1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tìm hiểu về bước đột phá tư duy kinh tế trong tác phẩm “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” của Đặng Phong.

39 9 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tìm Hiểu Về Bước Đột Phá Tư Duy Kinh Tế Trong Tác Phẩm “Phá Rào Trong Kinh Tế Vào Đêm Trước Đổi Mới” Của Đặng Phong.
Tác giả Đặng Phong
Người hướng dẫn Giảng Viên: Hoàng Thị Thúy
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thể loại bài thảo luận
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 39
Dung lượng 325,69 KB

Cấu trúc

  • A. Tác phẩm: “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” (6)
    • 1. Tác giả (6)
    • 2. Tác phẩm “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” (6)
  • B. Tìm hiểu về bước đột phá tư duy kinh tế trong tác phẩm (8)
    • I. Bối cảnh lịch sử (8)
    • II. Đột phá tư duy kinh tế trong tác phẩm (10)
  • Phần I: TỪ XÍ NGHIỆP " XÉ RÀO" ĐẾN NHÀ NƯỚC SỬA ĐỔI “HÀNG RÀO” (10)
    • 2. Những cuộc phá rào ngoạn mục của các xí nghiệp quốc doanh và vận tải (12)
    • 3. Đánh giá tổng quan (15)
  • Phần II: TỪ TIỂU NÔNG CÁ THỂ LÊN SẢN XUẤT LỚN RỒI VỀ VỚI KINH TẾ HỘ (16)
    • 1. Từ “Tiểu nông cá thể” lên “Sản xuất lớn” (16)
    • 2. Từ “Sản xuất lớn” về “kinh tế hộ” (18)
  • Phần III TỪ ''MUA NHƯ CƯỚP, BÁN NHƯ CHO'' ĐẾN THUẬN MUA VỪA BÁN (24)
    • 2. Thuận mua vừa bán nhờ Đột phá tư duy - Cải cách hệ thống giá và hệ thống ngân hàng (24)
  • Phần IV. TỪ ĐỘC QUYỀN NGOẠI THƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẾN NHỮNG “RỪNG” IMEX (29)
    • III. Tại sao phải đột phá? (31)
    • IV. Tổng quan về đổi mới tư duy kinh tế và những bài học lịch sử (32)
    • V. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay (35)
  • KẾT LUẬN (38)

Nội dung

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BÀI THẢO LUẬN Học phần LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài Tìm hiểu về bước đột phá tư duy kinh tế trong tác phẩm “Phá rào trong kinh tế vào đêm trướ.

Tác phẩm: “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới”

Tác giả

Đặng Phong (4/11/1937 – 20/8/2010) là một nhà sử học kinh tế nổi tiếng người Việt Nam, sinh ra tại Khúc Thủy, Thanh Oai, Hà Nội Ông đã tốt nghiệp khoa lịch sử tại Đại học Hà Nội năm 1960 và tiếp tục hoàn thành chương trình tại Đại học Kinh tế quốc dân năm 1964 Năm 1991, ông tốt nghiệp khóa đào tạo nâng cao tại Học viện Kinh tế Địa Trung Hải ở Montpellier, Pháp.

Giáo sư Đặng Phong được coi là một cuốn từ điển sống về kinh tế Việt Nam, nổi bật với sự nghiệp nghiên cứu lịch sử kinh tế Ông đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như ủy viên Hội đồng khoa học, Trưởng phòng Lịch sử kinh tế tại Viện Kinh tế Việt Nam, và Chủ nhiệm khoa Kinh tế tại Trường đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội.

Cố giáo sư là một tác giả nổi bật với nhiều công trình nghiên cứu giá trị, đặc biệt về thời kỳ bao cấp và những bước đầu của sự nghiệp đổi mới kinh tế tại Việt Nam Ông đã tập trung vào tư duy kinh tế và những cuộc "phá rào" diễn ra trong 15 năm sau ngày thống nhất đất nước, đóng góp quan trọng vào hiểu biết về sự phát triển kinh tế của quốc gia.

Giáo sư Đặng Phong đã thu thập một khối lượng tài liệu khổng lồ và tiếp cận nhiều nhân vật cấp cao trong Đảng và Chính phủ Sau khi ông qua đời, di sản kiến thức về lịch sử Việt Nam mà ông nghiên cứu, đi khắp các tỉnh thành, phỏng vấn hàng trăm người, đã để lại cho thế hệ đọc giả hiện tại và tương lai.

Tác phẩm “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới”

Cuốn sách này nhằm mục đích tái hiện một bức tranh sinh động về những nỗ lực và sáng tạo trong thời kỳ "phá rào" ở Việt Nam Năm 1986, với Đại hội Đảng lần thứ VI, được xem là khởi đầu cho công cuộc Đổi mới, nhưng thực tế đã có nhiều đột phá trước đó Những cuộc "phá rào" này không chỉ là sự vượt qua các quy chế lỗi thời mà còn là cách để tháo gỡ những ách tắc trong cuộc sống, tạo điều kiện cho sự phát triển và mở đường cho Đổi mới.

Sau giải phóng miền Nam, mô hình kinh tế miền Bắc được áp dụng cho cả nước, nhưng không thể đơn giản áp đặt do sự khác biệt của nền kinh tế miền Nam Cuộc sống thực tế không dễ dàng thay đổi chỉ bằng mệnh lệnh, đặc biệt khi kinh tế sa sút từ năm 1978-1979, nguyên nhân chủ yếu là do bản chất của cơ chế kinh tế và sự bất lực của các phương sách cũ Thời kỳ này đánh dấu sự tìm tòi và thử nghiệm mạnh mẽ, với nhiều biện pháp phá rào được thực hiện ở các đơn vị và địa phương, tạo ra sự đa dạng về phương pháp, bước đi và kết quả, dẫn đến những sửa đổi chính sách quan trọng.

Bản thảo hoàn chỉnh của tác phẩm đã được gửi đến nhà xuất bản Tri thức và được tái phát hành trong chương trình sách "Việt Nam đương đại" với tên gọi gốc của nó.

"Phá rào" trong kinh tế Việt Nam vào đêm trước Đổi mới

Trong lần tái bản này, tác giả lấy lại để đưa vào khá nhiều cuộc phá rào ngoạn mục và tiêu biểu như:

- Khoán ở Nông trường Sông Hậu

- Đột phá ở Nhà máy Dệt Nam Định.

- Đột phá ở Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội.

- Khoán ở Công ty Xe khách Thành phố Hồ Chí Minh.

- Cuộc đấu tranh kiên trì gian khổ 20 năm để sửa đổi hệ thống giá.

