1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam

35 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Tính Bền Vững Của Nợ Công Việt Nam
Tác giả Tô Thúy Hiền, Nguyễn Văn Luận, Cao Phương Quỳnh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Lan
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 35
Dung lượng 1,06 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (4)
  • B. NỘI DUNG (6)
  • CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (6)
    • 1.1. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước (6)
      • 1.1.1. Nước ngoài (6)
      • 1.1.2. Trong nước (7)
    • 1.2. Cơ sở lí thuyết (8)
      • 1.2.1. Cơ sở lí thuyết về nợ công (8)
        • 1.2.1.1. Khái niệm nợ công (8)
        • 1.2.1.2. Phân loại nợ công (9)
        • 1.2.1.3. Tác động của nợ công đến nền kinh tế (10)
      • 1.2.2. Tính bền vững của nợ công (12)
    • 1.3. Phương pháp đánh giá tính bền vững theo khung phân tích của WB và IMF (14)
    • CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (17)
      • 2.1. Thực trạng nợ công của Việt Nam hiện nay (17)
      • 2.2. Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam trên các ngưỡng nợ của (21)
      • 2.3 Kết quả nghiên cứu (25)
      • 2.4. Thảo luận (30)
    • CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN KÈM THEO GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP (31)
      • 3.1 Kết luận (31)
      • 3.2 Kiến nghị giải pháp (31)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (34)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Nợ công đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế toàn cầu, nhưng gánh nặng này cùng những hệ quả vĩ mô của nó đã trở thành mối lo ngại lớn cho nhiều quốc gia Cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp là một ví dụ điển hình, ảnh hưởng sâu sắc đến các quốc gia khác như Italia, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.

Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, đang đối mặt với thâm hụt ngân sách kéo dài và tỷ lệ nợ công gia tăng nhanh chóng Việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường nội địa và vay mượn ưu đãi từ nước ngoài đã góp phần vào tình trạng này Mặc dù kinh tế có sự tăng trưởng, nhưng mức tăng trưởng bình quân không đủ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách kéo dài, dẫn đến nợ công trên GDP của Việt Nam liên tục tăng cao, đặc biệt trong những năm vượt ngưỡng báo động đỏ theo tiêu chuẩn quốc tế.

Báo cáo của Chính phủ về tình hình nợ công cho thấy, dựa trên kế hoạch vay và trả nợ công năm 2017, cùng với tình hình thực hiện đến ngày 30/9/2017, dự kiến nợ công sẽ đạt mức cao vào cuối năm.

Tính đến năm 2017, tổng dư nợ công của Việt Nam đạt khoảng 3,1 triệu tỷ đồng, tương đương 62,6% GDP Nếu chia đều cho 94 triệu dân, mỗi người dân gánh khoảng 33 triệu đồng Trong đó, dư nợ chính phủ chiếm khoảng 51,8% GDP, và dư nợ nước ngoài của quốc gia là khoảng 45,2%.

Theo lý thuyết, chỉ số nợ của Việt Nam vẫn nằm trong mức an toàn, nhưng tỷ lệ nợ trên GDP lại tăng nhanh, khoảng 10% trong 5 năm qua, mặc dù kinh tế tăng trưởng mạnh Nếu bội chi ngân sách và mức bảo lãnh của Chính phủ không thay đổi, tỷ lệ nợ công trên GDP có thể vượt quá 65% trong những năm tới, ngay cả khi tăng trưởng GDP duy trì ở mức cao Nhằm giải quyết vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã chọn chủ đề “Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam” và đưa ra các giải pháp khuyến nghị.

Thứ nhất, bài nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình nợ công của

On Monday, a study evaluated the sustainability of Vietnam's public debt using the Debt Sustainability Framework (DSF) established by the World Bank (WB) and the International Monetary Fund (IMF).

Thứ ba, khuyến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nợ và sử dụng nợ một cách hiệu quả trong tương lai.

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nợ công Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2001-2017

Do thời gian hạn chế và phạm vi nghiên cứu rộng, chúng em đã nỗ lực tối đa trong khả năng của mình, nhưng không tránh khỏi những thiếu sót Chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ Cô để cải thiện bài nghiên cứu này.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

1.1 Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước

Nợ công vẫn luôn là vấn đề hấp dẫn với các nhà kinh tế học từ xưa đến nay.

Hằng năm, nhiều nghiên cứu mới về nợ công được công bố, phản ánh đa dạng các vấn đề liên quan Vì vậy, tính bền vững của nợ công đã trở thành chủ đề nghiên cứu được nhiều nhà kinh tế học trong và ngoài nước quan tâm.

Nghiên cứu của Manasse và Roubini (2005) phân tích nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài của khu vực công, và khả năng xảy ra vỡ nợ của các quốc gia thông qua mô hình cây nhị phân Mẫu quan sát được thu thập từ 47 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 1970-2002.

Có 10 chỉ số được phân loại thành 3 nhóm: chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản, chỉ số phản ánh biến động và chỉ số kinh tế chính trị Nghiên cứu cho thấy dấu hiệu khủng hoảng của một quốc gia thường được thể hiện qua sự biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô và chính trị Vì vậy, việc sử dụng dữ liệu lịch sử và xây dựng mô hình có thể giúp các quốc gia dự đoán khủng hoảng kinh tế trong ngắn hạn, đồng thời cung cấp thông tin để Chính phủ điều chỉnh các chỉ số kinh tế một cách phù hợp và an toàn.

