NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÒA GIẢI
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
Quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng tại Toà án nhân dân đối với việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
nhân dân đối với việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Theo BLTTDS năm 2015, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt hoặc thay đổi yêu cầu của mình, cũng như thỏa thuận tự nguyện mà không vi phạm pháp luật hay đạo đức xã hội Hoà giải được quy định là thủ tục bắt buộc trước khi vụ án được xét xử và được khuyến khích diễn ra trong suốt quá trình giải quyết, từ khi Toà án thụ lý cho đến khi ra quyết định xét xử.
2.1.1.1 Nguyên tắc hoà giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Hòa giải không chỉ là thủ tục bắt buộc của tòa án cấp sơ thẩm trước khi đưa vụ việc ra xét xử, mà còn là cách giúp các bên hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật Quyền tự định đoạt của các đương sự là cơ sở của hòa giải trong các vụ án dân sự, đặc biệt là tranh chấp kinh doanh thương mại Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tòa án không chỉ thực hiện xét xử mà còn tiến hành hòa giải Theo Điều 10 BLTTDS 2015, tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ án dân sự.
Hòa giải trước hết phải là sự thỏa thuận của đương sự và cơ sở của việc hòa giải là bắt buộc phải gồm các yếu tố cơ bản:
- Giữa các bên liên quan phải có tranh chấp xảy ra;
- Cần sự có mặt của đương sự trong quá trình hòa giải;
Trong quá trình hòa giải, cần có sự tham gia của bên thứ ba trung lập, không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, để thực hiện việc giải thích, tư vấn và công nhận kết quả hòa giải thành công giữa các bên tranh chấp.
Trên cơ sở đó, theo quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015 thì việc hòa giải phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau:
Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, theo đó không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa để ép buộc các bên phải đồng ý với thỏa thuận không phù hợp với ý chí của họ Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được pháp luật công nhận, cho phép họ toàn quyền thể hiện ý chí và lựa chọn trong quá trình tố tụng Vụ án dân sự chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện từ bên bị xâm phạm quyền lợi hợp pháp, và Tòa án không can thiệp khi không có đơn khởi kiện Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có quyền yêu cầu và thỏa thuận về cách giải quyết tranh chấp, và Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện này, chỉ chấp nhận thỏa thuận khi không có sự đe dọa hay ép buộc.
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự phải tuân thủ quy định pháp luật và đạo đức xã hội Tòa án chỉ chấp nhận thỏa thuận khi nó không vi phạm các điều cấm của luật, tức là những quy định ngăn cấm các hành vi nhất định Đồng thời, thỏa thuận cũng cần phù hợp với các chuẩn mực ứng xử chung trong cộng đồng, đảm bảo không trái với đạo đức xã hội.
34 thừa nhận và tôn trọng Mọi thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội đều không được Tòa án công nhận
2.1.1.2 Phạm vi hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Khoản 1 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều
Theo Bộ luật này, thời điểm mở phiên hòa giải không được quy định cụ thể và phụ thuộc vào từng trường hợp Khi hồ sơ và chứng cứ đã đầy đủ, cũng như các tình tiết của vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại đã rõ ràng, Thẩm phán sẽ linh hoạt ấn định thời gian mở phiên hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử.
Trong trường hợp vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài, phiên họp hòa giải cần được tổ chức trong khoảng thời gian từ 6 đến 8 tháng kể từ ngày thông báo thụ lý vụ án Nếu có phiên họp hòa giải tiếp theo, ngày tổ chức phải được ấn định muộn nhất là 1 tháng sau phiên họp hòa giải trước đó.
Pháp luật tố tụng quy định rằng hòa giải không chỉ bắt buộc phải diễn ra trong thời hạn chuẩn bị xét xử mà còn có thể được thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm Tại các phiên tòa này, chủ tọa sẽ hỏi các đương sự về khả năng thỏa thuận giải quyết vụ án Tùy thuộc vào từng giai đoạn, việc hòa giải và thỏa thuận giữa các bên sẽ được ghi nhận với hình thức và giá trị pháp lý khác nhau.
Mở phiên hòa giải là trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, nhằm giúp các bên đương sự thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp Theo BLTTDS năm 2015, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phụ trách vụ án có nhiệm vụ tổ chức phiên hòa giải, trừ trường hợp vụ án áp dụng thủ tục rút gọn hoặc không thể tiến hành hòa giải.
