1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

PHÂN TÍCH HỆ THỐNG BẦU CỬ THEO ĐA SỐ LIÊN HỆ VỚI HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở ẤN ĐỘ

47 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Hệ Thống Bầu Cử Theo Đa Số Liên Hệ Với Hệ Thống Bầu Cử Ở Ấn Độ
Trường học Trường Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Chuyên ngành Hệ Thống Bầu Cử
Thể loại Bài Tập Lớn
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 47
Dung lượng 759,45 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (5)
  • 3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu (6)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm (6)
  • 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài (7)
  • CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẦU CỬ VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ (8)
    • 1. Bầu cử (8)
      • 1.1. Khái niệm bầu cử (8)
      • 1.2. Vị trí, vai trò của bầu cử (10)
      • 1.3. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới (12)
    • 2. Hệ thống bầu cử (15)
      • 2.1. Khái niệm hệ thống bầu cử (15)
      • 2.2. Bản chất của hệ thống bầu cử (16)
      • 2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử (16)
      • 2.4. Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử (19)
  • CHƯƠNG 2 HỆ THỐNG BẦU CỬ THEO ĐA SỐ. LIÊN HỆ VỚI HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở ẤN ĐỘ (21)
    • 1. Hệ thống bầu cử đa số (21)
    • 2. Hệ thống bầu cử ở Ấn Độ (25)
      • 2.1. Khái quát chung về Ấn Độ (25)
      • 2.2. Ưu điểm và nhược điểm của hệ thống bầu cử ở Ấn Độ (26)
  • CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở VIỆT NAM HIỆN (30)
    • 1. Hệ thống bầu cử Việt Nam từ năm 1945 đến nay (30)
    • 2. Những thành tựu cơ bản của hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay (34)
    • 3. Một số bất cập, hạn chế của hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay (37)
  • KẾT LUẬN (46)

Nội dung

PHÂN TÍCH HỆ THỐNG BẦU CỬ THEO ĐA SỐ LIÊN HỆ VỚI HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở ẤN ĐỘ PHÂN TÍCH HỆ THỐNG BẦU CỬ THEO ĐA SỐ LIÊN HỆ VỚI HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở ẤN ĐỘ bài kết thúc học phần năm 20222023 tài liệu tham khảo thêm

Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm

4.1 Phương pháp nghiên cứu tài tiệu

Thu thập tài liệu giáo dục, bao gồm giáo trình và bài giảng của giảng viên cùng với ghi chép của sinh viên, theo một hệ thống có cấu trúc Mục tiêu là xác định những đặc điểm nổi bật và xu hướng chung trong các tài liệu này.

Tổng hợp lại các nội dung sao cho phù hợp với nội dung của đề tài Đưa ra ý kiến của bản thân góp phần hoàn thiện bài nghiên cứu.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

- Giúp góp phần hiểu hơn về hệ thống bầu cử theo đa số

- Giúp mọi người có thể hiểu hơn về học phần hệ thống bầu cử

- Bổ sung thêm kiến thức còn thiếu khi học học phần hệ thống bầu cử

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẦU CỬ VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ

Bầu cử

Bầu cử được xem là “trái tim của dân chủ”; là một chế định trọng tâm của các chính thể dân chủ đại diện

Có nhiều định nghĩa về bầu cử, tuy nhiên, từ góc độ khái quát nhất, có thể hiểu bầu cử là một quy trình chính trị - pháp lý trong đó người dân tự do bỏ phiếu lựa chọn ra những người vào làm việc trong bộ máy nhà nước để thay mặt mình quản lý xã hội Hay nói một cách đơn giản hơn, bầu cử là phương thức để nhân dân lựa chọn người đại diện và ủy thác quyền lực cho người đại diện Điều này được thể hiện ở các góc độ sau:

Thứ nhất, bầu cử là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người Bất cứ một quốc gia nào, một xã hội nào trong giai đoạn nào thì khi nói đến bầu cử là nói đến việc lựa chọn Mặc dù vậy, đối tượng được lựa chọn có thể không giống nhau Hiện nay, phổ biến nhất trong hệ thống bầu cử nhiều nước là lựa chọn các đại biểu trong cơ quan lập pháp Các nước tư sản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, vì vậy, bầu cử không những là phương thức thành lập cơ quan lập pháp mà còn được áp dụng để bầu các chức danh trong các nhánh quyền lực khác như Tổng thống, các Thị trưởng và có thể là các chức danh trong các cơ quan tư pháp Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân cho nên bầu cử là phương thức để thành lập ra các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước

Tóm lại, các đại biểu, các chức danh từ kết quả của bầu cử đều trở thành người đại diện cho nhân dân vì họ do nhân dân trực tiếp bầu ra và trao quyền

Thứ hai, bầu cử là việc ủy thác quyền lực của nhân dân đến người được chọn lựa Điều đó có nghĩa là thông qua hành vi bỏ phiếu, người dân lựa chọn và đồng thời trao quyền lực của mình cho người mà mình đã lựa chọn Chủ thể nào được lựa chọn thông qua bầu cử thì chủ thể đó nhận quyền lực từ nhân dân Tuy nhiên, mức độ quyền lực mà người đại diện được nhân dân ủy quyền không chỉ đơn thuần là hành vi bỏ phiếu mà còn liên quan đến việc chủ thể nào quy định quyền lực của cơ quan đại diện và quyền hạn, nhiệm vụ đại biểu dân cử Trong các nền dân chủ đương đại thì vấn đề phân công quyền lực nhà nước và mức độ trao quyền lực thường được quy định trong Hiến pháp của mỗi nước Như vậy, phạm vi thẩm quyền của người đại diện không do cử trị trực tiếp quyết định trong bầu cử mà do Hiến pháp quy định Nói cách khác, trong bầu cử, cử tri chỉ trao quyền cho người đại diện Ai được cử tri lựa chọn thì người đó sẽ nhận được quyền lực từ nhân dân còn vấn đề nhận được bao nhiêu quyền lực sẽ do Hiến pháp quy định Như vậy, nếu Hiến pháp - văn bản phân công quyền lực là do nhân dân thông qua thì nhân dân không những trực tiếp lựa chọn, trực tiếp trao quyền mà còn trực tiếp quy định về phạm vi thẩm quyền cho người đại diện Trong trường hợp nhân dân không thông qua Hiến pháp thì nhân dân chỉ trao quyền cho người đại diện thông qua bầu cử Phạm vi thẩm quyền bao nhiêu, “nhiều hay ít” là do Hiến pháp ấn định Tuy thẩm quyền của người đại diện được quy định trong Hiến pháp, nhưng nếu không được người dân chọn qua bầu cử thì không thể tồn tại quyền lực của người đại diện Do vậy, ngay cả trong trường hợp nhân dân không trực tiếp thông qua Hiến pháp thì vẫn có thể khẳng định rằng hành vi bỏ phiếu của cử tri đồng nghĩa với việc cử tri trao quyền lực của mình cho người mình chọn

Tóm lại, bầu cử trước hết là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người Nó phát triển cùng với quá trình phát triển của con người và bầu cử ngày càng mang tính chính trị - pháp lý sâu sắc Thông qua bầu cử, ý chí của người dân được chuyển hóa” sang cơ quan đại diện Có thể nói, bầu cử không những quyết định ứng cử viên, đảng phái chính trị, lực lượng xã hội nào được bầu chọn mà nó còn quyết định cách thức chuyển hóa quyền lực từ nhân dân sang người đại diện Kết quả của bầu cử phản ánh tỷ lệ “thu phục” niềm tin đối với cử trí của các đảng phái chính trị, lực lượng chính trị và “biển” tương quan đó thành “ghế” trong cơ quan đại diện

