khách hàng cung cấp cho ngân hàng cần được bảo vệ tuyệt đối, chỉ được cung cấp cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của khách hàng, trừ trường hợp yêu cầu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền Hoạt động bảo mật này không chỉ thể hiện năng lực và uy tín của tổ chức tín dụng mà còn thể hiện trách nhiệm của họ đối với khách hàng và cộng đồng xã hội Do đó, cần bổ sung định nghĩa về các điều khoản trong mẫu Hợp đồng tín dụng.
Thông tin tín dụng có giới hạn và quy định rõ ràng về việc cung cấp thông tin cụ thể Bên cho vay có trách nhiệm bảo vệ thông tin của bên vay nhằm hạn chế thiệt hại và đảm bảo quyền nhân thân cũng như sở hữu thông tin cá nhân Để tăng cường bảo vệ, bên vay có thể thỏa thuận ký kết hợp đồng bảo mật thông tin (Non-disclosure agreement) với tổ chức tín dụng Tác giả đề xuất tham khảo các mẫu hợp đồng bảo mật quốc tế, như mẫu của Hiệp hội thị trường cho vay Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó bao gồm các cam kết không tiết lộ thông tin cho bên thứ ba.
[www.singaporelaw.sg/sglaw/laws-of-singapore/commercial-law/chapter-22], trích từ: Lương Khải Ân (2021), tlđd (1), tr.186
85 Trần Linh Huân, Nguyễn Mậu Thương (2022), tlđd (13), tr.18-19
86 Điểm (k), Điều 11, Hợp đồng mẫu của Ngân hàng Bank of China (Phụ lục 2)
87 Điểm (l), Điều 11, Hợp đồng mẫu của Ngân hàng Bank of China (Phụ lục 2)
88 Lương Khải Ân (2021), tlđd (1), tr.186
89 APLMA (2007), APLMA Confidentiality Letter (English Law) for Primary Syndication, Hong Kong
Các bên trong hợp đồng và bên thứ ba chỉ được phép sử dụng thông tin mật với sự chấp thuận của bên vay và chỉ cho mục đích thẩm định Họ cần thông báo về bất kỳ yêu cầu hoặc tiết lộ nào ngoài thẩm quyền, đồng thời phải tiêu hủy hoặc trả lại thông tin mật sau khi sử dụng Nghĩa vụ bảo mật thông tin tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi thông tin đã được tiêu hủy hoặc hoàn trả Định nghĩa về thông tin mật và các trường hợp liên quan cũng cần được làm rõ Tác giả khuyến nghị bên vay, là cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài, nên chọn luật áp dụng và tòa án nơi thông tin được sử dụng để yêu cầu các biện pháp khẩn cấp nhằm ngăn chặn thiệt hại Cuối cùng, pháp luật về quan hệ cho vay cần tăng cường trách nhiệm bảo mật thông tin của bên cho vay, phù hợp với thực tiễn và kinh nghiệm đàm phán trong và ngoài nước.