1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc

44 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Đói Nghèo Trung Quốc
Tác giả Trương Thị Hằng Nga, Trương Thị Việt Anh, Lê Hoàng Hạnh, Nguyễn Nam Khánh, Nguyễn Văn Đạt, Cao Hương Giang
Người hướng dẫn Ths. Hoàng Bảo Trâm
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Kinh Tế Phát Triển
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2016
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 451,02 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI (5)
    • 1. Khái niệm chung về nghèo đói (5)
    • 2. Nghèo tuyệt đối (6)
      • 2.1. Khái niệm (6)
      • 2.2. Chuẩn nghèo (6)
      • 2.3. Các tiêu chí đánh giá (7)
  • CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN NGHÈO ĐÓI VÀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA CHÍNH PHỦ (11)
    • 1. Thực trạng nghèo đói ở Trung Quốc (11)
      • 1.1. Thực trạng nghèo đói chung cả nước (11)
        • 1.1.1. Chuẩn nghèo và cách xác định chuẩn nghèo ở Trung Quốc (11)
        • 1.1.2. Tỷ lệ nghèo (IPI) (14)
        • 1.1.3. Khoảng cách nghèo (PGI) (16)
      • 1.2. Thực trạng nghèo đói theo khu vực (19)
        • 1.2.1. Nghèo đói ở khu vực nông thôn (20)
        • 1.2.2. Nghèo đói ở khu vực thành thị (22)
    • 2. Nguyên nhân nghèo đói ở Trung Quốc (26)
      • 2.1. Nguyên nhân khách quan (26)
        • 2.1.1. Khoảng cách địa lý (26)
        • 2.1.2. Thảm họa thiên nhiên (27)
        • 2.1.3. Dịch bệnh (27)
      • 2.2. Nguyên nhân chủ quan (27)
        • 2.2.1. Các nguyên nhân về thể chế, chính sách (27)
        • 2.2.2. Nguyên nhân xã hội (30)
        • 2.2.3. Các nguyên nhân kinh tế (30)
    • 3. Một số chính sách xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc (32)
      • 3.1. Chính sách liên quan đến thể chế - xã hội (32)
      • 3.2. Chính sách kinh tế (35)
    • 1. Những vấn đề còn tồn đọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc (39)
      • 1.1. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (39)
      • 1.2. Chất lượng phát triển kinh tế giảm (40)
      • 1.3. Số người nghèo còn cao (40)
      • 1.4. Khó khăn trong xóa nghèo cho các hộ nghèo nghiêm trọng (40)
    • 2. Một số bài học rút ra từ công cuộc xóa đói giảm nghèo ở trung quốc (40)
      • 2.1. Xây dựng chính sách phù hợp (40)
      • 2.2. Giảm nghèo bền vững (42)
      • 2.3. Xây dựng cơ chế phân quyền (43)
      • 2.4. Kết hợp với các chính sách khác (43)
  • KẾT LUẬN (44)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI

Khái niệm chung về nghèo đói

Đói nghèo là một vấn đề xã hội toàn cầu, thu hút sự chú ý từ nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế Khái niệm về nghèo đói khác nhau tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và xã hội của mỗi khu vực, dẫn đến khó khăn trong việc định nghĩa chung Tuy nhiên, nghèo đói có thể được hiểu là tình trạng mà một người không có khả năng tiếp cận những nhu cầu tối thiểu cần thiết trong cuộc sống.

Việc xác định những yếu tố mà người nghèo thiếu thốn ở mức tối thiểu cần thiết rất đa dạng, dẫn đến sự phân chia các quan niệm về đói nghèo thành ba trường phái khác nhau.

- Trường phái phúc lợi: Theo lý thuyết này, “thứ nào đó” được coi là phúc lợi cá nhân, hay độ thỏa dụng cá nhân

Nhà kinh tế học người Úc Martin Ravallion trong cuốn sách “Những so sánh về đói nghèo” (1994) đã định nghĩa rằng một xã hội được xem là có đói nghèo khi có một hoặc nhiều cá nhân không đạt được mức phúc lợi kinh tế cần thiết để duy trì một cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó.

Do độ thỏa dụng, hay phúc lợi kinh tế, là khái niệm khó đo lường và thường được liên kết với mức sống Tăng thu nhập trở thành yếu tố quan trọng nhất trong việc giảm đói nghèo, thông qua việc nâng cao mức sống của người dân.

Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng các chính sách xóa đói giảm nghèo nên tập trung vào việc nâng cao thu nhập cho người nghèo, giúp họ đạt được mức sống tối thiểu theo tiêu chuẩn xã hội.

Trường phái nhu cầu cơ bản nhấn mạnh rằng việc thỏa mãn một tập hợp hàng hóa và dịch vụ cụ thể là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng cuộc sống Những nhu cầu cơ bản này bao gồm thực phẩm, nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế cơ sở và giao thông công cộng, trong đó dinh dưỡng được coi là yếu tố quan trọng nhất.

Quan điểm về đói nghèo được khởi nguồn từ nghiên cứu của nhà kinh tế học Seebohm Rowntree vào đầu thế kỷ 20 Khái niệm này được làm rõ tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9 năm 1993 tại Bangkok, Thái Lan Tại đây, đói nghèo được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản đã được xã hội công nhận, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương.

1 Giáo trình Kinh tế Công cộng, Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê Hà Nội (2005)

Quan điểm này vượt qua nhược điểm của trường phái phúc lợi bằng cách xem xét nhiều khía cạnh hơn chỉ là thu nhập, đồng thời cung cấp các chính sách đa dạng nhằm đáp ứng từng nhu cầu cụ thể trong công cuộc xóa đói giảm nghèo Tuy nhiên, thách thức nảy sinh khi nhu cầu của con người thay đổi theo độ tuổi, giới tính và các yếu tố khác Chẳng hạn, người già có nhu cầu về y tế cao hơn so với thanh niên, trong khi trẻ em lại cần nhiều hơn về giáo dục so với người lớn.

Trường phái năng lực tập trung vào khả năng và năng lực của con người, xác định rằng đói nghèo xảy ra khi cá nhân thiếu năng lực thực hiện các chức năng thiết yếu Điều này bao gồm từ việc đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ và sức khỏe tốt cho đến việc đáp ứng các nhu cầu cao hơn như sự tôn trọng, quyền lực và tiếng nói trong xã hội.

Trường phái này xuất hiện từ những năm 80 với tiên phong là nhà kinh tế học

Amartya Sen, một nhà kinh tế gốc Ấn Độ, đã đề cập đến giá trị cuộc sống trong cuốn sách "Nghèo khổ và nạn đói" (1982) Ông cho rằng giá trị cuộc sống không chỉ đo bằng mức độ thỏa mãn hay việc đáp ứng nhu cầu cơ bản, mà còn phụ thuộc vào khả năng của mỗi người và quyền tự do tích cực mà họ có được để hành động theo mong muốn của mình.