1.2 Vị trí, vai trò của bầu cử

Thứ nhất, bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ Một chế độ chỉ được coi là dân chủ khi và chỉ khi có các cuộc bầu cử Đó là bởi bầu cử cho phép người dân không chỉ trao quyền cho những người đại diện thay mặt mình quản lý xã hội mà còn là công cụ quan trọng để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của bộ máy nhà nước UNESCO cũng đã khẳng định có bốn yếu tố cấu thành căn bản của một nền dân chủ, đó là:

1) Các quyền và tự do cơ bản của con người;

2) Các cuộc bầu cử tự do và công bằng;

3) Chính quyền công khai và chịu trách nhiệm giải trình;

4) Có sự hiện hữu của một xã hội dân chủ, hay nói cách khác là một xã hội dân sự”

Thông qua bầu cử, người dân có thể tự do lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước và cũng chỉ những người được chọn lựa qua bầu cử mới trở thành đại diện cho nhân dân để thực thi quyền lực thay

Bầu cử là một công cụ quan trọng cho phép người dân lựa chọn những đại diện tốt nhất về năng lực và tư cách để điều hành đất nước, nếu các nguyên tắc bầu cử được tuân thủ Việc tổ chức bầu cử định kỳ với sự cạnh tranh giữa các ứng cử viên giúp công chúng có khả năng phế truất những chính khách kém chất lượng và giám sát hành động của họ trong quá trình thực hiện các kế hoạch, ý định đã nêu ra trong chiến dịch tranh cử Do đó, bầu cử không chỉ tạo điều kiện cho người dân tham gia vào việc xây dựng bộ máy nhà nước mà còn đảm bảo hoạt động của nó tuân thủ các tiêu chuẩn pháp quyền và dân chủ.

Thứ hai, bầu cử có vai trò hợp pháp hóa chính quyền, bảo đảm tính

Bầu cử là phương thức lựa chọn người thực thi quyền lực nhà nước thông qua bỏ phiếu phổ thông, đảm bảo mọi công dân đủ điều kiện có quyền tham gia Quyền lực của những người được bầu chọn có tính hợp pháp, tạo nền tảng cho sự ổn định của chính quyền Hội nghị an ninh và hợp tác Châu Âu (CSCE) nhấn mạnh rằng "ý chí của nhân dân thông qua bầu cử định kỳ và chân thực là nền tảng cho thẩm quyền và tính hợp pháp của quyền lực nhà nước." Chính quyền không qua bầu cử, như đảo chính quân sự, thường không được công nhận bởi các quốc gia và tổ chức quốc tế Ngược lại, một chính quyền được thành lập qua bầu cử tự do, công bằng và trung thực sẽ được coi là hợp pháp và được cộng đồng quốc tế thừa nhận Chỉ khi chính quyền được thiết lập qua bầu cử thực chất, nó mới nhận được sự công nhận từ người dân và cộng đồng quốc tế, từ đó có thể tồn tại và hoạt động ổn định lâu dài.

Bầu cử là phương thức thiết yếu để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, bao gồm quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, và quyền vận động tranh cử Những quyền này thuộc nhóm quyền chính trị, dân sự được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp nhiều quốc gia Một số quyền chỉ có thể thực hiện qua bầu cử, như quyền bỏ phiếu và ứng cử, trong khi các quyền khác như tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí, và hội họp có thể được thực hiện trong nhiều bối cảnh, nhưng bầu cử vẫn là cơ hội để thể hiện chúng một cách mạnh mẽ và sâu sắc nhất.

1.3 Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới

Các nguyên tắc bầu cử đóng vai trò quyết định đến tính tiến bộ, minh bạch và hiệu quả của chế độ bầu cử tại mỗi quốc gia Hiện nay, năm nguyên tắc bầu cử phổ biến được nhiều nước áp dụng bao gồm tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín Những nguyên tắc này không chỉ thống nhất mà còn có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, đảm bảo cho các cuộc bầu cử diễn ra khách quan, dân chủ và tiến bộ.

Thứ nhất, nguyên tắc bầu cử tự do

Bầu cử tự do là nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp của nhiều quốc gia, nhưng cách hiểu về nội hàm của nguyên tắc này có sự khác biệt nhất định.

Thứ nhất, ý chí tự nguyện của người dân trong tiến trình bầu cử được thể hiện qua nguyên tắc bầu cử tự do Điều này có nghĩa là mỗi cử tri đều có quyền tự quyết định việc đi bỏ phiếu hay không, cũng như quyền tham gia vào quá trình bầu cử Không ai có quyền can thiệp vào quyết định này của cử tri.

Có 9 ảnh hưởng chính buộc công dân phải tham gia bầu cử, nhưng không ai có thể bị trừng phạt nếu không tham gia Điều này thể hiện sự tôn trọng tối đa quyền tự quyết của cử tri Tuy nhiên, một số quốc gia quy định rằng bầu cử là nghĩa vụ của công dân.

Nguyên tắc bầu cử tự do không chỉ đơn thuần là việc tổ chức bầu cử, mà còn nhấn mạnh quyền "tự do lựa chọn" của công dân trong quá trình bỏ phiếu, điều này được quy định rõ trong các văn bản về nhân quyền quốc tế.

Thứ hai, nguyên tắc bầu cử phổ thông

Hệ thống bầu cử

2.1 Khái niệm hệ thống bầu cử Đối với các quốc gia theo chế độ dân chủ, việc lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp là một trong những quyết định quan trọng nhất Hầu hết bất cứ sự lựa

Lựa chọn hệ thống bầu cử có ảnh hưởng sâu sắc đến thể chế chính trị của mỗi quốc gia Khi một quốc gia đã xác định được hệ thống bầu cử, sự thay đổi thường hiếm khi xảy ra, và các cơ chế chính trị sẽ điều chỉnh theo động lực mà hệ thống đó tạo ra.

2.2 Bản chất của hệ thống bầu cử

Hệ thống bầu cử đóng vai trò như một "phần mềm" chuyển tải ý chí của hàng triệu cử tri thành ghế trong cơ quan dân cử Chất lượng của hệ thống bầu cử được thể hiện qua khả năng phản ánh chính xác ý muốn của cử tri, càng gần gũi với nguyện vọng của họ, càng chứng tỏ hệ thống đó có chất lượng tốt.

Bản chất của hệ thống bầu cử được thể hiện ở hai vấn đề cơ bản:

Sự lựa chọn trong bầu cử là một vấn đề quan trọng, liên quan đến quyền bầu cử của nhân dân Vậy ai là nhân dân và ai có quyền ứng cử? Cần xác định rõ ràng giữa việc bầu ứng cử viên cá nhân hay các đảng phái chính trị, cũng như các lực lượng xã hội Quy trình bầu cử cần được thực hiện theo trình tự và thủ tục rõ ràng, với cơ chế đảm bảo tính minh bạch và hợp pháp Đặc biệt, việc đảm bảo ý chí của nhân dân trong bầu cử là điều cần thiết để tạo ra một nền dân chủ vững mạnh.

Việc trao quyền lực của nhân dân cho người đại diện phụ thuộc vào thiết kế đơn vị bầu cử, có thể dựa trên tiêu chí lãnh thổ hoặc đảng phái chính trị Phương thức xác định kết quả bầu cử có thể là theo đa số hoặc tỷ lệ, và việc ủy thác có thể được thực hiện cho cá nhân hoặc đảng phái Cần có công thức hoặc kỹ thuật phù hợp để chuyển hóa kết quả bầu cử thành “ghế” trong cơ quan đại diện, đảm bảo phản ánh trung thực quyền lực mà cử tri đã trao cho các đại biểu hoặc đảng phái.