206 BLTTDS năm 2015) và những vụ án không tiến hành hòa giải được (Điều 207 BLTTDS năm 2015) Theo đó:
* Những vụ án tranh chấp KDTM không được hòa giải bao gồm:
Một là, yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước
Vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản Nhà nước chỉ có thể được giải quyết qua phán quyết của Tòa án, không thừa nhận thỏa thuận giữa các bên do tính chất tài sản thuộc sở hữu toàn dân Điều này nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng hòa giải để gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước Cần lưu ý rằng nếu tài sản Nhà nước được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp liên doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, thì doanh nghiệp đó có quyền tự chủ quản lý, sử dụng tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trường hợp này không thuộc diện cấm hòa giải.
Hai là, những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội
Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội sẽ bị coi là vô hiệu, không phát sinh hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm giao dịch được xác lập Khi giải quyết các vụ án liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu, Tòa án không tiến hành hòa giải, vì điều này có thể tạo điều kiện cho các bên tiếp tục thực hiện giao dịch vi phạm Tuy nhiên, trong trường hợp các bên chỉ tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch, Tòa án sẽ xem xét các vấn đề liên quan đến hậu quả pháp lý phát sinh.
36 dịch dân sự vô hiệu thì Tòa án vẫn tiến hành thủ tục hòa giải theo thủ tục chung
* Những vụ án tranh chấp KDTM không tiến hành hòa giải được
Một là, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt
Theo quy định của pháp luật, khi bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mặt tại phiên hòa giải lần thứ hai do Tòa án triệu tập hợp lệ, thì không thể tiến hành hòa giải Tuy nhiên, trong thực tế, việc áp dụng quy định này gặp nhiều khó khăn do sự thiếu nhất quán và tính định tính trong nội dung điều luật, dẫn đến việc hiểu và áp dụng khác nhau giữa các quy định liên quan.
Hai là, đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng
Trong trường hợp "đương sự" (bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) không thể tham gia phiên hòa giải vì lý do chính đáng, việc hòa giải sẽ không thể tiến hành Do đó, Tòa án sẽ ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Lý do chính đáng được hiểu là những sự kiện khách quan, không thể dự đoán trước và không chịu sự chi phối của con người, như bão lụt, thiên tai hay sạt lở Những sự kiện này được xác định theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 14 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP.
Quy định của pháp luật về hòa giải ngoài tố tụng đối với việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
2.1.2.1 Hoà giải theo quy định tại Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (HGĐTTTA) được xây dựng nhằm hoàn thiện thể chế pháp luật và cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng, Nhà nước Luật này tạo ra một cơ chế hiệu quả cho các bên tự nguyện hòa giải, đối thoại, từ đó giải quyết mâu thuẫn và tranh chấp dân sự, hành chính một cách hiệu quả hơn Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, cũng như đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án.
8 https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/81/732
42 của BLTTDS Theo đó, việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại cũng sẽ được hoà giải tại Toà án theo quy định của Luật HGĐTTTA
Thứ nhất, về phạm vi hoà giải: Theo quy định tại Điều 1 Luật
Theo quy định của HGĐTTTA 2020, hòa giải và đối thoại phải được thực hiện trước khi Tòa án tiếp nhận vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thứ , về trình tự, thủ tục hoà giải: Theo quy trình hòa giải đối thoại tại
Tòa án có thể chia thành 03 giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn tiền hòa giải bắt đầu khi người khởi kiện nộp đơn đến Tòa án có thẩm quyền và kết thúc khi Thẩm phán chỉ định Hòa giải viên Giai đoạn này được quy định chi tiết trong các Điều 16 đến 19 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC và các biểu mẫu trong Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC.
Sau khi tiếp nhận đơn khởi kiện, bộ phận tiếp nhận của Tòa án có thẩm quyền sẽ thông báo cho người khởi kiện về quyền lựa chọn hòa giải và đối thoại trong vòng hai (02) ngày Người khởi kiện cần phản hồi về việc đồng ý hoặc không đồng ý tham gia hòa giải trong thời hạn ba (03) ngày.
Nếu người khởi kiện từ chối hòa giải, Chánh án sẽ phân công Thẩm phán giải quyết đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Ngược lại, nếu người khởi kiện đồng ý hòa giải, Thẩm phán phụ trách sẽ chỉ định Hòa giải viên theo sự lựa chọn hoặc tự mình chỉ định Hòa giải viên.
Sau khi quyết định chỉ định Hòa giải viên được đưa ra và các bên không yêu cầu thay đổi, vụ án sẽ bước vào giai đoạn hòa giải.
Giai đoạn hòa giải bắt đầu sau giai đoạn tiền hòa giải và kéo dài cho đến khi tổ chức thành công phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải tại Tòa án.