Trường phái này tập trung vào việc tạo ra cơ hội cho người nghèo, giúp họ phát huy năng lực của mình theo cách mà họ mong muốn, khác biệt so với các trường phái trước đó.

Dựa trên các quan điểm đã nêu, chúng ta có thể xác định những khía cạnh cơ bản của đói nghèo, từ đó phát triển các thước đo và định hướng chính sách nhằm xóa đói giảm nghèo Theo Liên Hiệp Quốc, những khía cạnh này bao gồm:

- Sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo tiêu chí về thu nhập hoặc tiêu dùng.

- Sự thiếu thốn khi hưởng thụ giáo dục và y tế

Nguy cơ dễ bị tổn thương và rủi ro đề cập đến khả năng một hộ gia đình hoặc cá nhân có thể rơi vào tình trạng nghèo đói, ảnh hưởng đến thu nhập hoặc sức khỏe của họ.

- Tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo.

Nghèo tuyệt đối

Nghèo tuyệt đối, hay còn gọi là nghèo khốn cùng, là khái niệm được Liên Hợp Quốc định nghĩa vào năm 1995 Nó mô tả tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng các nhu cầu cơ bản của con người, bao gồm thức ăn, nước sạch, thiết bị vệ sinh, sức khỏe, nơi ở, giáo dục và thông tin Tình trạng này không chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập mà còn vào khả năng tiếp cận các dịch vụ cần thiết.

Từ định nghĩa trên có thể phân các nhu cầu cơ bản của con người thành hai nhóm chính:

- Theo khía cạnh tiền tệ thường liên quan tới thu nhập hoặc chi tiêu

- Theo khía cạnh phi tiền tệ liên quan đến y tế, giáo dục, quan hệ xã hội,…

2.2 Chuẩn nghèo Đối với các tiêu chí trên, việc xác định xem liệu một người hay một hộ gia đình có bị coi là nghèo hay không phụ thuộc vào chuẩn nghèo mà xã hội đó đặt ra

Ngưỡng nghèo, hay còn gọi là chuẩn nghèo, là mức ranh giới xác định tình trạng hộ nghèo, tức là khi giá trị các tiêu chí thấp hơn mức này, gia đình không đáp ứng đủ nhu cầu cơ bản Chuẩn nghèo phản ánh mức thu nhập hoặc chi tiêu cần thiết để mua sắm hàng hóa, dịch vụ, hoặc đạt được tiêu chuẩn nhất định như trình độ học vấn tối thiểu Để xác định chuẩn nghèo tuyệt đối, cần thiết lập một rổ hàng hóa và dịch vụ đảm bảo mức sống tối thiểu, trong đó nhu cầu lương thực thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn, dẫn đến sự tồn tại của hai chuẩn nghèo khác nhau.

Chuẩn nghèo lương thực thực phẩm được xác định là mức chi phí thực phẩm tối thiểu nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cần thiết cho sức khỏe và khả năng làm việc bình thường.

Chuẩn nghèo chung bao gồm cả tiêu chuẩn nghèo về lương thực thực phẩm và các chi phí cho sản phẩm phi lương thực khác Tiêu chuẩn này được xác định là mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người.

Chuẩn nghèo do Ngân hàng Thế giới xác định vào năm 2011 là 1,9 USD/ngày, tính theo sức mua tương đương, và đây là tiêu chuẩn nghèo phổ biến được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu.

2.3 Các tiêu chí đánh giá

2.3.1 Theo khía cạnh tiền tệ

Trong lĩnh vực tiền tệ, ba thước đo chính để đánh giá quy mô, độ sâu và mức độ nghiêm trọng của đói nghèo bao gồm tỷ lệ nghèo, khoảng cách nghèo và độ nghiêm trọng của nghèo đói Các chỉ số này được tính toán dựa trên một công thức tổng quát, giúp cung cấp cái nhìn toàn diện về tình trạng nghèo đói trong xã hội.

I (k) =1 n ∑ i=1 m ( z− z y i ) k (1) trong đó, n là tổng dân số, m là số lượng người nghèo, z là chuẩn nghèo, yi là thu nhập hoặc chi tiêu của người thứ i

Trong việc đánh giá tổng quát tình hình đói nghèo của một quốc gia, hai chỉ tiêu chính thường được sử dụng là tỷ lệ nghèo (IPI) và khoảng cách nghèo (PGI) Tỷ lệ nghèo (IPI) phản ánh phần trăm dân số sống dưới mức nghèo khổ, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về tình trạng nghèo đói trong xã hội.

Chỉ số tỷ lệ nghèo (Incedence of Poverty Index, IPI) là thước đo phổ biến nhất để xác định mức nghèo đói tuyệt đối, phản ánh tỷ lệ hộ nghèo trong tổng dân số Hộ nghèo được định nghĩa là những gia đình có thu nhập hoặc chi tiêu thấp hơn mức chuẩn nghèo Thước đo này thường được kết hợp với chỉ số đếm đầu người (Head-count index, HCI), cho biết tổng số dân cư được coi là nghèo trong một khu vực hoặc quốc gia.

Trong công thức (1), với k = 0, thì I(k) = I(0) = IPI vì khi đó:

I (0) =m n=IPI (%) trong đó, m là số người nghèo và n là tổng dân số

HCI hay IPI là chỉ số đo lường quy mô đói nghèo của một quốc gia, từ đó xác định tỷ lệ phần trăm dân số sống trong cảnh nghèo khổ Tuy nhiên, chỉ số này cũng tồn tại một số hạn chế nhất định.

- Chuẩn nghèo giữa các quốc gia là không thống nhất, đặc biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển

Chỉ số nghèo hiện tại không cho thấy rõ mức độ thu nhập hoặc chi tiêu của những cá nhân dưới chuẩn nghèo, điều này dẫn đến sự khác biệt giữa những người có thu nhập gần chuẩn và những người chỉ đạt 1/3 chuẩn nghèo Do đó, chính phủ cần thiết phải xây dựng các chính sách phù hợp để hỗ trợ từng nhóm đối tượng này Khoảng cách nghèo (PGI) cũng cần được xem xét để đánh giá hiệu quả của các biện pháp giảm nghèo.

Chỉ số khoảng cách nghèo đói (Poverty Gap Index - PGI) và chỉ số về mức độ nghèo (Depth of Poverty Index - DPI) là những chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ nghèo đói Chúng phản ánh khoảng cách giữa mức sống của người nghèo và chuẩn nghèo, được tính bằng trung bình khoảng cách giữa chi tiêu và thu nhập của người nghèo so với mức chuẩn.

Trong công thức (1), khi k = 1 thì I(k) = I(1) = PGI:

PGI cho biết chi phí tối thiểu cần thiết để nâng tất cả người nghèo lên mức sống chuẩn nghèo, không bao gồm các chi phí thất thoát và hành chính PGI càng cao thì mức độ nghèo đói trong quốc gia đó càng nghiêm trọng Mức độ nghiêm trọng của đói nghèo được thể hiện qua chỉ số SPI.