Ngoài các chương mục do tác giả khảo sát và biên soạn, bài viết còn giới thiệu 3 chương hợp tác với các đồng nghiệp trẻ, bao gồm chương về Xí nghiệp Dệt Thành Công, Cơ chế một giá của Long An, và Kho bạc Tác giả đã nỗ lực tiếp cận thực tế, gặp gỡ những nhân chứng sống động để ghi lại những câu chuyện chân thực Rất nhiều người tham gia các cuộc phá rào vẫn còn sống và có thể chia sẻ kinh nghiệm của họ, mặc dù cũng có những "chiến sĩ đột phá" đã qua đời như ông Kim Ngọc và ông Năm Hoằng Trong những trường hợp này, tác giả đã tìm kiếm tài liệu và phỏng vấn người thân để hiểu rõ hơn về sự kiện.

Tìm hiểu về bước đột phá tư duy kinh tế trong tác phẩm

Bối cảnh lịch sử

Vào đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, sự phát triển nhanh chóng và phức tạp của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc phát triển lý luận và có cái nhìn mới về chủ nghĩa xã hội Đây là nền tảng khách quan cho đường lối đổi mới và cải cách mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm cả Việt Nam, đang thực hiện Thời đại này chứng kiến sự phát triển "kiểu dòng thác" của cách mạng khoa học và công nghệ, kéo theo sự phân công lao động, hợp tác quốc tế và thị trường toàn cầu Tình hình này vừa tạo ra những cơ hội quý giá vừa đặt ra thách thức lớn cho các quốc gia, đặc biệt là những nước chậm phát triển như Việt Nam.

Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đối mặt với nhiều vấn đề toàn cầu như bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, phòng chống bệnh hiểm nghèo, bùng nổ dân số và nghèo đói Để giải quyết những thách thức này, các quốc gia cần nỗ lực chung, bất kể chế độ chính trị Mỗi dân tộc phải quan tâm đến những vấn đề chung, vì đây là điểm hội tụ cho số phận và tương lai của nhân loại Những vấn đề toàn cầu này đã trở thành yêu cầu khách quan, tác động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả Việt Nam, trong bối cảnh nhiều nước xã hội chủ nghĩa tìm cách vượt qua khủng hoảng.

Công cuộc "cải cách, mở cửa" của Trung Quốc và cuộc "cải tổ" ở Liên Xô đã tạo ra những bài học quan trọng cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế - xã hội Thành công của Trung Quốc thu hút sự chú ý, trong khi thất bại của Liên Xô nhấn mạnh rằng không thể cải cách một cách triệt để mà không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị Đồng thời, thành công của các nước công nghiệp mới như Singapore cũng cung cấp những gợi ý về phát triển cho Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp Để phát triển, Việt Nam cần phát huy nội lực, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, trước đổi mới, Việt Nam đã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa với nhiều khiếm khuyết, dẫn đến sự thiếu động lực sáng tạo và khủng hoảng kinh tế - xã hội vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80.

Trước đổi mới, Việt Nam đối mặt với khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng do những sai lầm trong chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng theo mô hình lỗi thời Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình hình, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa IV và Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp Mặc dù những nỗ lực này không thể ngăn chặn khủng hoảng, chúng đã thúc đẩy đổi mới tư duy trong Đảng và xã hội, dẫn đến công cuộc đổi mới toàn diện, khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng năm 1986.

TỪ XÍ NGHIỆP " XÉ RÀO" ĐẾN NHÀ NƯỚC SỬA ĐỔI “HÀNG RÀO”

Những cuộc phá rào ngoạn mục của các xí nghiệp quốc doanh và vận tải

2.1 Xí nghiệp Dệt Thành Công

Những khó khăn, ách tắc:

Từ năm 1978, nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng do điều kiện trong nước và quốc tế, dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng nguồn nhập khẩu và nguyên liệu cho sản xuất Đến năm 1980, nhà nước chỉ cung cấp khoảng 40-50% nguyên liệu cho các nhà máy, thậm chí có những loại chỉ đạt 20%, làm cho sản xuất giảm sút đáng kể Hệ quả là hàng trăm công nhân mất việc làm, trong khi xí nghiệp không có khả năng chi trả 75% lương cho những người nghỉ việc, đẩy nhà máy đến bờ vực đóng cửa.

“Bung ra” và “cởi trói”:

Công nhân và cán bộ nhà máy đã chủ động tìm giải pháp tự cứu, "bung ra" và "cởi trói" bằng cách hợp tác với các cơ sở có khả năng tiêu thụ hàng hóa nội địa, nhằm thu ngoại tệ Họ đã liên kết với Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Cảng Sài Gòn, Công ty Xuất khẩu Thủy sản Ramexco, và Cửa hàng miễn thuế tại sân bay Tân Sơn Nhất để mở rộng thị trường và gia tăng doanh thu.

Sau khi sản xuất vải, nhà máy sẽ bán cho các đơn vị kinh tế có khả năng tiêu thụ và thu hồi ngoại tệ, từ đó công ty nhận phí và trả lại ngoại tệ cho Xí nghiệp Dệt Thành Công Trong khi thị trường xuất khẩu nông sản có nhu cầu nhưng thiếu tiền để trả cho nông dân, Xí nghiệp còn cung cấp vải cho các đơn vị xuất khẩu nông sản và hải sản, giúp họ chế biến và xuất khẩu để thu ngoại tệ Ngoài ra, vải cũng được xuất khẩu tại chỗ thông qua việc bán cho Công ty Du lịch.

Phương án 60-TC/KH không chỉ là một kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp mà còn là một đề án cải tiến cơ chế kinh tế, nhằm phục vụ cho toàn ngành Công nghiệp, không chỉ riêng một xí nghiệp.

Dòng thác chuyển đổi đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành một xu thế không thể đảo ngược Kết thúc Hội nghị, toàn ngành Công nghiệp đã đạt được sự đồng thuận về một cơ chế mới, đánh dấu một thắng lợi lớn và là bước chuẩn bị quan trọng cho sự nghiệp đổi mới trong tương lai.

2.2 Nhà máy dệt lụa Nam Định

Năm 1977, dưới tác động của lệnh cấm vận từ Mỹ và sự ngừng viện trợ từ Trung Quốc cùng một số quốc gia khác, tình hình tại nhà máy trở nên khó khăn Nhà máy buộc phải cho 30% công nhân nghỉ việc với mức lương chỉ 70%, trong khi lương thấp và phúc lợi xã hội gần như không có, khiến đời sống công nhân trở nên cực kỳ khốn khổ Gạo được cấp cho công nhân viên chức chỉ 16kg cho người làm ba ca và 13kg cho người làm hai ca, trong khi quy định về thịt chỉ cho phép mỗi công nhân làm việc nặng nhọc nhận 0,5 kg/tháng và những người không trực tiếp sản xuất chỉ được 0,3 kg/tháng Tình trạng chán nản bắt đầu lan rộng trong xí nghiệp.