2.3 Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử

Thứ nhất, hệ thống bầu cử có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ chế chính trị

Hệ thống bầu cử đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự tác động qua lại giữa các thực thể chính trị và bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong việc nâng cao mức độ cạnh tranh tại Nghị trường Trong cơ chế chính trị đa đảng, hệ thống bầu cử không chỉ quyết định cách thức chuyển hóa lá phiếu của cử tri thành ghế trong cơ quan lập pháp, mà còn xác định quyền lực và sức mạnh của các đảng phái chính trị Nó là tiền đề quan trọng cho hình hài của Nghị viện và ảnh hưởng đến diện mạo của Chính phủ cùng các thiết chế nhà nước khác Đồng thời, cơ chế tổ chức và hoạt động của Nghị viện cũng tác động trở lại đối với hệ thống bầu cử Lijphart, một nhà nghiên cứu nổi tiếng về chính trị và bầu cử, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống bầu cử trong việc định hình các mối quan hệ chính trị.

Việc lựa chọn hệ thống bầu cử, đặc biệt là giữa bầu cử đa số và bầu cử theo đại diện tỉ lệ, là một vấn đề quan trọng trong mọi định chế của nền dân chủ.

Hệ thống bầu cử đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến các đảng phái chính trị Nghiên cứu cho thấy rằng hệ thống bầu cử không chỉ tác động đến số lượng đảng phái mà còn ảnh hưởng đến cơ chế hoạt động của chúng Dù cử tri có thể bỏ phiếu giống nhau, nhưng hệ thống bầu cử A có thể dẫn đến chính phủ liên minh hoặc thiểu số, trong khi hệ thống B có thể cho phép một đảng duy nhất kiểm soát đa số Vì vậy, việc lựa chọn hệ thống bầu cử sẽ quyết định ai là người trúng cử và đảng phái nào nắm giữ quyền lực.

Một số hệ thống chính trị khuyến khích sự hình thành của các đảng chính trị, trong khi những hệ thống khác chỉ công nhận cá nhân ứng cử viên.

Hệ thống bầu cử đa số thường hạn chế số lượng đảng phái, trong khi hệ thống tỷ lệ tạo ra Nghị viện đa đảng, bao gồm cả các đảng nhỏ và ứng cử viên tự do Sự liên hiệp hay không liên hiệp của các đảng phái trong việc thành lập Chính phủ, cũng như mức độ ổn định của Chính phủ trong quản lý đất nước, đều bị ảnh hưởng bởi hệ thống bầu cử Một số hệ thống bầu cử có thể khuyến khích sự chia rẽ giữa các đảng, trong khi những hệ thống khác lại thúc đẩy sự hợp tác và hạn chế bất đồng chính kiến.

Thứ ba, hệ thống bầu cử có khả năng quản lý xung đột

Hệ thống bầu cử đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý xung đột xã hội, với khả năng làm trầm trọng thêm hoặc giải tỏa căng thẳng Sự căng thẳng giữa việc bảo vệ quyền đại diện của các nhóm thiểu số và việc khuyến khích chính phủ độc đảng luôn tồn tại Một hệ thống bầu cử không công bằng sẽ dẫn đến việc phe đối lập cảm thấy bất lực và có thể sử dụng các biện pháp thiếu dân chủ hoặc bạo lực Hơn nữa, lựa chọn hệ thống bầu cử ảnh hưởng đến quy trình bỏ phiếu, đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số và nhóm bị thiệt thòi, điều này càng quan trọng trong các xã hội có cử tri ít kinh nghiệm hoặc mù chữ.

Hệ thống bầu cử ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý cử tri trong quá trình bỏ phiếu Các loại hệ thống bầu cử khác nhau có xu hướng khuyến khích sự phát triển của các đảng phái chính trị khác nhau; trong khi hệ thống đa số thường hạn chế số lượng đảng phái, hệ thống tỷ lệ lại cho phép sự đa dạng hơn, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều đảng phái Sự khác biệt này không chỉ ảnh hưởng đến cách cử tri chọn lựa mà còn định hình tâm lý của họ khi tham gia bầu cử.

2.4 Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử

Hệ thống bầu cử thường không được thiết kế từ đầu mà chịu ảnh hưởng từ các tiền lệ Để xây dựng một hệ thống bầu cử hiệu quả, cần có cơ sở để đánh giá các ưu điểm và khuyết điểm của từng hệ thống Qua các tiêu chí đánh giá này, nhà cầm quyền có thể xác định những mục tiêu mong muốn cũng như những điều cần tránh trong hệ thống bầu cử Một số căn cứ cơ bản có thể được sử dụng để phân tích và đánh giá các hệ thống bầu cử bao gồm tính công bằng, tính minh bạch và khả năng đại diện.

Một hệ thống bầu cử hiệu quả phải đảm bảo tính rõ ràng, dễ hiểu và dễ sử dụng, không chỉ cho các ứng cử viên mà còn cho cả cử tri.

- Thứ hai, hệ thống bầu cử tiến bộ phải là một hệ thống bầu cử có tác dụng làm cực đại ảnh hưởng của cử tri

- Thứ ba, hệ thống bầu cử cần được thiết kế sao cho kết quả bầu cử phải phản ánh tính đại diện

- Thứ tư, hệ thống bầu cử cần khích lệ các đảng phái chính trị phát triển

- Thứ năm, hệ thống bầu cử phải khuyến khích sự giám sát từ phe đối lập

- Thứ sáu, hệ thống bầu cử cần cung cấp ưu đãi đối với việc hoà giải

- Thứ bảy, hệ thống bầu cử phải đảm bảo tính có hiệu quả của nghị viện

- Thứ tám, hệ thống bầu cử phải tăng cường chế độ trách nhiệm của cơ quan dân cử với cử tri

- Thứ chín, hệ thống bầu cử cần đề cao vấn đề trách nhiệm cá nhân của các đại biểu

Hệ thống bầu cử cần phải phù hợp với đặc điểm của chế độ chính trị - xã hội cụ thể và đáp ứng các mục tiêu mà hệ thống chính trị đó đề ra.

- Mười một, khi thiết kế hệ thống bầu cử cần tính đến những tiêu chuẩn quốc tế

- Mười hai, đảm bảo tài chính để quá trình bầu cử được bền vững

HỆ THỐNG BẦU CỬ THEO ĐA SỐ LIÊN HỆ VỚI HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở ẤN ĐỘ

Hệ thống bầu cử đa số

Hệ thống bầu cử đa số hoạt động dựa trên nguyên lý đơn giản: ứng cử viên hoặc đảng phái chính trị nhận được nhiều phiếu nhất sẽ giành chiến thắng Mỗi phương pháp bầu cử có thể đi kèm với những quy định bổ sung riêng.

Hệ thống bầu cử này bao gồm năm biến thể chính: phương pháp về đích trước (FPTP), phương pháp lá phiếu khối (BV), phương pháp lá phiếu có thể thay thế (AV), phương pháp hai vòng (TRS), và phương pháp lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (PBV).

Phương pháp về đích trước (FPTP) là một trong những phương pháp đơn giản nhất trong hệ thống bầu cử đa số, áp dụng cho các đơn vị bầu cử đơn danh nhằm lựa chọn cá nhân ứng cử viên thay vì bầu theo đảng phái Người trúng cử là người nhận được nhiều phiếu bầu nhất, mặc dù không cần đạt đa số tuyệt đối Theo lý thuyết, ứng cử viên chỉ cần hai phiếu nếu các đối thủ chỉ nhận một phiếu Để ngăn chặn tình trạng ứng cử viên có số phiếu rất thấp vẫn có thể thắng cử, nhiều quốc gia đã áp dụng các quy định bổ sung, như yêu cầu tỉ lệ tối thiểu phiếu bầu cần đạt được.