Khung nợ DSF của WB và IMF, áp dụng cho các nước thu nhập thấp từ năm 2005, không chỉ xác định nợ bền vững mà còn là thước đo cho xếp hạng chính sách thể chế qua chỉ số CPIA Các xếp hạng và nghiên cứu này nhằm đánh giá tổng quan tình hình nợ công của các quốc gia, từ đó đưa ra những khuyến nghị về chính sách và điều chỉnh nợ công để sử dụng hiệu quả hơn.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước

Nợ công vẫn luôn là vấn đề hấp dẫn với các nhà kinh tế học từ xưa đến nay.

Hằng năm, nhiều nghiên cứu mới được công bố, phản ánh đa dạng các vấn đề liên quan đến nợ công Do đó, tính bền vững của nợ công đã trở thành đề tài nghiên cứu hấp dẫn cho nhiều nhà kinh tế học trong và ngoài nước.

Nghiên cứu của Manasse và Roubini (2005) đã phân tích nợ công, chủ yếu là nợ nước ngoài của khu vực công, và khả năng vỡ nợ của các quốc gia thông qua mô hình cây nhị phân Mẫu quan sát trong nghiên cứu này được thu thập từ 47 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 1970-2002.

Có 10 chỉ số chính được phân thành 3 nhóm: chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản, chỉ số phản ánh biến động, và chỉ số kinh tế chính trị Nghiên cứu cho thấy, các dấu hiệu của một quốc gia trước khủng hoảng thường thể hiện qua sự biến động của nhóm chỉ số kinh tế vĩ mô và chính trị Do đó, việc sử dụng dữ liệu lịch sử để xây dựng mô hình có thể giúp các quốc gia dự đoán khủng hoảng kinh tế trong ngắn hạn, đồng thời là công cụ hữu ích cho Chính phủ điều chỉnh các chỉ số kinh tế một cách phù hợp và an toàn.

Khung nợ DSF của WB và IMF, áp dụng cho các nước có thu nhập thấp từ năm 2005, không chỉ xác định nợ bền vững mà còn là thước đo cho xếp hạng chính sách thể chế qua chỉ số CPIA Những xếp hạng và nghiên cứu này nhằm cung cấp đánh giá tổng quan cho các quốc gia, từ đó thúc đẩy thay đổi chính sách và điều chỉnh nợ công để sử dụng nợ công một cách hiệu quả.

Hay nghiên cứu của nhóm tác giả Corsetti G và Roubini N (1991) đã dựa trên bộ số liệu của 18 nước trong khối OECD với chuỗi dữ liệu thời gian từ 1960 –

Năm 1989, các tác giả đã chỉ ra sự khác biệt trong phát triển bền vững giữa các quốc gia, với các nước phát triển dễ dàng kiểm soát nợ công, trong khi các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc chi trả Anca Ruxandra (2011) đã phân tích dữ liệu của 14 nước Châu Âu từ 1970 đến 2012, cho thấy một số quốc gia có tỷ lệ nợ công vượt ngưỡng Maastricht Tình hình trở nên nghiêm trọng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, với tỷ lệ nợ công gia tăng nhanh chóng từ năm 2007, khiến một số quốc gia rơi vào tình trạng báo động Tuy nhiên, Đan Mạch, Phần Lan, Hà Lan và Thụy Điển không gặp rủi ro thanh khoản nhờ vào tỷ lệ nợ công hợp lý và thặng dư ngân sách lớn.

Kể từ khi Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố khung nợ DSF cho các nước thu nhập thấp, nhiều nhà phân tích đã áp dụng khung này để đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam Các nghiên cứu như "Nợ công Việt Nam có thực sự ở mức an toàn" và "Đánh giá tính bền vững nợ công Việt Nam theo mô hình DSF" của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan cho thấy nợ công Việt Nam đang đối mặt với mức độ rủi ro cao và thiếu bền vững, mặc dù vẫn dưới ngưỡng quy định của Quốc hội Ngoài ra, nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thành Chung cũng chỉ ra rằng sự gia tăng nợ công gần đây đã làm tăng gánh nặng trả nợ ngắn hạn và đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm khắc phục tình trạng này.

Nghiên cứu về nợ công và tính bền vững tại Việt Nam đã được thực hiện bởi nhóm tác giả Phạm Thế Anh, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Trí Dũng và Tô, nhằm phân tích quá khứ, hiện tại và tương lai của vấn đề này Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình nợ công ở Việt Nam, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng và đưa ra những khuyến nghị nhằm đảm bảo tính bền vững trong quản lý nợ công.

Năm 2013, Trung Thành đã thực hiện một nghiên cứu điển hình tại Việt Nam, tập trung vào tác động của thâm hụt ngân sách đối với nợ công Nghiên cứu này còn xây dựng Mô hình cây nhị phân của Manasse và Roubini, góp phần làm rõ mối quan hệ giữa hai yếu tố kinh tế quan trọng này.

Nghiên cứu sử dụng Khung nợ bền vững DSF của IMF và WB (2005) để đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam năm 2011 cho thấy xác suất vỡ nợ trong ngắn hạn là thấp Từ kết quả này, các tác giả đã rút ra bài học kinh nghiệm quý giá từ các cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhằm áp dụng vào tình hình nợ công của Việt Nam.