Chỉ số mức độ nghiêm trọng của đói nghèo được tính theo công thức (1), dựa trên bình phương khoảng cách nghèo đói Trong phương pháp tính này, những người sống trong tình trạng nghèo đói nghiêm trọng, tức là có mức sống thấp hơn nhiều so với ngưỡng nghèo, sẽ được gán trọng số cao hơn trong tổng thể tính toán.

Trong công thức (1), khi k = 2 thì I(k) = I(2) = SPI:

SPI phản ánh mức độ nghèo đói nghiêm trọng của những người nghèo nhất, cho thấy rằng khi chỉ số SPI tăng cao, số lượng người nghèo khổ càng gia tăng.

2.3.2 Theo khía cạnh phi tiền tệ

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN NGHÈO ĐÓI VÀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA CHÍNH PHỦ

Thực trạng nghèo đói ở Trung Quốc

Các quốc gia áp dụng tiêu chuẩn và phương pháp khác nhau để xác định mức chuẩn nghèo Tại Trung Quốc, chuẩn nghèo được thiết lập dựa trên quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính, và mức sống thực tế của người dân ở từng khu vực Điều này giúp lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã để nhận trợ cấp từ chương trình xóa đói giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ khác của chính phủ.

Trung Quốc thiết lập các tiêu chuẩn nghèo khác nhau dựa trên khu vực nông thôn và đô thị Ở khu vực nông thôn, tiêu chuẩn đói nghèo chung được điều chỉnh hàng năm hoặc vài năm dựa trên tình hình phát triển và đời sống thực tế của người dân Trong khi đó, khu vực đô thị, với sự đa dạng về thu nhập, chi tiêu, thói quen sinh hoạt và giá cả giữa các thành phố, không thể áp dụng một tiêu chuẩn nghèo chung Do đó, mỗi tỉnh và thành phố sẽ có tiêu chuẩn nghèo riêng, phản ánh chính sách và cách tính toán đặc thù của từng địa phương.

Việc xác định chuẩn nghèo toàn quốc ở Trung Quốc gặp khó khăn do sự khác biệt giữa chuẩn nghèo thành thị và nông thôn Để thuận tiện cho việc so sánh, bài viết này sẽ sử dụng chuẩn nghèo nông thôn do Chính phủ quy định.

Bảng 1 Chuẩn nghèo của thế giới và Trung Quốc qua các năm (2000-2015)

Năm Chuẩn nghèo theo WB

Chuẩn nghèo nông thôn Trung Quốc

USD/người/ngày (bao gồm PPP) CNY/người/ngày

Nguồn: Tổng cục Thống kê Trung Quốc, World Bank

Giá trị danh nghĩa của mức chuẩn nghèo nông thôn ở Trung Quốc đã tăng đáng kể qua các năm, từ 625 CNY/người/năm vào năm 2000 lên tới 2300 CNY/người/năm hiện nay.

Từ năm 2011 đến 2015, chuẩn nghèo nông thôn ở Trung Quốc đã tăng gấp 3,68 lần, với mức tăng trung bình hàng năm là 1,091 lần so với năm trước Đặc biệt, vào năm 2011, chuẩn nghèo nông thôn đã được nâng từ 1.274 CNY/người/năm (năm 2010) lên 2.300 CNY/người/năm, tương ứng với mức tăng 1,81 lần.

Trong giai đoạn 2000-2015, chuẩn nghèo nông thôn của Trung Quốc chỉ tăng khoảng 1.61 lần, từ 0.93 USD/người/ngày lên 1.507 USD/người/ngày, khi xem xét cả yếu tố giá cả và lạm phát Trong giai đoạn 2000-2004, mức chuẩn nghèo tăng nhưng không đáng kể, trong khi từ 2007 đến 2011, sự biến động của chuẩn nghèo nông thôn diễn ra không đồng đều, một phần là do tỷ giá CNY/USD thay đổi liên tục do chính sách kinh tế.

Tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc và sự gia tăng mức chuẩn nghèo nông thôn từ 1.494 USD/người/ngày năm 2013 lên 1.748 USD/người/ngày từ năm 2014 là những lý do quan trọng Sự thay đổi này xảy ra do tỷ giá PPP của CNY/USD giảm từ 4.276 xuống còn 3.665.

- Tỷ lệ giữa chuẩn nghèo nông thôn của Trung Quốc và chuẩn nghèo Thế giới:

Tỷ lệ chuẩn nghèo Trung Quốc so với chuẩn nghèo Thế giới

Nguồn Tổng cục Thống kê Trung Quốc

Biểu đồ 1: Đường biểu diễn phần trăm tỷ lệ giữa chuẩn nghèo nông thôn Trung

Trong giai đoạn 2000 – 2010, chuẩn nghèo nông thôn của Trung Quốc luôn thấp hơn chuẩn nghèo do Ngân hàng Thế giới đề ra, đặc biệt từ năm 2005 khi mức chuẩn nghèo tăng lên 1.25 USD/người/ngày Lúc này, chuẩn nghèo nông thôn của Trung Quốc chỉ đạt hơn 70% so với chuẩn toàn cầu Điều này cho thấy rằng giỏ hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân Trung Quốc còn hạn chế hơn so với thế giới, dẫn đến việc nhiều hộ gia đình Trung Quốc không được coi là nghèo, nhưng thực tế vẫn chưa được cung cấp đầy đủ hàng hóa và dịch vụ thiết yếu để đảm bảo mức sống tối thiểu.

1 Dữ liệu WEO của IMF: http://www.imf.org/external/ns/cs.aspx?id(, truy cập 13:00 ngày 26/5/2016

Từ năm 2011, Trung Quốc đã nâng mức nghèo nông thôn lên 2,300 CNY (khoảng 1,571 USD) mỗi người mỗi năm, trong khi mức chuẩn nghèo toàn cầu chỉ là 1.25 USD/người/ngày Điều này dẫn đến tỷ lệ giữa chuẩn nghèo Trung Quốc và chuẩn nghèo thế giới vượt mức 1, với mức chuẩn nghèo nông thôn của Trung Quốc cao hơn 26% so với thế giới vào năm 2011 và con số này tăng lên 40% vào năm 2014.

Năm 2015, Ngân hàng Thế giới đã điều chỉnh mức chuẩn nghèo lên 1,9 USD/người/ngày, tương đương với 2.300 CNY/người/năm, tức khoảng 1,8 USD/người/ngày theo sức mua tương đương (PPP) Mức chuẩn này vẫn thấp hơn mức chuẩn nghèo toàn cầu, chỉ đạt 95% so với tiêu chuẩn quốc tế.

Sau khi điều chỉnh mạnh chuẩn nghèo quốc gia, Trung Quốc không chỉ đạt tiêu chuẩn nghèo thế giới mà còn vượt qua tới 40% Tuy nhiên, điều này không phản ánh chính xác mức sống của người nghèo ở Trung Quốc, khi số lượng người được coi là nghèo lại tăng đột biến cùng với chuẩn nghèo.

