1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

BÀI THẢO LUẬN học kỳ môn LUẬT dân sự điểm mới của bộ luật dân sự 2015 (so với bộ luật dân sự năm 2005) về người đại diện

47 220 7

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Điểm Mới Của Bộ Luật Dân Sự 2015 (So Với Bộ Luật Dân Sự Năm 2005) Về Người Đại Diện
Tác giả Nguyễn Trương Thùy Dương, Nguyễn Huỳnh Trang Anh, Lê Thị Mỹ Hạnh, Ngô Phúc Trường Hải, Trần Nguyệt Quế Anh, Trần Thái Minh Châu, Hoàng Thị Thanh Chúc, Trần Thị Hà Lam, Lê Nguyễn Tuyết Nhi
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại bài thảo luận
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 47
Dung lượng 0,92 MB

Cấu trúc

  • 1. Điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 (so với Bộ luật Dân sự năm 2005) về người đại diện (7)
  • 2. Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel? (12)
  • 3. Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không? (12)
  • 4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên (13)
  • 5. Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel không? (13)
  • 6. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên (14)
  • 7. Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không? Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án (15)
  • 1. Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)? (15)
  • 2. Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không? (15)
  • 3. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm (15)
  • 4. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở Bộ luật Dân sự 2015? Vì sao? (16)
  • 1. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về hình thức sở hữu tài sản (19)
  • 2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là Quyết định 377) (20)
  • 3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời? (20)
  • 4. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời? (21)
  • 5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao? (21)
  • 6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời (22)
  • 1. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao? (22)
  • 4. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao? (23)
  • 5. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao? (23)
  • 6. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại ? Nêu cơ sở khi trả lời (23)
  • 7. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp ? Vì sao ? (24)
  • 1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê? (24)
  • 2. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao? (24)
  • 3. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định (25)
  • 4. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao? (25)
  • 6. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao? (26)
  • 7. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh? (27)
  • 8. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp? (27)
  • 9. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? (27)
  • 10. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? (27)
  • 11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (28)
  • 12. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động? Vì sao? (28)
  • 13. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản (29)
  • 14. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà, trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không? (30)
  • 15. Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế nào? (31)
  • 16. Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng cho (31)
  • 1. Theo Bộ luật Dân sự, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở pháp lý (32)
  • 2. Theo Bộ luật Dân sự, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (32)
  • 3. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành không? (33)
  • 4. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành? (33)
  • 5. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung không? (33)
  • 6. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án (33)
  • 7. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá cố khi họ còn sống? (34)
  • 9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố) (34)
  • 10. Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ nào của ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông Định (ông Lĩnh và bà Thành)? (34)
  • 11. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa? Hướng như vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao (35)
  • 12. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (35)
  • 13. Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn thực hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? (35)
  • 14. Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy có thuyết phục không, vì sao? (36)
  • 1. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản? . 41 2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã được Tòa án chấp nhận? (42)
  • 3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên ? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản (42)
  • 4. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản (43)
  • 5. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là (43)
  • 1. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao? (44)
  • 2. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục không? Vì sao? (44)
  • 3. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao? (45)

Nội dung

Điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 (so với Bộ luật Dân sự năm 2005) về người đại diện

Về thuật ngữ sử dụng:

Theo Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2005, đại diện được định nghĩa là hành vi của một người (người đại diện) thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người khác (người được đại diện) trong phạm vi quyền hạn được giao.

→“Một người” được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả chủ thể và pháp nhân, quy định

7 chung chung dễ khiến người sử dụng luật hiểu sai nghĩa là pháp luật không thừa nhận khả năng đại diện của pháp nhân

Theo Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 2015, đại diện là hành vi của cá nhân hoặc pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của người khác để thực hiện giao dịch dân sự Bộ luật này quy định rõ ràng về chủ thể trong quan hệ đại diện, chỉ bao gồm cá nhân và pháp nhân, khác với Bộ luật Dân sự năm 2005, vốn không phân biệt rõ ràng Điều này thể hiện sự thống nhất trong phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2015, chỉ áp dụng cho các quan hệ dân sự giữa cá nhân và pháp nhân, không bao gồm các chủ thể khác như hộ gia đình hay tổ chức không có tư cách pháp nhân.

Về căn cứ xác lập quyền đại diện:

Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo ủy quyền, cụ thể tại Khoản 3 Điều 139 Đồng thời, Điều 140 quy định về đại diện theo pháp luật, là hình thức đại diện do pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

Theo Điều 135 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền đại diện được xác lập thông qua ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện, hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân, hoặc theo quy định của pháp luật.