Phương pháp về đích trước, có nguồn gốc từ Anh, đã được áp dụng tại nhiều quốc gia từng là thuộc địa hoặc chịu ảnh hưởng của Anh, bao gồm Canada, Ấn Độ và Mỹ Ngoài ra, phương pháp này cũng được sử dụng ở một số quốc gia vùng Caribbean và Belize ở Châu Mỹ Latinh, cũng như tại năm quốc gia: Bangladesh, Burma, Malaysia và Nepal.

18 châu Á; nhiều quốc gia đảo ở Nam Thái Bình Dương và 15 quốc gia ở Châu Phi, chủ yếu là cựu thuộc địa của Anh

Phương pháp lá phiếu khối (BV) là một hệ thống bầu cử đa số, cho phép cử tri có số phiếu tương ứng với số ghế trong đơn vị bầu cử của họ và tự do chọn ứng cử viên không phân biệt đảng phái Cử tri có thể sử dụng số lượng phiếu bầu tùy ý, và các ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất sẽ trúng cử Phương pháp này thường được áp dụng để bầu cử đại biểu thay vì bầu cho các đảng phái chính trị.

Phương pháp lá phiếu khối được áp dụng rộng rãi ở các quốc gia có đảng phái chính trị yếu hoặc không có đảng phái Năm 2004, nhiều quốc gia như quần đảo Cayman, quần đảo The Falkland, Guernsey, Kuwait, Lào, Lebanon, Maldives, Palestine, Cộng hòa Arab Syria, Tonga và Tuvalu đã sử dụng hệ thống bầu cử này Ngoài ra, Jordan đã áp dụng vào năm 1989, Mongolia vào năm 1992, và Philippines, Thái Lan cho đến năm 1997 Tuy nhiên, phương pháp này đã bị thay thế ở các quốc gia đó do những kết quả còn nhiều tranh cãi.

* Phương pháp lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (PBV):

Hệ thống bầu cử đa số với các đơn vị bầu cử đa thành viên cho phép cử tri chỉ có một phiếu bầu để lựa chọn các ứng cử viên trong danh sách của đảng Thay vì bầu cho từng ứng cử viên cá nhân, cử tri chọn đảng mà mình ủng hộ Đảng chiến thắng sẽ chiếm toàn bộ số ghế trong đơn vị bầu cử đó, tạo nên sự tập trung quyền lực cho đảng thắng cử.

Trong danh sách ứng cử viên của đảng, 19 người sẽ được bầu chọn Tương tự như phương pháp FPTP, không yêu cầu ứng cử viên phải đạt đa số tuyệt đối phiếu bầu; chỉ cần có số phiếu nhiều hơn người khác là đủ để giành chiến thắng.

Đến năm 2004, phương pháp bầu cử này đã được áp dụng như hệ thống duy nhất hoặc một phần tại bốn quốc gia: Cameroon, Chad, Djibouti và Singapore Hiện nay, phương pháp này cũng được sử dụng cho tất cả các cuộc bầu cử ở Lebanon, Tunisia và Senegal.

* Phương pháp lá phiếu thay thế (AV):

Phương pháp bầu cử này được áp dụng cho các đơn vị bầu cử đơn danh, nơi cử tri bỏ phiếu cho ứng cử viên thay vì đảng phái Cử tri xếp hạng các ứng cử viên theo thứ tự ưu tiên, đánh dấu “1” cho người họ thích nhất, “2” cho người thứ hai và “3” cho người thứ ba Hệ thống này còn được gọi là “bầu cử theo ý thích” Ứng cử viên nào nhận được trên 50% phiếu bầu sẽ thắng cử Nếu không có ứng cử viên nào đạt đa số tuyệt đối, ứng cử viên có ít phiếu số “1” nhất sẽ bị loại và phiếu của họ sẽ được phân bổ cho các ứng cử viên được ưu tiên thứ “2”.

Cách thức này được lặp đi lặp lại cho đến khi tìm ra được ứng cử viên đạt được đa số phiếu và đạt được đa số phi

Hệ thống này hiện đang được triển khai tại Australia, Fiji, và Papua New Guinea, cùng với các biến thể ở một số quốc gia khác trong khu vực châu Đại Dương Phương pháp này cũng được áp dụng trong cuộc bầu cử tổng thống của Cộng hòa Ailen.

* Phương pháp hai vòng (TRS):

Phương pháp bầu cử hai vòng thường diễn ra thành hai giai đoạn, với lần thứ hai cách lần đầu từ một đến hai tuần Vòng một áp dụng nguyên lý của phương pháp đa số, trong đó hình thức phổ biến nhất là phương pháp về đích trước FPTP.

Trong các đơn vị bầu cử đa danh, có thể áp dụng hệ thống bầu cử hai vòng (TRS) với lá phiếu khối BV như ở Kiribati hoặc lá phiếu theo đảng phái PBV như ở Mali Một ứng cử viên hoặc đảng nhận được tỷ lệ phiếu bầu nhất định, thường là 50% số phiếu hợp lệ, sẽ thắng ngay mà không cần vòng hai Nếu không có ứng cử viên nào đạt đa số tuyệt đối, một cuộc bầu cử thứ hai sẽ diễn ra, thường là giữa hai ứng cử viên có số phiếu cao nhất ở vòng đầu (như ở Ukraine), được gọi là TRS đối đầu đa số Phương pháp này đảm bảo một kết quả đa số tuyệt đối, khi một trong hai ứng cử viên phải đạt đa số phiếu bầu để được tuyên bố là người chiến thắng Một phương pháp khác là TRS đa nguyên/đa số, được sử dụng trong các cuộc bầu cử lập pháp ở Pháp, nơi chỉ những ứng cử viên nhận trên 12,5% số phiếu bầu ở vòng một mới được vào vòng hai Trong vòng hai, ứng cử viên có số phiếu cao nhất sẽ thắng, không cần đạt đa số tuyệt đối, khác với TRS đối đầu đa số, vì có thể có nhiều ứng cử viên tham gia ở vòng hai.

Hệ thống bầu cử hai vòng TRS được sử dụng để chọn 22 cơ quan lập pháp quốc gia và là phương pháp phổ biến nhất trên toàn thế giới cho các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp Cùng với Pháp, nhiều nước khác sử dụng TRS là các thuộc địa của Cộng hòa Pháp hoặc bị ảnh hưởng lịch sử bởi người Pháp Đối với các cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp, TRS được sử dụng bởi Cộng hòa Trung Phi, Congo (Brazzaville), Gabon, Mali, Mauritania và Togo, Ai Cập, quần đảo Comoros, Haiti, Iran, Kiribati, Việt Nam, và một số các nước cộng hòa hậu Xô Viết (Belarus, Kyrgyzstan, Turkmenistan và Uzbekistan) Một số quốc gia khác như Georgia, Kazakhstan và Tajikistan cũng sử dụng TRS để bầu đại diện đơn vị bầu cử như là một thành phần của một hệ thống bầu cử hỗn hợp.

