TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
Cơ chế hoạt độ ng c ủ a qu ỹ đầu tư
Quy định đầu tư (QĐT) được hình thành qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng chủ yếu các trung gian hoạt động theo cơ chế có sự tham gia của các bên liên quan như công ty quản lý quỹ (CTQLQ), ngân hàng giám sát, công ty kiểm toán, nhà đầu tư (NĐT) và các tổ chức cung cấp dịch vụ khác.
Hình 1.2 - Mô hình quỹ đầu tư
Công Ty Quản Lý Quỹ (CTQLQ) được UBCKNN cấp phép thành lập nhằm huy động vốn và quản lý quỹ đầu tư (QĐT) cũng như danh mục đầu tư chứng khoán theo cáo bạch CTQLQ có trách nhiệm báo cáo hoạt động của QĐT cho UBCKNN, từ đó thể hiện vai trò quan trọng trong việc quản lý tài sản Chức năng chính của CTQLQ là đầu tư hiệu quả nhằm gia tăng giá trị của QĐT.
+ Huy động và quản lý vốn tài sản.
+ Tập trung đầu tư theo danh mục đầu tư.
+ Quản lý đầu tư chuyên nghiệp.
- Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính:
+ Thực hiện việc tư vấn đầu tư và tư vấn về quản trị cho các khách hàng.
+ Hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa các khoản đầu tư thông qua công cụ tài chính. + Tối ưu hóa các nguồn vốn cho các NĐT.
Nghiên cứu và phân tích thị trường là rất quan trọng để đánh giá các giá trị tài chính và đầu tư Điều này hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động đầu tư và tài chính, giúp đưa ra quyết định đúng đắn và tối ưu hóa lợi nhuận.
Ngân hàng giám sát thực hiện việc kiểm tra, bảo quản và lưu ký tài sản của quỹ đầu tư (QĐT), đồng thời giám sát công ty quản lý quỹ (CTQLQ) để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư (NĐT) Ngân hàng cũng tính toán giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ và công bố công khai, đảm bảo tuân thủ chế độ báo cáo và thông tin Ngoài ra, ngân hàng báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) khi phát hiện vi phạm của CTQLQ, thực hiện đối chiếu định kỳ sổ kế toán và báo cáo tài chính của quỹ, làm đại lý chuyển nhượng, quản lý thông tin NĐT và tiến hành kiểm toán định kỳ kết quả hoạt động của QĐT.
Công ty kiểm toán có nhiệm vụ kiểm tra và đánh giá khách quan tình hình hoạt động của quỹ đầu tư, đảm bảo tính minh bạch Kiểm toán viên là những chuyên gia độc lập, không có mối liên hệ với công ty quản lý quỹ Đại Hội Đồng Nhà Đầu Tư, bao gồm tất cả các nhà đầu tư của quỹ, là cơ quan quyết định cao nhất trong quản lý quỹ.
QĐT, có quyền hạn và nghĩa vụ như theo Điều lệ quỹ phù hợp với quy định của pháp luật.
Ban đại diện quỹ chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, bao gồm từ 3 đến 10 thành viên Đặc biệt, ít nhất 2/3 trong số các thành viên này phải là những người độc lập, không có mối quan hệ với công ty quản lý quỹ.
Các tổ chức cung cấp dịch vụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn luật đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho công ty quản lý quỹ (CTQLQ) và quỹ đầu tư (QĐT), đảm bảo hoạt động của họ tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
1.2.1Nghiệp vụ của quỹ đầu tư :
1.2.1.1 Huy động vốn từ nhà đầu tư:
Phát hành chứng chỉ và niêm yết trong nước :
Việc chào bán chứng chỉ quỹ (CCQ) đại chúng dạng đóng bao gồm hai hình thức chính: phát hành lần đầu ra công chúng và phát hành để tăng vốn Đối với phát hành lần đầu, giá trị CCQ đăng ký chào bán tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt Nam Đối với các lần phát hành để tăng vốn, phải được quy định trong điều lệ quỹ và thông qua Đại hội nhà đầu tư Quyền mua CCQ dành cho nhà đầu tư hiện hữu có thể chuyển nhượng, và nếu họ không thực hiện quyền này, phần CCQ còn dư sẽ được chào bán cho các nhà đầu tư khác.
Sau khi nhận Giấy chứng nhận chào bán CCQ từ UBCKNN, việc chào bán sẽ được thực hiện qua các đại lý Các tổ chức này cần đảm bảo rằng CCQ được phân phối một cách công bằng, công khai và thời gian mua CCQ cho nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày.
CTQLQ trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày diễn ra Đại hội NĐT đầu tiên phải tiến hành hoàn tất hồ sơ đề nghị niêm yết CCQ đến SGDCK.
Phát hành CCQ và niêm yết tại nước ngoài :
Vốn cho QĐT được huy động từ nước ngoài dưới các hình thức sau:
- Lập Quỹ tại Việt Nam theo Luật Chứng Khoán và chào bán toàn bộ CCQ cho
Để lập quỹ ở nước ngoài theo pháp luật quốc tế và niêm yết chứng chỉ quỹ (CCQ) trên sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài, việc huy động vốn phải tuân thủ các điều kiện nhất định.
Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty đã thông qua quyết định huy động vốn từ nước ngoài và kế hoạch sử dụng số vốn thu được.
Công ty cần có phương án phát hành rõ ràng về quốc gia và loại hình nhà đầu tư dự kiến cho việc chào bán chứng chỉ quỹ (CCQ), đã được phê duyệt bởi Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên Phương án này phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành Trước khi gửi hồ sơ đăng ký chào bán CCQ cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, công ty quản lý quỹ phải gửi cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) các tài liệu cần thiết, bao gồm bản sao hợp lệ của hồ sơ đã được chấp thuận Sau khi hoàn tất phát hành và niêm yết CCQ ở nước ngoài, công ty phải gửi toàn bộ hồ sơ liên quan trong vòng 10 ngày theo quy định của pháp luật và yêu cầu của UBCKNN.
Để huy động vốn và niêm yết chứng chỉ quỹ (CCQ), cần phải đáp ứng các điều kiện chào bán, thành lập quỹ và niêm yết CCQ theo quy định của cơ quan có thẩm quyền tại quốc gia nơi công ty quản lý quỹ (CTQLQ) dự kiến thực hiện.
Hình 1.3 - Quy trình phát hành và niêm yết CCQ
Luật Chứng Khoán năm 2006 của Việt Nam chỉ quy định cách huy động vốn cho quỹ đại chúng dạng đóng và quỹ thành viên, trong khi quỹ tương hỗ có thể áp dụng mọi phương pháp để bán cổ phiếu ra công chúng Dưới đây là một số phương pháp bán cổ phiếu phổ biến được sử dụng.
Quỹ – Người bảo lãnh (NBL) – Người kinh doanh (NKD) – Người đầu tư (NĐT)
NĐT đặt lệnh mua cổ phiếu QĐT qua NKD, sau đó NKD chuyển lệnh cho NBL NBL sẽ bán cổ phiếu cho quỹ theo giá NAV hiện tại Tiếp theo, NBL bán cho NKD với giá NAV cộng phí nhượng lại hoặc giá cháo bán cho công chúng (POP) trừ chiết khấu Cuối cùng, NKD sẽ bán lại cổ phiếu cho công chúng với giá POP đầy đủ.
CÁC TỔ CHỨC TRUNG GIAN NHÀ ĐẦU TƯ QUỸ
PHÁT HÀNH CHỨNG CHỈ QUỸ BÁN CHỨNG CHỈ QUỸ
BÁN TRỰC TIẾP CHỨNG CHỈ QUỸ
Quỹ – Người bảo lãnh (NBL) – Người đầu tư (NĐT)
Đánh giá hiệ u qu ả ho ạt độ ng c ủ a qu ỹ đầu tư
Mỗi nhà đầu tư vào quỹ đều có mục tiêu đầu tư riêng, nhưng mục tiêu chung là tối đa hóa lợi nhuận thông qua cổ tức hoặc sự gia tăng giá trị tài sản đầu tư, hoặc cả hai Lợi nhuận này được xác định dựa trên việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các khoản đầu tư, cụ thể là thông qua việc xác định giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ.
Với: - Tổng tài sản có bao gồm tiền và giá trị cổ phiếu hiện hành của quỹ được tính toán cụ thể như sau:
Giá trị của chứng khoán niêm yết được xác định dựa trên giá đóng cửa hoặc giá trung bình của ngày giao dịch gần nhất trước ngày định giá Công ty Quản lý Quỹ (CTQLQ) sẽ áp dụng một trong hai phương pháp này một cách nhất quán và sẽ quy định rõ ràng trong Bản Cáo bạch và Điều lệ quỹ.
Đối với chứng khoán chưa niêm yết và giao dịch tại các công ty chứng khoán, giá của chứng khoán được xác định dựa trên giá trung bình từ các giao dịch được cung cấp bởi ba nguồn khác nhau.
(03) công ty chứng khoán không có liên quan của CTQLQ và Ngân hàng giám sát
Tổng nợ phải trả bao gồm tất cả các khoản nợ tính đến thời điểm xác định NAV, như phí môi giới, phí lưu ký, phí hành chính, phí định giá và lãi vay ngân hàng (nếu có) Phương thức xác định giá trị các khoản nợ và nghĩa vụ thanh toán cần được Ngân hàng giám sát xác nhận là phù hợp với các quy định pháp luật liên quan.
NAV của quỹ và NAV trên mỗi đơn vị CCQ được xác định ít nhất một lần mỗi tuần và thông tin này sẽ được công khai cho nhà đầu tư sau khi Ngân hàng giám sát kiểm định tính chính xác.
Việc xác định NAV (Giá trị tài sản ròng) của quỹ là rất quan trọng, vì nó là tiêu chí chính để đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ Biến động của NAV, dù tăng hay giảm, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh lợi của quỹ Đối với các nhà đầu tư, NAV là cơ sở để đánh giá hiệu quả quỹ, với quỹ đại chúng dựa vào giá chứng chỉ quỹ và NAV, còn quỹ thành viên chỉ dựa vào NAV.