Tác giả Nguyễn Văn Bổn (2016) từ Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã sử dụng phương pháp chạy lượng để nghiên cứu tác động hai chiều giữa nợ công và sự phát triển kinh tế Nghiên cứu này cung cấp những nhận định quan trọng về khả năng kiểm soát tính bền vững của nợ công đối với Chính phủ Việt Nam.

Cơ sở lí thuyết

1.2.1 Cơ sở lí thuyết về nợ công:

Theo Luật Quản lý nợ công Việt Nam (Khoản 2 Điều 1 Luật số 29/2009/QH12), nợ công bao gồm toàn bộ các khoản nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương.

Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong và ngoài nước, được ký kết và phát hành nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ Các khoản vay này bao gồm những hợp đồng do Bộ Tài chính ký kết và phát hành theo quy định pháp luật Tuy nhiên, nợ chính phủ không bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh

Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ được ký kết và phát hành bởi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, hoặc được ủy quyền phát hành.

Theo Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của UNCTAD, nợ công bao gồm không chỉ nợ chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh mà còn cả nợ của chính quyền địa phương, nghĩa vụ nợ của ngân hàng trung ương, các đơn vị thuộc chính phủ (bao gồm Doanh nghiệp Nhà nước) ở mọi cấp chính quyền, cùng với một số khoản nợ ngầm định khác.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công là nghĩa vụ tài chính của khu vực công, bao gồm nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập Nợ công thường liên quan đến nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết định hoặc khi trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước có trách nhiệm trả nợ thay.

Khái niệm nợ công của Việt Nam có phạm vi hẹp hơn so với thông lệ quốc tế, theo quan điểm của WB và IMF Nợ công bao gồm nợ của khu vực công, bao gồm cả nợ của Ngân hàng Trung ương và doanh nghiệp nhà nước Tuy nhiên, nợ công tại Việt Nam không tính đến nợ của Ngân hàng Nhà nước và nợ của doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ bảo lãnh Sự không thống nhất trong khái niệm này gây khó khăn trong quản lý và kiểm soát nợ công.

Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công.

Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay, nợ công được chia thành hai loại: nợ trong nước và nợ nước ngoài Nợ trong nước là khoản nợ mà bên cho vay là cá nhân hoặc tổ chức trong nước, trong khi nợ nước ngoài là khoản nợ do Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, cũng như các tổ chức và cá nhân nước ngoài cung cấp.

Phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài là yếu tố quan trọng trong quản lý nợ, giúp xác định chính xác tình hình cán cân thanh toán quốc tế Quản lý nợ nước ngoài không chỉ đảm bảo an ninh tiền tệ mà còn liên quan đến các khoản vay chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi và các phương tiện thanh toán quốc tế khác.

Nợ công được phân thành hai loại chính: nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ phát sinh từ các hợp đồng vay giữa cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức cho vay, bao gồm cả các hiệp định quốc gia Trong khi đó, nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ được tạo ra khi cơ quan nhà nước phát hành các công cụ nợ nhằm huy động vốn, với thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.

Theo tính chất ưu đãi của khoản vay, nợ công được phân thành ba loại chính: nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.

Theo trách nhiệm đối với chủ nợ, nợ công được chia thành hai loại: Nợ công phải trả và Nợ công bảo lãnh Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ và chính quyền địa phương có nghĩa vụ thanh toán Trong khi đó, Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ cam kết bảo lãnh cho người vay; nếu bên vay không thể trả nợ, Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ đó.

Theo cấp quản lý nợ, nợ công được chia thành hai loại: nợ công của trung ương và nợ công của chính quyền địa phương Nợ công trung ương bao gồm các khoản nợ do Chính phủ phát hành và các khoản nợ mà Chính phủ bảo lãnh Trong khi đó, nợ công địa phương là khoản nợ mà chính quyền địa phương vay và có trách nhiệm trực tiếp trong việc trả nợ.

Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, khoản vay nợ của chính quyền địa phương được xem là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối Điều này có nghĩa là nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.

Phân loại nợ công đóng vai trò quan trọng trong quản lý và sử dụng nợ công hiệu quả Mỗi loại nợ sẽ yêu cầu các giải pháp quản lý khác nhau để đảm bảo quy mô nợ hợp lý Qua đó, việc điều chỉnh tăng hoặc giảm nợ sẽ giúp tạo ra nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

1.2.1.3 Tác động của nợ công đến nền kinh tế:

Vay nợ là một phương thức hiệu quả để huy động vốn phục vụ cho sự phát triển Bản chất của nợ không hề tiêu cực; ngược lại, nó mang lại nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế của các quốc gia vay mượn.

Phương pháp đánh giá tính bền vững theo khung phân tích của WB và IMF

Phương pháp đánh giá tính bền vững và rủi ro tài khoá của nợ công dựa trên khung phân tích nợ bền vững (DSF) do IMF và WB giới thiệu từ năm 2005, với các bản cập nhật vào các năm 2006, 2009, 2012 và 2017 DSF xác định các ngưỡng nợ nguy hiểm, giúp dự báo nợ công trong 20 năm tới và đánh giá nguy cơ tiềm ẩn Các ngưỡng này phụ thuộc vào mức độ hỗ trợ của chính sách và khung thể chế đối với tăng trưởng bền vững, được đo bằng chỉ số CPIA của WB CPIA gồm 16 chỉ tiêu chia thành 4 loại: quản lý kinh tế, chính sách cấu trúc, chính sách xã hội và công bằng, cùng quản trị khu vực công và thể chế, với thang điểm từ 1 đến 6, được cập nhật hàng năm cho các nước trong Hiệp hội phát triển quốc tế.