Hệ thống bầu cử ở Ấn Độ

2.1 Khái quát chung về Ấn Độ

Khái quát chung Ấn Độ là một quốc gia Nam Á đứng thứ 7 thế giới về diện tích và đông dân thứ 2 thế giới Từ trước đến nay, đây vẫn được coi là quốc gia dân chủ lớn nhất thế giới, với hơn 670 triệu cử tri trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2004 Hệ thống bầu cử ở Ấn Độ theo phương pháp FPTP Đây là một sự kế thừa từ chủ nghĩa thực dân đã kết thúc vào năm 1947 của Anh Người Anh đã áp dụng chế độ chính phủ tự trị ở Ấn Độ theo từng giai đoạn nhưng cuộc bầu cử phổ thông đầu tiên diễn chỉ ra sau khi kết thúc chế độ thực dân đồng thời với việc thông qua Hiến pháp Ấn Độ vào tháng 11 năm 1949 bởi Quốc hội lập hiến Mặc dù có nhiều tranh luận trong nội bộ Quốc hội lập hiến trong thời gian dài về vấn đề lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp nhất với Ấn Độ, tuy nhiên, kết quả là phương pháp bầu cử FPTP vẫn được áp dụng Trong bối cảnh Ấn Độ mới thoát khỏi chế độ thuộc địa, tình trạng đói nghèo và mù chữ rất phổ biến thì FPTP là một sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp để tránh xảy ra sự phân mảnh của cơ quan lập pháp và quan trọng nhất là giúp hình thành

22 chế độ chính phủ tự trị ổn định Và hiện nay, điều này vẫn còn phù hợp đối với Ấn Độ Theo quy định của Hiến pháp Ấn Độ, các cử tri bầu ra 543 thành viên cho Hạ viện (Lok Sabha) từ các đơn vị bầu cử đơn danh Ngược lại, Hội đồng lập pháp tiểu bang bầu gián tiếp các thành viên của Thượng viện hay còn gọi là Hội đồng liên bang (Rajya Sabha) và một số thành viên Thượng viện của các tiểu bang tương ứng Ngoài ra, tổng thống được bầu bởi một cử tri đoàn gồm các thành viên của cả hai nghị viện của Quốc hội và các cơ quan lập 60 pháp của tiểu bang, và phó tổng thống được bầu chỉ bởi các thành viên của 2 nghị viện Rajya Sabha và Lok Sabha Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức 5 năm một lần, nhưng tổng thống có thể giải tán Hạ viện Lok Sabha trước khi kết thúc nhiệm kì theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ như trong trường hợp gần đây diễn ra vào năm 2004, hoặc nếu tổng thống tin rằng sẽ không tạo ra được một chính phủ ổn định như trong trường hợp diễn ra năm 1991 Thủ tướng giữ ghế của mình chừng nào người đó còn có thể chỉ huy đa số thành viên Hạ viện Lok Sabha Các chính phủ của Đảng Quốc đại đã cai trị chính phủ Ấn Độ liên tục cho đến năm 1977 có nhiệm kì gần 5 năm, gần với mức tối đa cho phép trong Hiến pháp Từ năm 1977 đến năm 1997, các chính phủ đã kém ổn định hơn, và một số thủ tướng phải từ chức khi nhiệm kì của họ kết thúc do đảng bị chia rẽ hoặc nhận được các phiếu bất tín nhiệm Kể từ năm 1997, một thời kì ổn định lại nổi lên dưới sự kiểm soát của các liên minh đảng Tất cả các cơ quan chính trị này đều được bầu thông qua hệ thống bầu cử theo phương pháp FPTP

2.2 Ưu điểm và nhược điểm của hệ thống bầu cử ở Ấn Độ

Thứ nhất, phương pháp bầu cử FPTP ở Ấn Độ cho đến năm 1977 là để duy trì các chính phủ đa số trên cơ sở ủng hộ của các cử tri thiểu số Ban đầu, phương pháp bầu cử này dẫn tới việc Đảng Quốc đại thống trị đa số ghế một

23 cách để ổn định Hạ viện Lok Sabha trong bối cảnh cạnh tranh với một phe đối lập phân mảnh đã tạo ra một "chính phủ mạnh", từ đó đảm bảo sự ổn định chính trị cho Ấn Độ trong giai đoạn đầu thành lập.

Thứ hai, phương pháp bầu cử FPTP ở Ấn Độ có những quy định đặc thù để đảm bảo quyền lợi của những nhóm thiểu số Phương pháp này có quy định dành riêng cho các nhóm bất lợi về lịch sử và thiệt thòi trong xã hội được biết đến như là các giai cấp và bộ tộc Những cộng đồng này tập trung thưa thớt khắp Ấn Độ và FPTP đã giúp họ nhận được một số lượng ghế tương đối trong Quốc hội Tuy nhiên Hiến pháp quy định số đại diện tại đơn vị bầu cử của họ tương quan với số lượng người dân trong bộ 61 tộc của họ, do đó có riêng 79 ghế cho 15% dân số của giai cấp và 41 ghế cho 8% dân số của bộ tộc Trong các đơn vị bầu cử này, mặc dù tất cả các cử tri đều có quyền bỏ phiếu, chỉ có một thành viên của các bộ tộc có thể tranh cử Điều này đảm bảo rằng số lượng đại diện trong Quốc hội là tương quan với tỷ lệ dân số

Thứ nhất, phương pháp bầu cử FPTP ở Ấn Độ tạo ra sự mất cân xứng giữa tỉ lệ phiếu nhận được và tỉ lệ số ghế nhận được trong Quốc hội Cụ thể là, bất kỳ một sự thay đổi nhỏ nào trong tỉ lệ bầu cử thường tác động đáng kể lên số ghế mà một đảng giành được Sự gia tăng của các đảng ở tiểu bang và một số khu vực dẫn đến sự phân mảnh trong các đảng phái chính trị Ấn Độ Khi các đảng đối lập kết hợp để thành lập các liên minh và bắt đầu đưa ra các ứng cử viên cùng cạnh tranh với các ứng cử viên của Đảng Quốc đại (như trường hợp trong cuộc tổng tuyển cử năm 1977 và 1989) thì Đảng Quốc đại không còn chiếm đa số số ghế nữa Sự mất cân xứng như vậy cũng được thể hiện trong trường hợp các đảng phái chính trị lớn khác như trường hợp của đảng Bharatiya Janata – BJP

Kết quả cuộc bầu cử Hạ viện Lok Sabha không đạt tỉ lệ cân xứng, với số phiếu ủng hộ thường bị phân chia giữa các ứng cử viên cùng tổ chức, tôn giáo hoặc khu vực Trong giai đoạn 1977-1997, phương pháp bầu cử FPTP dẫn đến bất ổn định do các liên minh không tuân theo nguyên tắc chung và lợi ích hẹp hòi của các đảng phái Đảng đối lập của Đảng Quốc đại, không bao gồm Đảng cộng sản, giành quyền kiểm soát chính phủ năm 1977 qua liên minh Janata, nhưng liên minh này tan rã sau 2 năm Đến tháng 12/1989, Đảng Janata Dal, với sự ủng hộ của Đảng cộng sản và Đảng BJP, đã thành lập chính phủ nhưng chỉ tồn tại trong 10 tháng Cuộc tổng tuyển cử năm 1996 cho thấy không đảng nào có thể thành lập chính phủ ổn định, với Đảng BJP giành 161 ghế và Đảng Quốc hội 140 ghế.

