Giới thiệu chung về WTO
1.1.1 Bối cảnh ra đời của WTO
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) – tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Sau Thế chiến II, hơn 50 quốc gia đã tham gia đàm phán nhằm thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) để điều chỉnh hợp tác kinh tế toàn cầu Vào tháng 2/1946, tại Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm, dự thảo Hiến chương cho ITO đã được thực hiện, không chỉ quy định các quy tắc thương mại toàn cầu mà còn mở rộng sang các vấn đề về việc làm, hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
Trong quá trình thảo luận về Hiến chương ITO, các quốc gia đã tiến hành đàm phán giảm và ràng buộc thuế quan đa phương, dẫn đến 45.000 nhượng bộ thuế quan có giá trị khoảng 10 tỷ USD, tương đương 1/5 tổng giá trị thương mại toàn cầu Các nước cũng đã đồng ý áp dụng ngay lập tức một số quy tắc thương mại từ Dự thảo Hiến chương ITO để bảo vệ giá trị các nhượng bộ này Kết quả là các quy định thương mại và nhượng bộ thuế quan đã được đưa vào Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
Vào ngày 23/10/1947, đại diện của 23 quốc gia đã ký "Nghị định về việc áp dụng tạm thời GATT" (PPA), chính thức đưa Hiệp định GATT vào hiệu lực từ ngày 1/1/1948 Đến cuối tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về Thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc ở Havana Tuy nhiên, một số quốc hội, đặc biệt là quốc hội Mỹ, đã không phê chuẩn Hiến chương này.
Vào tháng 12 năm 1950, Chính phủ Mỹ thông báo không vận động Quốc hội thông qua Hiến chương Havana, dẫn đến việc Hiến chương này không còn tác dụng thực tế Mặc dù chỉ là tạm thời, GATT đã trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời vào năm 1995.
Trong 47 năm tồn tại, thông qua 8 vòng đàm phán, GATT đã có những đóng góp to lớn trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới thông qua việc đảm bảo thuận lợi hóa và thúc đẩy tự do hóa thương mại Với việc giảm thuế liên tục, từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển còn khoảng 4% và các nước đang phát triển còn khoảng 15%
GATT đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng thương mại toàn cầu, với mức tăng trung bình 4,86%/năm từ 1950 đến 1970 (VCCI, 2007) Trong năm vòng đàm phán đầu tiên, GATT chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan Tuy nhiên, từ vòng đàm phán Kennedy trở đi, GATT đã mở rộng sang các lĩnh vực như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ Kết quả là, sau vòng đàm phán cuối cùng, GATT đã chuyển mình thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Trước khi WTO ra đời vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang xem xét 25 đơn xin gia nhập.
Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Mặc dù GATT đã đạt được nhiều thành công trong hoạt động của mình, nhưng đến cuối những năm 80 và đầu những năm 90, tổ chức này đã bộc lộ những bất cập do sự biến đổi của tình hình thương mại quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật.
Trong bối cảnh GATT thành công trong việc giảm thuế quan và các cuộc suy thoái kinh tế diễn ra vào những năm 70 và 80, nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan để đối phó với hàng nhập khẩu Đồng thời, các hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới cũng xuất hiện Thêm vào đó, các thỏa thuận song phương giữa các chính phủ Tây Âu và Bắc Mỹ đã được ký kết, dẫn đến những biến đổi làm giảm giá trị của việc giảm thuế quan.
Hội Cán sự FTU tập trung vào thương mại quốc tế, trong khi phạm vi của GATT không cho phép thảo luận một cách cụ thể và sâu rộng về các vấn đề liên quan.
Đến những năm 80, GATT không còn phù hợp với thực tiễn toàn cầu, khi mà hiệp định này, được thành lập vào năm 1948, chủ yếu chỉ điều tiết thương mại hàng hóa hữu hình Sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế đã mở rộng sang các lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, du lịch, xây dựng, đầu tư và sở hữu trí tuệ Các loại hình thương mại dịch vụ này ngày càng phát triển và trở thành phần quan trọng trong thương mại quốc tế, đòi hỏi một cơ chế điều tiết mới với mức độ điều chỉnh rộng rãi và hiện đại.