Theo bản thông tin của IMF phương pháp này nhằm tới hai mục tiêu chính:

Khuôn khổ phân tích này nhằm hỗ trợ các quốc gia có thu nhập thấp trong việc quyết định vay vốn, đảm bảo phù hợp với nhu cầu tài chính và khả năng trả nợ hiện tại cũng như tương lai, đồng thời xem xét hoàn cảnh đặc thù của từng quốc gia.

Hướng dẫn các quyết định cho vay nhằm đảm bảo nguồn tài chính được cung cấp cho các quốc gia thu nhập thấp, với điều kiện phù hợp với mục tiêu phát triển và khả năng chịu đựng nợ dài hạn.

Việc cải thiện đánh giá của WB và IMF cùng với những khuyến nghị chính sách cho khu vực này sẽ góp phần nhanh chóng loại bỏ các khủng hoảng tiềm ẩn có thể xảy ra.

Trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng Khung phân tích DSF phiên bản cập nhật năm 2017.

Mô hình DSF (2017) được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ngưỡng nợ tối đa của một quốc gia thông qua việc áp dụng một chỉ số hỗn hợp.

Chỉ số composite indicator (CI) đo lường tác động của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm chỉ số CPIA trung bình, tăng trưởng GDP thực, kiều hối, dự trữ quốc tế và tăng trưởng toàn cầu.

(g và g w lần lượt là tăng trưởng quốc gia và tăng trưởng quốc tế, tất cả các biến số đều ở dạng phần trăm, trừ chỉ số CPIA.) β1 = 0.385; β2 = 2.719; β3 = 2.022; β4 = 4.052; β5 = −3.990; β6 = 13.520

Chỉ số CI được tính toán dựa trên trung bình 10 năm của các biến số, bao gồm 5 năm dữ liệu quá khứ và 5 năm dự đoán Thời gian này giúp đảm bảo tính ổn định trong xếp hạng quốc gia và giảm thiểu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế Việc kết hợp dữ liệu quá khứ và dự báo giúp cân bằng các kết quả trước đó và những thay đổi dự đoán, đảm bảo rằng cả những cải thiện trong tương lai và kết quả lịch sử đều ảnh hưởng đến xếp hạng Đối với chỉ số CPIA, giá trị gần nhất sẽ được tính cố định cho 5 năm dự báo.

Bản DSF năm 2017 đã có những cải tiến quan trọng nhằm duy trì tính phù hợp với bối cảnh tài chính thay đổi nhanh chóng ở các nước thu nhập thấp, giúp đo lường rủi ro nợ xấu một cách toàn diện hơn Khác với phiên bản 2012 chỉ dựa vào chỉ số CPIA, DSF 2017 tích hợp nhiều biến số cụ thể cho từng quốc gia, tăng cường khả năng dự báo Bên cạnh đó, phiên bản mới cũng xem xét các yếu tố tương lai, tạo sự liên kết tốt hơn với các cơ quan có thẩm quyền, trong khi DSF 2012 chủ yếu dựa vào dữ liệu quá khứ Điểm CI từ DSF 2017 sẽ xác định xếp hạng của mỗi quốc gia vào một trong ba nhóm: yếu, trung bình, hoặc mạnh.

Bảng 1: Ngưỡng nợ nguy hiểm cho nợ công nước ngoài

Tỷ lệ phần trăm giá trị nợ hiện tại

Tỷ lệ phần trăm nghĩa vụ nợ

GDP Xuất khẩu Xuất khẩu

Bảng 2: Ngưỡng nợ nguy hiểm áp dụng cho tổng nợ công

Dựa trên những ngưỡng nguy hiểm trên, chúng ta có thể xếp hạng tình hình nợ trong nước theo 4 mức nguy cơ được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3: Mức rủi ro vỡ nợ

Rủi ro vỡ nợ thấp Tất cả các chỉ số nợ đều thấp hơn so với ngưỡng giới hạn.

Rủi ro vỡ nợ trung bình có thể được kiểm soát khi các chỉ số nợ nằm trong ngưỡng an toàn Tuy nhiên, các yếu tố ngoại sinh bất ngờ hoặc thay đổi chính sách vĩ mô đột ngột có thể đẩy các chỉ tiêu này lên cao hơn các giới hạn cho phép, tiềm ẩn rủi ro vỡ nợ.

Rủi ro vỡ nợ cao Một hoặc nhiều chỉ tiêu về nợ trong mô hình cơ sở vi phạm ngưỡng giới hạn trong một khoảng thời gian dài.

Khủng hoảng nợ Quốc gia gặp khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Từ năm 2011 đến 2017, dư nợ công của Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi, từ 1.391 nghìn tỷ đồng lên 3.065 nghìn tỷ đồng Năm 2016, tỷ lệ nợ công đạt 64,8% GDP, gần sát với ngưỡng cho phép của Quốc hội là 65% GDP Tuy nhiên, tại hội nghị tổng kết ngành ngày 8/1/2018, mức nợ công/GDP đã giảm xuống còn 61,3%.

Bảng 4: Dư nợ và tỷ lệ nợ công/GDP từ 2011-2017

Nguồn: Bản tin nợ công số 5, các báo cáo của bộ tài chính

Cơ cấu nợ công Việt Nam

- Nợ công phân theo các cấp

Theo Luật Quản lý nợ công Việt Nam (Khoản 2 Điều 1 Luật số 29/2009/QH12), nợ công bao gồm mọi khoản nợ của Chính phủ, các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương.

Bảng 5: cơ cấu nợ công theo GDP và tỷ trọng nợ công

Nợ được chính phủ bảo lãnh/GDP (%)

Nợ chính quyền địa phương /GDP (%)

Nợ được chính phủ bảo lãnh (%)

Nợ chính quyền địa phương (%)

Nguồn: bảng tin nợ công số 5, báo cáo khác của Bộ tài chính (2016,2017)

Về cơ cấu nợ công, số liệu từ Bộ tài chính cho thấy trong giai đoạn 2011-

Tính đến năm 2017, nợ chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ công với khoảng 80%, tiếp theo là nợ được chính phủ bảo lãnh (15-20%) và nợ chính quyền địa phương chỉ chiếm 1-1,5% Từ năm 2011 đến 2016, nợ chính phủ có xu hướng tăng, đạt tỷ lệ 53,6% GDP vào năm 2016, gần sát ngưỡng quy định 54% của Quốc hội Ngược lại, tỷ lệ nợ được chính phủ bảo lãnh giảm từ 11,4% năm 2011 xuống còn 9,1% năm 2017, trong khi nợ chính quyền địa phương ít có biến động.

Hình 1: Cơ cấu nợ công Việt Nam 2016

Cơ cấu nợ công Việt Nam 2016

Nợ Chính Phủ Nợ được CP bảo lãnh Nợ chính quyền địa phương

- Nợ trong nước và nợ nước ngoài

Tỷ trọng nợ trong nước của Chính phủ đang gia tăng đáng kể, từ 39% vào năm 2011 lên 59% vào năm 2015, trong khi tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng.

61% năm 2011 xuống còn 41% năm 2015, như vậy là phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030.

Hình 2: Nợ công vay trong nước và ngoài nước giai đoạn 2011 - 2016

Nợ công vay trong nước và vay ngoài nước giai đoạn 2011 - 2016

Nợ trong nước Nợ nước ngoài

Nguồn: số liệu tổng hợp từ Bản tin nợ công số 5 và các báo cáo của Bộ tài chính

- Cơ cấu nợ công theo kỳ hạn và lãi suất

Trong giai đoạn 2011-2013, áp lực huy động vốn lớn khiến nợ trong nước chủ yếu phát hành trái phiếu ngắn hạn, dẫn đến tăng áp lực trả nợ Tuy nhiên, sau khi thực hiện Nghị quyết số 78/2014/NQ-QH13 và Nghị quyết số 99/2015/NQ-QH13, Bộ Tài chính đã chỉ đạo kéo dài thời hạn phát hành trái phiếu Từ năm 2014, sự tham gia tích cực của các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí đã làm thay đổi cấu trúc sản phẩm trái phiếu, với xu hướng phát hành trái phiếu kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên Đặc biệt, năm 2016, Kho bạc đã có những bước tiến đáng kể trong việc phát hành trái phiếu dài hạn.

Nhà nước đã phát hành thành công các loại trái phiếu với đa dạng kỳ hạn: 7 năm, 20 năm và kỳ hạn siêu dài 30 năm.

Từ năm 2011 đến 2015, lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn trong nước đã giảm mạnh từ 12%/năm xuống khoảng 6,5% vào năm 2014 và 6% vào năm 2015, điều này đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu trong nước Đối với nợ nước ngoài, lãi suất bình quân từ các khoản vay ODA và vay ưu đãi vào cuối năm 2015 chỉ khoảng 2%/năm Mặc dù lãi suất, tỷ giá và lạm phát có tác động đến việc gia tăng nợ công Việt Nam, nhưng mức độ ảnh hưởng này được đánh giá là không đáng kể.

- Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công

Cơ cấu đồng tiền trong danh mục nợ của Chính phủ chủ yếu tập trung vào một số loại tiền tệ quan trọng, trong đó đồng Việt Nam chiếm 55% và đồng USD chiếm 16%.

Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và Euro chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng tiền khác.

Hình 3: Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công

Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công

VND USD JPY EUR Khác

Nguồn: số liệu trích dẫn từ nội dung phỏng vấn Phó Cục trưởng

Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Võ Hữu Hiển.

2.2 Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam trên các ngưỡng nợ của IMF và WB

Năm 2016, Quốc hội Việt Nam quy định mức trần nợ công là 65% GDP, trong khi nợ công lúc đó đã đạt 64.73% GDP Mặc dù hiện tại nợ công chưa vượt mức cho phép, nhưng đã ở mức gần sát, cho thấy tình hình nợ công đang ở mức nguy hiểm Điều này đặt ra thách thức lớn cho chính phủ trong việc đưa ra các quyết sách nhằm giảm nợ công xuống mức hợp lý, ít rủi ro và bền vững cho sự phát triển kinh tế và xã hội.