Tuy nhiên, cuộc bầu cử năm 1999 khi một liên minh vững chắc của các đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng BJP đã có thể thành lập chính phủ hoạt động gần đủ hết nhiệm kì Tương tự, sau cuộc tổng tuyển cử vào tháng 5/2004, Đảng Quốc đại cùng với các đảng cánh tả và một số đảng khác đã thành lập một chính phủ liên minh ở cấp quốc gia

Thứ ba, FPTP được sử dụng nhằm khuyến khích nhiều ứng cử viên cạnh tranh với phe đối lập của họ và ảnh hưởng của nó có thể tạo ra một người thắng cử với số phiếu bầu ít hơn nhiều so với 50% tổng số phiếu bầu Năm 2004, Ủy ban Quốc gia (cơ quan được Chính phủ của Ấn Độ thành lập năm 2000 để xem xét các quy định của Hiến pháp) nhận thấy rằng, tại ba cuộc tổng tuyển cử gần nhất ở cấp quốc gia, bình quân hai phần ba nghị sĩ Ấn Độ đã được bầu theo phương pháp FPTP không cần đạt trên 50% số phiếu bầu mà chỉ cần giành số phiếu bầu cao nhất Do đó, cơ quan này đã đặt ra những câu hỏi liên quan đến tính hợp pháp về việc đại diện của các nghị sĩ trúng cử Kết quả là, trong bối

Vào năm 2004, trong bối cảnh 25 cảnh bầu cử toàn quốc, Ủy ban Quốc gia đã khuyến nghị Chính phủ và Ủy ban bầu cử Ấn Độ thực hiện một cuộc kiểm tra toàn diện về phương pháp bầu cử hai vòng Theo đề xuất, vòng thứ hai sẽ được tổ chức giữa hai ứng cử viên dẫn đầu tại mỗi đơn vị bầu cử, diễn ra một ngày sau vòng đầu tiên Báo cáo của Ủy ban bầu cử Ấn Độ đã được công bố sau cuộc bầu cử này.

Năm 2004, đề nghị áp dụng thêm lựa chọn "không ai trong số các ứng cử viên" vào lá phiếu đã không được thông qua, đồng thời cũng bãi bỏ quy định cấm một ứng cử viên tranh cử tại hai đơn vị bầu cử đơn danh khác nhau.

Hệ thống bầu cử FPTP thường hoạt động hiệu quả ở các quốc gia với hai đảng chính lớn, nhưng tại Ấn Độ, phương pháp này đã giúp Đảng Quốc đại duy trì quyền lực từ năm 1952 đến 1977 mà không gặp phải sự phản đối đáng kể Sự thống trị này kết thúc vào năm 1977, dẫn đến sự chuyển mình của chính trị Ấn Độ từ độc đảng sang cạnh tranh giữa một đảng và một liên minh, và sau đó là cuộc cạnh tranh giữa hai liên minh chính trị trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004.

Phương pháp bầu cử FPTP đã chứng tỏ tính phù hợp với điều kiện lịch sử và bối cảnh chính trị - xã hội đa dạng của Ấn Độ qua các giai đoạn khác nhau.

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở VIỆT NAM HIỆN

Hệ thống bầu cử Việt Nam từ năm 1945 đến nay

Hệ thống bầu cử hiện đại tại Việt Nam, được hình thành sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính thức bắt đầu với cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 06/01/1946 Từ đó, nước ta đã tổ chức 13 cuộc bầu cử Quốc hội, tương ứng với 13 nhiệm kỳ Bên cạnh đó, Hiến pháp Việt Nam cũng đã trải qua nhiều giai đoạn quan trọng với các lần sửa đổi và bổ sung vào các năm 1946 và 1959.

Hệ thống bầu cử Việt Nam có thể được chia thành các giai đoạn dựa trên sự phát triển của chính quyền cách mạng, được xác định qua các bản Hiến pháp Cụ thể, giai đoạn đầu tiên diễn ra từ năm 1945 đến 1959, đánh dấu những thay đổi quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống bầu cử Các năm 1980, 1992 và 2013 cũng là những mốc quan trọng, phản ánh sự tiến bộ và điều chỉnh trong quy trình bầu cử của đất nước.

1959 đến 1980; 1980 đến 1992; 1992 đến 2013 và 2013 đến nay Ở mỗi giai đoạn, hệ thống bầu cử được xây dựng phù hợp với đường lối cách mạng, nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước trong thời kỳ đó

Giai đoạn 1946 đến 1959, sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ tổ chức Tổng tuyển cử tự do để bầu ra Quốc hội đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của Tổng tuyển cử như một cơ hội cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người tài đức, đồng thời đảm bảo tính hợp pháp và chính thống của Bộ máy nhà nước Để thực hiện nhiệm vụ này, Chính phủ đã ban hành một loạt sắc lệnh về bầu cử, trong đó Sắc lệnh số 14 được ban hành vào ngày 8/9/1945, ấn định thời gian tổ chức cuộc bầu cử sau 2 tháng.

Vào ngày 26/9/1945, Sắc lệnh số 39 được ban hành nhằm thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử Chỉ sau một tháng rưỡi làm việc, Uỷ ban đã hoàn tất bản dự thảo để Chính phủ chính thức ban hành Sắc lệnh số.

Ngày 17/10/1945, Sắc lệnh 51 về Thể lệ Tổng tuyển cử được ban hành, cùng với Bảng ấn định số đại biểu các tỉnh và thành phố Đến ngày 02/12/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 71 và 72 để sửa đổi, bổ sung Sắc lệnh 51, nâng tổng số đại biểu Quốc hội lên 330 Để tạo điều kiện cho những người có quyền ứng cử, ngày 18/12/1945, Chính phủ quyết định hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày 6 tháng 1 năm 1946 Dù gặp nhiều khó khăn, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra thành công rực rỡ, thể hiện tinh thần tự do, dân chủ với nguyên tắc bầu cử phổ thông, trực tiếp và kín Thành công này được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 tại điều 17, khẳng định chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu, tự do và kín Mặc dù Sắc lệnh 51 và Hiến pháp 1946 chưa quy định nguyên tắc bầu cử bình đẳng, nhưng thực tế tổ chức Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 đã thể hiện rõ sự bình đẳng trong quá trình bầu cử.

Giai đoạn 1959 – 1980 đánh dấu sự phát huy những ưu điểm của cuộc Tổng tuyển cử 1946 và cải thiện các quy định bầu cử Điều 5 Hiến pháp năm 1959 quy định rằng "Việc tổng tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp đều được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín" Điều này khẳng định nguyên tắc bầu cử bình đẳng trong Hiến pháp 1959, đánh dấu bước tiến quan trọng về kỹ thuật lập pháp.

Hệ thống bầu cử nước ta đã trải qua 28 bước phát triển mới, nhưng nguyên tắc bầu cử tự do không được ghi nhận trong Hiến pháp Điều này dẫn đến việc tự do trong bầu cử bị hạn chế so với giai đoạn trước Trong bối cảnh này, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1959 và Pháp lệnh bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân đã được ban hành, đánh dấu những thay đổi quan trọng trong quy trình bầu cử.

1961 cụ thể hóa các nguyên tắc mà Hiến pháp đã qui định Việc ban hành đạo luật về bầu cử thay thế cho các sắc lệnh trước đó đã đảm bảo cao hơn tính thống nhất, toàn diện và mức độ ổn định của hệ thống bầu cử so với thời kỳ trước Đây được coi là dấu mốc đánh dấu bước phát triển của hệ thống bầu cử Việt Nam

Giai đoạn 1980 – 1992 đánh dấu sự kiện quan trọng sau khi miền Nam được giải phóng hoàn toàn vào ngày 25 tháng 4 năm 1976, khi nước ta tiến hành tổng tuyển cử tự do để bầu ra Quốc hội thống nhất Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới, đánh dấu giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc Điều 7 của Hiến pháp quy định nguyên tắc bầu cử “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” Sau đó, nhiều luật bầu cử đã được ban hành, bao gồm Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1980 và Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân năm 1983.