Tỷ lệ nghèo ở Trung Quốc là phần trăm người dân được xác định là nghèo trong tổng số dân số Để có cái nhìn chính xác hơn về tình trạng nghèo đó, cần xem xét thêm số lượng người nghèo cụ thể tại Trung Quốc.

Do Trung Quốc thiếu một chuẩn nghèo chung cho toàn quốc, chúng ta áp dụng chuẩn nghèo 1.9 USD/người/ngày để đánh giá tình hình nghèo đói tại quốc gia này, thay vì dựa vào tỷ lệ nghèo theo tiêu chuẩn của Trung Quốc.

Số người nghèo tại chuẩn 1.9 USD (triệu người) tỷ lệ nghèo tại chuẩn nghèo 1.9 USD (%)

Tỷ lệ nghèo tại chuẩn nghèo 1.25 USD (%)

Biểu đồ 2 Tỷ lệ nghèo và số dân nghèo theo chuẩn nghèo của World Bank

Đến năm 1999, sau hơn 20 năm cải cách từ 1978, Trung Quốc vẫn còn hơn 500 triệu người nghèo, chiếm hơn 40% dân số, theo chuẩn nghèo 1.9 USD/người/ngày Tỷ lệ này chỉ thấp hơn khoảng 3% so với chuẩn nghèo 1.25 USD/người/ngày.

Số người nghèo và tỷ lệ nghèo ở Trung Quốc đã giảm liên tục qua các năm, với tốc độ giảm đáng kể từ 1999 đến 2005 Cụ thể, tỷ lệ nghèo theo chuẩn 1.9 USD/người/ngày giảm từ 40.54% xuống 18.75%, và số lượng người nghèo giảm từ 507.87 triệu xuống 244.45 triệu Tuy nhiên, giai đoạn 2005-2010 ghi nhận sự chậm lại trong quá trình giảm nghèo, với tỷ lệ nghèo giảm chỉ còn 11.18% vào năm 2010 và số người nghèo giảm xuống 149.56 triệu, cho thấy số người thoát nghèo chưa đạt 100 triệu Biểu đồ 3 minh họa xu hướng giảm dần của tỷ lệ nghèo, phản ánh sự giảm số lượng người nghèo nhưng với tốc độ chậm hơn trong những năm gần đây.

Nguyên nhân nghèo đói ở Trung Quốc

Trung Quốc, với tổng diện tích gần 9.600.000 km², đứng thứ 4 thế giới, trải dài từ Bắc xuống Nam 4000 km và từ Tây sang Đông 5000 km, gây khó khăn trong việc cung cấp điều kiện sống cơ bản cho các khu vực sâu xa Tại các tỉnh vùng sâu, trường học thường trong tình trạng tồi tàn, khiến trẻ em phải đi bộ hàng giờ để đến trường Sự rộng lớn này cũng làm cho chính quyền gặp khó khăn trong việc kiểm soát công tác xóa đói giảm nghèo Hệ thống khí hậu và thổ nhưỡng của Trung Quốc rất đa dạng, với nhiều khu vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, đặc biệt là vùng nội địa phía Tây, nơi có núi cao và khô cằn, như Côn Lôn và Thiên Sơn, dẫn đến tình trạng thiếu hụt dịch vụ thiết yếu cho người dân.

Trung Quốc là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi thảm họa thiên nhiên, với 3 trong số 10 thảm họa lớn nhất lịch sử xảy ra tại đây Mỗi năm, khoảng 200 triệu người dân Trung Quốc phải đối mặt với các thảm họa này, gây cản trở nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế Một ví dụ điển hình là trận động đất năm 2008 tại Tứ Xuyên, đã cướp đi sinh mạng gần 70.000 người và gây thiệt hại kinh tế lên tới 100 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 146,5 tỷ Đô-la Mỹ) trong quá trình khắc phục hậu quả kéo dài 3 năm.

Người dân nghèo Trung Quốc, chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, phải đối mặt với rủi ro cao do thu nhập thấp và bấp bênh Khả năng tích lũy tài chính hạn chế khiến họ khó khăn trong việc ứng phó với các biến cố như mất mùa, thiên tai, hay vấn đề sức khỏe Những yếu tố này không chỉ tạo ra bất ổn trong cuộc sống của họ mà còn làm gia tăng tình trạng nghèo đói, khiến người nghèo càng lún sâu hơn vào khó khăn.

Trung Quốc, với dân số đông đảo, đã phải đối mặt với nhiều tổn thất kinh tế do các đại dịch Nổi bật là đại dịch SARS năm 2003, khi quốc gia này ghi nhận 5,300 ca lây nhiễm và 349 ca tử vong Ngoài ra, virus cúm gia cầm, mặc dù đã được kiểm soát, cũng đã gây thiệt hại lên tới 6,5 tỷ đô-la Mỹ cho nền kinh tế Trung Quốc.

2.2 Nguyên nhân chủ quan 2.2.1 Các nguyên nhân về thể chế, chính sách

- Đô thị hóa “nóng” Đô thị hóa tại Trung Quốc liên tục tăng tốc khi chính phủ nước này khởi động chính sách cải cách và mở cửa

1 The World Factbook CIA Retrieved 2015-12-31

2 http://www.reuters.com/article/us-china-quake-idUSTRE4A50VQ20081106

3 Số liệu của Bộ Sức Khỏe: http://www.moh.gov.cn/zhg1/yqfb/1200308160002.htm

4 Liên hợp quốc: http://www.reuters.com/article/us-birdflu-idUSBRE94K0ZQ20130521

Theo Cộng đồng Địa lí học Trung Quốc, đô thị hóa ở Trung Quốc đã tăng từ 17.9% lên 39.1% chỉ trong vòng 22 năm So với các quốc gia khác, Anh mất 120 năm, Mỹ 80 năm và Nhật Bản 30 năm để đạt được cùng mức đô thị hóa này.

Từ năm 1950 đến 1965, dân số đô thị Trung Quốc đã tăng trưởng ổn định từ 3% đến 20% Đặc biệt, trong giai đoạn “Đại nhảy vọt” từ 1958 đến 1961, sự gia tăng dân số đô thị diễn ra mạnh mẽ nhờ vào các chính sách công nghiệp hóa của chính phủ.

Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, tỉ lệ đô thị hóa của Trung Quốc vào năm 2005 đã vượt mức trung bình của châu Á và gần đạt mức của khu vực Đông Á và Đông Nam Á Đến năm 2012, Trung Quốc chính thức trở thành quốc gia đô thị khi hơn một nửa dân số (53%) sinh sống tại khu vực thành thị.

