MỘT SÓ VẤN ĐÈ CHƯNG VỀ TỘI GIÉT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH Sự VIỆT NAM
Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội giết người
1.1.1 Khái niệm Tội giết người
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1985, 1999 và các văn bản pháp luật hình sự, hành vi giết người bao gồm tất cả các trường hợp giết người được pháp luật quy định Nghiên cứu về hành vi giết người trong các văn bản này đồng nghĩa với việc nghiên cứu các hành vi giết người nói chung Tuy nhiên, đề tài luận văn chỉ tập trung vào tội giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Năm 2015, Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2017, quy định về các trường hợp giết người đặc biệt như giết con mới đẻ, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, và giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng tại các Điều 124, 125 và 126 Đồng thời, Tội cố ý gây thương tích cũng được đề cập trong khoản 3, khoản 4 Điều 134 Việc nghiên cứu những tội danh này cần được thực hiện từ các khía cạnh nhất định để so sánh với Tội giết người quy định tại Điều 123 BLHS.
Hiện nay, các bộ luật hình sự trên thế giới đang có hai xu hướng chính trong việc định nghĩa tội giết người Xu hướng đầu tiên là đưa ra định nghĩa cụ thể trong bộ luật, như Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996 tại Điều 105, quy định rằng tội giết người là “cố ý làm chết người khác.” Tương tự, Bộ luật Hình sự Trung Quốc năm 1997 cũng có định nghĩa tại Điều 232 về tội giết người.
“là hành vi cố ý giết người khác” [79, tr 43]; Bộ luật Bang California (Hoa Kỳ) năm
Theo Điều 187 Bộ luật Hình sự năm 1998, tội giết người được định nghĩa là hành vi cố ý giết người khác hoặc giết bào thai một cách hiếm độc và bất hợp pháp Trong khi một số quốc gia như Việt Nam và Nhật Bản không định nghĩa rõ ràng tội giết người, các nước khác lại có định nghĩa riêng Lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam chưa từng có văn bản nào nêu rõ khái niệm tội giết người, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này dựa trên nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.
Tội giết người được định nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, nhằm tước đoạt quyền sống của người khác.
Tội giết người được định nghĩa là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Tợ/giết người được định nghĩa là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật.
Phân tích các cách định nghĩa trên, chúng tôi thấy:
Các cách định nghĩa hiện tại chỉ tập trung vào dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi của chủ thể, trong khi một số định nghĩa khác lại không đề cập đến cả hai yếu tố này.
Việc sử dụng thuật ngữ "giết người" trong luật pháp cần được xem xét kỹ lưỡng, bởi vì theo định nghĩa trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, "tước đoạt tính mạng" đã bao hàm ý nghĩa của hành vi cố ý Do đó, việc quy định "giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng" là không chính xác và không cần thiết Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định rõ ràng về hình phạt cho hành vi giết người, với mức án từ mười hai năm đến tử hình, mà không cần lặp lại khái niệm "cố ý".
Với quy định tại Điều 123 như đã nêu ở trên, nhà làm luật cũng chỉ mới nêu tên tội danh mà chưa định nghĩa thế nào là Tội giết người.
Theo chúng tôi muốn định nghĩa về Tội giết người, trước hết phải đi từ những quy định trong Phần chung của BLHS năm 2015.
Theo quy định tại khoản 1, Điêu 8 BLHS:
Tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự Hành vi này có thể do cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân Các hành vi này phải được xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Theo quy định tại Điều 10 BLHS:
Cố ý phạm tội là phạm tội trong các trường hợp sau đây:
1 Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2 Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thế xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Khoản 2 Điều 12 BLHS quy định tuổi chịu TNHS như sau: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
Theo Điều 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được nêu.
Để xác định một hành vi có đủ yếu tố cấu thành Tội giết người, cần phải đảm bảo các điều kiện cơ bản theo quy định pháp luật.
- Hành vi đó phải là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội được quy định trong BLHS.
- Hành vi đó phải do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý.
Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
Tội giết người có mức độ nghiêm trọng khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp, có thể được phân loại thành tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng So với các tội phạm khác trong Bộ luật Hình sự năm 2015, tội giết người có sự khác biệt cơ bản trong cấu trúc khung hình phạt, khi mà các tội phạm khác thường được sắp xếp theo khung hình phạt tăng dần từ khoản 1 là cấu thành cơ bản, trong khi tội giết người lại có khung cấu thành tăng nặng quy định tại khoản 1 của Điều luật.
Khoản 1 Điều 123 BLHS quy định hình phạt từ mười hai đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, áp dụng đối với trường hợp phạm tội thuộc một trong các tình tiết định khung tăng nặng từ điểm a đến điểm q.
1.2.1 Các Dấu hiệu định khung tăng nặng 1.2.1.1 Giết hai người trở lên
Trường hợp giết người có thể xảy ra đối với hai người trở lên, dù là cùng một lần hay nhiều lần khác nhau Hiện nay, có nhiều ý kiến trái chiều về việc xác định tội giết nhiều người, với một số quan điểm cho rằng chỉ khi có từ hai người chết trở lên mới được coi là giết nhiều người Tuy nhiên, quan điểm này thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn, không phù hợp với lý luận về cấu thành tội phạm Thực tế cho thấy, có những vụ án không có ai bị giết nhưng vẫn có người bị truy tố về tội giết người, như trường hợp giết người chưa đạt Chỉ cần người phạm tội có ý định tước đoạt tính mạng nhiều người, thì đã đủ để xác định phạm tội này Ví dụ, A có mâu thuẫn với gia đình B và cố tình khóa trái cửa, đổ xăng và châm lửa đốt nhà, nhưng gia đình B kịp thoát ra và chỉ bị bỏng.
Nếu người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp, việc chỉ giết một người vẫn được xem là giết nhiều người nếu họ có mong muốn giết nhiều người Ngược lại, với lỗi cố ý gián tiếp, hậu quả "chết nhiều người" là điều kiện cần thiết để áp dụng tình tiết này Nếu chỉ có một người chết do cố ý, trong khi những người khác chết do vô ý, người phạm tội sẽ bị xử lý theo tội danh khác Thêm vào đó, nếu có từ hai người chết trở lên nhưng chỉ một người chết do cố ý, còn lại do các tình huống như bị kích động mạnh hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì người phạm tội cũng không bị áp dụng tình tiết “giết nhiều người” và sẽ bị định tội theo nhiều tội danh khác nhau.
1.2.1.2 Giết người dưới 16 tuổi (Trẻ em)
Hành vi giết trẻ em, được định nghĩa theo Điều 1 của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người dưới 16 tuổi Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ nhằm bảo vệ trẻ em mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, mọi hành vi giết người dưới 16 tuổi đều bị coi là tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 1 Điều 123, bất kể ý thức của người phạm tội Khi áp dụng tình tiết này, cần xác định tuổi của nạn nhân dựa trên tài liệu liên quan đến ngày sinh; nếu không có tài liệu rõ ràng, cần áp dụng cách tính tuổi có lợi cho người phạm tội.
Theo quy định của Bộ luật tô tụng hình sự, khi không có cơ sở chính xác đê xác định tuổi của bị hại thì theo nguyên tắc:
Nếu chỉ biết tháng sinh mà không biết ngày, hãy lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh Nếu chỉ biết quý mà không có thông tin về ngày, tháng, thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó Trong trường hợp chỉ biết nửa năm nhưng không rõ ngày tháng, hãy chọn ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó Nếu chỉ biết năm sinh mà không xác định được ngày, tháng, thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày tháng năm sinh Khi kết quả giám định tuổi chỉ xác định khoảng độ tuổi của người bị buộc tội hoặc người bị hại, hãy lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định để xác định tuổi của họ.
1.2.1.3 Giết phụ nữ mà biết là có thai
Trường hợp nạn nhân bị giết đang mang thai, và người phạm tội nhận thức được điều này, sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn Tình tiết này cũng áp dụng nếu người phạm tội nhầm lẫn một phụ nữ đang có thai, mặc dù thực tế cô ấy không mang thai Tuy nhiên, nếu người phạm tội không nhận thức rằng nạn nhân có thai khi thực hiện hành vi giết người, thì tình tiết này sẽ không được áp dụng.
A và B, hàng xóm của nhau, đã xảy ra mâu thuẫn dẫn đến ẩu đả, trong đó A đã đánh B bằng cây khiến B tử vong sau vài giờ Khám nghiệm tử thi cho thấy B đang mang thai hơn hai tháng mà không có dấu hiệu bên ngoài Việc A giết B trong khi biết cô có thai thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội, khác với tình tiết tăng nặng theo Khoản 1 Điều 52, nơi chỉ cần nạn nhân là phụ nữ có thai mà không cần biết người phạm tội có nhận thức về điều đó hay không.
1.2.1.4 Giết ngưòi đang thỉ hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
Giết người đang thi hành công vụ là hành vi giết người nhắm vào những người thực hiện nhiệm vụ theo quy định nghề nghiệp, như công an, thẩm phán, thầy thuốc, thầy giáo, cán bộ kiểm lâm, cán bộ thuế, và các lực lượng bảo vệ trật tự công cộng Nạn nhân phải đang thực hiện nhiệm vụ hợp pháp khi bị giết, và trong một số trường hợp, người tình nguyện bảo vệ an ninh cũng có thể trở thành nạn nhân Để áp dụng tình tiết "giết người đang thi hành công vụ," cần xác định rằng nạn nhân đang thực hiện nhiệm vụ hợp pháp tại thời điểm xảy ra sự việc.
Giết người vì lý do công vụ là hành vi giết người có động cơ liên quan đến việc thi hành công vụ của nạn nhân, bao gồm việc giết nạn nhân để ngăn cản hoặc trả thù việc thi hành công vụ Người phạm tội có thể thực hiện hành vi giết người trước hoặc sau khi nạn nhân thi hành công vụ Công vụ được hiểu là những công việc đòi hỏi quyền hành nhất định đối với công dân Hành vi này không chỉ xâm phạm tính mạng con người mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động xã hội và làm suy giảm trật tự trị an.
1.2.1.5 Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình Đây là trường hợp giết người mang tính chất vô đạo đức, bội bạc, giết người mà người bị giết đáng lẽ phải kính trọng Việc nhà làm luật coi trường hợp này là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống tôn sư trọng đạo.
Giết ông, bà: có thể là ông bà nội hay ông, bà ngoại của người phạm tội:
Giết cha, mẹ bao gồm cả cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, cũng như cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng của người phạm tội Những người nuôi dưỡng, như cô, chú, cậu, mợ, có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc, giáo dục và dạy dỗ người phạm tội Ngoài ra, những người không có quan hệ huyết thống nhưng vẫn chăm sóc trẻ em tại các trại mồ côi hoặc cơ sở điều dưỡng cũng được xem là cha mẹ nuôi.
Giết thầy cô giáo là hành vi phạm tội liên quan đến mối quan hệ giáo dục, theo quy định của Luật Giáo dục Tình tiết này chỉ được áp dụng khi động cơ gây án xuất phát từ quan hệ thầy trò Ví dụ, Y T Niê, sinh viên năm thứ 4 tại Đại học Tây Nguyên, đã mâu thuẫn với giảng viên Trần Nguyễn A vì cả hai đều yêu một nữ sinh cùng lớp Dù A là giảng viên, nhưng chỉ hơn T 5 tuổi và không giảng dạy lớp của T Để ngăn A theo đuổi nữ sinh, T đã rủ bạn cùng lớp đánh A, dẫn đến thương tích nặng và cuối cùng A đã tử vong trong bệnh viện.
1.2.1.6 Giết người mà liền trước đó hoặc ngày sau đỏ lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng Đây là trường hợp giết người mà liền trước hoặc ngay sau hành vi giết người, kẻ giết người đã phạm thêm một hoặc nhiều tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác tức là tội có mức hình phạt tối thiểu của khung hình phạt phạm phải là trên 7 năm tù Với việc liên tiếp phạm tội như vậy chứng tỏ kẻ phạm tội là phần tử nguy hiểm, có ý thức phạm tội sâu sắc Điều đó làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm Tội giết người, cũng như phản ánh khả năng khó cải tạo, giáo dục người phạm tội Không có văn bản xác định như thế nào là “liền trước” hoặc “liền sau” Tuy nhiên, theo thực tiễn xét xử, “liền trước” hoặc “liền sau” được xác định là trong khoảng thời gian vài giờ hoặc hai hành vi được thực hiện liền ngay sau hành vi giết người Nếu thời gian dài hơn thì không áp dụng tình tiết này Đe thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác.
1.2.1.7 Giết người đê thực hiện hoặc che dấu tôi phạm khác
Giết người với động cơ thực hiện một tội phạm khác là trường hợp mà người phạm tội thực hiện hành vi giết người nhằm mục đích trốn thoát hoặc thực hiện một hành vi phạm tội khác, như giết người canh gác để thoát khỏi nơi giam Tội phạm khác có thể là bất kỳ hành vi vi phạm nào được quy định trong Bộ luật Hình sự Khác với tình tiết giết người ngay sau khi phạm một tội rất nghiêm trọng, trong trường hợp này, thời gian giữa hai hành vi có thể kéo dài, nhưng hành vi giết người vẫn có mối quan hệ chặt chẽ và là điều kiện tiên quyết cho tội phạm khác.
Phân biệt Tội giết người với một số tội phạm khác
Sự phân biệt giữa các loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự (BLHS) là vấn đề quan trọng, không chỉ trong lý luận mà còn trong thực tiễn áp dụng pháp luật (ADPL).
Việc không xem xét một cách toàn diện có thể dẫn đến sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án, gây ra tình trạng xét xử không đúng người, không đúng tội Điều này không chỉ bỏ lọt tội phạm mà còn có nguy cơ làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế.
Tội phạm luôn bao gồm bốn yếu tố cơ bản và chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng theo quy định của Bộ luật Hình sự Tuy nhiên, một số tội phạm có thể có sự tương đồng về các dấu hiệu pháp lý, do đó cần phải so sánh và phân biệt chúng một cách rõ ràng để tránh những sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật Dưới đây là một số tội danh điển hình cần được phân biệt, đặc biệt là tội giết người.
1.2.3.1 Phân biệt Tội giết người theo quy định tại Điều 123 với Tội giết con mới đẻ theo quy định tại Điều 124 Bộ luật hình sự
Thứ nhất, về bố cục cả hai tội này đều được quy định trong chương XIV của
BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Thứ hai, về khách thể tội phạm: Tội giết người và tội giết con mới đẻ đều giống nhau ở khách thể bị xâm phạm là tính mạng con người.
Thứ ba: về mặt chủ quan: cả hai tội đều thực hiện một cách cố ý.
Tuy nhiên, giữa hai tội này có những đặc điểm khác nhau cơ bản đó là:
Nạn nhân của tội giết người là bất kỳ ai bị tước đoạt quyền sống, trong khi tội giết con mới đẻ chỉ áp dụng cho trẻ sơ sinh, cụ thể là những đứa trẻ được sinh ra trong vòng bảy ngày và là con của đối tượng phạm tội Theo Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, định nghĩa rõ ràng về con mới đẻ giúp phân biệt giữa hai loại tội phạm này.
Thứ hai, về chủ thể: Chủ thể của Tội giết người là bất kỳ người nào có năng lực
Theo quy định của Bộ luật Hình sự, người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự, và người mẹ từ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội giết con mới đẻ Do đó, trong trường hợp "đẻ thuê" hoặc "đẻ hộ", nếu người mẹ giết con mới đẻ, họ vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Không phải mọi trường hợp giết con mới sinh sau bảy ngày đều cấu thành tội giết con mới đẻ Hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ chỉ được coi là tội phạm khi người mẹ thực hiện hành vi này do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu như mê tín hoặc do hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như đứa trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh hoặc mắc bệnh nan y khó chữa trị.
Theo quy định của pháp luật, người mẹ chịu trách nhiệm hình sự nếu do ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt mà thực hiện hành vi giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ dẫn đến cái chết của trẻ Hình phạt cho hành vi này có thể là cải tạo giam giữ đến hai năm hoặc tù từ hai tháng đến ba năm.
Hành vi khách quan trong tội giết con mới đẻ có thể được thể hiện qua hai hình thức: hành động phạm tội và không hành động phạm tội Hành động phạm tội bao gồm việc trực tiếp tác động đến cơ thể trẻ, nhằm tước đoạt sự sống, như bóp cổ, thắt cổ, đâm, chém, hoặc cho uống thuốc độc Ngược lại, hành vi không phạm tội thể hiện qua việc không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, như không cho con bú, không cho trẻ ốm uống thuốc, hoặc bỏ rơi trẻ nơi công cộng, dẫn đến cái chết của trẻ.
Hành vi giết con mới đẻ và giết người đều dẫn đến hậu quả chết người, và người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự Tuy nhiên, trong trường hợp vứt bỏ con mới đẻ, chỉ khi đứa trẻ chết do hành vi này thì người mẹ mới phải chịu trách nhiệm hình sự Nếu đứa trẻ sống sót sau khi bị vứt bỏ, người mẹ sẽ không bị truy cứu hình sự về tội danh này.
1.2.3.2 Phân biệt Tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự với
Tội gỉêt người trong trạng thái tinh thân bị kích động mạnh quy định tại Điêu 125
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và Tội giết người có những đặc điểm giống nhau là:
Cả hai tội này được quy định trong chương XIV của Bộ luật Hình sự năm 2015, thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người.
Thứ hai, về khách thể đều xâm phạm đến quyền sống của con người.
Thứ ba, về mặt chủ quan lỗi ở đây đều là lỗi cố ý, bao gồm cả lỗi gián tiếp và lôi trực tiếp.
Thứ tư, về chủ thể: Cả hai tội là chủ thể thường, tức là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Tuy nhiên, giữa hai tội này có những đặc diêm khác nhau đó là:
Trong tội giết người, trạng thái tinh thần của người phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc để định tội Tuy nhiên, đối với tội giết người do bị kích động mạnh, trạng thái tinh thần này trở thành yếu tố bắt buộc Người phạm tội cần phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi thực hiện hành vi phạm tội.
Theo Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là tình trạng không hoàn toàn tự chủ do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra Để xác định mức độ kích động, cần phân biệt giữa "kích động" và "kích động mạnh" thông qua việc xem xét nhiều yếu tố như thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, và diễn biến dẫn đến kích động Ngoài ra, mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội, trình độ văn hóa, chính trị, cá tính của mỗi bên, cũng như mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân và mối quan hệ nhân quả với trạng thái tinh thần kích động mạnh cần được phân tích một cách khách quan.
Theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 51 BLHS, nạn nhân của tội giết người chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ nếu hành vi của họ là trái pháp luật Đặc biệt, nạn nhân trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân của họ Hành vi trái pháp luật này có thể là những hành động cụ thể ngay lập tức gây ra sự kích động, hoặc là một chuỗi hành vi lặp đi lặp lại, tạo áp lực tâm lý nặng nề Sự kích động này, nếu không được xem xét trong bối cảnh tổng thể, sẽ không được coi là mạnh mẽ Tuy nhiên, khi nhìn nhận toàn bộ quá trình dẫn đến trạng thái tinh thần của người phạm tội, có thể thấy rằng sự dồn nén tâm lý đã khiến họ không tự kiềm chế được và thực hiện hành vi phạm tội.
• • • • 1 • • • • coi là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Hậu quả của hành vi giết người có thể dẫn đến cái chết của nạn nhân, và người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự bất kể nạn nhân có chết hay không, miễn là có đủ chứng cứ chứng minh rằng cái chết không nằm trong ý muốn của họ Đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, nếu nạn nhân không chết, người phạm tội sẽ không bị truy cứu về tội giết người mà sẽ bị xử lý theo tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự.
Mục đích của người phạm tội giết người là tước đoạt tính mạng của nạn nhân Tuy nhiên, trong trường hợp tội giết người do bị kích động mạnh, người phạm tội bị hạn chế nhận thức do tác động từ nạn nhân, dẫn đến việc họ không nhận thức đầy đủ về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi Vì vậy, mục đích phạm tội trong tình trạng này thường khó xác định, và hầu hết những người này không có ý định giết người mà chỉ hành động trong trạng thái không kiểm soát được Dù vậy, họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hậu quả đã xảy ra theo quy định của Bộ luật Hình sự.