1.4 Thực tiễn phát triển mô hình quỹ đầu tư trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
1.4.1 Phát triển quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán Mỹ :
Quỹ đầu tư (QĐT) tại Mỹ có một lịch sử lâu dài và đã nhanh chóng phát triển nhờ vào nền kinh tế ổn định và thị trường chứng khoán hiệu quả Tại Mỹ, QĐT hoạt động theo hai mô hình chính: mô hình công ty và mô hình tín thác, trong đó mô hình công ty, dạng quỹ mở, là hình thức chiếm ưu thế hơn cả.
Hệ thống quỹ đầu tư tại Mỹ phát triển mạnh mẽ nhờ vào tổ chức và hoạt động chặt chẽ, với trách nhiệm và phân chia rõ ràng phù hợp với trình độ quản lý và mục đích đầu tư Ngoài ra, hệ thống pháp luật liên quan đến thị trường chứng khoán và quỹ đầu tư cũng rất rõ ràng, điều này xuất phát từ việc thị trường chứng khoán Mỹ đã hoạt động lâu dài, giúp hoàn thiện luật pháp để đảm bảo quỹ hoạt động hiệu quả và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Tại Mỹ, hai dự luật quan trọng nhất quy định về hoạt động chứng khoán là Luật Chứng khoán năm 1933 và Luật về Sàn giao dịch Chứng khoán.
Năm 1934, Uỷ ban chứng khoán Mỹ (SEC) bắt đầu nghiên cứu bài học từ cuộc Đại suy thoái và soạn thảo Luật Công ty đầu tư (Investment Company Act, 1940) Sau năm 1940, nhiều quỹ đầu tư (QĐT) đã được thành lập hoặc tái lập để tuân thủ quy định của đạo luật này Đến năm 1995, luật đã được sửa đổi để tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư, đồng thời cho phép các quỹ áp dụng các nghiệp vụ đầu tư mới.
Quỹ Đầu Tư Giao Dịch (ETF) là một trong những loại hình đầu tư thành công nhất trên thị trường chứng khoán toàn cầu, ra đời lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1993 Kể từ khi ETF đầu tiên, Toronto Index Participation Shares (TIPS), được giao dịch tại Tokyo vào năm 1990, số lượng ETF tại Mỹ đã tăng lên 680 quỹ với tổng giá trị 610 tỷ USD vào tháng 5/2008 ETF kết hợp những ưu điểm của cổ phiếu, quỹ tương hỗ và các ủy thác đầu tư, tạo ra một công cụ giao dịch mới mẻ trong đầu tư Chúng nắm giữ các tài sản như cổ phiếu và trái phiếu, giao dịch gần giá trị tài sản ròng (NAV) và thường theo sát các chỉ số như Dow Jones hay S&P 100 Mục tiêu của ETF không phải là vượt trội so với chỉ số mà là tái hiện chính xác hiệu suất của các chỉ số cơ sở.
Các quỹ đầu tư tại Mỹ được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu là quỹ tương hỗ theo mô hình quỹ tăng trưởng Luật Công ty Đầu tư năm 1940 quy định rõ về việc thành lập và tổ chức quản lý các quỹ này, nhằm định hướng cho sự phát triển của quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán Mỹ.
1.4.2 Phát triển quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán Singapore:
Sàn giao dịch chứng khoán Singapore (SGX) được thành lập vào ngày 1/12/1999, sau khi sáp nhập giữa TTCK Singapore và thị trường tiền tệ quốc tế Ngày 23/11/2000, SGX chính thức niêm yết qua phát hành công chúng và sắp đặt tư nhân, được bảo lãnh bởi Merrill Lynch và DBS Với nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh mẽ, môi trường kinh doanh ổn định và cơ sở hạ tầng hiện đại, SGX đã trở thành cửa ngõ quan trọng của khu vực Đông Nam Á và là một trung tâm giao dịch thứ cấp tiềm năng ở châu Á Thị trường trái phiếu Singapore dẫn đầu thế giới với tổng giá trị trái phiếu lưu hành đạt 131 tỷ USD, gấp ba lần so với năm năm trước Bên cạnh đó, Singapore cũng là trung tâm giao dịch ngoại hối lớn thứ tư toàn cầu, thu hút nhiều nhà đầu tư lớn từ châu Á, châu Âu và Trung Đông, bao gồm các tên tuổi như Freddie Mac, Goldman Sachs, Ford Motors, Toyota Motors và JP Morgan.
Hệ thống giao dịch của SGX được kết nối trực tiếp với các công ty chứng khoán thành viên, cho phép nhận lệnh trực tiếp qua nhiều kênh khác nhau và thực hiện khớp lệnh liên tục.
SGX không chỉ cung cấp một loạt sản phẩm đa dạng cho thị trường, mà còn có khả năng quản lý và giám sát thị trường một cách hiệu quả.