Tính đến tháng 7 năm 2017, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách các quốc gia có thu nhập thấp, do đó khung nợ bền vững DSF vẫn được áp dụng Tuy nhiên, từ tháng 7/2017 trở đi, quy định này sẽ không còn hiệu lực.

Mặc dù mong muốn đánh giá mức nợ công Việt Nam theo khung nợ bền vững DSF với số liệu năm 2016 và 2017, nhưng hiện tại chỉ có số liệu CPIA năm 2015 được công bố trên kho dữ liệu của WB Thêm vào đó, từ tháng 7/2017, Việt Nam không còn nằm trong diện áp dụng khung nợ DSF Do đó, nhóm nghiên cứu chỉ có thể tổng hợp số liệu CPIA đến năm 2015 và sử dụng kết quả CPIA trung bình của năm 2015 cho năm 2016 Kết quả nghiên cứu dưới đây vì vậy không hoàn toàn chính xác và chỉ mang tính chất tham khảo.

Bảng 6 Tổng hợp 16 chỉ số CPIA của Việt Nam

Quản lý kinh tế vĩ mô 3.5 4 4 4 4

Xây dựng nguồn nhân lực 4 4 4 4 4

Bảo vệ xã hội và lao động 3.5 3.5 3.5 3.5 3.5

Tính bền vững của môi trường 3.5 3.5 3.5 4 4

Quyền/ luật sở hữu dựa trên nguyên tắc quốc gia

Quản lý tài chính và ngân sách 4 3.5 3.5 3.5 3.5

Hiệu quả huy động vốn 4 4 4 4 4

Chất lượng hành chính công 3.5 3.5 3.5 3 3.5

Tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và tham nhũng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp theo WB Data

Sau khi tính toán chỉ số CPIA trung bình dựa trên 16 tiêu chí, chúng ta có thể phân loại nước ta theo các nhóm sau: nếu điểm CPIA trung bình nhỏ hơn hoặc bằng 3.25, nước được coi là có chính sách yếu; từ 3.25 đến dưới 3.75, nước có chính sách trung bình; và nếu điểm lớn hơn hoặc bằng 3.75, nước được đánh giá là có chính sách tốt.

Bảng 7 kết quả tính CPIA trung bình của Việt Nam

Nguồn: tác giả tự tổng hợp và tính

Theo kết quả tính toán được từ bảng trên ta thấy được rằng Việt Nam từ năm

Từ năm 2011 đến 2014, Việt Nam được đánh giá có chính sách tốt, nhưng vào năm 2015, chỉ số CPIA trung bình bất ngờ giảm xuống dưới 3.75, dẫn đến việc Việt Nam bị xếp vào danh sách các quốc gia có chính sách trung bình.

Data on historical GDP and GDP forecasts are sourced from the World Economic Outlook (WEO) published by the IMF in April 2018 Information regarding remittances is obtained from the Migration and Remittances Data provided by the World Bank Additionally, foreign exchange reserve figures are also referenced from reliable sources.

Theo báo cáo từ WB và cafef, số liệu kim ngạch nhập khẩu được thu thập từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong khi thông tin về tốc độ tăng trưởng trong quá khứ và dự báo cho Việt Nam cũng như toàn cầu được trích dẫn từ IMF.

Bảng 8:Số liệu từ 2011 đến 2021 các biến số để tính CI

Dữ trữ ngoại hối/nhập khẩu

Tốc độ tăng trưởng thếgiới (%)

Theo mô hình DSF (2017), để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ngưỡng nợ tối đa của một quốc gia, mô hình này sử dụng chỉ số hỗn hợp (composite indicator - CI).

KẾT LUẬN KÈM THEO GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Nghiên cứu đã áp dụng nhiều kỹ thuật phân tích để đánh giá tính bền vững của nợ công tại Việt Nam Theo khung nợ bền vững DSF (Debt Sustainability Framework), Việt Nam hiện vẫn duy trì trong vùng an toàn về nợ công.

Về cơ bản, các kết quả nghiên cứu nói trên về cơ bản là khá phù hợp với các nghiên cứu trước đây

Tuy nhiên, có một điểm chúng ta vẫn cần lưu ý là dựa theo mô hình DSF

(2017) thì nợ công của VN vẫn có độ rủi ro khi có đến 2/5 chỉ số vượt ngưỡng cảnh báo của mô hình DSF (2017) của IMF và WB.

Kết luận nghiên cứu giai đoạn 2011–2017 chỉ áp dụng cho Việt Nam khi chưa tốt nghiệp ODA, với mô hình DSF so sánh theo khung nợ cho các nước thu nhập thấp (LICs) Tuy nhiên, sau khi Việt Nam "tốt nghiệp ODA" và được xếp vào nhóm nước có thu nhập trung bình (MICs), kết quả nghiên cứu sẽ có sự thay đổi Do đó, khi có đủ dữ liệu và khung nợ mới, cần tiếp tục nghiên cứu để đánh giá tính bền vững của nợ công.

Trước khủng hoảng nợ công toàn cầu, chính phủ Việt Nam cần học hỏi và áp dụng những giải pháp hiệu quả để quản lý nợ công, nhằm duy trì tỷ lệ nợ ở mức an toàn Dưới đây là một số biện pháp nhằm cải thiện tình hình nợ công tại Việt Nam.