Bảng 7.Tỉ lệ tăng trưởng dân số đô thị một số khu vực trên thế giới

Tính đến năm 2003, có khoảng 20 triệu người dân Trung Quốc sống dưới ngưỡng nghèo tại các khu vực thành thị Mặc dù họ thuộc nhóm người nghèo, nhưng không được công nhận là hộ nghèo do đăng ký hộ khẩu ở vùng nông thôn.

Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng dân cư trôi nổi di cư lên thành phố là do tình trạng dư thừa lao động và mức nghèo đói nghiêm trọng ở nông thôn, cùng với những tác động tiêu cực từ thiên nhiên và dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Khi đến thành phố, nhóm dân cư này không được công nhận là cư dân chính thức do chính sách Hộ khẩu tại Trung Quốc, dẫn đến việc họ không có cơ hội tiếp cận các phúc lợi xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục và lương hưu.

Một nguyên nhân khác của hiện trạng đô thị hóa là sự thiên vị trong tăng trưởng ở khu vực đô thị và siêu đô thị Việc phân bổ thị trường vốn, giấy phép xuất nhập khẩu, và giấy phép đầu tư theo hướng có lợi cho các khu vực này đã dẫn đến sự gia tăng các khu vực sản xuất Hệ quả là, lực lượng lao động đổ dồn về, tạo thêm áp lực dân số và vượt quá khả năng cung ứng phúc lợi xã hội của chính quyền địa phương.

Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đang vượt xa khả năng nâng cao chất lượng quản lý, dẫn đến sự không phù hợp giữa các chính sách hiện có Các khu vực nông thôn chuyển mình thành đô thị, nhưng cơ cấu chính sách vốn được thiết kế cho xã hội nông thôn lại không còn phù hợp với thực tế mới.

Quá trình đô thị hóa không bền vững tại Trung Quốc đã dẫn đến sự hình thành các "ngôi làng đô thị", một dạng khu ổ chuột Những ngôi làng này thường nằm ở ngoại ô thành phố và buộc phải chuyển đổi thành đất đô thị do sự mở rộng của đô thị, nhưng vẫn nằm dưới sự quản lý của chính quyền nông thôn, không chịu sự kiểm soát của quy hoạch đô thị hay kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng công cộng Các ngôi làng này có mật độ dân cư cao, thường là nơi cư trú của "dân cư trôi nổi", với điều kiện vệ sinh kém và là nơi tập trung nhiều tệ nạn xã hội.

Chính sách hộ khẩu tại Trung Quốc được áp dụng từ năm 1949, sau khi Đảng Cộng sản Trung Hoa giành chiến thắng Chính sách này phân loại cá nhân theo hộ gia đình dựa trên nhiều yếu tố nhân khẩu, bao gồm nơi sinh thành thị hoặc nông thôn Các phúc lợi xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục và lương hưu được quản lý bởi chính quyền khu vực, và mỗi cá nhân chỉ được hưởng phúc lợi theo khu vực hộ khẩu của mình từ khi sinh ra Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông, chính sách này nhằm hạn chế di cư từ nông thôn ra thành phố và tập trung đầu tư vào khu vực thành thị.

Chính sách di cư ban đầu mang lại hiệu quả tích cực, khiến người dân nông thôn phải cân nhắc việc chuyển đến thành phố, từ bỏ phúc lợi xã hội tại quê hương Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của khu vực thành thị và nhiều cơ hội việc làm, chi phí đánh đổi phúc lợi xã hội để đổi lấy cơ hội sống tốt hơn ngày càng giảm, dẫn đến dòng công nhân di cư ồ ạt vào thành phố Theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới, năm 2010 chỉ có 47% dân cư Trung Quốc sống ở nông thôn, trong khi theo sổ hộ khẩu, con số này đáng lẽ phải lên tới 70% Sự chênh lệch này phản ánh thực tế hàng trăm triệu người (221 triệu người tính đến năm 2010) đang sống mà không có cơ hội tiếp cận các phúc lợi cơ bản.

Những người di cư này thường bị tách biệt khỏi xã hội đô thị, buộc phải từ bỏ các dịch vụ cần thiết hoặc phải chấp nhận những dịch vụ kém chất lượng với mức giá cao Họ cũng không được pháp luật công nhận để tham gia vào các chương trình hỗ trợ.

1 Jefferson, G and I Singhe (1999), Enterprise Reform in China: Ownership Transition and Performance, Oxford University Press: New York

2 Urbanization in China: Policy Issues and Options, J Vernon Henderson, Brown University and NBER

4 Số liệu từ World Bank.

Một số chính sách xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc

a Ưu tiên cho xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn

Trong hơn 30 năm cải cách từ 1978 đến 2011, Trung Quốc đã duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo đói, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vẫn là một thách thức lớn mà Trung Quốc luôn chú trọng và nỗ lực khắc phục.

Chính phủ Trung Quốc đã triển khai nhiều chính sách nhằm ưu tiên phát triển khu vực nông thôn, cụ thể là:

 Loại bỏ thuế nông nghiệp và lệ phí, và gia tăng hỗ trợ trực tiếp nông nghiệp

 Miễn giảm học phí cho giáo dục bắt buộc ở các vùng nông thôn

 Mở rộng phạm vi cung cấp bảo hiểm y tế nông thôn

Chính phủ đã triển khai Đề án hỗ trợ y tế nông thôn và chương trình hỗ trợ thu nhập tối thiểu, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc giảm thiểu sự mất cân đối giữa nông thôn và đô thị Những sáng kiến này đã đạt được kết quả rõ rệt trong việc giảm nghèo tại khu vực nông thôn Bên cạnh đó, chính sách phân phối lại thông qua trợ cấp, thuế và chính sách giá cả cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện đời sống người dân.

Từ năm 2004, Trung Quốc đã triển khai trợ cấp trực tiếp cho nông dân trồng lúa nhằm bảo vệ họ, thúc đẩy sản xuất lương thực và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Đến năm 2006, chính sách trợ cấp đã được mở rộng để bao gồm các khoản trợ cấp về diesel, phân bón và sản xuất nông nghiệp, nhằm duy trì sự ổn định trong chính sách trợ cấp thực phẩm Ngoài ra, nông dân còn nhận được hỗ trợ trong việc xây dựng mạng lưới thống kê và quản lý thông tin, cũng như ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý Chính sách này không chỉ đảm bảo trợ cấp được sử dụng hiệu quả mà còn giúp tránh lãng phí.

 Hỗ trợ nhà ở cho người có thu nhập thấp ở khu vực đô thị

Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch xây dựng hơn 36 triệu căn nhà giá cả phải chăng nhằm phục vụ khoảng 20% dân số đô thị, chủ yếu là các gia đình có thu nhập thấp Kể từ năm 2011, nỗ lực này đã mang lại nhiều cơ hội cho những người dân có nhu cầu về nhà ở.

10 triệu căn nhà được bắt đầu xây dựng, và khoảng 4,32 triệu đã được hoàn tất Năm

2012, sẽ có khoảng 7 triệu căn bắt đầu xây dựng và 5 triệu sẽ được hoàn thành.