“Bung ra” và “xé rào”:

Xí nghiệp không trực tiếp vay ngoại tệ nhưng đã thỏa thuận với Vietcombank và các công ty ngoại thương, nhờ đó Giám đốc Trần Minh Ngọc đã gặp gỡ các công ty xuất nhập khẩu để bàn về sáng kiến mới Mặc dù lãnh đạo và công nhân chưa hoàn toàn hài lòng, nhưng họ đã tìm thấy lối ra Với công suất máy lớn, xí nghiệp không chỉ phục vụ cho mình mà còn gia công cho các xí nghiệp khác, dẫn đến việc cần thêm công nhân làm việc liên tục Điều này tạo ra thêm việc làm cho công nhân và tăng thu nhập cho xí nghiệp Năm 1985, nhà máy đã tự cân đối 100% nguyên liệu chính bằng nguồn ngoại tệ tự có, nâng công suất lên gấp ba lần so với năm năm trước và tăng 24% nộp ngân sách so với kế hoạch Tất cả mọi người từ Giám đốc đến công nhân đều hết lòng với công việc của mình.

2.3 Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội

Nhà máy hiện chỉ hoạt động cầm chừng nhờ vào lượng vật tư dự trữ ít ỏi còn lại, trong khi nguồn nguyên liệu chủ yếu trước đây dựa vào nhập khẩu giờ đây đã gần như không còn Việc thu mua nguyên liệu hàng năm quá ít, không đủ để đảm bảo sản xuất liên tục và chất lượng nguyên liệu không đáp ứng yêu cầu chế biến Trong bối cảnh này, chỉ khi Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, xí nghiệp mới có thể phát triển trở lại.

Vào năm 1980, Nhà nước giao cho Liên hiệp Xí nghiệp thuốc lá thành phố sản xuất 150 triệu bao thuốc lá Ngày 29/11/1980, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt phát động chiến dịch sản xuất 62 triệu bao trong tháng 12 để bù đắp cho những tháng trước đó Đúng 8 giờ tối ngày 30/12, Nhà máy Thuốc lá MIC Sài Gòn hoàn thành bao thuốc lá thứ 31 triệu, và Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội cũng xuất xưởng bao thuốc lá thứ 31 triệu vào sáng 31/12 Sau đó, sản phẩm thuốc lá của nhà máy đã chiếm lĩnh thị trường, giảm thiểu thuốc lá nhập lậu, đặc biệt là trong cuộc cạnh tranh với thuốc lá SAMIT của Thái Lan, khi sản phẩm Sài Gòn Xanh có chất lượng tương đương, mẫu mã đẹp và giá cả cạnh tranh hơn.

2.4 Cơ chế ăn chia ở xí nghiệp đánh cá Côn Đảo – Vũng Tàu

Sau khi bắt đầu hoạt động, xí nghiệp đã áp dụng các nguyên tắc quản lý của cơ chế cũ, nhưng sau ba tháng, xí nghiệp không thu được lợi nhuận nào Các thủy thủ nhanh chóng nhận ra rằng mô hình quản lý mới tồn tại nhiều sơ hở, gây bất lợi cho cả Nhà nước lẫn bản thân họ.

Trước nguy cơ tan rã của Xí nghiệp Đánh cá quốc doanh, lãnh đạo huyện đã quyết định mời ông Năm Ve, một doanh nhân thành công, tiếp quản và sáp nhập xí nghiệp với đơn vị kinh doanh của ông Ông Năm Ve đồng ý và cam kết sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp, nhưng với điều kiện được tự chủ trong cách thức kinh doanh Xí nghiệp cũng đã cho tàu Côn Đảo 4 thực hiện bốn chuyến.

Sau bốn chuyến đi thử nghiệm với tàu Côn Đảo 4, xí nghiệp đã quyết định áp dụng cơ chế ăn chia cho tất cả các tàu và toàn bộ thủy thủ, thực hiện hạch toán riêng cho từng con tàu và từng chuyến đi biển Xí nghiệp quốc doanh Đánh cá Côn Đảo - Vũng Tàu là đơn vị tiên phong trong việc chuyển đổi từ mô hình quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường trong ngành công nghiệp đánh bắt cá.

Đánh giá tổng quan

Các cuộc phá rào tại các xí nghiệp quốc doanh và vận tải không chỉ giải quyết những khó khăn nội tại mà còn thúc đẩy sự thay đổi quan điểm kinh tế và cơ chế kinh tế toàn quốc Những sự kiện này đã đóng góp quan trọng vào việc thay đổi tư duy kinh tế và hình thành các quyết sách mới theo hướng phi tập trung hóa Một số chuyển biến chính sách quan trọng đã diễn ra từ đó.

Quyết định 25-CP - Bước thay đổi quan trọng đầu tiên

Nội dung chính và rất mới mẻ của quyết định này là cho phép áp dụng chế độ ba kế hoạch:

- Kế hoạch 1 là phần kế hoạch chính của Trung ương giao, xí nghiệp có nghĩa vụ hoàn thành đầy đủ các chỉ tiêu pháp lệnh.

Kế hoạch 2 được thiết lập dựa trên mô hình liên doanh và liên kết giữa các xí nghiệp, nhằm khắc phục những thiếu sót mà kế hoạch 1 không thể đáp ứng.

- Kế hoạch 3 là phần kế hoạch do bản thân xí nghiệp xây dựng trên cơ sở tự tìm kiếm nguyên liệu để sản xuất cho thị trường.

Về thực chất, Quyết định 25-CP là sự tháo gỡ cho công nghiệp và giao thông vận tải.

Quyết định 25-CP đã hợp pháp hóa các liên doanh liên kết, trước đây bị xem là "móc ngoặc", và lần đầu tiên cho phép cơ sở quốc doanh sản xuất cho thị trường tự do Mặc dù kế hoạch 1 vẫn được coi là chính và có tính pháp lệnh, thực tế cho thấy nhiều cơ sở đã ưu tiên thực hiện kế hoạch 2 và kế hoạch 3 để đáp ứng nhu cầu cấp bách Điều này cho thấy kế hoạch 2 và kế hoạch 3 đã trở thành những kế hoạch chính tại nhiều nơi, đánh dấu một bước đột phá trong việc vượt qua các rào cản đã được thiết lập.

Khi tổng kết 20 năm đổi mới, sự kiện Quyết định 25-CP đã được đánh giá như một bước tiến trong quan điểm về kế hoạch hóa:

Vào đầu những năm 80, kế hoạch hóa không còn là phương thức duy nhất để phát triển kinh tế Cần thiết phải kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, bao gồm cả thị trường có kế hoạch và thị trường tự do Đồng thời, cần có cái nhìn tích cực hơn đối với kinh tế tư nhân, với tiêu chí đánh giá chính sách kinh tế dựa trên năng suất lao động, sự phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân.