Để giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN), cần tăng cường tính kỷ luật tài khóa thông qua việc điều chỉnh nguồn thu và chi NSNN phù hợp với thực tế Chính phủ (CP) cần cải cách hệ thống thuế nhằm giảm gánh nặng thuế, tạo nguồn thu ổn định và cân bằng Việc giảm quy mô thu NSNN về mức hợp lý và giảm sự phụ thuộc vào nguồn thu từ khai thác tài nguyên là cần thiết Ngoài các giải pháp kỹ thuật như giảm thuế suất và mở rộng phạm vi tính thuế, việc nâng cao hiệu quả quản lý thuế cần được ưu tiên hàng đầu Trong bối cảnh sức cầu yếu và doanh nghiệp gặp khó khăn, việc tăng thu sẽ khó khả thi hơn so với việc cắt giảm chi tiêu.

Thứ hai, chính phủ cần xem xét và điều chỉnh nguyên tắc hạch toán của mình.

Nghiên cứu về nợ công ở Việt Nam gặp khó khăn do thiếu dữ liệu và thông tin minh bạch Để quản lý và đánh giá chính xác tình hình nợ công, cần công khai thông tin liên quan Hiện tại, cách đo lường nợ công ở Việt Nam có sự khác biệt so với các tổ chức quốc tế, do đó, cần điều chỉnh phương pháp tính toán để phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế Bên cạnh đó, việc các tập đoàn kinh tế nhà nước công bố vỡ nợ mà không ghi nhận vào nợ công gây ra sự thiên lệch trong đánh giá Do đó, nợ của doanh nghiệp nhà nước và nợ của ngân hàng trung ương cần được tính vào nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế để có cái nhìn khách quan hơn.

Việc phát triển thị trường nợ trong nước là giải pháp hiệu quả thay thế cho vay nợ nước ngoài, đặc biệt là thông qua việc mở rộng thị trường trái phiếu chính phủ cả sơ cấp và thứ cấp Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy thị trường trái phiếu chính phủ mà còn kích thích sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Tuy nhiên, để đảm bảo sự cân bằng, cần có các chính sách tài khóa và tiền tệ hợp lý nhằm tránh hiện tượng lấn át đầu tư tư nhân.

Chính phủ cần nâng cao phối hợp điều hành chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) để đảm bảo sự phát triển bền vững nền kinh tế Việc phối hợp này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng và đòi hỏi sự thiết lập cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin cũng như hỗ trợ tham vấn và đóng góp ý tưởng giữa các đơn vị chức năng liên quan Sự phối hợp CSTT và CSTK cần hướng đến hai mục tiêu chính: duy trì mức độ ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Việc "thắt chặt" hợp lý nhằm kiểm soát lạm phát, kết hợp với việc từng bước "nới lỏng" thận trọng, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh Điều này không chỉ giúp duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững mà còn xác lập cơ sở kinh tế vững chắc cho việc thực thi chính sách tiền tệ.

Việc tăng vay nợ có thể gây ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, do đó, Việt Nam cần xem xét các chính sách khác để đảm bảo tính ổn định và minh bạch cho nền kinh tế Điều này sẽ giúp thu hút vốn đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững và lâu dài.

Vào thứ Sáu, chính phủ cần thiết lập một hệ thống chỉ tiêu an toàn nợ và giới hạn nợ hợp lý để tăng cường kỷ luật tài khóa và ứng phó kịp thời với khủng hoảng nợ Các chỉ tiêu này bao gồm tổng nợ, dòng chi trả nợ trong tương lai và giới hạn nợ, được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm so với GDP và tổng kim ngạch xuất khẩu Đồng thời, giới hạn nghĩa vụ nợ cũng cần được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm của tổng thu thuế và dự trữ ngoại hối.

Nợ công của Việt Nam hiện đang ở mức cao và có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong tương lai Mặc dù điều này có thể gây lo ngại, nhưng nếu được quản lý và sử dụng hiệu quả, nợ công có thể trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển quốc gia.

Việc đánh giá chính xác nợ công và thực chất của nó là cực kỳ quan trọng, vì chỉ chú trọng vào tỷ lệ nợ công cao có thể gây hoang mang và căng thẳng trong xã hội Ngược lại, sự yên tâm với tỷ lệ nợ công an toàn mà không phân tích cách sử dụng và khả năng trả nợ có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách Trước những rủi ro tiềm ẩn từ nợ công tại Việt Nam, hy vọng Chính phủ và các bộ, ban, ngành sẽ đưa ra các quyết định và giải pháp hợp lý để giúp đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn.

Nhóm tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao tính bền vững của nợ công Việt Nam trong thời gian tới Đồng thời, chính phủ cần triển khai các giải pháp bổ sung, trong đó có việc tăng cường năng suất lao động.

Ngày đăng: 11/10/2022, 06:43

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), “Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Số 14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình nợ công và quản lýnợ công ở Việt Nam
Tác giả: Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt
Năm: 2011
4. Vũ Thành Tự Anh (2010), “Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam”, http://www.tinkinhte.com/viet- nam/phan-tich-du-bao/tsvu-thanh-tu-anh-tinh-ben-vung-cua-no-cong-o-viet-nam.nd5- dt.99635.113121.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam
Tác giả: Vũ Thành Tự Anh
Năm: 2010
5. ThS. Nguyễn Tuấn Tú (2012) “Nợ công Việt Nam hiện nay, Thực trạng và giải pháp”6 Bộ tài chính, Cân đối ngân sách Nhà nước năm 2011 – 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nợ công Việt Nam hiện nay, Thực trạng và giảipháp”6 Bộ tài chính
17. TS. Nguyễn Thị Lan. (2017). Nợ công Việt Nam có thực sự đang ở mức an toàn? từ http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-244/muc-luc-769/no-cong-viet-nam-co-thuc-su-dang-o-muc-an-toan.375764.aspx Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nợ công Việt Nam có thực sự đang ở mức an toàn
Tác giả: TS. Nguyễn Thị Lan
Năm: 2017
20. Ngân hàng Nhà nước (2016). Bàn về nợ công Việt Nam hiện nay. Truy cập ngày06/03/2019 từ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về nợ công Việt Nam hiện nay
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước
Năm: 2016
14. World bank. Data- catalog/CPIA.Truy cập ngày 02/3/2019, từ https://datacatalog.worldbank.org/search?search_api_views_fulltext_op=AND&query=CPIA&nid=&sort_by=search_api_relevance&sort_by=search_api_relevance Link
1. Phạm Thế Anh, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Trí Dũng & Tô Trung Thành (2013) Khác
7. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2017), Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2016 Khác
8. Bộ Tài chính, Bản tin nợ nước ngoài số 7, tháng 7/2011 Khác
9. Bộ Tài Chính, Bản tin nợ công số từ 5, 6/2017 10. Dự toán NSNN năm 2011 - 2015 Khác
10. Manasse P. & Roubini N. (2005), Rules of Thumb for Sovereign Debt Crises, IMF working paper No. 05/42 Khác
11. IMF (9/2017), Review of the debt sustainability framework in low-income countries: Proposed reforms Khác
12. IMF (2/2018), Guidance Note On The Bank-Fund Debt Sustainability Framework For Low Income Countries Khác
13. World Bank (2006), How to do a Debt Sustainability Analysis for Low-Income Countries Khác
15. Bộ Tài chính (2017), Báo cáo tình hình thực hiện NSNN Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2: Ngưỡng nợ nguy hiểm áp dụng cho tổng nợ công - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 2 Ngưỡng nợ nguy hiểm áp dụng cho tổng nợ công (Trang 16)
Bảng 1: Ngưỡng nợ nguy hiểm cho nợcơng nước ngồi Tỷ lệ phần trăm giá trị nợ - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 1 Ngưỡng nợ nguy hiểm cho nợcơng nước ngồi Tỷ lệ phần trăm giá trị nợ (Trang 16)
Bảng 4: Dư nợ và tỷ lệ nợ công/GDP từ 2011-2017 - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 4 Dư nợ và tỷ lệ nợ công/GDP từ 2011-2017 (Trang 17)
Hình 1: Cơ cấu nợ công ViệtNam 2016 - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Hình 1 Cơ cấu nợ công ViệtNam 2016 (Trang 18)
Nguồn: bảng tin nợ công số 5, báo cáo khác của Bộ tài chính (2016,2017) - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
gu ồn: bảng tin nợ công số 5, báo cáo khác của Bộ tài chính (2016,2017) (Trang 18)
Hình 2: Nợcơng vay trong nước và ngoài nước giai đoạn 2011-2016 - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Hình 2 Nợcơng vay trong nước và ngoài nước giai đoạn 2011-2016 (Trang 19)
Hình 3: Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Hình 3 Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công (Trang 20)
Bảng 6. Tổng hợp 16 chỉ số CPIA của ViệtNam                                     Năm - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 6. Tổng hợp 16 chỉ số CPIA của ViệtNam Năm (Trang 21)
Bảng 7. kết quả tính CPIA trung bình của ViệtNam - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 7. kết quả tính CPIA trung bình của ViệtNam (Trang 22)
Theo mơ hình DSF (2017) để nhận biết được các yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới ngưỡng nợ tối đa một nước, mơ hình DSF dùng một chỉ số hỗn hợp (composite indicator- CI) - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
heo mơ hình DSF (2017) để nhận biết được các yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới ngưỡng nợ tối đa một nước, mơ hình DSF dùng một chỉ số hỗn hợp (composite indicator- CI) (Trang 23)
Từ mơ hình này, nhóm nghiên cứu đã tính ra CI của các năm từ 2001 đến 2011. - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
m ơ hình này, nhóm nghiên cứu đã tính ra CI của các năm từ 2001 đến 2011 (Trang 24)
Nhóm nghiên cứu sử dụng mơ hình tương quan Pearson và hồi quy tuyến tính bội trong phần mêm SPSS - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
h óm nghiên cứu sử dụng mơ hình tương quan Pearson và hồi quy tuyến tính bội trong phần mêm SPSS (Trang 25)
Kết quả cho ra 3 bảng Model Summary, Anova và Coefficients. - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
t quả cho ra 3 bảng Model Summary, Anova và Coefficients (Trang 27)
Bảng 11. Model Summary - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 11. Model Summary (Trang 27)
Bảng 12. Anova - (Tiểu luận FTU) đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam
Bảng 12. Anova (Trang 28)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w