 Xóa bỏ thuế nông nghiệp

Vào ngày 29/12/2005, Uỷ ban thường vụ Quốc hội 10 của Trung Quốc đã thông qua Quyết định xoá bỏ thuế nông nghiệp, chấm dứt 2000 năm lịch sử của loại thuế này Quyết định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân trong việc phát triển kinh tế.

Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh phúc lợi của người dân, với trình độ học vấn là thước đo chính cho tình trạng nghèo đói ở cả nông thôn và thành thị Trung Quốc, với diện tích rộng lớn và những tàn dư phân biệt giới tính từ xã hội cũ, đang thực hiện nhiều chính sách nhằm phổ cập giáo dục toàn diện Những nỗ lực này không chỉ nâng cao dân trí mà còn giúp người dân tự chủ hơn trong việc xóa đói giảm nghèo và cải thiện mức sống.

- Chương trình phổ cập giáo dục bắt buộc:

Luật giáo dục bắt buộc tại Trung Quốc được thông qua vào ngày 12/4/1986 và sửa đổi vào năm 2006, đánh dấu sự bắt đầu của chương trình phổ cập giáo dục 9 năm Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình này gặp nhiều khó khăn do dân số đông và sự đa dạng về dân tộc, văn hóa Kể từ năm 2004, Trung Quốc đã triển khai phổ cập giáo dục 9 năm cho hầu hết học sinh miền Tây, bao gồm 6 năm tiểu học và 3 năm trung học cơ sở, với sự phủ sóng tại 368/410 tỉnh, trong khi 42 tỉnh khác vẫn đang trong quá trình phổ cập từ lớp 1.

Chương trình giáo dục cho trẻ em bắt đầu vào năm 2004 nhằm cải thiện tình hình giáo dục ở các tỉnh vùng núi cao và hẻo lánh, nơi mà hầu hết trẻ em chỉ được học trung bình 6-7 năm Để tạo cơ hội cho trẻ em nghèo đến trường, chương trình đã giảm bớt chi phí học tập, cung cấp hỗ trợ sinh hoạt và tuyển dụng giáo viên là sinh viên mới tốt nghiệp Từ năm 2006, chính quyền địa phương đã thành lập quỹ khuyến khích sinh viên tốt nghiệp dạy học tại các vùng sâu, vùng xa với thu nhập 15.000 nhân dân tệ, qua đó thu hút nhiều giáo viên đến giảng dạy tại các tỉnh phía Tây còn chưa phát triển.

- Phổ cập giáo dục cho nữ giới:

Theo Đề án phát triển nữ giới Trung Quốc giai đoạn 2011-2020, Chính phủ Trung Quốc cam kết nâng cao tỷ lệ học sinh nữ được phổ cập giáo dục lên 95% trong 10 năm tới Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ sẽ miễn học phí cho tất cả trẻ em, đặc biệt chú trọng đến trẻ em gái, nhóm có nguy cơ cao phải bỏ học Bên cạnh đó, chính sách y tế cũng sẽ được cải thiện để hỗ trợ sức khỏe cho nữ giới.

Các chính sách mở rộng bảo hiểm y tế nông thôn và hỗ trợ y tế cơ bản đã được thực hiện để cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho người nghèo.

Từ năm 2005, Hiệp hội y tế nông thôn Trung Quốc đã tổ chức các lớp đào tạo cho 300.000 cán bộ y tế tại 11.880 bệnh viện, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và cải thiện chất lượng dịch vụ y tế ở khu vực nông thôn Năm 2009, Chính phủ Trung Quốc phê duyệt kế hoạch chi tiêu 123 tỷ USD vào năm 2011 để thiết lập hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ quát cho 1,3 tỷ dân.

Chính sách cải cách kinh tế tại Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong việc phát triển kinh tế, đồng thời đóng góp quan trọng vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo.

Trước năm 1978, Trung Quốc ghi nhận hơn 250 triệu người nghèo, chiếm 33% dân số nông thôn Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là năng suất lao động thấp, xuất phát từ chính sách tập thể hóa nông nghiệp sau 10 năm thực hiện cải cách văn hóa - ‘Đại nhảy vọt’.

Để khắc phục khủng hoảng và phục hồi kinh tế nông thôn, Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11, theo chủ trương phi tập thể hóa nông nghiệp của Đặng Tiểu Bình Chính sách khoán sản lượng cho từng hộ gia đình, cụ thể là Hệ thống trách nhiệm gia đình (HRS), được triển khai vào những năm 1980, cho phép giao đất cho từng hộ và quy định mức thu sản phẩm Sản phẩm vượt mức quy định sẽ được giữ lại bởi hộ gia đình, từ đó giúp họ chủ động kiểm soát và tìm kiếm biện pháp nâng cao năng suất.

Trong giai đoạn này, chính phủ Trung Quốc đã áp dụng chính sách tự do hóa giá nông sản, đồng thời xây dựng lại hệ thống thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Sự phát triển của các công ty kinh doanh trong ngành nông nghiệp được thúc đẩy nhờ lượng vốn lớn đầu tư, dẫn đến việc khai thác và sử dụng đất đai một cách toàn diện và hợp lý.

Cải cách ruộng đất thời kì này đã đạt được những thành tựu đáng kể như từ 1981 đến

1984, số người nghèo ở nông thôn giảm từ 250 triệu vào năm 1978 xuống còn 125 năm

Những vấn đề còn tồn đọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc

Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục Bài viết này sẽ phân tích những thách thức mà Trung Quốc đang đối mặt trong quá trình giảm nghèo.

1.1 Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập

Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Trung Quốc đang gia tăng, chủ yếu do sự chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường Mặc dù công cuộc cải cách đã giúp giảm số lượng người nghèo, nhưng nó cũng đồng nghĩa với việc bất bình đẳng gia tăng, với xu hướng tăng 7% mỗi thập kỷ Điều này khiến Trung Quốc trở thành một quốc gia có mức độ bất bình đẳng cao Trong khi đó, sự bất bình đẳng về thu nhập tạo điều kiện cho người giàu dễ dàng tiếp cận giáo dục và y tế, đồng thời hạn chế cơ hội cho người nghèo.

Bất bình đẳng trong thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị đã tăng lên

Khoảng cách thu nhập và tiêu thụ giữa khu vực nông thôn và thành thị đang gia tăng, với sự chênh lệch rõ rệt về doanh thu, chuyển giao thanh toán và dịch vụ công cộng Sự khác biệt này đã bắt đầu từ những năm 1990, dẫn đến tình trạng bất bình đẳng địa lý không đồng đều giữa hai khu vực.

Tiến trình chống đói nghèo tại Trung Quốc không đồng đều giữa các khu vực, với sự giảm nghèo diễn ra nhanh hơn ở các tỉnh ven biển so với các tỉnh nội địa Tỷ lệ giảm nghèo ở các tỉnh ven biển gấp đôi so với các tỉnh nội địa, mặc dù ở những tỉnh có thu nhập cao hơn, tỷ lệ giảm nghèo không nhất thiết cao hơn.