Bộ luật Dân sự năm 2005 và năm 2015 đều xác định căn cứ để thiết lập quan hệ đại diện là thông qua ủy quyền hoặc theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã làm rõ hơn về đại diện theo pháp luật, bao gồm đại diện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đại diện theo điều lệ của pháp nhân, và các trường hợp đại diện theo pháp luật khác.

→ Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tích hợp nội dung quy định tại Điều 140 và khoản 3 Điều 139

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã kế thừa và phát triển từ Bộ luật Dân sự năm 2005, đặc biệt là Điều 135, nhằm quy định chi tiết và rõ ràng hơn về căn cứ xác lập quyền đại diện.

Về đại diện theo pháp luật:

- Theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Người đại diện theo pháp luật:

“Người đại diện theo pháp luật bao gồm:

1 Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

2 Người giám hộ đối với người được giám hộ;

3 Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

4 Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

5 Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;

6 Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;

7 Những người khác theo quy định của pháp luật.”

- Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Đại diện theo pháp luật của cá nhân:

“1 Cha, mẹ đối với con chưa thành niên

Người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức và kiểm soát hành vi được Tòa án chỉ định, đóng vai trò là đại diện pháp lý cho người được giám hộ.

3 Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này

4 Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”

- Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Đại diện theo pháp luật của pháp nhân:

Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm ba loại: thứ nhất, người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; thứ hai, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; và thứ ba, người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật, và mỗi người trong số họ đều có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn về đại diện theo pháp luật, bằng cách bỏ khoản 6 và khoản 7 Điều 141 của Bộ luật Dân sự năm 2005 liên quan đến tổ trưởng tổ hợp tác và chủ hộ gia đình Sự điều chỉnh này nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quy định về đại diện Đồng thời, nội dung của Điều 141 đã được tách thành hai điều luật mới: Điều 136 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân và Điều 137 quy định về đại diện theo pháp luật của pháp nhân, nhằm làm rõ hơn về các đối tượng đại diện theo pháp luật.

Về đại diện theo ủy quyền:

- Theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2005 về Đại diện theo ủy quyền:

“1 Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể được chỉ định làm người đại diện theo ủy quyền, trừ những trường hợp mà pháp luật quy định rằng giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện.

- Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2005 về Đại diện theo ủy quyền:

“1 Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự

2 Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có

Có 9 hình thức thỏa thuận cho phép cá nhân hoặc pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền thực hiện và xác lập giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân.

Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi có thể đại diện theo ủy quyền, trừ khi pháp luật yêu cầu giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện.

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định một cách rõ ràng và chặt chẽ về chủ thể trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, theo đó người đại diện có thể là cả pháp nhân lẫn cá nhân, và người được đại diện cũng có thể là pháp nhân hoặc cá nhân.

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định rằng tổ trưởng tổ hợp tác là đại diện hợp pháp của tổ hợp tác, trong khi chủ hộ gia đình là đại diện cho hộ gia đình Tuy nhiên, theo Bộ luật Dân sự năm 2015, các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử người hoặc pháp nhân khác làm đại diện, không nhất thiết phải là tổ trưởng hay chủ hộ, và được xác lập theo hình thức đại diện theo ủy quyền.

Về phạm vi đại diện:

- Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 2005 về Phạm vi ủy quyền:

Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?

Theo Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, vào ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan đã cấp Giấy ủy quyền cho ông Lê.

Văn Mạnh, Phó Tổng Giám đốc Công ty Kim khí Hưng Yên, đại diện cho công ty thực hiện các giao dịch kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh, trong khi bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn giữ vai trò người đại diện theo pháp luật Vào ngày 16/01/2007, ông Mạnh đã ký kết hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐPT/007/VAHY với Vinausteel.

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không?

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm gì với Vinausteel

Trích đoạn Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Ông Lê Văn Mạnh đã ký Bản cam kết vào ngày 01/4/2007, trong đó ông xin chịu trách nhiệm trước pháp luật và cam kết trả nợ cho Công ty cũng như các bên thứ ba, bao gồm Công ty liên doanh sản xuất thiệp Vinausteel, đối với tất cả các khoản nợ và bồi thường phát sinh từ các giao dịch và hợp đồng mà ông đã ký Tuy nhiên, Công ty Vinausteel không tham gia ký kết và không đồng ý, do đó không thuộc trường hợp chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005.

Việc chia tài sản chung giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan trong thời kỳ hôn nhân, cũng như thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng về trách nhiệm thanh toán nợ, liên quan đến ông Mạnh cam kết chịu trách nhiệm nợ của Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel, là vấn đề nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ này.

12 và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh, ông Dũng.”.

Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên

Tòa giám đốc thẩm xác nhận ông Mạnh có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nhưng ông không phải chịu trách nhiệm trả nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel, mà trách nhiệm này thuộc về Công ty kim khí Hưng Yên.

Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh là hợp lý Giải thích:

Vào ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan đã ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên trong các giao dịch kinh tế, trong khi bà vẫn là người đại diện theo pháp luật của công ty Giấy ủy quyền này có hiệu lực và ông Mạnh đã thực hiện quyền đại diện khi ký Hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Công ty Vinausteel vào ngày 16/01/2007, hoàn toàn đúng theo quy định pháp luật Do đó, ông Lê Văn Mạnh được tham gia phiên tòa với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là đại diện của Công ty kim khí Hưng Yên.

Ông Lê Văn Mạnh đã cam kết vào ngày 01/4/2007 chịu trách nhiệm pháp lý và trả nợ cho Công ty cũng như các bên thứ ba, bao gồm Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel, liên quan đến các giao dịch và hợp đồng mà ông đã ký Tuy nhiên, do Công ty kim khí Hưng Yên và Công ty Vinausteel không tham gia ký kết các cam kết này, việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự từ Công ty kim khí Hưng Yên sang ông Mạnh là không hợp lệ, theo quy định tại khoản 1 Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015 Do đó, trách nhiệm thanh toán nợ và bồi thường thiệt hại thuộc về Công ty.

Vinausteel là trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng Yên chứ không phải của ông Lê Văn Mạnh

Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về vấn đề đại diện trong giao dịch dân sự Tuy nhiên, có thể tham khảo Bộ nguyên tắc Châu Âu, trong đó nêu rõ rằng người đại diện không bị ràng buộc với người thứ ba trong các giao dịch dân sự hợp pháp.

Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel không?

Theo Hội đồng thẩm phán, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm trả các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel

Trích đoạn Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Ông Lê Văn Mạnh đã ký Bản cam kết vào ngày 01/4/2007, trong đó ông xin chịu trách nhiệm trước pháp luật và cam kết thanh toán tất cả các khoản nợ cũng như bồi thường thiệt hại cho Công ty và các bên thứ ba, bao gồm cả Công ty liên doanh sản xuất thiệp Vinausteel, phát sinh từ các giao dịch và hợp đồng mà ông đã ký hoặc từ các giao dịch và hợp đồng của Công ty.

Công ty Vinausteel không tham gia ký kết trong 13 hợp đồng trước đó và do đó không đồng ý với việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự, theo quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005.

Việc chia tài sản chung giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan, cùng với thỏa thuận về trách nhiệm thanh toán nợ giữa bà Nguyễn Thị Toàn và ông Dũng, cũng như cam kết của ông Mạnh đối với nợ của Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel, đều là vấn đề nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel, không phải cá nhân ông Mạnh hay ông Dũng.

Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên

Tòa giám đốc thẩm đã quyết định rằng Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel, đây là giải pháp hợp lý cho vấn đề này.

Vào ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan đã ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên thực hiện các giao dịch kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh của công ty Trong thời gian này, bà Lan vẫn giữ vai trò là người đại diện theo pháp luật của công ty, do đó, Giấy ủy quyền có hiệu lực Ngày 16/01/2007, ông Mạnh đại diện cho công ty ký Hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Công ty Vinausteel, đúng theo quy định pháp luật Hợp đồng này đã phát sinh quyền và nghĩa vụ của Công ty kim khí Hưng Yên đối với giao dịch mua bán phôi thép, phù hợp với Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của người đại diện.

Việc chia tài sản chung giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan trong thời kỳ hôn nhân, cùng với thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng về trách nhiệm thanh toán nợ, đã được xác định rõ Ông Lê Văn Mạnh cam kết vào ngày 01/4/2007 chịu trách nhiệm trước pháp luật và trả nợ cho Công ty cũng như các bên thứ ba, bao gồm Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel Tuy nhiên, các cam kết này là công việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên và Công ty Vinausteel không tham gia ký kết, do đó không thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự từ Công ty kim khí Hưng Yên sang ông Lê Văn Mạnh, theo quy định tại khoản 1 Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bên có nghĩa vụ có quyền chuyển giao nghĩa vụ của mình cho người khác, nhưng điều này cần sự đồng ý của bên có quyền Tuy nhiên, có những trường hợp mà nghĩa vụ không thể chuyển giao, chẳng hạn như khi nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc khi pháp luật cấm việc chuyển giao này.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY, Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng, do đó Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel.

Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không? Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án

Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản độc lập trong hợp đồng Tuy nhiên, theo quy định của công ty kim khí Hưng Yên, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập phải được giải quyết tại Tòa án Do đó, chúng ta cần tuân thủ theo điều lệ đã được quy định.

Nếu hợp đồng có điều khoản về trọng tài, thì thỏa thuận này không ràng buộc Công ty kim khí Hưng Yên Tuy nhiên, các điều khoản khác trong hợp đồng như mua bán, thanh toán và giao hàng vẫn có hiệu lực pháp lý.

TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ

Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)?

Theo Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Công ty xây dựng số II Nghệ An đã trình bày tài liệu liên quan đến vụ việc.

Vào ngày 26 tháng 3 năm 2001, Công ty xây dựng số II đã ban hành Công văn số 263 CV/XD2.TCKT quy định về việc vay vốn tín dụng của các đơn vị trực thuộc Tiếp đó, vào ngày 06 tháng 4 năm 2001, Công ty xây dựng số II Nghệ An đã gửi Công văn số 064CV/XDII.TCKT đến Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An, trong đó đề nghị không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty vay vốn nếu chưa có bảo lãnh từ Công ty kể từ ngày 06 tháng 4 năm 2001, đồng thời bãi bỏ tất cả các văn bản liên quan đến vay vốn tại ngân hàng trước ngày này Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 5 năm 2001, Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền.

Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không?

- Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với ngân hàng hợp đồng trên

Theo Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã yêu cầu công ty cổ phần xây dựng Vinaconnex phải thanh toán khoản nợ gốc và lãi suất tổng cộng là 1.382.040.000 đồng cho ngân hàng TMCP công thương Việt Nam Quyết định này được xác nhận là có căn cứ pháp lý rõ ràng.

Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm

Theo khoản 3 Điều 92 Bộ luật Dân sự 2005, chi nhánh được xác định là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, bao gồm cả chức năng đại diện theo ủy quyền Trong trường hợp này, ông Tâm giữ vai trò Giám đốc đại diện cho Xí nghiệp 4.

Xí nghiệp ký Hợp đồng với Ngân hàng mục đích để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị như vậy là hợp lý

Theo Khoản 5 Điều 92 Bộ luật Dân sự 2005, văn phòng đại diện và chi nhánh của pháp nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các giao dịch dân sự.

15 sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện" Xét thấy, Quyết định số 02/QĐ-

CT ngày 09/02/2001 của Công ty xây dựng số II Nghệ An về việc phê duyệt dự án đầu tư

“Mua sắm máy móc thiết bị của Xí nghiệp xây dựng 4" và đề nghị của Xí nghiệp xây dựng

Vào ngày 25/02/2001, Tổng giám đốc Công ty xây dựng số II Nghệ An đã gửi Văn bản số 23 CV/TCT thông báo cho Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An (hiện là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Nghệ An) về việc Công ty đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn trực tiếp tại Chi nhánh này.

II phải chịu trách nhiệm như vậy là hợp lý.

Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở Bộ luật Dân sự 2015? Vì sao?

có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở Bộ luật Dân sự 2015? Vì sao?

Nếu Ngân hàng phản đối hợp đồng theo Quyết định số 10, yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện của Vinaconex không có quyền đại diện, thì cần xem xét các yếu tố pháp lý liên quan đến quyền hạn của người đại diện Việc xác định tính hợp lệ của hợp đồng sẽ phụ thuộc vào chứng cứ và quy định pháp luật hiện hành.

Nếu Công ty Vinaconex đồng ý, giao dịch do người đại diện không có quyền thực hiện sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ của Vinaconex Theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật Dân sự 2005, giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập chỉ có hiệu lực nếu được sự đồng ý của người đại diện hoặc người được đại diện Người giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của họ để nhận phản hồi trong thời hạn quy định; nếu không có phản hồi trong thời gian đó, giao dịch sẽ không tạo ra quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện Tuy nhiên, người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ với bên giao dịch, trừ khi bên giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện.

Nếu Công ty Vinaconex không đồng ý với hợp đồng, giao dịch do người đại diện không có quyền đại diện sẽ không tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Vinaconex Trong trường hợp này, người đại diện đó sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Ngân hàng theo quy định tại khoản 2 Điều

Theo Bộ luật Dân sự 2005, người tham gia giao dịch với cá nhân không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ giao dịch và yêu cầu bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, quyền này không áp dụng nếu người giao dịch biết hoặc lẽ ra phải biết về việc không có quyền đại diện.

Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:

Vụ án tranh chấp thừa kế tài sản

Bà Cao Thị Xê kết hôn với ông Lưu và không có con chung Sau khi ông Lưu qua đời, vợ chồng chị Hương, con gái ông Lưu với bà Thẩm, và anh Chính đã vào ở cùng bà Xê tại căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt Ông Lưu trước khi chết đã để lại di chúc cho bà Xê quyền sử dụng toàn bộ tài sản, và bà Xê yêu cầu thừa kế theo di chúc Tuy nhiên, chị Hương cho rằng tài sản thuộc về ông Lưu và bà Xê kết hôn với ông Lưu là bất hợp pháp vì mẹ chị vẫn đang có quan hệ hôn nhân với ông Lưu, nên không đồng ý yêu cầu của bà Xê Bà Thẩm cũng khẳng định căn nhà là tài sản chung của bà với ông Lưu và yêu cầu được hưởng thừa kế theo pháp luật.

Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xác định di chúc của ông Lưu là hợp pháp, dẫn đến việc bà Xê được hưởng toàn bộ tài sản mà không chia cho bà Thẩm 2/3 kỷ phần thừa kế theo pháp luật, điều này được cho là không đúng và làm thiệt hại đến quyền lợi của bà Thẩm Do đó, Toà án quyết định huỷ bản án sơ thẩm và phúc thẩm, chuyển vụ việc cho Toà án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang để xét xử lại.

Tóm tắt Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:

Vụ án tranh chấp đòi tài sản bị chiếm giữ

Bà Phan Thị Ơn đã khởi kiện yêu cầu bà Lý Thị Chắc và gia đình bà Chắc di dời khỏi nhà và đất, cũng như trả lại các vật dụng như tủ, bàn, ghế, vì căn nhà thuộc về ông Huệ.

Sau khi chồng bà Ơn qua đời, toàn bộ tài sản được định đoạt để lại cho ông Hà Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy đã ra Bản án dân sự sơ thẩm số 243/2011/DSST, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ơn, buộc bà Chắt phải dọn ra khỏi nhà và đất, cùng với việc giao trả các tài sản khác Tòa án không chấp nhận đơn phản tố của bà Chắt về quyền sở hữu nhà và đất Bản án phúc thẩm số 282/2012/DS-PT cũng không chấp nhận kháng cáo của bà Chắt và giữ nguyên nội dung của bản án sơ thẩm.

Quyết định: Hội đồng xét xử chấp nhận Kháng nghị số 132/QĐ-KNGĐT-V5 ngày

Vào ngày 26/11/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 282/2012/DS-PT ngày 04/7/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, cùng với Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy về vụ án “Đòi tài sản bị chiếm giữ” giữa bà Ơn và bà Chắt cùng các bên liên quan Hồ sơ vụ án đã được giao lại cho Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy để xét xử sơ thẩm lại.

Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh:

Vụ án tranh chấp chia thừa kế không phụ thuộc vào di chúc

Cụ Khánh có ba người con là bà Khót, ông Tâm và ông Nhật Năm 2000, cụ Khánh qua đời, để lại di sản là căn nhà số 83 với giá trị bồi thường 1.800.000.000 đồng sau khi trừ các chi phí Theo di chúc, ông Nhật là người thừa kế toàn bộ di sản, nhưng bà Khót và ông Tâm, do tuổi cao và không còn khả năng lao động, đã yêu cầu được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Nguyên đơn yêu cầu mỗi người nhận 400.000.000 đồng từ di sản.

Tòa án đã bác bỏ hoàn toàn yêu cầu của nguyên đơn về việc thừa hưởng di sản của cụ Khánh, xác định rằng quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Tóm tắt Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Vụ án tranh chấp di sản thừa kế

Cụ Nguyễn Văn Phúc và cụ Phạm Thị Thịnh có 6 người con là các ông bà: Nguyễn Hồng

Cụ Phúc qua đời năm 1999 mà không để lại di chúc, trong khi cụ Thịnh mất năm 2007 có di chúc để lại tài sản cho ông Vân Di chúc của cụ Thịnh, lập ngày 8/5/2006, chỉ định ông Vân, con trai trưởng, được hưởng 1/2 căn nhà 71m² và một phần đất từ cụ Phúc Hiện nay, các ông, bà Nguyễn Hồng Vũ

Quyết định: Hội đồng thẩm phán hủy bản án dân sự phúc thẩm số 175/2008/DSPT ngày

Vào ngày 15/9/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã ra quyết định liên quan đến bản án dân sự sơ thẩm số 04/2008/DSST ngày 21/02/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tóm tắt Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân TP

Vụ án liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và vay vốn, trong đó ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân, ông Huỳnh Công Lĩnh và bà Trần Thị Bông yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài ngày 05/9/2003 Phán quyết này liên quan đến tranh chấp giữa bà Trương Thị Kim Soan và Yue Da Mining Limited, được giải quyết bởi Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.

Yue Da Mining Limited đã yêu cầu ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân và bà Trần Thị Bông Thành phải chịu trách nhiệm bằng 50.000 cổ phần tại Công ty Sao Mai của ông Định Tuy nhiên, các bị đơn cho rằng chưa đến hạn thanh toán nợ theo thỏa thuận với Công ty Sao Mai Do đó, họ đã yêu cầu hủy Phán quyết vì không đồng tình với cách giải quyết của Hội đồng trọng tài.

Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về hình thức sở hữu tài sản

Bộ luật dân sự 2005 Bộ luật dân sự 2015

Hình thức sở hữu tài sản được quy định tại bộ luật này gồm:

- Sở hữu chung, bao gồm:

• Sở hữu chung theo phần;

• Sở hữu chung hợp nhất;

• Sở hữu chung hỗn hợp;

• Sở hữu chung của vợ chồng;

• Sở hữu chung của cộng đồng;

• Sở hữu chung của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội;

• Sở hữu chung của tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp

Hình thức sở hữu tài sản được quy định tại bộ luật này gồm:

- Sở hữu chung, bao gồm:

• Sở hữu chung theo phần;

• Sở hữu chung hợp nhất;

• Sở hữu chung của cộng đồng;

• Sở hữu chung của các thành viên gia đình;

• Sở hữu chung của vợ chồng;

• Sở hữu chung trong nhà chung cư;

• Sở hữu chung hỗn hợp

Hình thức sở hữu tài sản theo Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được quy định cô đọng hơn so với năm 2005 Bộ luật này bổ sung thêm các hình thức sở hữu chung, bao gồm sở hữu chung của các thành viên gia đình, sở hữu chung trong nhà chung cư và sở hữu chung hỗn hợp Những quy định mới này đáp ứng thực tiễn cuộc sống, giúp việc giải quyết và áp dụng pháp luật liên quan đến sở hữu tài sản trở nên dễ dàng hơn.

Theo quy định tại Điều 200 BLDS năm 2005 về tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước:

Tài sản sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên và rừng trồng, được tài trợ từ ngân sách nhà nước Ngoài ra, tài sản này còn bao gồm núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên dưới lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và không gian trên trời, cùng với phần vốn và tài sản do nhà nước quản lý.

Nhà nước thực hiện đầu tư vào các doanh nghiệp và công trình thuộc nhiều ngành nghề như kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng và an ninh, cùng với các tài sản khác được quy định bởi pháp luật.

Theo quy định tại Điều 197 BLDS năm 2015 về tài sản thuộc sở hữu toàn dân:

Đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, nguồn lợi biển, vùng trời và các tài nguyên thiên nhiên khác, cùng với những tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý, đều thuộc sở hữu công của toàn dân, với Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu và thực hiện quản lý thống nhất.

Việc chuyển đổi từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu toàn dân trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã làm rõ hơn bản chất của hình thức sở hữu này Cụ thể, các tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý được xác định là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đóng vai trò đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

BLDS năm 2015 đã gộp hình thức sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân thành một, quy định tại khoản 1 Điều 205: “Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân” Sự thay đổi này giúp tạo sự ngắn gọn, tránh rườm rà và giảm thiểu khó khăn trong việc áp dụng pháp luật, từ đó làm cho việc thực thi luật trở nên dễ dàng và minh bạch hơn.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là Quyết định 377)

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm

Theo Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu xây dựng trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm.

Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?

Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà

Theo Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm khẳng định rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, với diện tích 101m2, là tài sản chung của vợ chồng bà, do đó bà không đồng ý với yêu cầu của bà Xê.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của ông Lưu

Theo Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm Tuy nhiên, từ năm 1975, ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được hình thành từ thu nhập của ông Bà Thẩm không có đóng góp về kinh tế hay công sức trong việc xây dựng căn nhà này, do đó ông Lưu có quyền quyết định về tài sản nêu trên.

Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao?

Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã công nhận di chúc hợp pháp của ông Lưu ngày 27-7-2002, nhưng không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi cho bà Xê hưởng toàn bộ di sản mà không chia cho bà Thẩm 2/3 phần thừa kế theo pháp luật, cho rằng quyết định này đã làm thiệt hại đến quyền lợi của bà Thẩm.

Trích đoạn Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:

Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 499/2005/DS-PT ngày 13-10-2005 và Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2005/DSST ngày 29/06/2005 trong vụ án "Tranh chấp thừa kế tài sản" Nguyên đơn là bà Cao Thị Xê, trong khi bị đơn gồm chị Võ Thị Thu Hương và anh Nguyễn Quốc Chính, cùng với ông Nguyễn Văn Thành và bà Nguyễn Thị Thẩm là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

2 Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang giải quyết theo đúng quy định của pháp luật”

Theo tôi, giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý Giải thích:

Bà Xê có quyền hưởng phần di sản của ông Lưu theo di chúc lập ngày 27/7/2002, thể hiện ý chí của ông để lại tài sản cho bà Mặc dù bà Thẩm không được hưởng thừa kế theo di chúc, nhưng với tư cách là vợ hợp pháp của ông Lưu và do đã già yếu, không còn khả năng lao động, bà Thẩm vẫn được hưởng thừa kế theo quy định tại Khoản 1 Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điểm a Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, về quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

- Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005:

Những người được hưởng di sản theo pháp luật sẽ nhận phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế, nếu di sản được chia theo pháp luật và họ không được chỉ định trong di chúc hoặc chỉ nhận phần ít hơn hai phần ba suất đó Tuy nhiên, điều này không áp dụng nếu họ từ chối nhận di sản theo Điều 642 hoặc không có quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này.

1 Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;”

- Và theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Những người như con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng sẽ được hưởng hai phần ba suất di sản của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc chỉ định hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó.

Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã xác định rõ ràng các căn cứ pháp lý, đảm bảo quyền lợi cho cả bà Xê và bà Thẩm.

Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời

Nếu căn nhà thuộc sở hữu chung của ông Lưu và bà Thẩm, ông Lưu không thể tự ý di chúc toàn bộ tài sản này mà không có sự đồng ý từ bà Thẩm.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản chung của vợ chồng có thể được phân chia dựa trên thỏa thuận của các bên hoặc theo quyết định của Tòa án.

- Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 218 Bộ luật Dân sự năm 2015 về định đoạt tài sản chung:

“1 Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình

2 Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”

- Theo quy định tại Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung:

“1 Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận

Việc định đoạt tài sản chung giữa vợ chồng cần phải có thỏa thuận bằng văn bản trong các trường hợp sau: bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định pháp luật, và tài sản đang tạo ra nguồn thu nhập chính cho gia đình.

Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao?

Bà Thẩm, chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu, bà Xê không thuộc hàng thừ kế thứ nhất của ông Lưu Giải thích:

Theo Bộ luật dân sự năm 2015, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ và con nuôi của người đã mất.

- Trong Quyết định Giám đốc thẩm số 377/2008/DS-GĐT:

Ông Lưu và bà Thẩm có quan hệ hôn nhân hợp pháp, hiện vẫn tồn tại theo quy định pháp luật, do đó bà Thẩm được công nhận là vợ hợp pháp của ông Lưu Điều này cũng xác định bà Thẩm thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê vi phạm pháp luật, do đó bà Xê không được công nhận là vợ hợp pháp của ông Lưu Kết quả là, bà Xê không nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

3 Chị Hương là con gái của ông Lưu → Chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao?

có khác không? Vì sao?

Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ khác

- Theo quy định tại điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 về người thừa kế theo pháp luật:

Trong trường hợp một người có nhiều vợ trước các mốc thời gian quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, tất cả các người vợ đều được xem là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng Ngược lại, người chồng cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.

Vào cuối năm 1976, bà Xê và ông Lưu sống cùng nhau tại miền Nam (Tiền Giang), do đó, họ thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 của Nghị quyết Vì vậy, ông Lưu và bà Xê được công nhận là vợ chồng hợp pháp, có quyền thừa kế lẫn nhau, và bà Xê nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao?

Trong vụ việc này, chị Hương được chia di sản của ông Lưu Giải thích:

Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ và con nuôi của người đã mất.

- Chị Hương là con gái của ông Lưu → Chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu và được chia di sản của ông Lưu.

Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại ? Nêu cơ sở khi trả lời

Theo Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015, từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế sẽ có quyền và nghĩa vụ đối với tài sản do người chết để lại.

Theo Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế có quyền sở hữu tài sản di sản từ thời điểm mở thừa kế, tức là khi người để lại di sản qua đời.

Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp ? Vì sao ?

Theo Quyết định số 08 và Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp từ năm 2008, thời điểm ông Hà qua đời và cũng là thời điểm mở thừa kế.

THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC

Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?

Theo Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, ông Lưu đã để lại di chúc cho bà, cho phép bà sử dụng toàn bộ tài sản, bao gồm nhà cửa và đồ dùng trong gia đình Di chúc này, được viết vào ngày 27-7-2002 và có xác nhận của ông Nguyễn Văn Thành, trưởng khu phố 10 phường 6, thành phố Mỹ Tho vào ngày 19-9-2002, đã được công nhận là di chúc hợp pháp.

Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?

Theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:

Những người sau đây sẽ nhận được hai phần ba suất di sản của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo quy định pháp luật và họ không được người lập di chúc chỉ định hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, và con thành niên không có khả năng lao động.

Theo quy định tại khoản 1 Điều này, những người từ chối nhận di sản theo Điều 620 hoặc những người không có quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này sẽ không bị áp dụng.

Bà Thẩm là người duy nhất được thừa hưởng di sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc, trong khi bà Xê và bà Hương không được hưởng quyền lợi này.

- Bà Xê không thuộc diện những trường hợp quy định tại Điều trên mà bà là người thừa kế tài sản theo di chúc

Bà Hương không phải là người thừa kế tài sản theo di chúc và không thuộc các trường hợp được quy định trong Điều luật liên quan Mặc dù bà là con thành niên, nhưng vẫn có khả năng lao động.

Bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, hiện đã lớn tuổi và không còn khả năng lao động Mặc dù bà là người thừa kế hàng thứ nhất, nhưng ông Lưu đã không xác định bà là người thừa kế tài sản trong di chúc Hơn nữa, bà Thẩm cũng không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 của Điều luật liên quan.

Tại thời điểm xét xử vụ án, Toà án đã áp dụng quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều 669 của Bộ luật Dân sự năm 2005 Nội dung này liên quan đến Điều 644 của Bộ luật.

Bộ luật Dân sự năm 2015 không có sự thay đổi đáng kể so với Bộ luật Dân sự 2005, do đó, chỉ có bà Thẩm được quyền thừa hưởng di sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định

Theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được quyền thừa kế di sản của ông Lưu mà không cần phụ thuộc vào nội dung di chúc, do bà thuộc trường hợp được thừa kế theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 và đã có công nuôi dưỡng con chung của hai người.

Theo Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, có quyền thừa kế tài sản của ông Lưu dù ông đã lập di chúc, do ông Lưu đã già yếu và không còn khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự.

Trong suốt thời gian ông Lưu công tác tại miền Nam, bà Thẩm đã trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành Khi giải quyết các vấn đề liên quan, cần xem xét công sức nuôi con của bà Thẩm và có thể trích từ giá trị tài sản của ông Lưu để bù đắp cho bà Thẩm nếu có yêu cầu.

Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?

Nếu bà Thẩm đủ sức khỏe và khả năng lao động, bà vẫn có quyền thừa kế di sản của ông Lưu mà không bị phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, điều này được quy định tương tự trong Điều 669 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Những người sau đây được hưởng hai phần ba suất di sản của một người thừa kế theo pháp luật khi di sản được chia theo pháp luật, nếu họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng và con thành niên không có khả năng lao động.

Theo quy định tại khoản 1 Điều này, những người từ chối nhận di sản theo Điều 620 hoặc những người không có quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này sẽ không bị áp dụng.

Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, do đó bà thuộc diện thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 của điều luật này.

5 Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?

Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600.000.000 đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là 133.333.334 đồng Cụ thể:

Theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vẫn được hưởng phần di sản Cụ thể, bà Thẩm sẽ nhận được hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo quy định pháp luật.

Theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người thừa kế theo pháp luật của di sản ông Lưu bao gồm bà Thẩm, bà Xê và chị Hương Trong đó, bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, thuộc hàng thừa kế thứ nhất Do đó, suất thừa kế của mỗi người thừa kế theo pháp luật là 200.000.000 đồng.

→ Từ hai cơ sở trên có thể kết luận bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là 133.333.334 đồng – tức hai phần ba của 200 triệu đồng.

Ngày đăng: 27/09/2022, 05:10

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN - BÀI THẢO LUẬN học kỳ môn LUẬT dân sự  điểm mới của bộ luật dân sự 2015 (so với bộ luật dân sự năm 2005) về người đại diện
HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN (Trang 19)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w