Trong một số lĩnh vực thương mại hàng hóa, GATT vẫn còn tồn tại những lỗ hổng cần cải thiện, đặc biệt là trong nông nghiệp và hàng dệt may Những nỗ lực tự do hóa thương mại trong hai lĩnh vực này chưa đạt được thành công như mong đợi, dẫn đến nhiều ngoại lệ với các quy tắc chung.
GATT, mặc dù là một hiệp định quan trọng, nhưng có nhiều bất cập trong cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp Việc tham gia GATT dựa trên tinh thần tự nguyện, không đủ sức đáp ứng nhu cầu của thương mại quốc tế trong những năm 80 và 90, khi cần một tổ chức thường trực với nền tảng pháp lý vững chắc Hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT thiếu cơ chế điều tiết chặt chẽ và không có thời gian biểu nhất định, dẫn đến việc các vụ việc tranh chấp thường kéo dài và khó đảm bảo công bằng cho các bên liên quan Do đó, cải tiến và hoàn thiện hệ thống này là điều cấp thiết để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế hiệu quả hơn.
Những yếu tố kết hợp với nhiều nhân tố khác đã thuyết phục các bên tham gia GATT nỗ lực củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa phương Từ năm 1986 đến 1994, các nước đã thảo luận, sửa đổi và cập nhật Hiệp định GATT cùng các hiệp định phụ trợ để thích ứng với môi trường thương mại thế giới đang thay đổi Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết định và biên bản giải thích liên quan, đã tạo thành GATT 1994.
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
Các hiệp định riêng biệt trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp và Tự vệ, kết hợp với GATT 1994, tạo thành các yếu tố quan trọng của Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hóa.
Vòng đàm phán Uruguay đã thông qua nhiều quy định mới về thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ Một trong những thành công nổi bật của vòng đàm phán này là việc các quốc gia đã ký Tuyên bố Marrakesh, thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chính thức hoạt động từ ngày 1/1/1995.
1.1.2 Mục tiêu và chức năng hoạt động của WTO 1.1.2.1 Mục tiêu của WTO
Các nguyên tắc cơ bản của WTO liên quan đến ngành dịch vụ logistics
1.2.1 Khái niệm logistics và dịch vụ logistics 1.2.1.1 Khái niệm logistics
Theo UNESCAP, logistics là quá trình quản lý việc vận chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, sản xuất thành phẩm, cùng với việc xử lý thông tin liên quan, từ nguồn gốc đến nơi tiêu thụ cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng.
Theo Hội đồng quản trị logistics của Mỹ, logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát dòng di chuyển cũng như lưu kho nguyên vật liệu thô và hàng hóa thành phẩm, cùng với thông tin liên quan đến mua sắm nguyên vật liệu Mục tiêu của quá trình này là đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Khái niệm logistics được định nghĩa cụ thể qua quan điểm của Tiến sĩ Hans-Dietrich Haasis từ Viện Kinh tế Vận tải Biển và Logistics (Đức), trong đó logistics bao gồm nhiều thành phần quan trọng.
- Cấu trúc cơ bản: Gồm cảng biển, cảng hàng không, cảng đa phương thức…
- Các thể chế tham gia: Hải quan, quản lý cảng, các Bộ ngành, các Tổ chức
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
- Dịch vụ logistics: Dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa, kho bãi, các công ty 3PL/4PL
- Kiến thức logistics: Tư vấn, trung tâm nghiên cứu, Học viện và trường Đại học
1.2.1.2 Khái niệm dịch vụ logistics
Theo Luật Thương mại Việt Nam 2005 (Điều 233), dịch vụ logistics được định nghĩa là hoạt động thương mại trong đó thương nhân thực hiện nhiều công việc liên quan đến hàng hóa, bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, làm thủ tục hải quan, tư vấn khách hàng, đóng gói và giao hàng, tất cả đều theo thỏa thuận với khách hàng để nhận thù lao.