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Đánh giá tình hình ho ạt độ ng c ủ a th ị trườ ng ch ứ ng khoán Vi ệt Nam, cơ sở cho s ự hình thành và phát tri ể n c ủ a ngành công nghi ệ p qu ỹ ở Vi ệ t Nam
sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp quỹ ở Việt Nam:
2.1.1 Đánh giá tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam:
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động từ năm 2000 với sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM khai trương vào ngày 20/7/2000 và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội vào ngày 8/3/2005, trước đó hoạt động dưới hình thức Trung tâm Giao dịch chứng khoán Sau hơn 10 năm phát triển theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, thị trường đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Về khung pháp lý, thể chế chính sách
Kể từ khi Luật Chứng khoán được ban hành vào ngày 29/6/2006 và có hiệu lực từ 01/01/2007, một khung pháp lý đồng bộ và thống nhất đã được thiết lập cho hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK) Luật này đã từng bước loại bỏ những mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác, đồng thời phù hợp với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực Ngoài ra, nó cũng nâng cao tính công khai, minh bạch của thị trường và cải thiện khả năng quản lý giám sát của cơ quan nhà nước.
Về quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường
Thị trường tài chính đã trải qua một sự tăng trưởng mạnh mẽ và vững chắc, trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước Từ năm 2000 đến 2005, vốn hóa thị trường chỉ chiếm khoảng 1% GDP, nhưng đã tăng vọt lên 22,7% GDP vào năm 2006 và hơn 40% vào năm 2007 Tuy nhiên, trước những biến động của thị trường tài chính toàn cầu và khó khăn trong nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã liên tục giảm trong năm 2008, dẫn đến mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%.
Từ quý II/2009, khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ, chỉ số giá chứng khoán đã tăng trở lại, đồng thời số lượng công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng Đến cuối năm 2009, giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 37,71% GDP Đến cuối năm 2010, tổng giá trị vốn hóa các công ty chứng khoán niêm yết ước tính khoảng 28 nghìn tỷ đồng (1,4 tỷ USD).
Bảng 2.1 Mức vốn hóa TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 ~ 2010
Tỷ lệ vốn hóa (%GDP) Tốc độ tăng (%)
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của UBCKNN
Hoạt động phát hành huy động vốn trên thị trường chứng khoán (TTCK) bắt đầu từ năm 2006, với 44 công ty cổ phần chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu Năm 2007, hoạt động này bùng nổ với gần 200 đợt phát hành từ 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại, tổng vốn huy động đạt gần 40.000 tỷ VND Tuy nhiên, năm 2008, do suy giảm của TTCK, tổng vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng qua hơn 100 đợt chào bán Sự phục hồi của thị trường vào năm 2009 đã thúc đẩy hoạt động phát hành, đặc biệt là cổ phiếu, với tổng vốn huy động tăng hơn 50% so với năm 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
Công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được kết nối chặt chẽ với việc huy động vốn từ công chúng đầu tư, thúc đẩy quá trình sắp xếp khu vực DNNN theo cải cách kinh tế của Chính phủ và hỗ trợ ngân sách nhà nước Việc liên kết này là yếu tố then chốt giúp tạo ra nguồn hàng phong phú, thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Hoạt động phát hành trái phiếu qua sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) ngày càng trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho Chính phủ, với dư nợ trái phiếu Chính phủ đạt khoảng 44,3% GDP vào cuối năm 2010 Tuy nhiên, trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu được phát hành dưới hình thức riêng lẻ, dẫn đến số lượng trái phiếu doanh nghiệp niêm yết trên SGDCK còn hạn chế.
Về niêm yết và giao dịch chứng khoán
Năm 2000, thị trường chứng khoán TP.HCM chỉ có 2 công ty niêm yết nhưng đã nhanh chóng tăng trưởng, đạt đỉnh 571,04 điểm vào ngày 25/6/2001 do nguồn cung khan hiếm Tuy nhiên, sau đó, thị trường trải qua 3 năm sụt giảm liên tục trước khi phục hồi mạnh mẽ vào cuối năm 2003 Đến năm 2005, khi TTGDCK Hà Nội hoạt động, tổng số công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết đạt 4,94 nghìn tỷ đồng Giai đoạn 2000-2005 nhìn chung là thời kỳ hoạt động trầm lắng của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Kể từ năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự khởi sắc đáng kể, với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng công ty niêm yết và doanh số giao dịch Tính đến cuối năm, thị trường đã đạt được những bước tiến ấn tượng, phản ánh sự phát triển và tiềm năng của nền kinh tế.
Năm 2010, tổng số doanh nghiệp niêm yết trên cả hai sàn đạt 622, với giá trị vốn hóa thị trường lên tới 736,1 nghìn tỷ đồng So với năm 2009, số lượng doanh nghiệp niêm yết mới tăng 168, tương đương 37%, đánh dấu mức tăng kỷ lục kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Thị trường chứng khoán (TTCK) đã ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về quy mô niêm yết lẫn tính thanh khoản Năm 2005, trung bình có 667.600 cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên, con số này đã tăng lên 2,6 triệu vào năm 2006, và tiếp tục tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm tiếp theo Tốc độ luân chuyển thị trường cũng tăng liên tục, từ 0,43 lần năm 2006 lên 1,13 lần vào năm 2009 Năm 2010, TTCK đạt kỷ lục về số lượng cổ phiếu niêm yết với 81 cổ phiếu trên HOSE, 110 cổ phiếu trên HNX và 82 cổ phiếu trên UPCoM, đồng thời cũng là năm doanh nghiệp huy động vốn cao nhất với tổng giá trị lên tới 110.000 tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2009 và 4 lần so với năm 2008.