Sau khi Quyết định 25-CP được ban hành, hầu như đã có một làn gió mới thổi qua tất cả các xí nghiệp quốc doanh.

Trong nửa đầu thập kỷ 80, các doanh nghiệp đã tích cực thúc đẩy liên doanh và liên kết, đồng thời phát triển các kế hoạch sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường Họ cũng chú trọng khai thác nguồn tài nguyên để tổ chức sản xuất hiệu quả hơn.

TỪ TIỂU NÔNG CÁ THỂ LÊN SẢN XUẤT LỚN RỒI VỀ VỚI KINH TẾ HỘ

Từ “Tiểu nông cá thể” lên “Sản xuất lớn”

Từ khoán việc đến khoán hộ

Sau khi nhận thức rằng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất có thể dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tự phát, Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau cải cách ruộng đất và cải tạo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Trong lĩnh vực nông nghiệp, chính quyền đã phát động phong trào hợp tác hoá, khuyến khích nông dân tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp Đến cuối năm 1960, phong trào này đã đạt được thành công lớn, với 85,8% hộ nông dân và 68,1% diện tích đất canh tác ở miền Bắc gia nhập 40.422 hợp tác xã nông nghiệp.

Hợp tác xã hoạt động dựa trên nguyên tắc tập thể hoá tư liệu sản xuất và sức lao động, với cơ chế quản lý tập trung và phân phối tư liệu cũng như sản phẩm một cách thống nhất Khi tham gia hợp tác xã, nông dân sẽ đóng góp toàn bộ tư liệu sản xuất như ruộng đất, trâu, bò, cày, cuốc để sở hữu chung, dưới sự quản lý của Ban chủ nhiệm và các Đội sản xuất Tất cả các hoạt động và kết quả thu hoạch đều được Ban chủ nhiệm và các Đội sản xuất điều hành và phân phối.

Hình thức tổ chức sản xuất tại các hợp tác xã hiện nay là khoán việc, trong đó tổ đội sản xuất trở thành đơn vị chính thay vì hộ gia đình, dẫn đến việc vai trò kinh tế của hộ nông dân bị giảm sút Khoán việc không chỉ ra trách nhiệm cụ thể cho từng xã viên, khiến họ không cảm nhận được quyền lợi từ cánh đồng chung Hệ quả là xã viên làm việc theo tiếng kẻng, thường chỉ làm việc cầm chừng và không chú trọng đến chất lượng sản phẩm.

Chế độ khoán việc trong nông nghiệp đã dẫn đến việc công sức lao động của xã viên được quy thành công điểm, nhưng lại tạo ra nhiều kẽ hở cho tham nhũng và lạm dụng Người ghi công điểm không tham gia lao động nhưng có quyền phân phối công điểm, trong khi nông dân làm việc cực nhọc nhưng không nhận được bù đắp xứng đáng Tình trạng “cha chung không ai khóc” khiến nông dân rơi vào cảnh thiệt thòi, dẫn đến hiện tượng “dong công, phóng điểm” ngày càng lan rộng Hệ quả là sau thời gian hợp tác hóa, nông nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng lụn bại.

Cơ chế khoán việc trong hợp tác xã đã dẫn đến sự thiếu nhiệt huyết của nông dân đối với công việc, khiến chất lượng sản xuất nông nghiệp giảm sút nghiêm trọng Tuy nhiên, một số địa phương đã chủ động tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng các phương thức làm ăn hiệu quả hơn Nông dân thường không mặn mà với đất đai chung vì hiệu quả ngày công không cao, do đó họ tập trung vào mảnh đất 5% mà họ hoàn toàn làm chủ Khi được tự chủ, nông dân có thể đầu tư công sức để đạt năng suất cao nhất Do đó, nếu áp dụng khoán việc cho hộ nông dân, sẽ khắc phục được những hạn chế hiện tại và khuyến khích người lao động tích cực tham gia sản xuất, từ đó tăng năng suất lao động.

Vĩnh Phúc là địa phương tiên phong trong cả nước áp dụng cơ chế "khoán việc tới hộ", hay còn gọi là khoán hộ Cơ chế "Khoán Kim Ngọc" tại Vĩnh Phúc đã trở thành hình mẫu đầu tiên cho việc triển khai mô hình này.

Khoán Kim Ngọc ở Vĩnh Phúc bắt đầu từ năm 1963 đến 1965 với việc thực hiện khoán hộ tại các hợp tác xã như Văn Quan, Đa Phúc, Hoà Loan và Tứ Kỳ Các hình thức khoán bao gồm nuôi trâu, bò đẻ, nuôi lợn và trồng rau, tạo nền tảng thực tiễn cho chủ trương khoán hộ do Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đề ra.

Vào ngày 10/09/1966, Ban thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành nghị quyết về quản lý lao động trong hợp tác xã, cho phép xã viên đảm nhiệm các công việc như cấy, chăm bón và thu hoạch lúa Xã viên sẽ được giao diện tích canh tác cùng với mức khoán công điểm và sản lượng phải đạt, tạo động lực cho họ làm việc hiệu quả Nếu vượt mức khoán, xã viên sẽ được hưởng toàn bộ lợi ích, từ đó khuyến khích sự hăng hái và chăm chỉ trong sản xuất, đồng thời phát huy khả năng tự chủ của hộ gia đình và tận dụng mọi tiềm năng lao động.

Kết quả: khoán hộ đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc Năm 1965: Vĩnh

Phúc có 131 hợp tác xã (chiếm 9,4% tổng số hợp tác xã), đạt 5 tấn lúa/ha với ruộng hai vụ lúa Năm

Năm 1967, Vĩnh Phúc có 348 hợp tác xã, chiếm 21,4% tổng số hợp tác xã, sản lượng nông sản đạt gấp đôi so với năm 1965 Mặc dù việc huy động thóc làm nghĩa vụ chỉ đạt 99,5% kế hoạch, nhưng các loại nông sản khác như hoa màu và rau xanh đứng thứ 3 toàn miền Bắc Đặc biệt, sản lượng thuốc lá thu mua vượt 14% và thịt bán cho nhà nước tăng 31,5% Một số xã như Cao Trào và Yên Lập ghi nhận đàn trâu tăng gấp 3 lần so với năm trước.

Năm 1963, Hợp tác xã Đông Nam ghi nhận năng suất lúa tăng từ 520 kg vụ chiêm và 840 kg vụ mùa (năm 1967) lên 602 kg vụ chiêm và 980 kg vụ mùa (năm 1968), cùng với việc mở rộng diện tích canh tác thêm 100 mẫu bãi Đến năm 1967, tổng đàn lợn trong tỉnh đạt 307.000 con, tăng 20% so với năm 1966 Vĩnh Phúc nổi bật là một trong 14 đơn vị ở miền Bắc vượt kế hoạch thu mua thịt lợn hơi.

Kết quả từ khoán hộ ở Vĩnh Phúc cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là hoa màu, rau và chăn nuôi Các hình thức khoán đa dạng đã phù hợp với tâm lý và khả năng lao động của cán bộ, đồng thời nâng cao trình độ quản lý và phát triển lực lượng sản xuất Nhờ đó, khoán hộ đã huy động tối đa lực lượng lao động, khuyến khích xã viên tích cực sản xuất, nâng cao năng suất lao động và giảm thiểu các hiện tượng tiêu cực trong các hợp tác xã.

Từ “Sản xuất lớn” về “kinh tế hộ”

2.1 Từ khoán hộ đến khoán chui, khoán lùi

Việc triển khai “khoán hộ” tại Vĩnh Phúc không nhận được sự đồng thuận và bị xem là sự vượt rào, dẫn đến lo ngại về việc buông lỏng quản lý và tư hữu hóa tư liệu sản xuất Điều này được coi là trái với đường lối hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng và đã làm phá vỡ nguyên tắc quản lý XHCN, cũng như phục hồi kinh tế cá thể Do đó, “khoán hộ” không được ủng hộ tại Vĩnh Phúc Bí thư Đảng uỷ tỉnh Kim Ngọc đã quyết tâm khắc phục những khuyết điểm này nhằm thúc đẩy phong trào hợp tác hóa xã và sản xuất nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Phú.

Sau khi việc khoán hộ ở Vĩnh Phúc được chấn chỉnh, việc khoán tiếp tục được bảo vệ và phát triển qua nhiều hội nghị và đại hội Đảng Tuy nhiên, sự kéo dài của việc khoán này đã dẫn đến một số vấn đề cần được giải quyết.

Sản xuất nông nghiệp đang gặp khó khăn, thể hiện qua sự trì trệ và không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người dân Nhà nước phải can thiệp bằng cách cung cấp thóc cứu tế cho nông dân, trong khi đời sống của họ ngày càng sa sút Hệ thống sản xuất chủ yếu mang tính tự cấp, tự túc và khép kín, dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực như quản lý kém, tham ô và lãng phí.

Trước tình trạng nông dân thiếu đói và nông nghiệp suy giảm, một số địa phương đã lén lút thực hiện khoán sản phẩm và khoán hộ, mặc dù hình thức này bị cấm Thời kỳ này thường được gọi là "khoán chui" vì cán bộ thực hiện có thể bị kỷ luật, nhưng trong bối cảnh khó khăn, nhiều hợp tác xã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc áp dụng hình thức này để sinh tồn.

Khoán chui đã được thực hiện tại một số hợp tác xã ở Vĩnh Phú và tại hợp tác xã Sơn Công, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Sơn Bình từ năm 1978 Tại Hải Phòng, nhiều hợp tác xã, bao gồm cả những đơn vị nổi tiếng và tiên phong trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp thời kỳ đó, cũng đã tham gia vào việc thực hiện khoán chui.

Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng vào tháng 09/1979 đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 20/09/1979, nhằm đánh giá hiệu quả thực sự của khoán chui tại các địa phương.

Nghị quyết "Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách" đã thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, cho phép hộ xã viên mượn đất sản xuất để ổn định nghĩa vụ lương thực Nghị quyết này cũng bãi bỏ việc phân phối định suất, thay vào đó thực hiện phân phối theo lao động, khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, nới lỏng quyền tự do lưu thông và trao đổi nông sản, thực phẩm Đây được coi là bước khởi đầu quan trọng cho quá trình đổi mới.

Quá trình đổi mới ở Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm và phức tạp Mặc dù có sự thay đổi trong nhận thức về lợi ích của khoán chui, một số cán bộ lãnh đạo vẫn coi đây là một bước lùi tạm thời Họ khẳng định rằng để phát triển bền vững, cần phải trở về với khoán việc, điều này được xem như là phương thức làm ăn tập thể và phù hợp với nguyên tắc xã hội chủ nghĩa Do đó, khoán chui thường bị gọi là khoán lùi.

Khái niệm "Khoán chui" không chỉ chỉ ra sự sụp đổ của mô hình tập thể hóa triệt để trong nông nghiệp mà còn thể hiện sự cần thiết phải khôi phục chức năng kinh tế của hộ nông dân Khoán 100 đã bước đầu đáp ứng yêu cầu khách quan này, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong việc giải phóng sức lao động và tư liệu sản xuất của nông dân.

2.2 Từ khoán chui đến khoán 100 và khoán 10

Sau Vĩnh Phúc, Hải Phòng là địa phương thứ 2 công khai thực hiện khoán hộ, khoán sản phẩm, bỏ khoán việc

Vào tháng 06/1980, huyện uỷ Đồ Sơn đã ban hành nghị quyết số 05, giao ruộng cho xã viên Ngày 27/06/1980, Thành uỷ Hải Phòng tiếp tục ra nghị quyết số 24, công khai chuyển 06 huyện ngoại thành sang hình thức khoán sản phẩm, đồng thời bỏ khoán việc.

Vào ngày 21/10/1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết số 22 TB-TW, đánh giá cao tác dụng tích cực của công tác khoán trong hợp tác xã và đội sản xuất Nghị quyết này cho phép các địa phương tiến hành thử nghiệm các hình thức khoán sản phẩm đối với cây lúa.

Báo cáo của Ban Quản lý hợp tác xã trung ương, Bộ Nông nghiệp vào ngày 18/12/1980 chỉ ra rằng hình thức khoán việc không phù hợp với trình độ tổ chức và quản lý của đa số hợp tác xã tại Việt Nam Nhiều nhược điểm của khoán việc dẫn đến 70% hợp tác xã thuộc loại trung bình và yếu kém không hoàn thành tốt nhiệm vụ, gây ra sự thiếu quan tâm của người lao động đối với sản phẩm cuối cùng, chỉ chú trọng vào công điểm Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả sản xuất mà còn vi phạm quy trình kỹ thuật và gây lãng phí chi phí sản xuất.

Báo cáo chỉ ra rằng khoán sản phẩm có nhiều ưu điểm vượt trội so với khoán việc Phương thức khoán sản phẩm không chỉ nâng cao ý thức trách nhiệm của tập thể và cá nhân, mà còn cụ thể hóa chế độ làm chủ tập thể Đồng thời, nó đảm bảo nguyên tắc phân phối công bằng cho người lao động, từ đó khuyến khích hợp tác xã và xã viên tích cực khai thác lao động, đất đai, thâm canh, tăng vụ, phát triển sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao năng suất lao động.

Ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về

Cải tiến công tác khoán trong nông nghiệp là cần thiết để mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp Chỉ thị mới cho phép áp dụng chế độ khoán sản phẩm trên toàn quốc, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất Chế độ này, thường được gọi là Khoán sản phẩm hoặc khoán 100, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp.

Mục đích chính là đảm bảo phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua việc khuyến khích mọi người tích cực lao động, tăng năng suất lao động và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai cũng như tư liệu hiện có Đồng thời, việc củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn cũng sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động.

TỪ ''MUA NHƯ CƯỚP, BÁN NHƯ CHO'' ĐẾN THUẬN MUA VỪA BÁN

Thuận mua vừa bán nhờ Đột phá tư duy - Cải cách hệ thống giá và hệ thống ngân hàng

2 Thuận mua vừa bán nhờ Đột phá tư duy - Cải cách hệ thống giá và hệ thống ngân hàng:

2.1 Đột phá tư duy - Cải cách hệ thống giá

Kề từ năm 1979 bước vào thập kỷ 80, những cuộc phá rào về mua và bán của các tỉnh

Công ty Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh đã thiết lập các cuộc liên doanh và liên kết giữa các xí nghiệp quốc doanh và các địa phương tại An Giang, Long An Những thỏa thuận giá này đã làm rạn nứt "kỷ cương" của hệ thống giá cũ, dẫn đến sự thay đổi trong cách thức quản lý giá cả.

An Giang phá giá mua lúa, làm rung chuyển hệ thống “giá chỉ đạo”

Long An bỏ tem phiếu, chuyển sang cơ chế một giá

Sự đột phá của “tổ thu mua lúa gạo” - Công ty Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh dùng “xe cứu đói” vượt “Đèn đỏ”

Giá thị trường, trước đây không được thừa nhận, giờ đã trở thành một phần quan trọng trong hệ thống phân phối Những quan niệm cũ như "Giá kế hoạch là ưu việt của chủ nghĩa xã hội" hay "giá kế hoạch không chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường" đã dần mất đi sức mạnh, khi cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng đều không thể sống theo những nguyên lý cứng nhắc đó Sự chuyển biến từ thực tiễn cuộc sống đã thúc đẩy tư duy kinh tế, dẫn đến quyết sách tôn trọng thị trường và giá thị trường Triết lý "dân vi quý xã tắc thứ chi" đã bắt đầu ảnh hưởng đến chính sách kinh tế, nhấn mạnh rằng xã hội phải thay đổi theo tình hình thực tế Từ nguyên tắc vì dân, nhiều quyết định của Nhà nước đã được ban hành nhằm tháo gỡ những khó khăn, giải quyết các vấn đề từ cuộc sống.

Chặng đường tháo gỡ ách tắc tư duy để đạt được sự hội nhập giữa chính sách và cuộc sống đầy gian nan, đòi hỏi từng bước đi cẩn trọng Các chủ trương chính sách quan trọng dưới đây nhằm mở lối cho kinh tế thị trường, góp phần giải quyết những khó khăn hiện tại.

Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc điều chỉnh giá cả nhằm kích thích sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Đồng thời, nghị quyết cũng đề cập đến việc cải cách toàn bộ hệ thống giá Nhà nước, với mục tiêu giúp giá cả phản ánh đầy đủ hơn các chi phí hợp lý trong sản xuất và lưu thông.

Nghị quyết về nông nghiệp nhấn mạnh việc cải tiến hệ thống thu mua để khuyến khích sản xuất nông nghiệp, đồng thời cho phép nông dân tự do sử dụng, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nông sản của mình ngoài nghĩa vụ.

Nghị quyết cho phép các xí nghiệp quốc doanh được mua nguyên liệu, vật tư theo giá thỏa thuận khi Nhà nước không cung ứng đủ Các xí nghiệp này có quyền bán sản phẩm với giá đảm bảo có lãi, nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn.

Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị đã đánh dấu một bước đột phá quan trọng trong việc sửa đổi toàn bộ hệ thống giá, mở ra một cột mốc quan trọng trong đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta Tính chất bước ngoặt của Nghị quyết 26 (1980) thể hiện rõ ràng qua nhiều khía cạnh khác nhau.

 Nó phát hiện, phê phán và yêu cầu sửa đổi căn bản khâu phân phối lưu thông.

 Nó khẳng định chủ trương cải cách một khâu mà sau này được xem là khâu trung tâm của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

Cuộc tranh luận về chính sách và cơ chế giá cả, bắt đầu từ năm 1964, đã được kết thúc một cách thuyết phục Sự kết thúc này không chỉ mang lại ý nghĩa lớn lao mà còn mở ra cơ hội cho việc đổi mới tư duy và quan điểm về chính sách giá cả.

Cuộc cải cách giá lần thứ nhất diễn ra từ cuối quý II năm 1981 đến đầu quý I năm 1982, đánh dấu sự kết thúc của đợt tổng điều chỉnh giá quy mô lớn đầu tiên trong lịch sử quản lý giá và kinh tế tại Việt Nam Kết quả của cải cách này là sự hình thành một mặt bằng giá mới và một cơ chế giá mới.

Cuộc cải cách giá lần thứ hai vào cuối năm 1985 nhằm xóa bỏ chế độ tem phiếu và áp dụng giá sát thị trường đã không đạt được mục tiêu ban đầu do việc chuyển đổi cơ chế kinh tế cũ gặp nhiều khó khăn và không đồng bộ Mặc dù đã xảy ra tình trạng thiếu tiền và lạm phát, cuộc cải cách này đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng, đưa nền kinh tế bao cấp vào tình thế không thể quay lại và không thể khắc phục bằng các biện pháp tạm thời Đây chính là tiền đề cho những quyết định quan trọng tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, khởi xướng quá trình Đổi mới toàn bộ nền kinh tế.

Nghị quyết năm 1987 đã thực hiện những điều chưa hoàn thành tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V năm 1985, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI Hội nghị Trung ương lần thứ 2 vào tháng 4 năm 1987 đã thông qua Nghị quyết nhằm cải cách triệt để hơn trong lưu thông phân phối, bao gồm việc bỏ chính sách hai giá, áp dụng một giá thu mua nông sản và tiếp tục xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xóa bỏ bao cấp trong hệ thống giá, thể hiện sự cởi trói cho lưu thông phân phối.

Việc bãi bỏ các trạm kiểm soát trên tất cả các tuyến giao thông trong nước đã mang lại kết quả khả quan Người sản xuất vui mừng vì hàng hóa tiêu thụ tốt, trong khi người tiêu dùng có nhiều lựa chọn mua sắm với giá cả hợp lý Họ không còn phải xếp hàng dài hay lo lắng về việc bị chợ đen ép giá Điều này đã góp phần làm giảm căng thẳng trong quan hệ cung cầu.

 Về giá mua nông sản, đã có những chuyển biến lớn về chính sách:

Chính sách cửa quyền đã gây khó khăn cho nông dân, nhưng từ nay, cần thiết lập thỏa thuận hợp đồng rõ ràng với họ, trong đó việc mua bán phải được thực hiện bằng tiền thay vì hiện vật Mọi quan hệ trao đổi giữa nông dân và các tổ chức kinh tế của Nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, ngang giá và cùng có lợi, với việc mua bán dựa trên sự thỏa thuận thực sự Kết quả của những thay đổi này là mức giá mua nông sản đã được điều chỉnh tăng hơn 10 lần so với tháng 9 năm 1985.

2.2 Đột phá tư duy - Cải Cách hệ thống ngân hàng: ra đời hệ thống ngân hàng 2 cấp

Khởi đầu cho bước đột phá tư duy này là bước đột phá “Từ kho bạc An Giang đến hệ thống kho bạc cả nước”

Từ kho bạc An Giang đến hệ thống kho bạc cả nước

Trước năm 1975, miền Bắc Việt Nam không có cơ quan độc lập nào phụ trách quản lý Quỹ Ngân sách Nhà nước, mà quỹ này được quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước Trung ương.

Quỹ Ngân sách Nhà nước được quản lý và thực hiện bởi hai cơ quan chính là Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, cùng với việc theo dõi hạch toán và điều hành quỹ này Mô hình tổ chức và điều hành quỹ được áp dụng từ Trung ương đến các tỉnh thành trên toàn quốc.

TỪ ĐỘC QUYỀN NGOẠI THƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẾN NHỮNG “RỪNG” IMEX

Tại sao phải đột phá?

Thời kỳ 1976-1986, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng trì trệ và ách tắc kéo dài, phản ánh tình hình chung của nhiều quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa cũ.

Sở dĩ có sự ách tắc đó, vì trong thể chế của các nước xã hội chủ nghĩa, đều có một số yếu tố giống nhau:

Thể chế kinh tế đã bị cản trở bởi những công thức duy ý chí trong suốt nhiều thập kỷ Dù những công thức này có thể đúng trong một số bối cảnh lịch sử, khi chúng trở thành những điều kiêng kỵ tuyệt đối, chúng gây cản trở cho sự phát triển Những kiêng kỵ này liên quan đến chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và việc điều khiển nền kinh tế theo kế hoạch tập trung từ trên xuống một cách chủ quan Điều này dẫn đến sự nghi kỵ và phủ nhận những thành tựu của khoa học quản lý hiện đại, đồng thời áp đặt quyền uy trong việc xác nhận chân lý.

Hệ thống truyền dẫn thông tin từ thực tiễn đến tư duy và từ tư duy đến chính sách hiện đang rất kém hiệu quả Các công cụ phản ánh quan trọng như ý kiến người dân, khảo sát khách quan, báo chí, Quốc hội và các cơ quan nghiên cứu độc lập chưa được phát huy tối đa.

Trong nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Việt Nam, hệ thống thông tin thường mang tính hình thức, dẫn đến sự chậm chạp và méo mó trong việc ra quyết định Sự kết hợp giữa thông tin sai lệch và quyền lực có thể gây ra những sai lầm chủ quan nghiêm trọng Trong bối cảnh khủng hoảng và trì trệ, việc đột phá và phát triển trở nên cần thiết và phổ biến Để thích ứng với những tình huống mới, tư duy xã hội cần được điều chỉnh kịp thời, nhằm đảm bảo các chính sách và thể chế phù hợp với sự phát triển liên tục của thế giới hiện đại.

Tổng quan về đổi mới tư duy kinh tế và những bài học lịch sử

2.4.1 Tổng quan về đổi mới tư duy kinh tế

Một số bước chuyển đổi mới tư duy kinh tế đặc trưng ở nước ta trong quá trình đổi mới:

Chuyển từ tư duy sản xuất theo mô hình kinh tế hiện vật sang mô hình kinh tế hàng hóa, định hướng XHCN, là bước quan trọng trong việc gắn kết tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội Tư duy kinh tế về bản chất của kinh tế thị trường và tính định hướng XHCN đã được cụ thể hóa qua các kỳ đại hội Đảng, tạo ra một lý luận sáng tạo, làm rõ con đường phát triển lên CNXH tại Việt Nam và bổ sung cho kho tàng lý luận về CNXH.

Chuyển từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu và đa thành phần kinh tế, các thành phần này được tự do kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật Sự thay đổi tư duy này là bước đột phá quan trọng trong nhận thức lý luận kinh tế, giúp cởi trói tư duy và tạo động lực cho công cuộc đổi mới, thực hiện thuận lợi và hiệu quả.

Chuyển đổi từ tư duy quản lý tập trung và bao cấp sang tư duy quản lý theo cơ chế thị trường yêu cầu con người phải trở nên năng động, sáng tạo và tự chủ hơn, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về hành động của mình.

Tư duy phân phối đã chuyển từ việc cào bằng và không thừa nhận sự đa dạng hóa sang việc công nhận các hình thức phân phối khác nhau, trong đó phân phối theo lao động được coi là chủ yếu, kết hợp với phân phối theo vốn và tài sản.

Tư duy chuyển từ việc không chấp nhận bóc lột và phân hoá giàu nghèo sang việc chấp nhận những điều này ở một mức độ nhất định.

Từ tư duy đảng viên không làm kinh tế tư nhân sang đảng viên được làm kinh tế tư nhân

Từ tư duy kinh tế “khép kín” sang tư duy mở, chủ động hội nhập quốc tế, chấp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Tư duy chuyển từ "Nhà nước làm thay thị trường" và "Nhà nước làm tất cả" sang việc Nhà nước chủ yếu thực hiện vai trò kiến tạo phát triển, khắc phục các khuyết tật của thị trường Điều này bao gồm việc đa dạng hóa các chủ thể kinh tế, giảm thiểu độc quyền của Nhà nước và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh và hiệu quả hơn.

Tư duy chuyển từ việc Nhà nước là chủ thể chính trong phân bổ nguồn lực sang việc thị trường đảm nhận vai trò này, nhấn mạnh sự chuyển giao quyền lực và trách nhiệm trong quản lý tài nguyên Sự thay đổi này không chỉ tạo ra cơ hội tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong nền kinh tế.

Chuyển đổi tư duy công nghiệp hoá từ việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng hợp lý, dựa trên nền tảng nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, sang tư duy hiện đại hoá gắn liền với kinh tế tri thức và phát triển bền vững Điều này bao gồm việc sử dụng nguồn vốn xã hội hoá theo cơ chế thị trường để thúc đẩy sự phát triển.

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp sang mô hình kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu, tập trung vào nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả cao Điều này nhằm phát triển nhanh và bền vững, đồng thời gắn liền với việc bảo vệ môi trường.

2.4.2 Những bài học lịch sử.

Những bài học lịch sử rút ra từ 30 năm Ðổi mới là tài sản quý để Ðảng ta tiếp tục phát huy trên chặng đường mới.

Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam diễn ra như một sự tất yếu, phản ánh bối cảnh bất ổn tại các nước trong hệ thống Xã hội chủ nghĩa Trong khi các nước XHCN Đông Âu sụp đổ trong hỗn loạn, Việt Nam đã đạt được những thành công nổi bật.

Việt Nam được coi là một ví dụ "ngoạn mục" và "kỳ diệu" trong quá trình đổi mới, xuất phát từ những bức xúc nội tại Mặc dù tham khảo kinh nghiệm từ các nước trong "phe" XHCN, Việt Nam không áp dụng máy móc và không nhận được "cú hích" từ bên ngoài Những khó khăn và bế tắc đã thúc đẩy các cơ sở phải tìm kiếm lối thoát và "bung ra" Trong khi công cuộc "Cải tổ ở Liên Xô" bắt đầu từ tháng 4-1985, Việt Nam đã thực hiện việc "phá rào" để tiến tới đổi mới.

"Việc tự cứu đã diễn ra từ lâu, khi cán bộ và nhân dân ở một số địa phương đối phó với hội chứng 'kinh tế thiếu hụt' ngày càng nghiêm trọng Họ đã tìm ra những cách 'phá rào' và lách qua những khó khăn để cải thiện tình hình kinh tế."

"khe hở hẹp" của cơ chế để hoạt động có hiệu quả hơn, để thoát khỏi bế tắc đói nghèo đang vây hãm.

Những minh chứng sinh động từ thực tế khoán "chui" ở Hải Phòng và Vĩnh Phú

Vào năm 1980, nhiều thay đổi quan trọng đã diễn ra tại các doanh nghiệp như Xí nghiệp đánh cá Vũng Tàu - Côn Đảo và Công ty xe khách TP Hồ Chí Minh, cùng với việc cải cách cơ chế tại Công ty lương thực TP Hồ Chí Minh Việc phá giá thu mua lúa và loại bỏ các trạm kiểm soát hàng hóa ở An Giang cũng diễn ra trong năm này, cùng với việc áp dụng cơ chế giá thị trường ở Long An Ngoài ra, các xí nghiệp như Xí nghiệp dệt Thành Công đã chủ động vay vốn ngoại tệ để nhập nguyên liệu Những thay đổi này đã khiến các nhà lãnh đạo phải xem xét lại những nguyên lý cũ trong tư duy quản lý của họ.

Những cuộc "phá rào" thành công đã mang lại những dấu ấn tích cực cho nền kinh tế và dẫn đến những thay đổi chính sách ban đầu Thay vì xử lý những "kẻ phá rào", nhiều "hàng rào" đã được gỡ bỏ, cho phép những cá nhân từng bị "thổi còi" có cơ hội mới Đặc biệt, một số người trước đây từng chỉ đạo các chiến dịch "thổi còi" giờ đây lại đứng ra khởi xướng việc tháo gỡ cho những người này Một ví dụ điển hình là Tổng Bí thư Trường Chinh, người đã có những động thái tích cực trong việc giải quyết vấn đề này.

Năm 1968, với vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ông đã quyết định đình chỉ chính sách "khoán hộ" tại Vĩnh Phúc Đến năm 1980, ông ủng hộ việc áp dụng khoán ở Hải Phòng và từ năm 1984 đến 1985, ông là người tiên phong trong việc đổi mới tư duy kinh tế.

Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay

2.5.1.Việt Nam và những bước đổi mới tư duy trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Quá trình đổi mới tư duy là một bước tiến quan trọng, phản ánh rõ nét sự phát triển kinh tế qua các kỳ đại hội Đảng.

Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay, vai trò chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng quan trọng Tại Đại hội X, Đảng đã khẳng định rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện cần thiết để tiến lên chủ nghĩa xã hội Đại hội cũng chỉ ra rằng cần phải xác định rõ định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý hiệu quả các loại thị trường theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế và các hình thức sản xuất kinh doanh.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một hệ thống kinh tế hàng hóa đa thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Hệ thống này không chỉ tuân theo quy luật giá trị của kinh tế thị trường mà còn được dẫn dắt bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội Để phát huy hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển bền vững, cơ chế thị trường cần được áp dụng linh hoạt Đảng Cộng sản đã thông qua 5 cương lĩnh, trong đó Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ sửa đổi bổ sung năm 2011 là minh chứng cho cơ sở lý luận vững chắc của Đảng.

2.5.2 Những thành công và thách thức đang đặt ra cho Việt Nam hiện nay

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay đang thể hiện rõ vai trò quan trọng và phát huy sức mạnh tiềm tàng, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Việt Nam tự hào là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định nhất thế giới, theo các báo cáo phân tích từ các tổ chức kinh tế toàn cầu.

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là một nền kinh tế mở, thúc đẩy quyền tự do kinh doanh trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế toàn cầu.

Việt Nam đang nỗ lực thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, góp phần hình thành các khu công nghiệp quan trọng tại miền Bắc và miền Nam.

Việt Nam đang tích cực thúc đẩy việc ký kết các hiệp định thương mại tự do và đã thành công trong việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới như WTO và ASEAN.

Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành công đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Quá trình đổi mới tư duy kinh tế và lý luận của Đảng trong những năm qua diễn ra chậm, không đáp ứng yêu cầu đổi mới và chưa theo kịp sự phát triển thực tiễn Việc cụ thể hóa cơ chế, chính sách còn gặp khó khăn, cùng với sự lúng túng trong lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã cản trở quá trình đổi mới thực tế Nhiều vấn đề lý luận cơ bản về định hướng chủ nghĩa xã hội trong các lĩnh vực ngoài kinh tế vẫn chưa được làm rõ.

Chúng ta cần nhanh chóng chuyển từ tư duy “cởi trói” và “thúc đẩy sản xuất” sang tư duy tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng Điều này nhằm thực hiện “khát vọng chấn hưng đất nước”, giúp “non sông ta sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Ngày đăng: 27/09/2022, 19:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trungương khóa IX, ngày 05/01/2005. Báo cáo "Tóm tắt tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới" . 05 01 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tóm tắt tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
3. 2005, Đặng Phong. Phá Rào Trong Kinh Tế Vào Đêm Trước Đổi Mới. Hà Nội : Nhà xuất bản Tri Thức, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phá Rào Trong Kinh Tế Vào Đêm Trước Đổi Mới
Nhà XB: Nhàxuất bản Tri Thức
5. 2006. Những bước đột phá của An Giang trên con đường đổi mới kinh tế. 2006.6. Công Báo . năm 1980 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bước đột phá của An Giang trên con đường đổi mới kinh tế. "2006.6. "Công Báo
2. 1983, Tạp chí Vật Giá. Đặng Phong Giá cả thị trường và vai trò của những phân tử trung gian. 1983 Khác
4. 2018, Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận trung ương. Đổi mới tư duy kinh tế.17 12 2018 Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w