Logistics là một chu trình tổng hợp từ giai đoạn tiền sản xuất đến khi hàng hóa được giao đến tay người tiêu dùng cuối cùng Dịch vụ logistics bao gồm việc nhập nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, quy trình sản xuất hàng hóa, và phân phối hàng hóa đến tay người tiêu dùng.
Các dịch vụ logistics chủ yếu bao gồm: bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả bốc xếp container; kho bãi và lưu giữ hàng hóa, với hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị; đại lý vận tải và làm thủ tục hải quan; hỗ trợ quản lý thông tin vận chuyển và lưu kho; xử lý hàng hóa trả lại, tồn kho, quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối; cùng với dịch vụ cho thuê và thuê mua container.
Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải rất đa dạng, bao gồm dịch vụ vận tải biển, vận tải thủy nội địa, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường bộ và vận tải đường ống Những dịch vụ này đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng và đảm bảo hàng hóa được vận chuyển an toàn, nhanh chóng đến tay người tiêu dùng.
Các dịch vụ logistics bao gồm kiểm tra và phân tích kỹ thuật, dịch vụ bưu chính, thương mại bán buôn và bán lẻ, cùng với quản lý hàng tồn kho, thu gom và phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng, cũng như các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
1.2.2 Dịch vụ logistics trong WTO
Trong khuôn khổ các phân ngành dịch vụ của WTO, không tồn tại mục riêng cho “dịch vụ logistics”, mà chỉ có một số hoạt động thuộc nhóm dịch vụ hỗ trợ vận tải Mặc dù nhiều thành viên WTO đã ký cam kết theo Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) cho các phân đoạn riêng lẻ của dịch vụ logistics như đại lý thu cước, thu xếp giao nhận và các thủ tục liên quan đến hàng hóa, hiện vẫn chưa có danh sách chính thức kiểm tra cụ thể cho các dịch vụ logistics Các thành viên WTO thường tham khảo Danh sách phân loại ngành dịch vụ (W/120), được xây dựng dựa trên hệ thống Bảng phân loại dịch vụ tạm thời của LHQ (CPC) Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã tổng hợp và phân loại các dịch vụ thuộc lĩnh vực logistics.
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
Bảng 1.1: Bảng phân loại dịch vụ logistics
Nhóm dịch vụ Chi tiết mô tả dịch vụ Mã CPC
Nhóm các dịch vụ các khoản cước cứng được công bố sẵn " tầng 1"
Dịch vụ giao nhận và thủ tục cho hàng hóa 741
Dịch vụ bảo quản và lưu kho 742
Dịch vụ đại lý thu cước vận tải 748
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác 749
Nhóm các dịch vụ liên quan đến vận tải " tầng 2"
Dịch vụ vận tải đường biển
Dịch vụ lai dắt tàu 7214
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải đường biển 745
Dich vụ vận tải thủy nội địa
Dich vụ vận tải đường hàng không
Vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không 732
Dịch vụ cho thuê máy bay có người điều khiển 734
Dịch vụ vận tải đường sắt
Dịch vụ vận tải đường bộ
Dịch vụ cho thuê phương tiện vận tải có người điều khiển 7124
Dịch vụ bưu điện và chuyển phát nhanh
Dịch vụ chuyển phát nhanh 7512
Nhóm các dịch vụ liên quan đến vận tải "tầng 3"
Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật
Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật 8676
Dịch vụ đại lý hưởng hoa hồng
Dịch vụ đại lý hưởng hoa hồng 621
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
Dịch vụ bán lẻ lương thực, thực phẩm 631
Dịch vụ bán lẻ hàng phi lương thực 632
Kinh doanh phương tiện có động cơ 6311
Kinh doanh phụ tùng, bộ phận phương tiện có động cơ 6313 Kinh doanh xe máy và xe trượt tuyết và các phụ tùng bộ phận có liên quan 6121
Nhóm các dịch vụ logistics không thuộc nhóm vận tải hàng hóa nòng cốt " tầng 3"
Dịch vụ cho thuê các thiết bị có liên quan
Dịch vụ cho thuê xe oto riêng không người lái 83101 Dịch vụ cho thuê phương tiện vận tải không người lái 83102
Dịch vụ cho thuê tàu không người lái 83103
Dịch vụ cho thuê máy bay không người lái 83104
Máy tính và các dịch vụ liên quan
Dịch vụ xử lý dữ liệu 843
Dịch vụ xây dựng cơ sở dữ liệu 844
Dịch vụ tư vấn quản lý và các hoạt động liên quan
Dịch vụ tư vấn quản lý tổng thể 86501
Dịch vụ tư vấn quản lý marketing 86503
Dịch vụ tư vấn quản lý sản xuất 86505
Dịch vụ bất động sản
Dịch vụ bất động sản bao gồm bán và cho thuê 821
Dịch vụ truyền thông tin và dữ liệu
Dịch vụ truyền thông tin và dữ liệu 7523
(Nguồn: USITC, Final report an investigation into the measures affecting the integration of ASEAN priority sectors- The Case of Logistics)
1.2.3 Các nguyên tắc cơ bản của WTO liên quan đến dịch vụ logistics
Việt Nam không có cam kết riêng về ngành dịch vụ logistics trong các thỏa thuận với WTO, mà chỉ có một số cam kết liên quan đến các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực này.