43 đoạn này được quy định từ Điều 20 đến Điều 31 LHGĐTTTA Thời gian để hòa giải viên thực hiện hòa giải là hai mươi (20) ngày
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các công tác cần thiết, Hòa giải viên sẽ tiến hành mở phiên hòa giải Nếu các bên đạt được thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ án, Hòa giải viên sẽ ghi nhận kết quả hòa giải và lập biên bản Từ đây, quá trình hòa giải và đối thoại giữa các bên sẽ chính thức chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 40 và khoản 4 Điều 2 của Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án.
Sau khi kết thúc phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải và đối thoại, các bên có thể tiến hành các thủ tục tiếp theo Giai đoạn này rất quan trọng để đảm bảo rằng các thỏa thuận đã đạt được được thực hiện một cách hiệu quả và hợp pháp.
Các bên có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành công theo quy định từ Điều 32 đến Điều 35 của Luật Hôn nhân và Gia đình Đồng thời, các bên cũng có thể đề nghị, và Viện kiểm sát có thể kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành tại Tòa án theo các điều từ Điều 36 đến Điều 39 của Luật này.
Nghiên cứu LHGĐTTTA và Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC cho thấy vẫn còn một số vấn đề cần được làm rõ trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án Đặc biệt, cần nhấn mạnh mối liên hệ giữa các quy định tại LHGĐTTTA và Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả trong quá trình thực hiện.
2.1.2.2 Hoà giải theo Nghị định 22/2017/NĐ-CP
Trước khi Nghị định 22/2017/NĐ-CP ra đời, hoạt động hoà giải thương mại ngoài tố tụng không được pháp luật điều chỉnh, dẫn đến việc thoả thuận giữa các bên thiếu cơ chế bảo đảm thi hành Nghị định này đã chính thức luật hoá hoạt động hoà giải thương mại, đồng thời giữ nguyên tinh thần của phương thức hoà giải, trong đó hoà giải viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ các bên đạt được thoả thuận Kể từ khi Nghị định 22/2017/NĐ-CP có hiệu lực, các bên có thể lựa chọn giữa việc tự hoà giải theo phương thức truyền thống hoặc thực hiện hoà giải theo quy định của Nghị định này.
Trong trường hợp các bên quyết định tự hòa giải mà không thông qua các tổ chức hòa giải theo quy định của pháp luật, việc đạt được thỏa thuận giữa họ là hoàn toàn khả thi.
Các bên sẽ không bị ràng buộc về mặt pháp lý đối với thỏa thuận 44, và việc thực hiện thỏa thuận này hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí và sự tự nguyện của các bên.
Trên toàn cầu, bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế và thương mại thông qua Trọng tài và Tòa án, hòa giải thương mại cũng đã được hình thành và phát triển từ lâu như một phương thức hiệu quả.
Thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng phương thức hòa giải tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội
2.2.1 Khái quát chung về việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng phương thức hòa giải tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội luôn nỗ lực và cam kết thực hiện tốt công tác xét xử, bất kể thời điểm hay hoàn cảnh nào trong quá trình xây dựng và phát triển.
Thủ đô Hà Nội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của đất nước, bao gồm đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Hiện tại, TAND quận Long Biên có 29 biên chế, bao gồm 16 Thẩm phán, 12 Thư ký và 1 kế toán Đội ngũ cán bộ công chức tại đây đảm bảo 100% Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký đều có trình độ cử nhân Luật, trong đó 15 người có trình độ Thạc sĩ luật học, chiếm 52%, và 7 cán bộ đang theo học lớp đào tạo thạc sĩ luật học.
TAND quận Long Biên đã tích cực triển khai kế hoạch công tác, nâng cao chất lượng giải quyết án, đặc biệt là án kinh doanh thương mại (KDTM) thông qua phương thức hòa giải Tỷ lệ hòa giải trong các vụ án dân sự đã đạt trung bình 50% hàng năm, với một số Tòa án lên tới 60-70% Tuy nhiên, do Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án 2020 mới có hiệu lực, nên số vụ tranh chấp KDTM vẫn còn hạn chế và chưa có số liệu cụ thể Hiện tại, chỉ có Trung tâm Trọng tài thương mại và Trung tâm Hoà giải Việt Nam cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại, nhưng chưa có trường hợp nào được công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án theo quy định của Bộ luật TTDS.
10 Tòa án nhân nhân quận Hoàng Mai (2020), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai năm 2020, Hà Nội
Trong giai đoạn tố tụng tại TAND quận Long Biên, hoà giải là phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại Theo Báo cáo công tác của Toà án nhân dân quận Long Biên trong 5 năm từ 2016 đến 2020, số liệu thống kê cho thấy hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp qua hình thức hoà giải đã được ghi nhận rõ ràng.
Năm 2016, tổng số vụ việc đã thụ lý là 1.194 vụ, trong đó đã giải quyết được 984 vụ, đạt tỷ lệ 82,4% Số án tạm đình chỉ là 168 vụ và hồ sơ đã được chuyển đi.
Trong tổng số 42 vụ án, có 96 vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) đã được xử lý, trong đó 62 vụ đã được giải quyết, bao gồm 38 vụ hòa giải thành công, đạt tỷ lệ 61,2% Hiện còn lại 28 vụ chưa giải quyết và 6 vụ đã được chuyển hồ sơ, tổng tỷ lệ giải quyết đạt 58% so với năm 2015.
Năm 2017, tổng số vụ việc đã thụ lý là 1.026 vụ, trong đó đã giải quyết 956 vụ, đạt tỷ lệ 93,1% Số án tạm đình chỉ là 46 vụ và chuyển hồ sơ là 24 vụ Đặc biệt, trong số vụ án kinh doanh thương mại, có 65 vụ đã được thụ lý và giải quyết 42 vụ, trong đó có nhiều vụ hòa giải thành.
29 vụ, đạt tỷ lệ 69%), còn lại 20 vụ và chuyển hồ sơ là 03 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết là 68%% so với năm 2016 12
Năm 2018, tổng số vụ án dân sự thụ lý là 1214 vụ, trong đó 1089 vụ đã được giải quyết, đạt tỷ lệ 89,7% Số án tạm đình chỉ là 104 vụ và 21 vụ đã chuyển hồ sơ Đối với án kinh doanh thương mại, có 77 vụ được thụ lý, trong đó 40 vụ đã được giải quyết, với 32 vụ hòa giải thành công, đạt tỷ lệ 80% Số vụ còn lại chưa giải quyết là 32 vụ và 5 vụ đã chuyển hồ sơ, tỷ lệ giải quyết so với năm 2017 là 55%.
Năm 2019, tổng số vụ án dân sự thụ lý đạt 1002 vụ, trong đó đã giải quyết 934 vụ, tương ứng với tỷ lệ 93,2% Số vụ án tạm đình chỉ là 59 và chuyển hồ sơ là 09 vụ Đối với án kinh doanh thương mại, có 68 vụ được thụ lý, đã giải quyết 46 vụ, trong đó có 27 vụ hòa giải thành công, đạt tỷ lệ 58% Số vụ còn lại là 18 và đã chuyển hồ sơ 04 vụ, với tỷ lệ giải quyết đạt 71% so với năm 2018.
11 Tòa án nhân nhân quận Long Biên (2016), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân quận Long Biên năm 2016, Hà Nội
12 Tòa án nhân nhân quận Long Biên (2017), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân quận Long Biên năm 2017, Hà Nội
13 Tòa án nhân nhân quận Long Biên (2018), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân quận Long Biên năm 2018, Hà Nội
14 Tòa án nhân nhân quận Long Biên (2019), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân quận Long Biên năm 2019, Hà Nội
Năm 2020, tổng số vụ việc thụ lý là 1.035 vụ, trong đó đã giải quyết 947 vụ, đạt tỷ lệ 91,5% Số án tạm đình chỉ là 70 vụ và chuyển hồ sơ là 18 vụ Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, có 82 vụ được thụ lý, với 55 vụ đã được giải quyết thành công thông qua hòa giải.
14 vụ, đạt tỷ lệ 25,5%), còn lại 20 vụ và chuyển hồ sơ là 07 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết là 75,6% so với năm 2019 15
Trong những năm gần đây, số lượng vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) tại Hà Nội, đặc biệt là quận Long Biên, đã gia tăng đáng kể Đồng thời, phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM cũng được áp dụng phổ biến hơn Những xu hướng này xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu.
Trong bối cảnh kinh doanh ngày càng phát triển, mối quan hệ kinh tế trở nên đa dạng và phức tạp, dẫn đến sự đan xen giữa các lợi ích khác nhau Điều này đã làm gia tăng số lượng tranh chấp thương mại trong đời sống kinh tế.
Pháp luật thương mại đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống thực tế, với các doanh nghiệp ngày càng tuân thủ các chuẩn mực pháp lý khi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Các chủ thể kinh doanh đang tiếp cận các phương thức giải quyết tranh chấp tiên tiến từ các quốc gia phát triển, phản ánh một môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch và nâng cao niềm tin vào hệ thống pháp luật.
Số lượng vụ tranh chấp thương mại được giải quyết bằng hoà giải đang tăng cao, cho thấy vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường kinh doanh và thúc đẩy phát triển kinh tế Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu giải quyết các tranh chấp ngày càng phức tạp, cần có sự đổi mới trong thể chế.