TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
Nghiên cứu về loài Keo, đặc biệt là Keo lai, đã được thực hiện từ những năm đầu thập niên 90 tại nhiều quốc gia như Malaysia, Australia, Indonesia, Thái Lan và Trung Quốc Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc đánh giá sinh trưởng của loài Keo dựa trên các yếu tố như xuất xứ, nguồn giống, mật độ, phân bón và kỹ thuật nhân giống Từ năm 1980, một loạt khảo nghiệm về xuất xứ Keo lá tràm đã được triển khai, cho thấy sự khác biệt rõ rệt về sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các xuất xứ (Yang và Zeng, 1993; Awang và cộng sự, 1994; Venkateswarlu và cộng sự, 1994) Kết quả này chỉ ra rằng năng suất rừng trồng Keo lá tràm có thể được cải thiện thông qua việc lựa chọn các xuất xứ tốt.
Nghiên cứu của Nor Aini và cộng sự (1997) tại Malaysia cho thấy sự khác biệt rõ rệt về sinh trưởng và tỷ trọng gỗ giữa các xuất xứ cây trồng 4 năm tuổi Các xuất xứ có sinh trưởng tốt nhất đồng thời cũng đạt tỷ trọng gỗ cao nhất, trong khi những xuất xứ sinh trưởng kém lại có tỷ trọng gỗ thấp nhất.
Nghiên cứu về tính chất chống chịu của Keo lá tràm đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học trong quá trình chọn giống Theo Marcar và cộng sự (1991), các xuất xứ Keo lá tràm thể hiện sự khác biệt rõ rệt về khả năng chịu mặn và chịu úng ngập Đặc biệt, sự sinh trưởng của các xuất xứ này không có mối tương quan rõ ràng với các chỉ tiêu chống chịu.
Các nghiên cứu di truyền phân tử đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá mức độ đa dạng di truyền trong quần thể và giữa các quần thể, cũng như tỷ lệ giao phấn chéo trong quần thể Một nghiên cứu điển hình của Wickneswari R và Norwati M (1993) đã sử dụng chất isozyme để đánh giá đa dạng di truyền của quần thể Keo lá tràm tự nhiên tại Australia, cho thấy sự sai khác khá cao giữa các quần thể và sự sai khác di truyền chủ yếu do sự sai khác giữa các cá thể trong quần thể Điều này giúp lý giải sự khác biệt về sinh trưởng và khả năng thích nghi của các xuất xứ trong các khảo nghiệm, đồng thời là cơ sở quan trọng trong chọn lọc cá thể.
Trong nghiên cứu mang tên “Nghiên cứu sử dụng giống keo lai tự nhiên giữa keo tai tượng và keo lá tràm ở Việt Nam”, Lê Đình Khả đã trình bày các đánh giá về sự sinh trưởng của loài keo trên toàn cầu, đặc biệt là tại Philippines trong những năm gần đây.
Năm 1980, việc trồng khảo nghiệm và nghiên cứu khả năng sinh trưởng của một số loài keo như keo tai tượng và keo đa thân đã được tiến hành Đến năm 1993, nghiên cứu tiếp tục được thực hiện để đánh giá sinh trưởng của các loài keo tai tượng và keo lá tràm.
Vào những năm 1990 tại Malaysia, đã tiến hành nghiên cứu đánh giá sự sinh trưởng của cây keo tai tượng và keo lá tràm nhằm hỗ trợ cho việc lựa chọn loài cây trồng rừng Đến năm 1997, các khảo nghiệm tiếp tục được thực hiện với một số loài keo khác, bao gồm cả loài keo lá liềm.
Tại Trung Quốc, cây keo đen (A mearnsii) được trồng phổ biến để sản xuất tannin từ vỏ, với mục tiêu nâng cao năng suất vỏ thông qua chương trình chọn giống Nghiên cứu về trồng khảo nghiệm giống keo đen đã được chú trọng và thực hiện từ những năm 1980.
Vào những năm 1990, Indonesia đã tiến hành khảo nghiệm keo tai tượng nhằm lựa chọn giống tốt để xây dựng vườn ươm giống Phương pháp này được đánh giá là đơn giản, tiết kiệm chi phí và mang lại hiệu quả cao.
Năm 1991, Cyrin Pinso và Robert NaSi đã phát hiện cây keo lai tự nhiên đời F1 tại khu Ulukukut có sự sinh trưởng vượt trội so với các giống keo tai tượng ở Sabah Họ cũng nhận thấy rằng gỗ của cây keo lai có chất lượng trung gian giữa keo tai tượng và keo lá tràm, mang lại phẩm chất tốt hơn so với keo tai tượng.