Vì vậy, các nguyên tắc cơ bản của WTO đối với thương mại dịch vụ sẽ là nguyên
Hệ thống WTO hoạt động dựa trên một tập hợp các Hiệp định và quy định phức tạp, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế, bao gồm cả ngành dịch vụ logistics Tất cả các văn bản pháp lý này được xây dựng dựa trên năm nguyên tắc cơ bản của WTO.
1.2.3.1 Công khai minh bạch hóa các chính sách liên quan tới dịch vụ
Một nguyên tắc cơ bản của WTO là các thành viên phải đảm bảo tính ổn định và dự đoán được trong thương mại quốc tế Để thực hiện nguyên tắc này, các thành viên có nghĩa vụ minh bạch hóa quy định thương mại, thông báo về các biện pháp đang áp dụng và cam kết không thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho thương mại Nếu có sự thay đổi, các thành viên cần thông báo, tham vấn và bù trừ hợp lý.
WTO yêu cầu các quốc gia hạn chế việc sử dụng hạn ngạch và các biện pháp hạn chế số lượng khác Nhiều hiệp định của WTO bắt buộc chính phủ phải công khai các chính sách và thực tiễn trong nước, hoặc thông báo cho WTO Chính sách thương mại của các nước được giám sát thường xuyên thông qua cơ chế rà soát Chính sách thương mại của WTO.
1.2.3.2 Nguyên tắc tối huệ quốc (Most favoured nation- MFN)
Theo nguyên tắc MFN, các thành viên WTO phải đảm bảo không phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ mà họ cung cấp cho các đối tác thành viên khác Đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên, tuy nhiên, nguyên tắc MFN cũng có một số ngoại lệ.
Theo cam kết của từng quốc gia trong WTO, một số nước đã thành công trong việc đàm phán để miễn thực hiện nghĩa vụ đối với một số dịch vụ hoặc trong những trường hợp cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Các cam kết của Việt Nam với WTO liên quan đến dịch vụ logistics
Các cam kết trong WTO được xác định riêng cho từng phương thức cung cấp dịch vụ Theo VCCI, có bốn phương thức chính bao gồm: cung cấp dịch vụ qua biên giới, tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân.
Phương thức 1, hay còn gọi là phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới, là hình thức dịch vụ được thực hiện từ lãnh thổ của một quốc gia thành viên này sang lãnh thổ của quốc gia thành viên khác.
Phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài cho phép người tiêu dùng từ một quốc gia thành viên di chuyển đến một quốc gia thành viên khác để sử dụng dịch vụ.
Phương thức 3, hay còn gọi là phương thức hiện diện thương mại, cho phép nhà cung cấp dịch vụ từ một nước thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, hoặc chi nhánh tại lãnh thổ của một nước thành viên khác để cung cấp dịch vụ.
Phương thức 4, hay còn gọi là phương thức hiện diện thể nhân, cho phép một cá nhân cung cấp dịch vụ bằng cách di chuyển từ lãnh thổ của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên khác.
Theo phân loại của WTO, dịch vụ logistics không được định nghĩa riêng mà nằm trong các ngành như dịch vụ vận tải, dịch vụ kinh doanh, dịch vụ bưu chính viễn thông và dịch vụ phân phối Điều này cho thấy dịch vụ logistics hiện diện rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, do đó, việc kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động logistics là rất cần thiết.
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
Nghị định 140/2007/NĐ-CP được ban hành sau khi Việt Nam gia nhập WTO, quy định cách phân loại dịch vụ logistics thành ba nhóm chính: dịch vụ logistics chủ yếu, dịch vụ logistics liên quan đến vận tải và các dịch vụ logistics liên quan khác Mặc dù phân loại này phù hợp với Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với WTO, nhưng vẫn chưa phản ánh đầy đủ các loại hình dịch vụ logistics mới và hiện đại trong bối cảnh hiện nay (Đặng Đình Đào, 2011, tr.85).
1.3.1 Dịch vụ logistics chủ yếu
Gia nhập WTO, liên quan đến dịch vụ logistics, Việt Nam đã cam kết mở cửa các phân ngành sau:
- Dịch vụ xếp dỡ container
- Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa
Các dịch vụ thay mặt chủ hàng bao gồm kiểm tra vận đơn, môi giới vận tải hàng hóa, giám định hàng hóa, lấy mẫu và xác định trọng lượng, nhận hàng, và chuẩn bị chứng từ vận tải.
1.3.1.1 Dịch vụ xếp dỡ container
Theo cam kết khi gia nhập WTO, các nhà cung cấp dịch vụ xếp dỡ container nước ngoài phải thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam, với tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài không vượt quá 50% Ngoài ra, Việt Nam có quyền không cho phép các liên doanh này cung cấp dịch vụ xếp dỡ container tại các sân bay.
1.3.1.2 Dịch vụ kho bãi (CPC 742)
Theo cam kết gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ kho bãi container tại Việt Nam, bao gồm lưu kho, chất/dỡ hàng, sửa chữa và chuẩn bị container, phải thiết lập liên doanh với đối tác Việt Nam, với tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài không vượt quá 51%.
Kể từ ngày 11/1/2014, nhà đầu tư nước ngoài có quyền thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam mà không bị giới hạn về tỷ lệ vốn góp, hoặc có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU Hoi Can Su FTU
1.3.1.3 Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa (CPC 748)
Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa, theo cam kết, được định nghĩa là bao gồm cả dịch vụ giao nhận hàng hóa Các hoạt động trong dịch vụ này bao gồm tổ chức và điều hành chuyên chở hàng hóa, tìm kiếm dịch vụ vận tải, chuẩn bị chứng từ và cung cấp thông tin kinh doanh liên quan.
Theo cam kết, từ ngày gia nhập, việc thành lập liên doanh sẽ được cho phép với tỷ lệ vốn nước ngoài tối đa 51% Sau 7 năm kể từ ngày gia nhập, các quy định này sẽ được xem xét lại.
Công văn số 9258/BCT-KH ngày 19/9/2014 của Bộ Công thương khẳng định rằng dịch vụ kho bãi (CPC 742) và đại lý vận tải hàng hóa (CP 748) sẽ được mở cửa hoàn toàn sau 7 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, với quy định cho phép thành lập liên doanh có vốn nước ngoài không quá 51% trong giai đoạn đầu Theo Nghị định số 140/2007/NĐ-CP, nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập công ty liên doanh với tỷ lệ vốn góp không quá 51%, nhưng từ năm 2014, quy định này đã được nới lỏng Tuy nhiên, hiện tại, quy định của Nghị định không còn phù hợp với cam kết của Việt Nam trong WTO Nghị quyết số 71/2006/QH11 nêu rõ rằng nếu quy định của pháp luật Việt Nam mâu thuẫn với cam kết WTO, thì các quy định của WTO sẽ được ưu tiên áp dụng.
Quy định trong Nghị định 140/2007/NĐ-CP về việc thành lập công ty kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa đã trở nên không còn phù hợp với các quy định hiện hành.