Giai đoạn 2006-2009, thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận nhiều kỷ lục ấn tượng, với VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm và HASTC-Index đạt 459,36 điểm vào tháng 3/2007 Tháng 5/2009 đánh dấu kỷ lục về khối lượng giao dịch với trung bình 77 triệu cổ phiếu mỗi phiên và giá trị giao dịch lên tới 2.270,57 tỷ đồng Sự phát triển của các thị trường chính thức dẫn đến sự thu hẹp của thị trường tự do OTC, nơi chủ yếu giao dịch các cổ phiếu từ doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, tuy nhiên, tính thanh khoản của thị trường này đã giảm mạnh trong năm 2009.
Hệ thống giao dịch UpCom, được đưa vào hoạt động từ ngày 24/6/2009 trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, nhằm hoàn thiện cấu trúc thị trường cho các chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết Đến cuối năm 2010, khối lượng giao dịch trên hệ thống UpCom đạt 316.654 đơn vị, với tổng giá trị giao dịch gần 4,37 tỷ đồng.
Biểu đồ 2.1 – Thống kê mã chứng khoán niêm yết (2000-2010)
Trong giai đoạn 2000-2002, trái phiếu Chính phủ (TPCP) là hàng hóa chủ đạo trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, nhưng số lượng chỉ khoảng 40 mã và thanh khoản kém, với giá trị giao dịch bình quân chỉ đạt 2% giá trị niêm yết Từ 2004-2007, giá trị trái phiếu niêm yết so với GDP tăng lên 11,3%, nhờ vào các quy định mới như không giới hạn tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài, bỏ biên độ dao động giá và rút ngắn thời gian thanh toán T+1, giúp tăng tính thanh khoản Gần đây, do biến động lãi suất, việc phát hành TPCP giảm, dẫn đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP giảm xuống còn 10,81% vào cuối năm 2009 Tuy nhiên, tổng dư nợ trái phiếu phát hành đạt 16,9% GDP cho thấy vẫn còn nhiều trái phiếu, chủ yếu là trái phiếu doanh nghiệp, chưa được niêm yết và giao dịch trên các sàn.
Trước năm 2006, trái phiếu chính phủ (TPCP) được giao dịch tại cả Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) Tuy nhiên, từ ngày 24/9/2009, một hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt đã chính thức hoạt động với gần 30 thành viên, bao gồm nhiều ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán lớn Hệ thống này tách biệt hoàn toàn khỏi giao dịch cổ phiếu và đã được phát triển với nhiều đặc điểm mới, nhằm khắc phục những hạn chế của hệ thống giao dịch trái phiếu trước đó, phù hợp với các đặc thù của giao dịch trái phiếu.
Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư)
Sự tham gia của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán (TTCK) ngày càng gia tăng, với số lượng nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, cả trong nước lẫn nước ngoài, tăng đáng kể Từ gần 3.000 tài khoản khi thị trường mở cửa vào năm 2000, hiện nay đã có hơn 90.100 tài khoản giao dịch Trong đó, có 2.662 nhà đầu tư tổ chức trong nước, 807.558 nhà đầu tư cá nhân trong nước và hơn 13.000 nhà đầu tư nước ngoài.
Về hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán
ự Th c tr ạ ng v ề tình hình ho ạt độ ng c ủ a qu ỹ đầu tư chứ ng khoán trên th ị trườ ng ch ứ ng khoán Vi ệ t Nam
Theo đánh giá của EIU và Ngân hàng Thế giới, Việt Nam được xem là quốc gia có tình hình chính trị ổn định nhất trong số các nước như Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi Việt Nam cũng dẫn đầu về đầu tư FDI với tỷ lệ 10,6%, cho thấy vốn FDI vào Việt Nam đóng vai trò quan trọng hơn so với các nước khác trong nhóm CIVETS Cơ sở pháp lý cho ngành Công nghiệp Quỹ tại Việt Nam cũng đang được củng cố để thu hút thêm đầu tư.
Cơ sở pháp lý cho hoạt động của Công ty Quản lý Quỹ (CTQLQ) và Quỹ Đầu tư (QĐT) theo Luật chứng khoán hiện nay bao gồm Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007, Quyết định số 35/2007/QĐ-BTC ngày 15/05/2007 quy định về tổ chức và hoạt động của CTQLQ, Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC ngày 05/06/2007 về thành lập và quản lý QĐT, Thông tư số 194/2009/TT-BTC ngày 02/10/2009 hướng dẫn chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng và chứng chỉ quỹ của QĐT đại chúng dạng đóng, cùng với Nghị định 84/2010/NĐ-CP.
CP sửa đổi, bổ sung cho Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007.
UBCKNN đang xem xét ban hành luật hướng dẫn cho sự ra đời của các sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa hàng hóa trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là quỹ mở Loại hình quỹ mở đã phổ biến trên thế giới, và Việt Nam hy vọng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư.