Tại Thái Lan (Kij Kar,1992), keo lai được tìm thấy ở vườn ươm Keo tai tượng (lấy giống từ Malaisia) tại trạm nghiên cứu Jon – Pu của Viện nghiên cứu
Lâm nghiệp Đài Loan, theo Kiang Tao và cộng sự (1989), cho thấy rằng trong giai đoạn vườn ươm keo lai, sự hình thành lá giả (Phylod) xảy ra sớm hơn so với keo tai tượng nhưng muộn hơn so với keo lá tràm, như được dẫn chứng bởi Lê Đình Khả (1997).
Tại Việt Nam
Keo lai được phát hiện và khảo nghiệm từ năm 1993 - 1995, và từ năm 1996, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã phối hợp với các đơn vị khác để tiếp tục nghiên cứu về loài này Các nghiên cứu bao gồm việc chọn lọc cây trội tự nhiên, xây dựng khảo nghiệm dòng vô tính, và đánh giá tiềm năng bột giấy Kết quả cho thấy keo lai có sự phát triển vượt trội so với keo tai tượng và keo lá tràm, với nhiều đặc điểm hình thái trung gian Khi cắt cây để tạo chồi, keo lai cho ra trung bình 289 hom mỗi gốc, với tỷ lệ ra rễ trung bình đạt 47%, trong đó có 11 dòng có tỷ lệ ra rễ từ 57 – 85% Sự khác biệt về sinh trưởng giữa các dòng khá rõ rệt; một số dòng sinh trưởng nhanh nhưng chất lượng không đạt yêu cầu, trong khi các dòng như BV5, BV10, BV16, BV29, BV32 vừa có tốc độ sinh trưởng nhanh vừa đạt tiêu chí chất lượng tốt, có khả năng nhân giống nhanh và đưa vào sản xuất.
Nghiên cứu năm 1997 cho thấy việc sử dụng hạt của cây keo lai F1 để trồng rừng mới không hiệu quả, vì cây con từ hạt F1 có thể dẫn đến sự phân ly hình thái và thoái hóa ở thế hệ lai thứ hai (F2) Cây lai F1 có hình thái trung gian và đồng nhất, nhưng khi sinh sản bằng hạt, sự đa dạng về hình thái và sinh trưởng sẽ gia tăng, làm giảm ưu thế lai Do đó, phương pháp nhân giống bằng hom hoặc nuôi cấy mô được coi là giải pháp tối ưu để duy trì ưu thế lai của cây keo lai F1.
* Nghiên cứu về sinh trưởng của cây Keo lai
Nghiên cứu tại rừng trồng Ba Vì cho thấy keo lai 2,5 tuổi đạt chiều cao 4,5m và đường kính ngang ngực trung bình 5,21cm, trong khi keo tai tượng chỉ cao 2,77m và có đường kính 2,63cm (Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn, Nguyễn Đình Hải, 1993).
Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Giao (2003) tại Ba Vì (Hà Tây) cho thấy rằng keo lai 78 tháng tuổi đạt chiều cao trung bình 15m, đường kính trung bình D1.3 là 14,3 cm, và thể tích thân cây đạt 172,2 dm³/cây So với keo tai tượng, thể tích này gấp 1,42 – 1,48 lần, và gấp 5,6 – 10,5 lần so với keo lá tràm Khảo nghiệm cũng được thực hiện tại Bình Thanh (Hoà Bình) với phương thức thâm canh.
Chiều cao trung bình của cây keo lai 7 tuổi đạt 22,3m với đường kính D1.3 là 20,7cm và thể tích thân cây là 383,1dm³/cây Trong khi đó, ở công thức quảng canh, chiều cao là 22,9m, đường kính D1.3 đạt 19,3cm và thể tích thân cây là 344,2dm³/cây Tại Đại Lải (Vĩnh Phúc), khảo nghiệm trên đất đồi lateritic nghèo dinh dưỡng sau 6 năm cho thấy chiều cao trung bình của cây keo lai ở công thức thâm canh H vn đạt 15,5m, D1.3 trung bình 11,7cm và thể tích thân cây đạt 86,2dm³/cây, trong khi thể tích thân cây keo tai tượng dao động từ 16,2 đến 31,3dm³/cây Tại Đông Hà (Quảng Trị), cây keo lai 5,5 tuổi có chiều cao 16,7m, đường kính D1.3 trung bình 17,2cm và thể tích thân cây đạt 202,2dm³/cây.