Năm 1989, hệ thống bầu cử đã có những tiến bộ đáng kể so với trước đây Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1980 và Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân năm 1983 đã quy định hiệp thương như một thủ tục quan trọng trong việc lựa chọn ứng cử viên, góp phần đảm bảo cơ cấu và tính đại diện cho các cơ quan dân cử Điều này cũng tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động bầu cử thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên Đặc biệt, trong giai đoạn này, việc cử tri có quyền trực tiếp bãi miễn đại biểu dân cử đã được quy định rõ ràng, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực lập pháp.

Sự thể hiện tư duy khoa học về chế độ bầu cử vẫn còn tồn tại, nhưng khía cạnh tự do và dân chủ lại bị hạn chế hơn so với cuộc Tổng tuyển cử năm 1946.

Giai đoạn từ 1992 đến 2013 đánh dấu sự phát triển quan trọng của hệ thống bầu cử tại Việt Nam Ngày 15/4/1992, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 1992, trong đó Điều 7 quy định các nguyên tắc bầu cử “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” Những nguyên tắc này được cụ thể hóa qua các đạo luật bầu cử, bao gồm Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997, cùng với các sửa đổi, bổ sung vào năm 2001.

2010), Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân năm 1994, Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)

* Giai đoạn 2013 đến nay: Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Hiến pháp năm

Hiến pháp năm 2013, được Quốc hội khóa XIII thông qua, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, phản ánh thời kỳ đổi mới toàn diện và yêu cầu hội nhập quốc tế Với cấu trúc gọn gàng và kỹ thuật lập hiến chặt chẽ, Hiến pháp 2013 đáp ứng nhu cầu về một đạo luật cơ bản và ổn định lâu dài Điều 7 khẳng định các nguyên tắc bầu cử “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”, đảm bảo tính khách quan và dân chủ trong việc lựa chọn đại diện Hiến pháp cũng phát triển quyền bầu cử và ứng cử như quyền chính trị cơ bản của công dân Đặc biệt, Điều 117 lần đầu tiên quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia, cơ quan có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và hướng dẫn công tác bầu cử các cấp Những quy định này được cụ thể hóa trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân năm 2015.

Vào ngày 25 tháng 6 năm 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua đạo luật hợp nhất Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 9 năm 2015 Đạo luật này nhằm nâng cao tính thuận tiện và khoa học trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức bầu cử.

Những thành tựu cơ bản của hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay

Kể từ năm 1946, quy định pháp luật về bầu cử ở Việt Nam đã được cải tiến và hoàn thiện, đảm bảo quá trình bầu cử diễn ra dân chủ, hợp pháp, an toàn và tiết kiệm Sự lãnh đạo tập trung từ các cơ quan Trung ương, cùng với sự nỗ lực của các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương, đã góp phần quan trọng vào thành công của các cuộc bầu cử Dựa trên các quy định về quyền bầu cử và ứng cử, cũng như tỷ lệ cử tri tham gia và phiếu trúng cử, có thể khẳng định rằng chế độ bầu cử ở Việt Nam rất dân chủ Những thành tựu nổi bật của hệ thống bầu cử được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau.

Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân tại Việt Nam tuân theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” theo Điều 7 Hiến pháp 2013 Đây là những nguyên tắc bầu cử dân chủ, tiến bộ và công bằng, không phải quốc gia nào cũng thực hiện được Những nguyên tắc này thể hiện tinh thần Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Hai là, số người có quyền bầu cử tính theo số lượng dân cư ở Việt Nam là rất đông Trước đây, Điều 54 Hiến pháp Việt Nam 1992 khẳng định: “Công

Theo quy định pháp luật, mọi công dân từ đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa hay nghề nghiệp Bên cạnh đó, những người từ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

Theo Hiến pháp năm 2013, công dân từ đủ 18 tuổi có quyền bầu cử và từ đủ 21 tuổi có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân, với việc thực hiện các quyền này được quy định bởi luật pháp Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 đã cụ thể hóa quy định này, chỉ hạn chế quyền bầu cử đối với những người bị tước quyền theo bản án của Tòa án, người đang chấp hành án phạt tù không được hưởng án treo, và người mất năng lực hành vi dân sự Luật mới còn mở rộng phạm vi cử tri, cho phép những người đang bị tạm giam và những người đang chấp hành biện pháp giáo dục bắt buộc, cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri Những quy định này đã tạo điều kiện cho nhiều công dân Việt Nam tham gia bầu cử và ứng cử, thể hiện tính dân chủ và tiến bộ của Nhà nước, khẳng định rằng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Tại Việt Nam, tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử so với danh sách đăng ký thường rất cao, thường đạt trên 90%, thậm chí có nơi đạt 100% Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016, tỷ lệ cử tri đi bầu trên toàn quốc đạt 99,51% Một số tỉnh như Lai Châu, Hà Giang, Hòa Bình, và Lạng Sơn ghi nhận tỷ lệ lên tới 99,99% Điều này là một thành tích khó đạt được ở nhiều quốc gia khác.

Số lượng công dân có quyền bầu cử rất lớn, với nhiều cử tri đã đăng ký và thực tế tham gia bỏ phiếu Điều này chứng tỏ rằng công tác tổ chức bầu cử đã được thực hiện hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi tối đa để cử tri có thể tham gia vào quá trình bầu cử.

Trình độ học vấn của đại biểu Quốc hội ngày càng được nâng cao qua các nhiệm kỳ, thể hiện sự đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân trong các cơ quan dân cử Tỷ lệ đại biểu tự ứng cử và đại biểu tái cử cũng có xu hướng tăng, với 167 đại biểu tái cử (chiếm 33,40%) trong cuộc bầu cử khóa XIII, tăng 7 người so với dự kiến và tăng 5,81% so với khóa XII.

Trong khóa XIII, số lượng ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân tăng lên 04 người (0,8%), tăng 03 người so với khóa XII Hầu hết các ứng cử viên đều trúng cử với tỷ lệ phiếu bầu cao, trên 80%, cho thấy họ có uy tín và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ quần chúng nhân dân.

Năm qua, công tác chuẩn bị và triển khai bầu cử được thực hiện đúng pháp luật, đảm bảo tiến độ đề ra Các cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnh an ninh ổn định, trật tự và an toàn xã hội được bảo đảm, không có tình huống bất thường nào xảy ra Những nơi có vụ việc phức tạp hoặc khiếu kiện đông người đã được giải quyết kịp thời, không để xảy ra rối loạn.

Việc tổ chức đồng thời bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 trong cùng một ngày đã mang lại nhiều lợi ích, bao gồm tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức cho nhân dân Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức cán bộ mà còn gắn kết bầu cử với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, khẳng định tính đúng đắn và phù hợp của chủ trương này với tình hình hiện tại của đất nước.

Các cuộc bầu cử gần đây đã đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện sự phát huy dân chủ từ cơ sở và trong từng bước triển khai Không khí bầu cử đã trở thành một sự kiện chính trị dân chủ sâu rộng, thu hút sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân Đây là một bước quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, biến ngày bầu cử thành ngày hội của toàn dân với ý nghĩa chính trị - xã hội lớn lao.

Một số bất cập, hạn chế của hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay

Bên cạnh những ưu điểm, hệ thống bầu cử ở nước ta vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế cơ bản sau đây:

Hệ thống bầu cử ở nước ta hiện nay quá chú trọng vào tính tập trung, khiến các hội nghị hiệp thương chủ yếu chỉ mang tính hợp thức hóa sự chỉ đạo của Đảng Số lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân thường được bầu theo định hướng của lãnh đạo Đảng, dẫn đến việc cử tri bị động Mặc dù vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng là cần thiết, nhưng cần tôn trọng ý chí của nhân dân Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp áp dụng phương thức này một cách cứng nhắc, làm giảm vai trò của nhân dân trong việc giới thiệu ứng cử viên Tình trạng cấp ủy Đảng áp đặt cơ cấu đại biểu tại các đơn vị bầu cử phổ biến, hạn chế sự tham gia tích cực của người dân Việc phân bổ đại biểu ở nhiều địa phương thường dựa vào ý kiến chủ quan của lãnh đạo, dẫn đến tình trạng nhiều ứng cử viên không được lòng dân trong khi những người được tín nhiệm lại không được đề cử.

Người dân thường bầu chọn những ứng cử viên đã được cấp ủy định hướng, dẫn đến việc số lượng, chất lượng và cơ cấu đại biểu trúng cử đã được quyết định từ trước khi bầu cử diễn ra Điều này khiến nhiều cuộc bầu cử chỉ mang tính hình thức, vì kết quả đã được định đoạt trước.

Trong các cuộc bầu cử gần đây, nhiều sai phạm đã xảy ra, chủ yếu do sự thiếu sót của các tổ chức phụ trách bầu cử Ví dụ, tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI vào ngày 19/5/2002, Hội đồng bầu cử đã phải hủy bỏ kết quả tại khu vực bỏ phiếu số 3 thôn Dương Lôi vì không thực hiện đúng quy trình Tương tự, trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 – 2009, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã hủy bỏ kết quả bầu cử tại nhiều địa phương do vi phạm nghiêm trọng pháp luật bầu cử Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc hủy bỏ kết quả là do cán bộ trong các tổ chức bầu cử gây ra, như gian lận phiếu bầu, quản lý phiếu không chặt chẽ và ghi nhầm thông tin ứng cử viên Thực trạng này phản ánh sự hạn chế trong đội ngũ cán bộ phụ trách bầu cử và những bất cập trong quy định về thành viên các tổ chức này.

Hội đồng bầu cử thường bị chi phối bởi những người đang tham gia chính trị, dẫn đến việc các cuộc bầu cử có thể bị ảnh hưởng bởi một số cá nhân nhất định Sự hoán đổi vị trí giữa Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân và các tổ chức đoàn thể là điều thường thấy Mặc dù vậy, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân năm vẫn tồn tại để điều chỉnh và đảm bảo tính minh bạch trong quá trình bầu cử.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân năm 2015 quy định cơ cấu thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử vẫn chưa có nhiều thay đổi Hội đồng bầu cử quốc gia bao gồm đại diện từ Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong khi các tổ chức bầu cử địa phương cũng có thành viên từ Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp Luật không cấm người ứng cử làm thành viên Ủy ban bầu cử tại địa phương hoặc Hội đồng bầu cử, mặc dù các cơ quan này có quyền xem xét hồ sơ và xác nhận tư cách ứng cử viên Điều này tạo ra một hạn chế trong hệ thống bầu cử, như đã thể hiện trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, khi nhiều ứng cử viên cũng là thành viên của Ủy ban bầu cử, trong đó có ít nhất 7 ứng cử viên đồng thời là thành viên Hội đồng bầu cử.

“Không ai có quyền tự ban hành công lý cho bản thân.” Do đó, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của tính khách quan trong cấu trúc và thành phần của các tổ chức phụ trách bầu cử.

36 tránh khả năng xảy ra tiêu cực làm sai lệch kết quả bầu cử cũng như ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân

- Thứ ba, còn nhiều bất cập về việc thiết kế đơn vị bầu cử

Việc phân bổ số lượng đại biểu cho mỗi tỉnh, thành hiện nay chưa hợp lý và thiếu căn cứ rõ ràng, theo quy định tại Điều 8 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.

Theo quy định tại Điều 7 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân năm 2015, việc phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện dựa trên số dân và đặc điểm của từng địa phương, theo các sửa đổi bổ sung của năm 2001 và 2010.

Năm 2011, cả nước có 62.313.605 cử tri, trong đó 62.010.266 người tham gia bầu cử, bầu ra 500 đại biểu Quốc hội khóa XIII Trung bình, khoảng 124.000 cử tri bầu 1 đại biểu Quốc hội Tại Thành phố Hồ Chí Minh, với 7.521.100 người dân, có 30 đại biểu được phân bổ, tương đương với 250.000 cử tri bầu 1 đại biểu, cao hơn mức trung bình cả nước Ngược lại, tỉnh Bắc Kạn với dân số 298.700 người lại được phân bổ 6 đại biểu, tức là trung bình 49.000 người dân bầu 1 đại biểu Những con số này cho thấy sự chênh lệch về giá trị lá phiếu giữa các địa phương.

Việc phân bổ số lượng đại biểu cho các địa phương hiện nay dường như thiếu cơ sở rõ ràng, khi mà giá trị lá phiếu của cử tri tỉnh Bắc Kạn gấp 5 lần giá trị lá phiếu tại Hồ Chí Minh Trong hệ thống bầu cử hiện tại, chỉ có những lá phiếu trong cùng một đơn vị bầu cử mới có giá trị ngang nhau, trong khi lá phiếu của cử tri ở các đơn vị khác lại có giá trị khác biệt.

Đơn vị bầu cử được phân chia theo tiêu chí địa lý, nhưng các ứng cử viên không chỉ là những người cư trú và làm việc tại địa phương mà còn bao gồm cả những ứng cử viên từ trung ương được giới thiệu để tham gia ứng cử tại địa phương.

Các ứng cử viên được giới thiệu bởi trung ương thường thiếu sự gắn kết với cử tri tại địa phương, chỉ tiếp xúc với họ vài lần trong năm Điều này dẫn đến việc đại biểu không hiểu rõ nguyện vọng của cử tri, trong khi cử tri cũng không biết rõ về hoạt động và đời sống của đại biểu mà họ đã bầu.

Tính đại diện trong chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay còn quá dàn trải với nhiều tiêu chí như Đảng, ngoài Đảng, trung ương, địa phương, giai cấp, tầng lớp, ngành, khối, dân tộc, giới tính, tôn giáo, quốc doanh và dân doanh Tuy nhiên, chưa xác định được tiêu chí nào là hạt nhân, dẫn đến việc đặt ra quá nhiều tiêu chí mà không phân định rõ tiêu chí “chính” và “phụ” Điều này có thể gây ra hệ quả “lợi bất cập hại”, khi một đại biểu đại diện cho quá nhiều “cơ cấu” và “nhóm” xã hội, khiến họ không thể đại diện cho ai một cách đích thực.

Vận động tranh cử là yếu tố then chốt của hệ thống bầu cử tự do, tiến bộ và công bằng, đóng vai trò quyết định đến sự thành công của ứng cử viên Để đạt được điều này, các ứng cử viên cần xây dựng chiến lược vận động rõ ràng, đề ra chương trình hành động cụ thể và cam kết với cử tri Qua quá trình này, cử tri có cơ hội tiếp cận thông tin đa chiều về các đảng phái chính trị và ứng cử viên Tuy nhiên, trong hệ thống chính trị nhất nguyên của nước ta, việc lựa chọn không liên quan đến đường lối chính trị, vì đường lối đã được Đảng Cộng sản xác định và được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật Do đó, vận động bầu cử thường chỉ là việc trình bày kế hoạch hành động đơn lẻ.

Luật bầu cử hiện hành ở Việt Nam không sử dụng thuật ngữ "vận động tranh cử", mà nhấn mạnh rằng sự tham gia của các đại biểu chủ yếu dựa trên khả năng cá nhân, không phải là cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các đảng phái chính trị.

Ngày đăng: 12/10/2022, 13:58

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w