Môi trường đầu tư tại Việt Nam đang trở nên thông thoáng hơn, với tiềm năng thu hút FDI và FII được đánh giá cao bởi Ngân hàng Thế giới Những nỗ lực cải cách chính sách của Chính phủ sẽ góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên sôi động hơn trong thời gian tới Ngành công nghiệp quỹ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hòa nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
2.2 Thực trạng về tình hình hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam :
2.2.1 Đánh giá sơ lược tình hình hoạt động của các Công ty Quản lý Quỹ và Quỹ Đầu Tư Chứng khoán trong nước:
Thời kỳ sôi động của hoạt động quỹ đầu tư trong nước diễn ra từ tháng 7/2006 đến tháng 3/2008, với sự ra đời của 20 quỹ đầu tư mới và tổng vốn huy động lên tới hơn 13.500 tỷ đồng, bao gồm 4 quỹ đại chúng Đây cũng là giai đoạn bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam, chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô và số lượng doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa và niêm yết.
Từ tháng 3/2008 đến nay, tình hình huy động quỹ trong nước của các công ty quản lý quỹ (CTQLQ) gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu Trong năm 2010, chỉ có 3 quỹ đầu tư (QĐT) được thành lập với tổng vốn huy động 800 tỷ đồng, nâng tổng số quỹ trong nước lên 23 Trong số 47 CTQLQ theo Luật Chứng khoán, chỉ 13 công ty thành lập quỹ trong nước và thực hiện quản lý quỹ, trong khi các CTQLQ khác chủ yếu cung cấp dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho nhà đầu tư trong và ngoài nước Đáng chú ý, 23 QĐT trong nước chủ yếu huy động vốn nội địa, ngoại trừ QĐT của công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư FPT có hơn 51% vốn góp từ nhà đầu tư nước ngoài.
Theo thống kê không chính thức, Việt Nam hiện có hơn 400 quỹ đầu tư (QĐT), trong đó có hơn 50 quỹ đầu tư chứng khoán, tuy nhiên, số lượng quỹ thành lập trong nước vẫn còn hạn chế cả về số lượng lẫn quy mô vốn quản lý Đa số các QĐT nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức công ty đầu tư hoặc quỹ đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài được thành lập tại các thiên đường thuế như Cayman Islands, Bermuda và British Virgin Islands, sau đó mở tài khoản đầu tư tại Việt Nam với tư cách nhà đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp.
Nhiều công ty quản lý quỹ (CTQLQ) đã nhận thấy cơ hội từ dòng vốn ngoại dồi dào và sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đối với tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam Do đó, họ đã chuyển hướng tập trung vào việc huy động nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để thành lập quỹ trong nước Tuy nhiên, các nỗ lực này vẫn chưa mang lại kết quả như mong đợi.
2.2.2 Phân tích hoạt động của một số Công ty Quản lý Quỹ và Quỹ Đầu Tư
2.2.2.1Công ty Liên Doanh Quản lý QĐT Vietfund Management :
CTQLQ VFM, ban đầu được biết đến với tên gọi Công ty Liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VietFund Management), được thành lập theo Giấy phép số 01/GPĐT-UBCKNN ngày 15/7/2003 Sau đó, công ty đã chuyển đổi thành Công ty Cổ phần quản lý Quỹ đầu tư Việt Nam theo Giấy phép số 45/UBCK-GP ngày 08/01/2009 Đây là công ty liên doanh đầu tiên tại Việt Nam chuyên về quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư, với tổng vốn điều lệ 100 tỷ đồng, trong đó Công ty Dragon Capital Management nắm giữ 49% và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chiếm 51%.
Công ty quản lý quỹ VFM hiện đang quản lý tổng tài sản vượt 5.000 tỷ đồng, phục vụ hơn 15.000 nhà đầu tư, bao gồm cả pháp nhân và cá nhân trong và ngoài nước thông qua các sản phẩm quỹ đa dạng.
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1) được niêm yết trên HOSE với mã VFMVF1 từ ngày 22/09/2004 Ngoài VF1, còn có Quỹ đầu tư tăng trưởng Việt Nam (VF2) và Quỹ đầu tư Doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (VF4), với mã VFMVF4 được niêm yết từ ngày 03/06/2008 Quỹ đầu tư năng động (VFA) cũng được niêm yết trên HOSE với mã VFMVFA từ ngày 09/07/2010, cùng với một số nguồn vốn ủy thác khác.
Quỹ đầu tư chứng khoán VF1 :
Quỹ Đầu tư Việt Nam VF1 là quỹ công chúng dạng đóng đầu tiên tại Việt Nam, được thành lập vào tháng 4/2004 với quy mô vốn ban đầu là 300 tỷ đồng, huy động từ cá nhân và pháp nhân trong và ngoài nước Quỹ này hiện đang được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán.
TPHCM (trước đây là TTGDCK TPHCM) từ tháng 11/2004
Bảng 2.3 Báo cáo NAV của VF1 qua các năm 2004-2010
Quy mô quỹ (tỷ đồng) 300 300 500 1.000 1.000 1.000 1.000
NAV (tỷ đồng) 304,5 381,6 1.564,1 3.837,1 1.697 2.479,9 2.276,3 NAV/ccq (đồng) 10.158 12.718 31.281 38.371 16.970 24.799 22.73
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của VFM
Năm 2010, hoạt động của VF1 gặp khó khăn chủ yếu do sự sụt giảm 11,1% của cổ phiếu niêm yết trên sàn Hà Nội và cổ phiếu chưa niêm yết, dẫn đến NAV giảm 2,1% trong tổng mức giảm 8,2% Mặc dù vậy, mức sụt giảm này vẫn nằm trong xu hướng chung của các quỹ đầu tư khác trên thị trường chứng khoán Việt Nam, theo báo cáo của tổ chức LCF Rothschild.