Bất bình đẳng thu nhập là nguyên nhân chính thúc đẩy dòng dân cư từ nông thôn sang thành phố gia tăng Sự thay đổi trong bản chất di cư, với sự gia nhập của công nhân và gia đình họ vào khu vực đô thị, đã tạo ra những thách thức mới Đồng thời, sự chuyển dịch cơ cấu thị trường lao động tại thành phố cũng mang đến nhiều khó khăn.

- Tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị đã tăng lên trong khi đó lực lượng tham gia lao động thì giảm

- Việc phát triển thị trường lao động đô thị đặt ra mối quan tâm đến phúc lợi của công nhân đô thị.

Trong tương lai, Trung Quốc sẽ đối mặt với những thách thức ngày càng lớn nếu không giải quyết vấn đề bất bình đẳng trong quá trình giảm nghèo Bất bình đẳng, đặc biệt là trong cơ hội, là một trở ngại nghiêm trọng, dẫn đến tăng trưởng kinh tế thấp hơn và những lợi ích từ tăng trưởng không được chia sẻ công bằng với người nghèo Nếu không có biện pháp khắc phục, tình trạng bất bình đẳng sẽ tiếp tục gia tăng, và vấn đề nghèo đói sẽ trở nên trầm trọng hơn do tác động của bất bình đẳng.

1.2 Chất lượng phát triển kinh tế giảm

Từ năm 1990, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Trung Quốc đã tăng cao, nhưng thành tựu trong việc xóa đói giảm nghèo lại bị hạn chế do người nghèo không được hưởng lợi trực tiếp từ sự tăng trưởng này Tỷ lệ năng suất lao động nông nghiệp so với năng suất lao động quốc gia đã giảm, cùng với đó là tỷ lệ thu nhập bình quân của nông dân trên tổng thu nhập quốc dân cũng giảm theo Hơn nữa, cơ hội việc làm trong khu vực nông thôn vẫn còn thấp.

1.3 Số người nghèo còn cao

- Chuẩn nghèo chính thức của Trung Quốc là thấp hơn so với tiêu chuẩn quốc tế.

- Chuẩn nghèo chính thức của Trung Quốc có vẻ như thấp hơn so với kỳ vọng tăng lên trong thu nhập và phát triển.

- Chuẩn nghèo của Trung Quốc không xét đến nhu cẩu về lương thực thực phẩm thiết yếu.

1.4 Khó khăn trong xóa nghèo cho các hộ nghèo nghiêm trọng

Việc giảm tỷ lệ hộ nghèo đã làm cho việc hỗ trợ những người nghèo còn lại trở nên khó khăn hơn, do họ thường gặp phải nhiều rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ thiết yếu Cuộc sống của nhóm này ngày càng khó khăn, với những thiếu thốn nghiêm trọng về giáo dục và y tế.

Trung Quốc có khả năng tiến xa hơn trong việc giảm nghèo đói, nhưng việc giảm nghèo nghiêm trọng, đặc biệt ở khu vực nông thôn, gặp nhiều hạn chế Mặc dù tỷ lệ nghèo đói có thể giảm, việc loại bỏ hoàn toàn những người nghèo còn lại, thường là những người nghèo nghiêm trọng, rất khó khăn do họ phân tán ở các vùng núi, khu vực dân tộc thiểu số và các tỉnh miền Tây.

Một số bài học rút ra từ công cuộc xóa đói giảm nghèo ở trung quốc

- Chính sách cần đáp ứng như cầu người dân

Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy việc xây dựng chính sách cần dựa trên nhu cầu thực tế của người dân địa phương Chính phủ cần tập trung vào mục tiêu giảm nghèo, đặc biệt là đối với những đối tượng khó khăn nhất Để đạt được hiệu quả, chính sách phải được triển khai đến tận hộ nghèo, bao gồm cả việc khoanh vùng các hộ nghèo ở cấp thôn, xã, như đã thực hiện trong kế hoạch giảm nghèo của Trung Quốc.

Từ năm 2001 đến 2010, để chương trình giảm nghèo đạt hiệu quả cao, cần xác định chính xác nhu cầu của người nghèo và khuyến khích họ tham gia vào quá trình thực hiện các mục tiêu của chính phủ Cần tránh tình trạng cấp vốn từ trên xuống mà không có sự tham gia của người nghèo trong việc quyết định sử dụng nguồn vốn, vì điều này có thể dẫn đến việc xóa đói giảm nghèo không giải quyết được căn nguyên vấn đề, làm gia tăng tình trạng tái nghèo.

Việt Nam cần chuyển từ cách tiếp cận từ trên xuống sang phương thức lấy người nghèo làm trung tâm, xác định nhu cầu của họ để xây dựng chiến lược giảm nghèo hiệu quả Các hoạt động trong chiến lược này cần giải quyết tận gốc vấn đề đói nghèo, không chỉ dựa vào những nhu cầu đơn lẻ Cần có cơ quan giám sát để các ngành thực hiện kế hoạch một cách đồng bộ, với mỗi ngành chuyên môn chịu trách nhiệm triển khai công việc phù hợp với nhu cầu địa phương Điều này giúp phân định rõ vai trò của từng cấp, từ vai trò chuyên môn, vai trò của Bộ, ngành điều phối đến vai trò của cấp địa phương trong việc đề xuất nhu cầu và kế hoạch triển khai, nhằm đáp ứng yêu cầu chung của chương trình giảm nghèo quốc gia.

- Chính sách cần phù hợp với từng khu vực

Việt Nam cần triển khai các chính sách phù hợp cho từng vùng đặc thù để xóa đói giảm nghèo hiệu quả Việc khảo sát thực tế tại các huyện nghèo là cần thiết, vì mỗi huyện có những đặc điểm, nhu cầu và xuất phát điểm khác nhau Chẳng hạn, huyện Trạm Tấu (Yên Bái) có hơn 90% diện tích đất rừng phòng hộ không được khai thác sản xuất, đồng thời là khu vực chịu ảnh hưởng lớn từ biến đổi khí hậu.

Mùa đông, gia súc chết rét và cây trồng cũng gặp khó khăn, dẫn đến sản lượng đất sản xuất giảm sút Cần có cơ chế giảm nghèo phù hợp với từng khu vực, đặc biệt là ở các huyện nghèo thường xuyên chịu thiên tai như miền Trung và Tây Nguyên, nơi tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo gia tăng sau mỗi đợt bão lũ Hạ tầng cơ sở như đường xá và trường học bị thiệt hại nặng nề, vì vậy việc đầu tư hỗ trợ cho các hộ nghèo và cộng đồng cần chú ý đến những đặc thù này.

Để nhân rộng các mô hình xóa đói giảm nghèo thành công của Trung Quốc, Việt Nam cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế địa phương, đặc biệt là ở miền núi và biên giới nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số Cần xây dựng các mô hình xóa đói giảm nghèo phù hợp, như hỗ trợ khai thác ruộng bậc thang và chuyển đổi phương thức canh tác để đảm bảo an ninh lương thực Ở các xã biên giới, bên cạnh việc giữ đất, cần có giải pháp phát triển kinh tế và ngăn chặn di dân tự do, đồng thời xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo gắn với an ninh quốc phòng Việc tạo đội ngũ hướng dẫn viên cộng đồng và cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo kiêm khuyến nông sẽ giúp các hộ nghèo thoát nghèo hiệu quả hơn, kết hợp với việc tăng cường cán bộ chuyên môn và lực lượng vũ trang hỗ trợ người dân thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế.

Các xã có lợi thế về đồng cỏ nên tập trung vào mô hình chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, phát triển chăn nuôi đại gia súc theo phương pháp chăn dắt quy mô tập trung, nhằm tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người dân Đối với các xã ven biển, cần hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản kết hợp với chế biến, đồng thời khai thác vùng đất cát để phát triển cây trồng và vật nuôi phù hợp, từ đó đa dạng hóa việc làm và thu nhập cho hộ nghèo và cộng đồng dân cư tại các xã bãi ngang ven biển.

Để hỗ trợ các xã vùng ngập sâu ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, giúp người dân áp dụng giống cây con mới phù hợp với điều kiện ngập lũ Điều này không chỉ hạn chế hậu quả thiên tai mà còn tạo việc làm cho hộ nghèo thiếu đất sản xuất, khuyến khích họ chuyển từ lối sống phân tán sang sinh sống trong các cụm dân cư, từ đó ổn định sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Chính sách xóa đói giảm nghèo của vn cần đạt được sự bền vững và chất lượng.

Chương trình giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và được cộng đồng quốc tế công nhận, tuy nhiên, mục tiêu giảm nghèo vẫn đang gặp nhiều khó khăn và thách thức Tình trạng giảm nghèo thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao và số hộ cận nghèo lớn đang là vấn đề nghiêm trọng Trước những tác động từ giá cả tăng cao, thiên tai, bão lụt và dịch bệnh, nhiều hộ gia đình đã rơi vào tình trạng nghèo đói.

Trung Quốc chú trọng vào việc giúp người nghèo tự cải thiện cuộc sống thông qua hỗ trợ vốn vay và các biện pháp gián tiếp như giảm thuế và giảm chi phí sản xuất nông nghiệp Việt Nam cần học hỏi và từ bỏ những phương pháp xóa nghèo truyền thống để đạt được hiệu quả cao hơn.

Để xóa nghèo bền vững, chúng ta cần tập trung vào việc cung cấp phương thức và năng lực cho người nghèo gắn liền với phát triển doanh nghiệp, thay vì chỉ tặng nhà hay đất Cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về cuộc chiến chống đói nghèo, khuyến khích tinh thần làm chủ và đẩy mạnh tuyên truyền để người nghèo nhận thức được tầm quan trọng của việc thoát nghèo Nhiều địa phương vẫn còn tư tưởng ỷ lại và tâm lý "thích nghèo", vì vậy cần ngăn chặn các yếu tố rủi ro và xây dựng các nền tảng phát triển bền vững thông qua chiến lược, chính sách và luật pháp để đạt được mục tiêu xóa đói giảm nghèo hiệu quả.

2.3 Xây dựng cơ chế phân quyền

Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, việc triển khai các kế hoạch giảm nghèo với sự tham gia của cả người dân và chính phủ mang lại hiệu quả thiết thực Việt Nam cần tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện và giám sát chất lượng dịch vụ công Ở cấp địa phương, các tổ chức phi chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lồng ghép các hoạt động của họ vào các chương trình mục tiêu của Chính phủ Đặc biệt, để giảm nghèo hiệu quả, Việt Nam nên học hỏi từ Trung Quốc trong việc hợp tác với doanh nghiệp để tạo việc làm cho người dân, giao trách nhiệm cho doanh nghiệp trong việc giúp cộng đồng địa phương thoát nghèo; nếu doanh nghiệp không thực hiện được điều này, họ sẽ không hoàn thành nhiệm vụ của mình.

2.4 Kết hợp với các chính sách khác

Thực trạng nghèo đói tại Trung Quốc cho thấy rằng, nghèo đói về chi tiêu nghiêm trọng hơn nghèo đói về thu nhập, và một bộ phận dân nghèo gặp khó khăn hơn do hạn chế trong việc tiếp cận phúc lợi xã hội Để xây dựng chương trình giảm nghèo hiệu quả, cần xem xét toàn diện mọi nhu cầu cơ bản của con người, không chỉ dừng lại ở vấn đề thiếu ăn, thiếu mặc Cách tiếp cận đa chiều là cần thiết, không chỉ đặt ra mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo mà còn phải kết hợp với các chỉ tiêu khác Chương trình giảm nghèo cần được lồng ghép với các chương trình như dinh dưỡng trẻ em, cung cấp nước sạch, hỗ trợ y tế, cải thiện tiếp cận dịch vụ an sinh xã hội thông qua chính sách trợ giúp về giáo dục, y tế, nhà ở, và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ dân sinh.

Ngày đăng: 11/10/2022, 08:53

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1. Chuẩn nghèo của thế giới và Trung Quốc qua các năm (2000-2015) - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 1. Chuẩn nghèo của thế giới và Trung Quốc qua các năm (2000-2015) (Trang 12)
Bảng 2. Thu nhập bình quân đầu người Trung Quốc, Colombia, Việt Nam (1999- (1999-2012) - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 2. Thu nhập bình quân đầu người Trung Quốc, Colombia, Việt Nam (1999- (1999-2012) (Trang 18)
Bảng 3. MPI các khu vực của Trung Quốc năm 2012 - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 3. MPI các khu vực của Trung Quốc năm 2012 (Trang 19)
1.2. Thực trạng nghèo đói theo khu vực - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
1.2. Thực trạng nghèo đói theo khu vực (Trang 19)
Bảng 5. Tỷ lệ người có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn Trung Quốc - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 5. Tỷ lệ người có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn Trung Quốc (Trang 21)
Bảng 4. Thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ nghèo và khoảng nghèo vùng nông thôn Trung Quốc (1999 - 2011) - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 4. Thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ nghèo và khoảng nghèo vùng nông thôn Trung Quốc (1999 - 2011) (Trang 21)
Bảng 6. Mức sống tối thiểu của hộ gia đình tại các thành phố Trung Quốc (2009) - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 6. Mức sống tối thiểu của hộ gia đình tại các thành phố Trung Quốc (2009) (Trang 24)
Bảng 7.Tỉ lệ tăng trưởng dân số đô thị một số khu vực trên thế giới - (Tiểu luận FTU) thực trạng đói nghèo trung quốc
Bảng 7. Tỉ lệ tăng trưởng dân số đô thị một số khu vực trên thế giới (Trang 28)