* Những nghiên cứu về năng suất và sản lượng keo lai
Nghiên cứu của Lê Đình Khả và Hồ Quang Vinh (1998) cho thấy rằng việc cải thiện giống keo lai và áp dụng các biện pháp thâm canh là rất quan trọng để tăng năng suất rừng trồng Để đạt được năng suất cao, cần kết hợp các biện pháp cải thiện giống với kỹ thuật trồng rừng thâm canh Các giống keo lai được chọn lọc có năng suất vượt trội so với các loài bố mẹ, ví dụ như tại Cẩm Quỳ (Ba Vì – Hà Tây), keo lai trồng trong điều kiện thâm canh đạt thể tích 19,6 dm³/cây ở hai năm tuổi, trong khi các loài bố mẹ chỉ đạt 4,7 dm³/cây trong cùng điều kiện Nếu trồng các loài bố mẹ trong điều kiện thâm canh, thể tích thân cây chỉ đạt từ 2,7 đến 6,1 dm³/cây, còn trong công thức quảng canh chỉ đạt 0,6 đến 1,2 dm³/cây (Lê Đình Khả, 1997, 1999).
* Nghiên cứu về khả năng cải tạo đất
Nghiên cứu của Lê Đình Khả, Ngô Đình Quế, Nguyễn Đình Hải (1999) cho thấy keo lai có khả năng cải tạo đất vượt trội so với hai loài bố mẹ Ở giai đoạn vườn ươm 3 tháng tuổi, các dòng keo lai có số lượng nốt sần từ 39,9 – 80,3 cái/cây, gấp 2,5 – 13 lần so với các loài bố mẹ, với khối lượng tươi nốt sần đạt 0,39 – 0,47g/cây, trong khi các loài bố mẹ chỉ đạt 0,075 – 0,15g/cây Khối lượng khô nốt sần của keo lai cũng cao gấp 5 – 12 lần so với các loài bố mẹ Một số dòng keo lai có lượng vi khuẩn cố định Nitơ cao hơn hẳn, trong khi một số khác có tính chất trung gian Đặc biệt, dưới tán rừng keo lai 5 tuổi tại Đá Chông, số lượng vi sinh vật và vi khuẩn cố định Nitơ tự do trong 1 gram đất cao hơn rõ rệt so với đất dưới tán rừng keo tai tượng và keo lá tràm, với mức gấp 5 – 17 lần so với các loài bố mẹ và gấp 97 lần mẫu đất ở nơi đất trống Điều này chứng tỏ đất dưới tán rừng keo lai được cải thiện rõ rệt về hóa tính, lý tính và số lượng vi sinh vật.
* Những nghiên cứu về lập địa
Trong những năm gần đây, việc xác định điều kiện lập địa phù hợp cho các loài cây trồng tại Việt Nam đã thu hút sự quan tâm đáng kể Nghiên cứu của Đỗ Đình Sâm và các cộng sự nổi bật trong lĩnh vực này, góp phần làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng.
Vào năm 1994, nghiên cứu về tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp vùng Đông Nam Bộ đã chỉ ra rằng khu vực này có khả năng phát triển lâm nghiệp lớn, với 70-80% diện tích đất thích hợp cho các loại cây lâm nghiệp Đặc biệt, vùng này rất phù hợp cho việc trồng các loài cây cung cấp gỗ công nghiệp như Bạch đàn (Eucalyptus) và Keo (Acacia) Ngoài ra, vùng Đông Nam Bộ cũng thích hợp cho việc trồng rừng gỗ lớn như Tếch (Tectona grandis), Sao (Hopea odorata) và Dầu nước (Dipterocarpus alatus).
Ngô Đình Quế và cộng sự (2001) đã nghiên cứu tiêu chuẩn phân chia lập địa cho rừng trồng công nghiệp tại một số vùng sinh thái ở Việt Nam và nhận định rằng có bốn yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của rừng, bao gồm đá mẹ và các loại đất, độ dày tầng đất và tỷ lệ đá lẫn, độ dốc, cùng với thảm thực vật chỉ thị.
Trong nghiên cứu đánh giá đất lâm nghiệp cấp xã nhằm phục vụ trồng rừng, Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2003) đã xây dựng bộ tiêu chí đánh giá gồm 6 tiêu chí và 24 chỉ tiêu về điều kiện tự nhiên, cùng với 5 tiêu chí về điều kiện kinh tế xã hội Tiếp theo, Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế và Vũ Tấn Phương (2005) đã phát triển bộ tiêu chuẩn thích hợp cho một số loài cây trong Cẩm nang đánh giá đất trồng rừng Theo đó, cây Keo lai được xác định là loài thích hợp nhất với độ dốc 100cm và độ cao tuyệt đối