Biểu đồ 2.2 So sánh NAV của CCQ VF1 so với VN-Index
Chiến lược phân bổ tài sản :
Trong năm 2010, Quỹ đầu tư VF1 đã điều chỉnh chiến lược phân bổ tài sản bằng cách tăng cường tỷ trọng cổ phiếu niêm yết và cổ phiếu chuẩn bị niêm yết, đồng thời giảm tỷ trọng cổ phiếu chưa niêm yết Quỹ cũng dự kiến xây dựng lại danh mục trái phiếu vào thời điểm phù hợp.
Biểu đồ 2.3 – Phân bổ tài sản (%NAV) của VF1
Nguồn: Báo cáo của VFM
Vào năm 2010, Quỹ đầu tư VF1 đã giảm tỷ trọng ngành Ngân hàng trong danh mục đầu tư từ 18,7% NAV xuống chỉ còn 5% NAV vào cuối năm, do ảnh hưởng của Thông tư số 13 của NHNN và áp lực tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng Trong nửa đầu năm, quỹ đã giảm tỷ trọng xuống 7,2% NAV và tiếp tục thanh hoán trong nửa cuối năm Số tiền thu được từ việc bán cổ phiếu ngành Ngân hàng được tái đầu tư vào các lĩnh vực tiềm năng hơn như Bất động sản, Hàng hóa công nghiệp, Vật liệu khai khoáng, Vận tải và Năng lượng.
Hình 2.1 – Cơ cấu danh mục đầu tư theo ngành (%NAV) của VF1
Quỹ đầu tư doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam VF4 :
Nhận định về các thành tựu và hạn chế của ngành công nghiệp Quỹ ở Việt Nam 51
Thứ nhất: QĐT hình thành và ngày càng phát triển góp phần bình ổn và kích thích hoạt động TTCK.
Những quỹ đầu tư (QĐT) đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào đầu những năm 1990 với chỉ 8 quỹ và tổng vốn huy động 700 triệu USD Tuy nhiên, từ giữa năm 2006, nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, hệ thống tài chính Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ về số lượng quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ (CTQLQ) Trong giai đoạn 2006-2007, khoảng 20 quỹ đầu tư mới được thành lập, và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp giấy phép cho 17 công ty quản lý quỹ, đồng thời quy mô vốn cũng tăng đáng kể.
Tính đến nay, số lượng Công ty Quản lý Quỹ (CTQLQ) đã tăng gần gấp ba lần, đạt 47 CTQLQ và 24 Quỹ Đầu tư (bao gồm 5 quỹ đại chúng và 19 quỹ thành viên), với tổng tài sản gần 72.000 tỷ đồng Hiện tại, có 29 văn phòng đại diện đang hoạt động trong lĩnh vực này.
Hiệu quả huy động vốn và vận hành của Quỹ Đầu Tư (QĐT) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động sôi nổi của Thị Trường Chứng Khoán (TTCK), từ đó kích thích sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Thời gian gần đây, nhiều đợt huy động vốn trong và ngoài nước đã gia tăng, điển hình là sự kiện VinaCapital khai trương quỹ đầu tư bất động sản Vinaland với mục tiêu huy động 50 triệu USD nhưng đã thu hút được 65 triệu USD từ các nhà đầu tư Ngoài ra, thành công trong việc phát hành và niêm yết của Indochina Capital Vietnam Holding Limited trên thị trường chứng khoán London cũng cho thấy sự sẵn sàng của các dòng vốn đối với thị trường Việt Nam.
Với nguồn lực tài chính dồi dào và hình ảnh hấp dẫn, các quỹ đầu tư (QĐT) tại Việt Nam, cả trong nước và quốc tế, dễ dàng xây dựng đội ngũ chuyên môn xuất sắc Nhiều QĐT hoạt động hiệu quả nhờ vào đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc về thị trường Chính sự chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư đã giúp các QĐT phát huy vai trò đầu tàu, góp phần bình ổn thị trường.
Thị trường chứng khoán (TTCK) đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh và củng cố tình hình bất ổn, không chỉ của riêng TTCK mà còn của nền kinh tế tổng thể.
Thứ ba: QĐT giúp khơi thông và duy trì nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) vào Việt Nam
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã tăng trưởng mạnh mẽ kể từ khi thị trường chứng khoán hoạt động, đặc biệt là trong giai đoạn 2006-2007, ước đạt khoảng 11-12 tỷ USD.
Năm 2007, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD, chiếm hơn 50% tổng vốn ngoại, theo báo cáo của ngân hàng ANZ Hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không chỉ thúc đẩy dòng vốn này mà còn làm thay đổi lĩnh vực hoạt động của họ tại đây.
