Lý thuyết chung về NHTM
Chức năng trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người cần vốn, mang lại lợi ích cho cả hai bên Không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực tài chính, NHTM còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho chính mình và toàn bộ nền kinh tế.
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, các NHTM thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của các đơn vị kinh tế các tổ chức và cá nhân bằng đồng tiền trong nước và ngoại tệ.
- Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân.
- Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu NH để huy động vốn trong xã hội.
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các đơn vị, cá nhân.
- Chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá đối với các đơn vị cá nhân.
- Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các loại hình tín dụng khác đối với tổ chức và cá nhân.
Chức năng trung gian tín dụng của NHTM có vai trò và tác dụng rất to lớn đối với nền kinh tế:
Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng huy động và tập trung nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, chuyển đổi tiền nhàn rỗi từ phương tiện cất trữ thành nguồn vốn lớn cho nền kinh tế.
- Nhờ thực hiện chức năng này mà hệ thống NHTM cung ứng 1 khối lượng lớn vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền giữa các tài khoản theo yêu cầu, đóng vai trò như "thủ quỹ" cho doanh nghiệp và cá nhân Khi nền kinh tế thị trường phát triển, chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng, góp phần tăng lợi nhuận thông qua việc thu lệ phí thanh toán Đồng thời, nó cũng gia tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng, thể hiện qua số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng, và là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Chức năng “tạo tiền”
Là chức năng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển nền kinh tế
Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại (NHTM) là yếu tố then chốt, thể hiện bản chất của hoạt động ngân hàng Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, NHTM không chỉ thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mà còn góp phần quan trọng vào việc tạo ra tiền cho nền kinh tế Chức năng này dựa trên hai chức năng chính: tín dụng và thanh toán Qua việc trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng vốn huy động để cho vay, giúp khách hàng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ, trong khi số dư tài khoản tiền gửi vẫn được coi là tiền giao dịch Nhờ đó, hệ thống NHTM đã gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội.
N: số NH tham gia quá trình tạo tiền Sn: tổng số tiền bút tệ được tạo ra
Phân loại theo hình thức sỡ hữu
NHTM cổ phầnNHTM tư nhân NHTM liên doanh
Phân loại theo tính chất hoạt động
NHTM chuyên doanhNHTM đa năng
Căn cứ vào chiến lược kinh doanh
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức
NH sỡ hữu công tyCông ty sỡ hữu ngân hàng
Nghiệp vụ nguồn vốn (Tài sản Nợ – NGUỒN VỐN) của NHTM
Vốn tự có, hay còn gọi là vốn chủ sở hữu, là nguồn vốn riêng của một ngân hàng thương mại (NHTM) Đây là số vốn ban đầu và được gia tăng liên tục trong suốt quá trình phát triển của ngân hàng.
-Đặc điểm vốn tự có:
+ Chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (từ 5% - 10%)
+ Có tính ổn định cao và luôn được bổ sung trong quá trình tồn tại và phát triển của NHTM.
+ Quyết định quy mô hoạt động NHTM và là nhân tố xác định tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
TS là tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang quản lý tạm thời và có trách nhiệm hoàn trả Vốn huy động đóng vai trò là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất đối với bất kỳ ngân hàng thương mại nào.
- Đặc điểm vốn huy động
+ Vốn huy động trong NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM Các NHTM hoạt động được chủ yếu nhờ vào nguồn vốn này.
Vốn huy động đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM), giúp duy trì hoạt động của các NHTM Tuy nhiên, chi phí sử dụng vốn này tương đối cao, chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí đầu vào của hoạt động kinh doanh.
+ Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh cao gay gắt giữa các ngân hàng.
+ VHĐ chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh, các NHTM không được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư.
- Cơ cấu vốn huy động trong NHTM:
+Tiền gửi không kỳ hạn +Tiền gửi có kỳ hạn +Phát hành chứng từ có giá
+Nguồn vốn huy động khác: Tiền gửi ký quỹ, tiền gửi đảm bảo thanh toán; tiền tạm giữ, tiền đang chuyển
Vốn đi vay là nguồn vốn giúp cho NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn của mình để đảm bảo duy trì hoạt động 1 cách bình thường.
- Cơ cấu vốn đi vay:
+ Tái cấp vốn + Cho vay thanh toán
Là nguồn vốn tài trợ của chính phủ, của các tổ chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể
- xã hội để tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển Kinh tế - xã hội và được chuyển qua NHTM thực hiện.
Nghiệp vụ sử dụng vốn (tài sản Có – TÀI SẢN) (cấp tín dụng và đầu tư) .8
Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động liên quan đến việc sử dụng hiệu quả các khoản vốn huy động từ nghiệp vụ tài sản nợ.
Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng sau:
Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng, hay còn gọi là vault cash, là số tiền mặt mà ngân hàng cần duy trì để đáp ứng nhu cầu chi trả hàng ngày Mức tồn quỹ này phụ thuộc vào qui mô hoạt động và tính thời vụ của từng ngân hàng.
- Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng.
Tiền gửi tại ngân hàng trung ương bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định và tiền gửi thanh toán, phục vụ cho các hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng Ngân hàng trung ương đóng vai trò là trung gian thanh toán trong quá trình này.
Tiền mặt trong quá trình thu là khoản phát sinh từ quan hệ thanh toán vãng lai giữa các ngân hàng, trong đó ngân hàng đã ghi vào bên nợ nhưng chưa nhận được tiền Ví dụ, một tờ séc phát ra từ ngân hàng A và gửi vào ngân hàng B, nhưng số tiền từ tờ séc này chưa đến ngân hàng B Tờ séc này được xem như tiền mặt trong quá trình thu, là tài sản Có đối với ngân hàng B, vì ngân hàng B có quyền đòi số tiền đó từ ngân hàng A và sẽ nhận được thanh toán sau vài ngày Ngân hàng B đã ghi có cho tài khoản tiền gửi của khách hàng, ghi nợ ngân hàng A, nhưng do số tiền chưa đến ngân hàng B nên cần ghi nợ vào tài khoản để đối ứng.
Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn nắm giữ các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao, như tín phiếu và thương phiếu, để dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt khi cần thiết.
Lượng tiền mặt trong nghiệp vụ ngân quĩ đang giảm dần, chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản Cụ thể, tại Mỹ, tỷ lệ này đã giảm từ 20% vào năm 1960 xuống còn 7% vào năm 1990.
Hoạt động cho vay là nguồn sinh lợi chính của các ngân hàng trung gian, đặc biệt là ngân hàng thương mại Dưới đây là một số loại hình cho vay chủ yếu mà các ngân hàng thường áp dụng.
Cho vay ứng trước là hình thức cho vay mà ngân hàng cấp cho người vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trước Người vay chỉ cần thanh toán lãi suất khi hoàn trả vốn gốc.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho phép ngân hàng và khách hàng thống nhất về số tiền tối đa mà khách hàng có thể vay trong một khoảng thời gian xác định Hạn mức tín dụng này giúp khách hàng linh hoạt trong việc sử dụng vốn, đồng thời ngân hàng có thể quản lý rủi ro hiệu quả hơn.
Cho vay thấu chi là hình thức tín dụng đặc biệt, trong đó ngân hàng cho phép khách hàng chi tiêu vượt quá số dư tài khoản vãng lai Hình thức này được áp dụng trong một hạn mức và thời gian nhất định, dựa trên hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Cho vay chiết khấu là hình thức cho vay mà ngân hàng thương mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn với giá thấp hơn mệnh giá ghi trên thương phiếu.
Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ yêu cầu người trả tiền thương phiếu thanh toán toàn bộ số tiền ghi trên đó Lợi nhuận của ngân hàng được tính bằng khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền trên thương phiếu.
- Tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán (Factoring): là nghiệp vụ trong đó công ty
Công ty con của ngân hàng "factor" cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa đến hạn từ hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ với mức giá chiết khấu Những khoản nợ này thường có thời gian ngắn hạn, dao động từ 30 đến 120 ngày.
Cho vay thuê mua, hay còn gọi là tín dụng thuê mua, là hình thức tín dụng trung và dài hạn cho phép ngân hàng cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, động sản và bất động sản Ngân hàng sẽ sử dụng vốn của mình để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê và giữ quyền sở hữu tài sản đó Trong suốt thời gian thuê, bên thuê sẽ sử dụng tài sản và thực hiện thanh toán tiền thuê theo thỏa thuận.
Cho vay bằng chữ ký là hình thức tín dụng mà ngân hàng dựa vào uy tín của khách hàng để tạo điều kiện cho họ sử dụng vốn vay từ nguồn khác, đảm bảo thanh toán hộ Trong khi đó, cho vay tiêu dùng là hình thức tín dụng hỗ trợ nhu cầu tiêu dùng cá nhân, thường được thực hiện dưới dạng cho vay mua trả góp hoặc phát hành thẻ tín dụng.
Nghiệp vụ cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại
Nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản Có của ngân hàng (khoảng 70%).
Nghiệp vụ Trung gian
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản, các ngân hàng thương mại còn thực hiện nhiều nghiệp vụ khác, đóng vai trò quan trọng như một trung gian tài chính trong quá trình hoàn thiện chức năng và vai trò của mình.
4.3.1 Nghiệp vụ bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán.
4.3.2 Nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt
- Thanh toán ngoại hối, vàng bạc đá quý
- Nhận ủy thác, ký gửi, tư vấn tài chính
- Thu hộ, chi hộ, chuyển tiền, thanh toán theo L/C
Toàn cảnh hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
Về mặt số lượng
Tính đến 30/6/2016, theo số liệu của NHNN, hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay có hơn
Việt Nam hiện có 130 ngân hàng thương mại (NHTM) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm 4 ngân hàng thương mại nhà nước, 31 ngân hàng thương mại cổ phần, 7 ngân hàng 100% vốn nước ngoài (trong đó có Woori Bank đã được Ngân hàng Nhà nước cấp phép), cùng với 100 chi nhánh và văn phòng đại diện, và 2 ngân hàng liên doanh.
Các ngân hàng thương mại trong nước hiện chiếm gần 90% thị phần tiền gửi và cho vay, trong đó ngân hàng thương mại nhà nước đóng góp tới 70%.
Phần các ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm khoảng dưới 10% thị phần.
Việt Nam hiện có quá nhiều ngân hàng nhỏ và tương đồng, so với các nước như Australia và Nhật Bản, nơi chỉ có 3-4 ngân hàng lớn Sự tồn tại của nhiều ngân hàng trong một lãnh thổ nhỏ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, chủ yếu thông qua lãi suất và chất lượng dịch vụ Đáng buồn thay, hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang theo xu hướng cạnh tranh bằng lãi suất, một biện pháp không được khuyến khích trên toàn cầu.
Về năng lực tài chính
Tính đến ngày 30/6/2016, tất cả 35 ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước đều có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng trở lên Một số ngân hàng có vốn điều lệ gần mốc 3.000 tỷ đồng gồm: Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu (3.018 tỷ đồng), Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng (3.000 tỷ đồng), Bảo Việt (3.150 tỷ đồng), Bản Việt (3.000 tỷ đồng), Kiên Long (3.000 tỷ đồng), Nam Á (3.021 tỷ đồng), Quốc dân (3.010 tỷ đồng), Sài Gòn Công Thương (3.080 tỷ đồng), Việt Nam Thương Tín (3.000 tỷ đồng) và Xăng dầu Petrolimex (3.000 tỷ đồng) Trong số này, bốn NHTM nhà nước có vốn điều lệ lớn nhất là Vietinbank (37.234 tỷ đồng), BIDV (34.187,2 tỷ đồng), Agribank (29.031 tỷ đồng) và VCB (26.650 tỷ đồng).
THỐNG KÊ MỘT SỐ CHỈ TIÊU CƠ BẢN
(đến 30/9/2016, tốc độ tăng trưởng so với thời điểm cuối năm trước liền kề) Đơn vị: tỷ đồng, %
- Tháng 9/2016 (kỳ số liệu: hàng tháng)
Tổng tài sản có Vốn tự có Vốn điều lệ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn
Ngân hàng Chính sách xã hội
NH Liên doanh, nước ngoài
Công ty tài chính, cho thuê
Quỹ tín dụng nhân dân
Ghi chú: Nguồn số liệu dựa trên Báo cáo cân đối tài khoản kế toán, báo cáo thống kê tháng 9/2016.
Khối NHTM Nhà nước tại Việt Nam bao gồm các ngân hàng chủ chốt như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam, cùng với Ngân hàng Thương mại khác.
Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu và Ngân hàng thương mại TNHH một thành viên Đại Dương là những tổ chức tài chính quan trọng tại Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và hệ thống ngân hàng quốc gia.
- Số liệu cột (4), (5), (8), (9) không bao gồm ngân hàng Chính sách xã hội (không thuộc đối tượng báo cáo) và Quỹ tín dụng nhân dân;
- Vốn tự có, tỷ lệ CAR đã loại bỏ các TCTD có Vốn tự có âm;
- Chỉ tiêu Tổng tài sản có tính theo Thông tư 49/2014/TT-NHNN.
Tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng liên doanh và nước ngoài không có giá trị, vì các ngân hàng này không áp dụng nguồn vốn ngắn hạn cho các khoản vay trung và dài hạn.
Quý II/2016 (kỳ số liệu: hàng quý) Đơn vị: %
Ghi chú: Nguồn số liệu dựa trên Cân đối tài khoản kế toán, Báo cáo tài chính Quý II- 2016.
Khối Ngân hàng Thương mại Nhà nước tại Việt Nam bao gồm các ngân hàng chủ chốt như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam, và Ngân hàng Thương mại khác.
Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu, và Ngân hàng thương mại TNHH một thành viên Đại Dương là những ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam, cung cấp đa dạng dịch vụ tài chính và hỗ trợ phát triển kinh tế quốc gia.
- Loại bỏ các TCTD có vốn chủ sở hữu âm khi tính ROA, ROE
Thị phần dư nợ tín dụng
Tính đến hết ngày 31/07/2016, tổng dư nợ tín dụng các ngân hàng cấp cho nền kinh tế đạt mức 5,6 triệu tỷ đồng, tương đương 133% GDP
Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế Việt Nam đã đạt trên 7,4 triệu tỷ đồng, tăng 12,5% so với cuối năm 2015 Trong đó, khu vực ngân hàng cung ứng 74,9% tổng vốn, tương đương 5,6 triệu tỷ đồng Nếu tính theo GDP năm 2015 khoảng 4,2 triệu tỷ đồng, tổng dư nợ tín dụng ngân hàng hiện bằng khoảng 133% GDP.
-Thị phần dư nợ của các ngân hàng TMNN:
Vị trí số 1 về dư nợ tín dụng tiếp tục thuộc về BIDV với con số 657.623 tỷ đồng Vị trí số
2 thuộc về VietinBank với 592.866 tỷ đồng Vietcombank ở vị trí số 3 với dư nợ tín dụng ở mức 427.240 tỷ đồng.
Trong "tam trụ" ngành ngân hàng Việt Nam, BIDV có vốn chủ sở hữu thấp nhất với 44.422 tỷ đồng tính đến ngày 30/06/2016, so với VietinBank và Vietcombank lần lượt là 59.511 tỷ đồng và 48.673 tỷ đồng Dù vậy, BIDV vẫn dẫn đầu về dư nợ tín dụng trong nhiều năm qua, nhưng để duy trì vị trí này, ngân hàng đã phải đối mặt với nhiều áp lực đáng kể.
Cụ thể, chi phí lãi của BIDV thời điểm kết thúc năm 2014, năm 2015 và 6 tháng đầu năm
Năm 2016, ngân hàng này ghi nhận hơn 60% thu nhập lãi, trong khi VietinBank và BIDV luôn duy trì tỷ lệ dưới 60% Đồng thời, bên cạnh việc dẫn đầu về dư nợ tín dụng, BIDV cũng đứng đầu về nợ xấu trong ngành ngân hàng.
-Thị phần dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng:
NHTM NN Top 5 NHTMCP Các NH còn lại
Báo cáo tài chính 3 quý năm 2016 cho thấy dư nợ tín dụng đã cải thiện rõ rệt ở nhiều ngân hàng, bao gồm cả các ngân hàng lớn và nhỏ, đặc biệt trong nhóm ngân hàng thương mại có vốn nhà nước.
Ngân hàng TMCP Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Công thương (VietinBank) và Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã ghi nhận dư nợ tín dụng tăng trưởng khoảng 8% sau 3 quý Nhóm ngân hàng này đóng vai trò quan trọng trong việc tái cơ cấu và tiếp quản các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, cũng như thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Họ dẫn đầu trong việc thực hiện các chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là trong việc giảm lãi suất huy động và cho vay, góp phần định hình mặt bằng lãi suất thị trường Bên cạnh đó, nhóm ngân hàng cổ phần thứ hai như Á Châu, Techcombank, MB và VPBank cũng đã có sự cải thiện đáng kể về tăng trưởng tín dụng.
Sau 3 quý vừa qua, tín dụng ACB tăng 17% Năm 2016, ACB đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 18 - 20%, cao hơn toàn ngành Đến cuối tháng 9/2016, huy động vốn của VPBank tăng trưởng ở mức 9%, dư nợ tăng 11%.Đáng chú ý ở một số nhà băng nhỏ và vừa, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đều ở mức trên dưới 25%, như Ngân hàng Nam Á (Nam ABank) 9 tháng, dư nợ tín dụng tăng 24%; OCB đến cuối tháng 6/2016 tăng 21%.Dư nợ tín dụng tăng trưởng ở mức cao trong 9 tháng năm nay, song nhiều nhà băng vẫn muốn có thêm dư địa cho vay, nên trình NHNN xin được nâng room Viet Capital Bank vừa được NHNN chấp thuận cho nới room tín dụng lên 30% OCB cũng được NHNN chấp thuận nới room lên mức 25%.
Thị phần tiền gửi
Bất chấp biến động của nền kinh tế, dòng vốn từ thị trường 1, bao gồm dân cư và tổ chức kinh tế, vẫn đổ mạnh vào các ngân hàng thương mại, với NHTM Nhà nước chiếm 47,5% thị phần huy động vốn Theo báo cáo tháng 10 của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng 14,1%, vượt xa mức tăng 8% của năm trước, trong khi dòng vốn tín dụng chỉ tăng 12,5% Các ngân hàng lớn như Ngân hàng Quân Đội, Eximbank, và Sacombank vẫn duy trì tăng trưởng tiền gửi, mặc dù một số ngân hàng không ổn định trong 9 tháng đầu năm Ví dụ, Techcombank và ACB có mức tăng trưởng khoảng 15%, trong khi VPBank giảm gần 3% Đối với các ngân hàng nhỏ, nhiều ngân hàng như LienVietPostBank và Nam Á Bank vẫn ghi nhận mức tăng trưởng cao, lần lượt đạt gần 35% và hơn 32%.
Từ việc phân tích thị phần dư nợ tín dụng và thị phần tiền gửi, ta có biểu đồ về mối tương quan:
Trong giai đoạn 1 (2011-2015) tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều ngân hàng mới thông qua sáp nhập, hợp nhất và mua lại Sự thay đổi này không chỉ mang lại nhận diện mới cho các ngân hàng mà còn tác động đến quan hệ sở hữu, quản trị và năng lực tài chính của họ Giai đoạn 2 (2016- ) tiếp tục chứng kiến những biến động trong hệ thống, đòi hỏi sự chú ý đối với sự bất ổn có thể xảy ra.
Năm 2020 đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc đổi mới hoạt động và nâng cao quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo thông lệ quốc tế Để củng cố nền tảng nhằm tăng hiệu quả, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh, hệ thống ngân hàng cần giải quyết các bất ổn hiện tại.
Khát vốn – lãi suất huy động đang được đẩy lên
- Nguyên nhân gây ra “khát vốn” :
Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, yêu cầu ngành ngân hàng phải nâng cao năng lực tài chính Tuy nhiên, nhiều ngân hàng Việt Nam gặp khó khăn trong việc tăng vốn, đặc biệt là ba ngân hàng quốc doanh niêm yết trên sàn chứng khoán: Vietcombank, Vietinbank và BIDV Áp lực tăng vốn từ việc áp dụng Basel 2 trước năm 2019 đã trở thành vấn đề cấp thiết cho hầu hết các ngân hàng Nếu không tăng vốn kịp thời, tăng trưởng tín dụng của Vietinbank và BIDV sẽ bị hạn chế đáng kể trong nửa đầu năm 2017 cho đến khi các ngân hàng này có thể hoàn thành việc tăng vốn.
Theo dự thảo sửa đổi Thông tư 36, tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ giảm từ 60% xuống 40% Hiện tại, tỷ lệ này ở các ngân hàng thương mại nhà nước là 33,91% và ở ngân hàng thương mại cổ phần là 35,58% Do nguồn vốn cho vay dài hạn ngày càng hạn chế, các ngân hàng đang cạnh tranh để tăng lãi suất nhằm thu hút vốn và đảm bảo tăng trưởng tín dụng Các ngân hàng thương mại cho rằng, giải pháp cho vấn đề này là cần gia tăng vốn huy động dài hạn và giảm tỷ lệ cho vay trung, dài hạn bằng vốn ngắn hạn.
Nhu cầu vốn của ngân hàng (NH) vẫn rất lớn, thể hiện qua việc nhiều NH tư vấn cho khách hàng lách trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn để hưởng lãi suất cao hơn theo quy định Tăng trưởng tín dụng là một trong những lý do chính dẫn đến sự gia tăng nhu cầu vốn của NH, bên cạnh việc củng cố tình hình tài chính Mặc dù số liệu tăng trưởng tín dụng toàn quốc đầu năm 2016 chưa được công bố, nhưng tại TP.HCM, tăng trưởng đạt 3,2% trong 4 tháng đầu năm, so với mức âm 0,8% cùng kỳ năm ngoái Tại Hà Nội, tăng trưởng cũng tích cực với mức 4,8% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2016, kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) lên tới 220.000 tỷ đồng đã tạo ra áp lực huy động vốn cho các tổ chức tín dụng (TCTD), khi mà hơn 80% TPCP được nắm giữ bởi các TCTD Theo Bộ Tài chính, tính đến ngày 6-5, Việt Nam đã phát hành gần 111.791 tỷ đồng TPCP để bù đắp bội chi ngân sách và đầu tư phát triển, đạt khoảng 50,8% mục tiêu huy động vốn trong nước năm 2016 Để hoàn thành phần còn lại, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần tiếp tục tăng cường huy động vốn, điều này sẽ tạo áp lực lên lãi suất.
- Gia tăng lãi suất – biện pháp để các ngân hàng hút vốn:
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cho biết, các ngân hàng hiện đang chịu áp lực lớn trong việc đảm bảo thanh khoản, dẫn đến việc buộc phải tăng lãi suất huy động Bên cạnh đó, nhu cầu vay vốn cũng đang gia tăng, khiến nhiều ngân hàng xem xét điều chỉnh lãi suất huy động nhằm tăng cường nguồn vốn.
Thay vì áp dụng các chương trình khuyến mại quà tặng ồ ạt như trước, các ngân hàng hiện nay đang tập trung vào việc thu hút khách hàng thông qua mức lãi suất cạnh tranh Họ cũng triển khai nhiều ưu đãi cộng thêm lãi suất để khuyến khích nguồn tiền gửi từ dân cư.
Nhân viên của NCB khuyến nghị gửi kỳ hạn 13 tháng với lãi suất 7,4%/năm, trong khi Kienlongbank cũng đưa ra mức lãi suất 7,1%/năm cho cùng kỳ hạn, đây là mức cao nhất của ngân hàng này Sau thông điệp từ NHNN về việc điều chỉnh lãi suất huy động vào đầu tháng 5/2016, thị trường tiết kiệm trở nên trầm lắng Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn tìm cách thu hút khách hàng, chẳng hạn như tăng lãi suất từ 0,1-0,3%/năm cho khách hàng gửi tiền trực tuyến Một số nhân viên ngân hàng khuyên khách hàng nên đến gửi trực tiếp để tận hưởng các ưu đãi cho khoản tiết kiệm lớn Ngoài ra, một số ngân hàng sẵn sàng thương thảo với khách hàng, cho phép gửi kỳ hạn dưới 6 tháng với lãi suất trần 5,5%/năm, nhưng nếu ký hợp đồng trên 6 tháng, khách hàng sẽ được hưởng lãi suất cao hơn và vẫn nhận lãi suất theo hợp đồng nếu rút trước thời hạn.
Nhiều ngân hàng như NCB, Kienlongbank, Saigonbank, BaoVietBank, VPBank và Techcombank đã giới thiệu các sản phẩm tiết kiệm hấp dẫn như tiết kiệm trả lãi trước và tiết kiệm lãnh lãi đầu kỳ Nhờ vào các giải pháp huy động vốn đa dạng, nguồn vốn huy động trong quý I/2016 đã tăng 8,5% so với đầu năm, đạt 42.865 tỷ đồng.
Các ngân hàng quy mô lớn đã điều chỉnh lãi suất huy động, tăng từ 0,2% đến 0,8%/năm BIDV hiện có lãi suất ngắn hạn cao hơn 0,3% so với nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác, với lãi suất 3 tháng là 5,5%, 9 tháng là 5,8% và 12 tháng là 6,8% VietinBank cũng nâng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng lên 6,8% Đối với các kỳ hạn dài, BIDV đã tăng lãi suất huy động tiền đồng lên tới 7 - 7,2%/năm, trong khi VietinBank áp dụng lãi suất từ 6,8% đến 7% cho các kỳ hạn 12 - 36 tháng.
Cuộc cạnh tranh lãi suất huy động giữa các ngân hàng đã khiến doanh nghiệp lo ngại về việc lãi suất cho vay sẽ tăng lên Ông Phạm Đức Bình, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thanh Bình, cho biết lãi suất vay của công ty ông vẫn ổn định, nhưng nhiều công ty khác đang gặp khó khăn Trước đây, một số ngân hàng thương mại cổ phần đã chào lãi suất cho vay hấp dẫn ở mức 6 - 6,5%/năm, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, lãi suất đã tăng thêm 2 - 3% và các ngân hàng không cho phép trả nợ trước hạn kèm theo phí dịch vụ cao Ông lo lắng rằng nếu lãi suất tiếp tục tăng cao như trước đây, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì ổn định và phát triển bền vững.
Khi lãi suất cho vay tăng, doanh nghiệp chỉ có thể chịu đựng đến một mức nhất định Về lâu dài, họ sẽ phải đối mặt với hai lựa chọn: ngừng vay và thu hẹp quy mô, hoặc tiếp tục vay nhưng phải chấp nhận gia tăng nợ xấu Cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng đã dẫn đến tình trạng "cùng kéo nhau xuống đáy", làm giảm lợi nhuận của ngân hàng thương mại, thậm chí gây thua lỗ.
Cạnh tranh bằng lãi suất không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và thiệt hại cho các ngân hàng thương mại (NHTM), mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Hình thức này khiến dòng vốn ngắn hạn chỉ luẩn quẩn trong các NHTM mà không được sử dụng hiệu quả cho đầu tư thực sự.
Phần lớn lượng tiền dư thừa đang được NHTM rót vào kênh TPCP và tín phiếu 23
CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) vừa công bố báo cáo cập nhật về thanh khoản hệ thống ngân hàng quý III, cho thấy lượng cung tiền M2 tiếp tục tăng nhanh, tạo ra khoảng cách lớn với tăng trưởng tín dụng Tính đến ngày 20/09/2016, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 10,46%, trong khi tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2 là 11,76% và huy động vốn đạt 12% Chênh lệch giữa cung tiền M2 và cầu tín dụng từ đầu năm đến ngày 20/09/2016 lên tới 221 nghìn tỷ đồng, tăng 24 nghìn tỷ đồng so với ngày 20/06/2016.
Theo tổ chức phân tích, một phần lượng tiền dư đã được các ngân hàng thương mại (NHTM) đầu tư vào kênh trái phiếu Chính phủ (TPCP), với tổng vốn ròng rót vào đây đạt 141.923 tỷ đồng, tăng khoảng 60.000 tỷ đồng so với ngày 20/06.
Lượng tiền dư thừa trong hệ thống đã giảm mạnh từ 115 nghìn tỷ đồng vào ngày 20/06/2016 xuống chỉ còn 24.000 tỷ đồng, trong khi đó, lượng đầu tư vào trái phiếu Chính phủ (TPCP) lại tăng lên 60.000 tỷ đồng.
79 nghìn tỷ đồng tại thời điểm 20/09/2016
Ngoài việc đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng đang thu hút một lượng lớn tín phiếu do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phát hành Từ đầu tháng 6 đến nay, NHNN đã phát hành nhiều tín phiếu với kỳ hạn 7 ngày và 14 ngày, chủ yếu là tín phiếu kỳ hạn 14 ngày Lãi suất của các tín phiếu này liên tục giảm và hiện đã xuống mức rất thấp, dưới 0,5%/năm cho kỳ hạn 14 ngày.
Tính đến ngày 20/9, BVSC ghi nhận lượng vốn hút ròng qua kênh tín phiếu đạt khoảng 77 nghìn tỷ đồng, tương đương với số vốn dư thừa còn lại trong hệ thống ngân hàng.
BVSC nhận định rằng các ngân hàng thương mại (NHTM) đang phải tạm thời chuyển phần lớn tiền dư thừa vào kênh trái phiếu Chính phủ (TPCP) và tín phiếu, mặc dù lãi suất không hấp dẫn Điều này cho thấy các ngân hàng có thể đang gặp khó khăn trong việc phát triển tín dụng Dữ liệu tăng trưởng tín dụng đến cuối quý III cho thấy còn khoảng cách 7-8% để các NHTM hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 18-20% cho năm nay.
Việc ngân hàng mua vào lượng lớn trái phiếu Chính phủ từ đầu năm có thể tạo ra rủi ro tiềm ẩn, đặc biệt khi lạm phát trở lại và tỷ giá biến động Điều này có thể làm suy giảm hoạt động cung tiền của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời hình thành "kỳ vọng lãi suất tăng" Tâm lý này có thể dẫn đến làn sóng bán trái phiếu Chính phủ trên thị trường, gây áp lực tăng lợi suất Hệ quả là, mặt bằng lãi suất chung trên thị trường cũng sẽ tăng dần.
Gánh nặng về nợ xấu
-Tình hình nợ xấu của các ngân hàng hiện nay:
Nợ xấu đang trở thành gánh nặng lớn đối với các ngân hàng, làm giảm lợi nhuận và cản trở khả năng hạ lãi suất Nhiều ngân hàng hiện nay phải đối mặt với chi phí dự phòng rủi ro tăng mạnh, dẫn đến việc lợi nhuận bị bào mòn đến một nửa.
Theo báo cáo tài chính quý III/2016 của các ngân hàng, nợ xấu đã tăng đáng kể so với đầu năm 2016, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) Tổng nợ xấu tại 13 ngân hàng ước tính vượt quá 48 nghìn tỷ đồng, trong đó số liệu của VPBank chưa được công bố.
Trong cơ cấu nợ của các ngân hàng, nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ lệ lớn, với 12 ngân hàng "ôm" hơn 27,3 nghìn tỷ đồng nợ này sau 9 tháng đầu năm BIDV dẫn đầu cả về cho vay và nợ xấu, với hơn 13,6 nghìn tỷ đồng nợ xấu Mặc dù VietinBank có dư nợ cho vay đạt 625 nghìn tỷ đồng, thấp hơn BIDV, nhưng tổng số nợ xấu của BIDV gấp 2,5 lần so với VietinBank (5,4 nghìn tỷ đồng) Tại Vietcombank, nợ có khả năng mất vốn cũng cao, chiếm 70% trong tổng số nợ xấu 7.757 tỷ đồng Sacombank xếp sau với tổng nợ xấu 4.620 tỷ đồng, trong đó nợ có khả năng mất vốn là 3.095 tỷ đồng, tăng 2,4% so với đầu năm.
Mặc dù hầu hết các ngân hàng công khai thông tin đều duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, Eximbank lại là một trường hợp đặc biệt với 2.705 tỷ đồng nợ xấu tính đến ngày 30/9.
Nợ có khả năng mất vốn của Eximbank đạt 1.079 tỷ đồng, tăng 35% so với đầu năm Tỷ lệ nợ xấu hiện chiếm 3,35% tổng dư nợ cho vay, tăng đáng kể từ 1,85% đầu năm, nhưng đã giảm so với mức cao kỷ lục 5,3% trong quý II.
Mặc dù các ngân hàng công bố tỷ lệ nợ xấu ở mức rất thấp, dưới mức an toàn 3%, nhưng con số nợ xấu tuyệt đối không giảm và vẫn có một tỷ lệ đáng kể nợ có khả năng mất vốn trong tổng số nợ xấu này.
Luật sư Trương Thanh Đức nhận định rằng nhiều người thắc mắc về nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu nghiêm trọng của ngân hàng Ông nhấn mạnh rằng các ngân hàng cần công khai thông tin về nợ xấu để xã hội có cái nhìn rõ ràng hơn, đồng thời tỷ lệ nợ xấu được công bố chính thức cũng rất quan trọng.
Mặc dù các số liệu công bố đạt chuẩn đẹp, thực tế lại cao hơn nhiều so với mức cho phép Điều này dẫn đến việc không ai cảm thấy cần thiết phải xử lý vấn đề "cục máu đông" này.
Theo chuyên gia tài chính ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu hiện khoảng 7%, với tổng nợ xấu thực tế lên tới 147 nghìn tỷ đồng, bao gồm 160 nghìn tỷ đồng tại VAMC và 140-145 nghìn tỷ đồng tiềm ẩn tại các ngân hàng Đến cuối tháng 8/2016, hệ thống TCTD đã xử lý 548,5 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó 57,2% do các TCTD tự xử lý và 42,8% thông qua bán nợ cho VAMC và các tổ chức cá nhân khác.
-Hướng giải quyết của chính phủ đề ra:
Xử lý nợ xấu theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP chủ yếu dựa vào việc bơm tiền qua “trái phiếu đặc biệt”, tuy nhiên VAMC thiếu động lực để thực hiện điều này, dẫn đến nguy cơ gây áp lực lên lạm phát và giảm hiệu quả kinh tế Mục tiêu chính của việc xử lý nợ xấu là thu hồi vốn vay Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, AMC thường phải mua lại nợ xấu bằng “tiền thật” và sau đó mới tiến hành xử lý Quá trình này phức tạp và mất khoảng 5 năm, đòi hỏi nguồn lực tài chính dồi dào từ ngân sách chính phủ hoặc vay mượn từ nước ngoài.
Nghị định 53 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC được Chính phủ ban hành có nhiều điểm khác biệt, nổi bật là việc phát hành trái phiếu đặc biệt để tạo nguồn vốn cho VAMC mà không cần sử dụng ngân sách Điều này được nhiều chuyên gia đánh giá cao như một giải pháp sáng tạo Ngoài ra, VAMC còn có chức năng mua bán nợ xấu theo giá thị trường và thực hiện các hoạt động tương tự như các AMC ở các quốc gia khác.
Phương án huy động vốn bằng trái phiếu đặc biệt được nhiều người đánh giá là sáng tạo, nhưng thực tế lại là một công cụ thô sơ VAMC không cần trích lập dự phòng khi mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt và không chịu áp lực xử lý nợ xấu, vì nếu không xử lý được, TCTD phải mua lại với mệnh giá Hơn nữa, VAMC không phải trả lãi cho trái phiếu này, giúp giảm chi phí liên quan VAMC có thể bán nợ xấu hoặc tài sản đảm bảo với bất kỳ giá nào mà không lo lỗ và còn được hưởng "hoa hồng" khi xử lý nợ xấu Đối với ngân hàng, việc chuyển giao nợ xấu cho VAMC tiềm ẩn rủi ro do không có ràng buộc, nhưng họ có thể ủy quyền cho chính ngân hàng đã bán nợ xấu để tiếp tục xử lý.
Mấu chốt trong việc xử lý nợ xấu là trái phiếu đặc biệt mà TCTD sử dụng làm tài sản thế chấp để vay tiền từ NHNN Điều này cho phép các ngân hàng có nợ xấu cao bán nợ cho VAMC và vay mượn từ NHNN, giúp họ duy trì khả năng thanh khoản và tồn tại trong bối cảnh khó khăn.
Mỗi năm họ chỉ phải trích lập dự phòng 20% nợ xấu trong vòng 5 năm thay vì phải trích lập dự phòng ngay lập tức.
Việc xử lý nợ xấu chủ yếu dựa vào việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bơm tiền vào các tổ chức tín dụng (TCTD) có nợ xấu cao để lấp lỗ hổng Các tổ chức có nợ xấu thấp hoặc có khả năng che giấu nợ xấu thường không bán nợ cho Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) Đặc biệt, VAMC không sử dụng "tiền thật" để xử lý nợ xấu, điều này không phải là một sáng tạo khôn ngoan như nhiều người nghĩ Mặc dù có giải pháp "thị trường", nhưng việc xử lý nợ xấu chỉ tập trung vào các vấn đề "kỹ thuật" sẽ khó mang lại kết quả mong đợi và có thể tạo ra rủi ro lớn cho nền kinh tế khi NHNN bơm tiền cho các ngân hàng để xử lý nợ xấu.
Vấn đề thanh khoản
Theo đánh giá hiện tại, 87,6% các tổ chức tín dụng (TCTD) cho rằng thanh khoản của đơn vị mình đang ở trạng thái "tốt" cho cả đồng VND và ngoại tệ Đặc biệt, 100% TCTD đều có nhận định tích cực về tình hình thanh khoản này.
Theo đánh giá của các tổ chức tín dụng (TCTD) thuộc nhóm ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) và ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) nhỏ, thanh khoản chung và thanh khoản VND được xếp loại “tốt”, trong khi 8,6% TCTD cho rằng thanh khoản ở mức “bình thường” Dự báo trong Quý IV/2016 và cả năm 2016, đa số TCTD kỳ vọng tình hình thanh khoản sẽ tiếp tục khả quan đối với cả VND và ngoại tệ.
Vấn đề đặt ra là: Tại sao thanh khoản tốt nhưng lãi suất ngân hàng vẫn có xu hướng tăng?
Chuyên gia kinh tế Bùi Quang Tín từ Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh giải thích rằng các ngân hàng đang tăng cường huy động vốn kỳ hạn dài để đáp ứng nhu cầu cho vay trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm Đồng thời, việc này cũng giúp cơ cấu lại nguồn vốn theo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn Ông Tín cũng nhấn mạnh rằng một số ngân hàng đã tăng lãi suất huy động do yếu tố thời vụ nhằm hoàn thành chỉ tiêu kinh doanh trong quý cuối năm.
Ông Cù Anh Tuấn, Tổng giám đốc ABBANK, nhấn mạnh rằng mặc dù thanh khoản trên thị trường 2 hiện đang tốt, nhưng không thể sử dụng vốn từ thị trường 2 để cho vay tại thị trường 1 Thanh khoản của thị trường 2 chỉ mang tính tạm thời, chủ yếu trong các kỳ hạn ngắn như qua đêm, ngày, tuần, hoặc tối đa là vài tháng, nên không thể áp dụng cho vay doanh nghiệp Việc sử dụng vốn từ thị trường 2 cho thị trường 1 có thể dẫn đến rủi ro mất thanh khoản Do đó, nhiều ngân hàng đã buộc phải tăng lãi suất cho các kỳ hạn dài hơn.
Vấn đề an toàn vốn tối thiểu
Theo NHNN, đến cuối tháng 9/2016, hệ số CAR bình quân của các ngân hàng quốc doanh đạt 9,48%, chỉ cao hơn mức tối thiểu 9% của Ngân hàng Nhà nước, và thấp hơn mức trung bình 10,3% của khu vực ASEAN Nếu không cải thiện, tăng trưởng tín dụng của nhóm ngân hàng này, hiện chiếm 46% thị phần, sẽ khó đạt mục tiêu 18% trong năm nay, trong khi đó, các ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh ghi nhận hệ số CAR là 12,1%.
-Nguyên nhân sụt giảm hệ số CAR:
Ông Trần Bắc Hà, cựu chủ tịch HĐQT BIDV giai đoạn 2011-2015, chỉ ra rằng nguyên nhân chính khiến hệ số CAR suy giảm là do các ngân hàng thương mại Nhà nước phải thực hiện nhiều chương trình và chính sách của Chính phủ, dẫn đến việc áp dụng lãi suất ưu đãi, từ đó làm giảm khả năng sinh lời Điều này dẫn đến việc thiếu nguồn lực từ lợi nhuận để tăng vốn.
Tại BIDV, các chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đã làm giảm thu lãi của ngân hàng khoảng 2.500 tỷ đồng mỗi năm Điều này dẫn đến NIM thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến ROE và ROA của hệ thống, hiện đang cải thiện nhưng vẫn chỉ đạt khoảng một nửa so với giai đoạn 2006-2010, theo ông Hà.
Trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng toàn cầu đang hướng tới tiêu chuẩn Basel III, buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải thực hiện các biện pháp như Thông tư 02 và Thông tư 09 để cải thiện việc phản ánh nợ và trích lập dự phòng Đồng thời, việc áp dụng Thông tư 36 sửa đổi cũng giúp các ngân hàng tiến gần hơn tới thông lệ quốc tế Tuy nhiên, thực tế này đã dẫn đến việc giảm vốn tự có và tăng tài sản có rủi ro, làm cho hệ số CAR giảm sút.
Để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn (CAR), các ngân hàng cần nâng cao vốn tự có, bao gồm vốn cấp 1 (vốn điều lệ, lợi nhuận để lại và các quỹ) và vốn cấp 2 (trái phiếu chuyển đổi, giá trị tăng thêm của tài sản cố định, chứng khoán định giá lại và các công cụ nợ dài hạn) Vốn cấp 1 được coi là an toàn và đáng tin cậy hơn, đồng thời yêu cầu quản lý tài sản chặt chẽ hơn.
Vietcombank có khả năng phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 nếu kế hoạch phát hành riêng lẻ chưa được chấp thuận, với hệ số CAR ước tính đạt 10,8% vào cuối tháng 9/2016 Sau khi phát hành, tỷ lệ vốn cấp 2/vốn cấp 1 sẽ là 24,3%, giúp tăng hệ số CAR lên 11,3% Đối với Vietinbank, hệ số CAR vào cuối tháng 9/2016 là 11%, tăng từ 10,7% so với cuối năm 2015 nhờ bổ sung 5.400 tỷ đồng trái phiếu thứ cấp và lợi nhuận giữ lại tăng 5.200 tỷ đồng Tỷ lệ vốn cấp 2/cấp 1 của Vietinbank đạt 38%, với vốn cấp 1 hiện tại là 57.145 tỷ đồng, cho phép tăng vốn cấp 2 thêm 30%, tương đương 6.700 tỷ đồng.
Vào năm 2015, với tỷ lệ giả định 8,5% vốn điều lệ, tổng số tiền mặt đạt 37.234 tỷ đồng, dẫn đến việc vốn cấp 1 giảm 3.165 tỷ đồng BIDV, ngân hàng có hệ số CAR thấp nhất khoảng 10%, hiện không còn khả năng tăng vốn cấp 2 Việc tăng vốn cho BIDV trong năm nay gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi kế hoạch phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, phương án khả thi nhất, đã không thành công.
Ngân hàng cổ phần tư nhân sở hữu lợi thế về hệ số CAR, với VIB là ngân hàng có vốn điều lệ và vốn tự có thấp nhất trong số 10 ngân hàng, nhưng vẫn đạt CAR 18% vào cuối năm 2015, theo số liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán.
Ngân hàng Eximbank hiện có hệ số CAR cao hơn 17%, trong khi Maritime Bank đạt 14,6% vào cuối tháng 9 và cũng trên 13% theo chuẩn Basel 2 ACB cũng ghi nhận CAR trên 14% và gần đây đã thông qua kế hoạch phát hành 1.500 tỷ đồng trái phiếu để nâng vốn cấp 2, giúp ngân hàng này không lo lắng về hệ số CAR khi áp dụng hoàn toàn chuẩn Basel 2 Cuối cùng, Techcombank duy trì tỷ lệ an toàn vốn 14,7% vào cuối năm ngoái và vẫn giữ mức cao theo tiêu chuẩn hiện tại.
Basel 2.Cùng với ACB và Techcombank, ngân hàng Quân đội (MB) cũng không đáng lo về hệ số CAR khi năm ngoái đã nâng vốn điều lệ thành công Hết năm 2015, CAR của ngân hàng ở mức 12,85%.Hệ số an toàn vốn của VPBank ở mức 12,2% vào cuối năm
Từ năm 2015, tỷ lệ CAR của các ngân hàng đã duy trì ổn định trong khoảng 11,3 – 12,5% trong vòng 5 năm qua Đối với Sacombank, trước khi sáp nhập với SouthernBank, hệ số CAR khoảng 10% Sau khi sáp nhập và cộng ngang vốn, tỷ lệ CAR của Sacombank đã được nâng lên đáng kể, tuy nhiên ngân hàng vẫn chưa cập nhật con số mới về tỷ lệ này.
Vấn đề sỡ hữu chéo
Sở hữu chéo giữa các ngân hàng vẫn là vấn đề phức tạp, khiến nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) gặp khó khăn trong việc giải quyết Mặc dù đã có quy định rõ ràng về giới hạn sở hữu, nhưng nhiều ngân hàng vẫn vi phạm và chỉ mới bắt đầu thoái vốn trong một vài trường hợp.
Theo Thông tư 36, ngân hàng thương mại chỉ được sở hữu cổ phiếu của tối đa 2 tổ chức tín dụng khác, trừ khi tổ chức tín dụng đó là công ty con Việc nắm giữ cổ phần tại tổ chức tín dụng khác không vượt quá 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết, và ngân hàng không được cử đại diện tham gia hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng đó, trừ khi tổ chức tín dụng là công ty con hoặc ngân hàng tham gia tái cơ cấu theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước.
Các trường hợp ngoại lệ trong việc mua và nắm giữ cổ phiếu được thực hiện nhằm tái cơ cấu và hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn, với sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước hoặc theo quy định pháp luật Do đó, các ngân hàng thương mại đang nắm giữ tỷ lệ sở hữu cổ phần tại hơn 2 tổ chức tín dụng khác cần xem xét thoái vốn trong vòng 1 năm kể từ khi Thông tư 36 có hiệu lực vào ngày 1/2/2015.
Sau hơn một năm, các ngân hàng thương mại vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện quy định tại Thông tư 36/2014/TT-NHNN, liên quan đến việc giảm sở hữu chéo tại các tổ chức tín dụng khác.
Gần đây, VietinBank đã thực hiện thoái vốn tại SaigonBank bằng cách đấu giá gần 16,9 triệu cổ phần, giảm tỷ lệ sở hữu từ 10,39% xuống 4,91% Mặc dù giá khởi điểm là 10.800 đồng/cổ phần, nhưng đã có 10 cá nhân tham gia đặt mua với số lượng gấp 4 lần cổ phần được chào bán Kết quả, toàn bộ 16,875 triệu cổ phần đã được bán thành công cho 2 nhà đầu tư cá nhân với mức giá bình quân 12.500 đồng/cổ phần, giúp VietinBank thu về gần 211 tỷ đồng Đây là tín hiệu tích cực trong bối cảnh nhiều ngân hàng trước đó đã gặp khó khăn khi rao bán cổ phiếu giá rẻ nhưng không có nhà đầu tư nào tham gia.
Trong khi đó, vào thời điểm tháng 2/2016, thương vụ thoái vốn của Maritime Bank tại
Maritime Bank đã thu hút sự chú ý từ thị trường khi chuyển nhượng 64,2 triệu cổ phiếu MBB, tương đương 4% vốn, cho nhóm nhà đầu tư thuộc Dragon Capital Mặc dù ngân hàng không công bố mức giá chuyển nhượng, nhưng theo giá cổ phiếu trong phiên giao dịch ngày 19/2, số tiền thu về ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng.
Kết quả hiện tại Maritimebank chỉ còn nắm dưới 5% tại MB từ mức 8,96% trước đó.
Vietcombank hiện đang là ngân hàng dẫn đầu về vốn tại các TCTD, sở hữu cổ phần tại 4 ngân hàng và 1 công ty tài chính Cụ thể, ngân hàng nắm giữ 7,16% vốn tại Ngân hàng Quân đội (MBB), 8,19% cổ phần Eximbank, 5,07% vốn tại Ngân hàng Phương Đông (OCB) và 4,3% vốn tại SCB, cùng với 10,91% vốn tại Công ty Tài chính cổ phần Xi măng Trước áp lực thoái vốn theo quy định, Vietcombank sẽ phải quyết định chọn ai và bỏ ai Chủ tịch HĐQT, ông Nghiêm Xuân Thành, cho biết NHNN đã cho phép Vietcombank giữ nguyên tỷ lệ cổ phần tại ngân hàng Quân đội (MBB), một ngân hàng hoạt động hiệu quả.
Sở hữu chéo và đầu tư chéo là vấn đề phổ biến trong hầu hết các hệ thống tài chính toàn cầu, với quy mô và độ phức tạp khác nhau Tại Việt Nam, hiện tượng này có tính chất lịch sử và gây ra nhiều tác động tiêu cực, bao gồm gia tăng rủi ro hệ thống, tạo điều kiện cho các hành vi chuyển vốn lòng vòng và tăng vốn điều lệ không thực chất Dù quy mô sở hữu chéo trực tiếp tại Việt Nam chưa lớn, nhưng các hình thức sở hữu chéo lại rất đa dạng và phức tạp.
Sở hữu chéo cũng là một trong những vật cản trong tiến trình cơ cấu lại hệ thống TCTD
Việc siết chặt sở hữu chéo là cần thiết để làm sạch hệ thống ngân hàng Các ngân hàng cần có lộ trình thoái vốn rõ ràng, nhưng quá trình này phải được thực hiện kiên quyết, vì càng để lâu, việc xử lý càng trở nên khó khăn hơn.
Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, nhà kinh tế học Paul Krugman định nghĩa rủi ro đạo đức là tình huống mà một bên đưa ra quyết định về mức độ chấp nhận rủi ro, trong khi bên còn lại phải gánh chịu tổn thất nếu những quyết định đó không thành công (Paul, 2009).
Gần đây, số lượng cán bộ ngân hàng bị truy tố vì vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp ngày càng tăng, với các hành
Vấn đề đạo đức kinh doanh trong hệ thống ngân hàng đang trở thành mối quan tâm lớn khi nhiều vụ việc nghiêm trọng liên quan đến cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng bị phanh phui Những thông tin này chưa bao giờ nhiều như trong vài năm qua, với hàng loạt trường hợp lãnh đạo cao cấp ôm tiền bỏ trốn hoặc chiếm đoạt tài sản của khách hàng để đầu tư vào bất động sản, chứng khoán, vàng Ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên trưởng Ban Nội chính trung ương, đã chỉ ra rằng nợ xấu ngân hàng phần lớn xuất phát từ đạo đức của cán bộ, khi nâng khống giá trị tài sản để trục lợi, gây thiệt hại cho nhà nước.
Ngày 6/11/2013, Viện kiểm sát nhân dân TP Hải Phòng đã phê chuẩn quyết định khởi tố và bắt tạm giam Đỗ Thị Thu Thủy, nguyên trưởng quỹ kho tiền Ngân hàng xăng dầu (PG Bank) chi nhánh Hải Phòng, vì hành vi trộm cắp tài sản Vụ việc bắt đầu khi ngân hàng phát hiện thiếu hụt gần 249.000 USD và 19.500 EUR trong quỹ tiền mặt Qua điều tra, Thủy đã lợi dụng sơ hở trong quản lý kho quỹ để chiếm đoạt tài sản từ tháng 7 đến tháng 10/2013, bằng cách "rút lõi" tiền ngoại tệ và thay thế bằng tiền âm phủ Thủy còn sửa số liệu báo cáo để che giấu hành vi của mình, dẫn đến việc ngân hàng không phát hiện ra sự thiếu hụt cho đến ngày 24/10/2013 Tại cơ quan điều tra, Thủy thừa nhận đã trộm tổng cộng 308.700 USD và 39.500 EUR, tương đương khoảng 7,6 tỷ đồng, và gần như toàn bộ số tiền đã được tiêu vào số đề và chi tiêu cá nhân Khi bị bắt, Thủy chỉ còn lại 3.000 USD.
Để giảm thiểu rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng, cần xây dựng bộ quy chuẩn đạo đức chi tiết với quy định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận, cùng với việc thực hiện kiểm tra chéo Đạo đức cũng nên được xem là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá KPI của nhân viên Ông Hiếu nhấn mạnh rằng đạo đức nghề nghiệp là vấn đề hàng đầu mà hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cần chú trọng Một phó tổng giám đốc ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam bày tỏ lo ngại về sự suy giảm chuẩn mực đạo đức trong hai năm qua, khi lãi suất cao và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chi trả, tạo cơ hội cho các thỏa thuận không minh bạch giữa cán bộ tín dụng và doanh nghiệp vay Hệ lụy từ tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng mà còn tác động xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và cộng đồng doanh nghiệp.
Ngân hàng, với vai trò là trụ cột của nền kinh tế, cần sự minh bạch và chuyên nghiệp cao Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là rất quan trọng, vì nguồn nhân lực yếu kém có thể gây ra hạn chế trong quản trị và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đồng thời tiềm ẩn rủi ro đạo đức lớn Ngành ngân hàng cần chú trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp như một nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình tái cơ cấu Đạo đức phải là tiêu chí tiên quyết trong tuyển chọn nhân sự, và các ngân hàng cần xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thiết lập hệ thống kiểm soát đặc biệt đối với hành vi trong huy động vốn và cho vay.
Khả năng sinh lời trong khu vực ngân hàng
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là hai chỉ tiêu quan trọng mà các nhà quản trị và nhà đầu tư sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp Chúng phản ánh khả năng thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu, với ROA cho biết lợi nhuận tạo ra từ mỗi đồng tài sản sử dụng, trong khi ROE cho biết lợi nhuận thu về cho các chủ sở hữu sau khi đầu tư Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản không chỉ giúp ngân hàng tăng quy mô vốn mà còn củng cố năng lực tài chính của mình Ví dụ, nếu ROA đạt 10%, điều này có nghĩa là mỗi đồng tài sản tạo ra 0,1 đồng lợi nhuận.
Theo chuẩn mực đánh giá năng lực tài chính của Moody’s thì các chỉ tiêu khả năng sinh lời được đánh giá tốt trong khung: ROA≥1%; ROE ≥12-15%.
Theo tiêu chuẩn hiện hành, trong số các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính 9 tháng đầu năm, chỉ có Techcombank đạt yêu cầu Tỷ suất sinh lời trên tài sản và vốn của Techcombank hiện là cao nhất, với tỷ lệ lần lượt là 1,03% và 12,22%.
Ngân hàng MB đang tiến gần tới mức tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) 1% với tỷ lệ 0,94%, trong khi các ngân hàng lớn như Vietcombank, VietinBank và BIDV chỉ đạt khoảng 0,48-0,69% Eximbank và Sacombank hiện có ROA thấp nhất trong nhóm các ngân hàng được thống kê, đồng thời cũng đứng cuối bảng về chỉ số tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE).
3 ngân hàng là Techcombank, Vietcombank và BIDV có tỷ lệ ROE trên 10% Top sau bao gồm LienVietPostBank, MB, VietinBank và ACB với tỷ lệ từ 7-9%.
Một số bất ổn khác
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang đối mặt với nhiều bất ổn, bao gồm vấn đề an toàn thông tin, sự mất cân đối trong tín dụng nội và ngoại tệ, cùng với chi phí lãi suất cao.