Trong những năm gần đây, các Quỹ Đầu Tư (QĐT) đã được thành lập do các Nhà Đầu Tư Nước Ngoài (NĐTNN) nhận thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của Thị Trường Chứng Khoán (TTCK) Việt Nam Sự cổ phần hóa các Doanh Nghiệp Nhà Nước (DNNN) quy mô lớn đang được thúc đẩy, tạo cơ hội thu hút nguồn vốn FII Nhờ vào các QĐT, nguồn vốn này không chỉ được tìm thấy điểm đến tại Việt Nam mà còn được duy trì và phát triển bền vững.
Mặc dù nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã giảm trong những năm gần đây, nhưng vai trò quan trọng của nó vẫn được Nhà nước chú trọng Chính phủ đang nỗ lực cải thiện cơ chế, chính sách và môi trường đầu tư nhằm thu hút FII Ngành công nghiệp quỹ vì thế sẽ có những bước tiến đột phá trong tương lai, giúp nguồn vốn này hoạt động hiệu quả và bền vững, từ đó tạo ra sự ổn định cho thị trường chứng khoán và nền kinh tế Việt Nam.
Sự đổ bộ của các quỹ đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam mang đến cơ hội quý báu cho các quỹ đầu tư và tổ chức, cá nhân trong nước học hỏi kinh nghiệm đầu tư chuyên nghiệp.
Các hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam tạo điều kiện cho quỹ đầu tư trong nước học hỏi kinh nghiệm về cơ cấu tổ chức, quản lý và định hướng đầu tư Việc các quỹ nước ngoài biết cách tận dụng ưu đãi thuế tại quốc gia khuyến khích thành lập quỹ cũng mang lại bài học quý giá Đội ngũ quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào liên doanh tại Việt Nam giúp các nhà quản lý trong nước tiếp cận kiến thức quốc tế, nâng cao khả năng quản lý, khai thác cơ hội đầu tư và phát triển mối quan hệ hợp tác, đồng thời phòng ngừa rủi ro hiệu quả.
2.3.2 Hạn chế của ngành công nghiệp Quỹ ở Việt Nam :
Quy mô và số lượng vốn quản lý của các QĐT trong nước còn nhỏ bé:
Từ tháng 3/2008 đến nay, tình hình huy động quỹ trong nước của các công ty quản lý quỹ (CTQLQ) gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu Trong năm 2010, chỉ có 3 quỹ đầu tư (QĐT) được thành lập với tổng vốn huy động 800 tỷ đồng Trong số 47 CTQLQ theo Luật Chứng khoán, chỉ 13 công ty thành lập quỹ trong nước và thực hiện quản lý quỹ, trong khi các CTQLQ khác chủ yếu cung cấp dịch vụ quản lý danh mục đầu tư Về nguồn vốn, 23 QĐT trong nước chủ yếu huy động từ nội địa, ngoại trừ QĐT của CTCP QLQ đầu tư FPT có hơn 51% vốn từ nhà đầu tư nước ngoài.
Trong 23 quỹ đầu tư tại Việt Nam, chỉ có 5 quỹ đại chúng và 18 quỹ thành viên, cho thấy xu hướng các quỹ trong nước ưu tiên thành lập quỹ thành viên Điều này xuất phát từ sự tiện lợi và nhanh chóng trong quy trình thành lập cũng như khả năng huy động vốn dễ dàng từ các nhà đầu tư thành viên so với nhà đầu tư đại chúng Do đó, số lượng quỹ đại chúng trên thị trường quỹ Việt Nam vẫn còn rất hạn chế.
Loại hình QĐT đang hoạt động ở Việt Nam chưa đa dạng, phong phú:
Do các hạn chế về thể chế chính sách và một số nguyên nhân khách quan khác, các loại hình quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa đa dạng và phong phú như trên thị trường quỹ quốc tế.
Bảng 2.7 Thống kê hoạt động của một số loại quỹ ở Việt Nam
Loại quỹ Hình thức hoạt động Các quỹ tiêu biểu tại
Quỹ đầu tư mạo hiểm
Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp đang trong giai đoạn khởi nghiệp nhưng có triển vọng phát triển
Quỹ đầu tư tư nhân
Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp đã có những bước phát triển ổn định và đang có dự định niêm yết trên TTCK
Mekong Capital, Dragon Capital, VOF, Indochina Capital
Quỹ đầu tư chứng khoán niêm yết (Listed
Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp phát triển mạnh và đã được niêm yết trên TTCK
PXP, Dragon Capital,VOF, Indochina Capital
Công Ty Quản Lý Tài
Chuyên đầu tư trong lĩnh vực cổ phiếu, trái phiếu
Prudential, Manulife và khu vực ngân hàng
Chuyên đầu vào cổ phiếu của một nhóm ngành, nhóm thị trường lợi thế hay đầu tư mô phỏng theo chỉ số chứng khoan.
DB X-Trackers FTSE Vietnam Index ETF và The Market Vector Vietnam ETF
Chuyên đầu tư vào chứng khoán phái sinh nhằm thu lợi nhuận ổn định
Hiện chưa phát triển ở Việt Nam
Hiện chưa có ở Việt Nam
Huy động nguồn vốn đầu tư từ NĐTNN để thành lập quỹ trong nước gặp nhiều trở ngại: