1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Biện pháp gia tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại cổ phần tại việt nam

85 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Biện Pháp Gia Tăng Vốn Tự Có Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Tại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Cẩm Lệ
Người hướng dẫn TS. Phan Ngọc Minh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
Năm xuất bản 2008
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 343,81 KB

Cấu trúc

  • Chương I Cơ sở lý luận chung về vốn tự có của các ngân hàng thương mại (0)
    • 1.1. Những vấn đề chung về vốn tự có của ngân hàng thương mại (12)
      • 1.1.1. Khái niệm về vốn tự có (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm của vốn tự có (12)
      • 1.1.3. Chức năng cơ bản của vốn tự có (0)
        • 1.1.3.1. Chức năng bảo vệ (13)
        • 1.1.3.2. Chức năng hoạt động (14)
        • 1.1.3.3. Chức năng điều chỉnh (15)
      • 1.1.4. Thành phần vốn tự có (15)
        • 1.1.4.1. Vốn cấp 1 (Vốn tự có cơ bản) (15)
        • 1.1.4.2. Vốn cấp 2 (Vốn tự có bổ sung) (0)
    • 1.2. Các phương pháp tăng vốn tự có của NHTMCP (21)
      • 1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp tăng vốn tự có (21)
        • 1.2.1.1. Các quy định của Ngân hàng Nhà nước về quản lý vốn tự có (0)
        • 1.2.1.2. Các yếu tố chi phí (21)
        • 1.2.1.3. Yếu tố thời gian (21)
        • 1.2.1.4. Rủi ro thanh khoản (22)
        • 1.2.1.5. Quyền kiểm soát ngân hàng (22)
        • 1.2.1.6. Lợi tức trên mỗi cổ phiếu (22)
        • 1.2.1.7. Y ế u t ố linh ho ạ t (22)
      • 1.2.2. Ho ạ ch đị nh nhu c ầ u v ố n ngân hàng (22)
      • 1.2.3. Cách th ứ c t ă ng v ố n t ự có (24)
        • 1.2.3.1. T ă ng v ố n t ừ ngu ồ n bên trong (24)
        • 1.2.3.2. Tăng vốn từ nguồn bên ngoài (0)
    • 1.3. Ý ngh ĩ a c ủ a vi ệ c t ă ng v ố n t ự có (29)
  • Chương II Thực trạng và kết quả đạt được trong quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam (0)
    • 2.1. Bối cảnh kinh tế và nguyên nhân buộc các NHTMCP phải tăng vốn tự có (32)
      • 2.1.1. B ố i c ả nh kinh t ế tr ướ c yêu c ầ u t ă ng v ố n t ự có c ủ a các NHTMCP (32)
      • 2.1.2. Nguyên nhân buộc các NHTMCP phải tăng vốn tự có (0)
        • 2.1.2.1. Nguyên nhân v ĩ mô (34)
        • 2.1.2.2. Nguyên nhân vi mô (38)
    • 2.2. Tình hình t ă ng v ố n t ự có c ủ a các NHTMCP t ạ i Vi ệ t Nam (40)
      • 2.2.1. ă ng v ố n t ừ ngu ồ n bên trong (0)
      • 2.2.2. ă ng v ố n t ừ ngu ồ n bên ngoài (0)
    • 2.3. Kết quả từ quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP (52)
      • 2.3.1. Ưu điểm (52)
        • 2.3.1.1. Quy mô vốn tự có của các NHTMCP đã tăng lên đáng kể (52)
        • 2.3.1.2. Hệ thống NHTMCP đã có sự tăng trưởng ngoạn mục (53)
        • 2.3.1.3. Khả năng cạnh tranh của các NHTMCP ngày càng tăng (53)
        • 2.3.1.4. Đầu tư của các đối tác nước ngoài vào các NHTMCP ngày càng tăng (54)
      • 2.3.2. ạn chế (0)
        • 2.3.2.1. Quy mô vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam vẫn còn nhỏ (55)
        • 2.3.2.2. Nhiều NHTMCP đã tăng vốn một cách quá mức trong thời gian ngắn (55)
        • 2.3.2.3. Khó khăn trong việc sử dụng nguồn vốn tăng thêm (56)
        • 2.3.2.4. Cổ phiếu ngân hàng không còn nhận được nhiều sự quan tâm (57)
    • 2.4. Nguyên nhân hạn chế (58)
      • 2.4.1. ự không cân xứng giữa việc tăng vốn tự có với chất lượng và hiệu quả hoạt động (0)
      • 2.4.2. ự tăng thêm của hàng tỷ cổ phiếu ngân hàng ra thị trường (0)
      • 2.4.3. Vốn tự có tăng nhưng thu nhập không tăng nhanh tương ứng làm nản lòng các nhà đầu tư53 2.4.4. Thị trường tài chính tiền tệ nước ta còn nhiều bất cập (0)
      • 2.4.5. Những biến động kinh tế trong nước và thế giới (63)
  • Chương III Biện pháp gia tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam (0)
    • 3.1. Dự báo xu hướng thúc đẩy việc mở rộng quy mô vốn tự có của các NHTMCP 56 3.2. Giải pháp từ phía các NHTMCP (64)
      • 3.2.1. Cân nhắc kỹ việc phát hành cổ phiếu (65)
      • 3.2.2. Chọn cổ đông chiến lược là các tập đoàn ngân hàng nước ngoài và đa dạng hóa danh mục các đối tác chiến lược (67)
      • 3.2.4. đối quyền lợi của các cổ đông khi thực hiện chính sách chia cổ tức bằng cổ phiếu (0)
      • 3.2.5. Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tự có tăng thêm rõ ràng và chi tiết hơn (71)
      • 3.2.6. Các NHTMCP nhỏ nên hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp (72)
    • 3.3. Kiến nghị về phía ngân hàng Nhà Nước và cơ quan Chính phủ (0)
      • 3.3.1. ơ cấu lại hệ thống NHTMCP (0)
      • 3.3.2. Thắt chặt việc cấp phép thành lập ngân hàng mới (74)
      • 3.3.3. ểm soát chặt chẽ các phương án tăng vốn mới (0)
      • 3.3.4. ăng cường kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn tự có tăng thêm (0)
      • 3.3.5. ăng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng (0)
      • 3.3.6. ần có chính sách phát triển thị trường tài chính nhằm giảm đi gánh nặng cho các ngân hàng (0)
  • Kết luận (30)
  • Tài liệu tham khảo (0)

Nội dung

Cơ sở lý luận chung về vốn tự có của các ngân hàng thương mại

Những vấn đề chung về vốn tự có của ngân hàng thương mại

1.1.1 Khái niệm về vốn tự có

Theo Luật các TCTD Việt Nam sửa đổi và bổ sung năm 2004, vốn tự có của ngân hàng thương mại bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác Cụ thể, vốn tự có bao gồm các khoản vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản cố định, vốn Nhà nước cấp để cho vay dài hạn, cùng với các loại vốn và quỹ khác.

Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, vốn tự có của ngân hàng thương mại bao gồm:

Vốn tự có cơ bản, hay còn gọi là Vốn cấp 1, bao gồm các thành phần như vốn điều lệ thực có, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ và lợi nhuận không chia, sau khi trừ đi khoản giá trị chênh lệch lợi thế thương mại.

Vốn tự có bổ sung, hay còn gọi là vốn cấp 2, bao gồm giá trị gia tăng từ tài sản cố định và các chứng khoán đầu tư được định giá lại Ngoài ra, nó còn bao gồm trái phiếu chuyển đổi và cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành với thời hạn dài.

1.1.2 Đặc điểm của vốn tự có

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu hoạt động của ngân hàng thương mại, là nguồn lực tài chính chính Nó được sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định cũng như các khoản đầu tư dài hạn và ngắn hạn nhằm tạo ra lợi nhuận.

Vốn tự có là nguồn tài chính ổn định và liên tục phát triển trong hoạt động của ngân hàng, đồng thời tham gia tích cực vào quá trình kinh doanh Mọi quyết định tăng cường vốn đều liên quan chặt chẽ đến nhu cầu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới và mở rộng hoạt động của ngân hàng.

Vốn tự có, mặc dù chỉ chiếm từ 10 – 15% tổng nguồn vốn, nhưng lại đóng vai trò thiết yếu trong việc hình thành các nguồn vốn khác Giá trị của vốn tự có gắn liền với uy tín, năng lực và vị thế của chủ sở hữu, cũng như mối quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.

Vốn tự có đóng vai trò quyết định trong quy mô hoạt động của ngân hàng, bao gồm các giới hạn về huy động vốn, cho vay và bảo lãnh Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu sự chi phối của các quy định pháp luật, dựa trên quy mô vốn tự có của từng ngân hàng.

Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ các nguồn vốn hợp pháp và có khả năng lưu chuyển trên thị trường tài chính Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, vốn tự có này ngày càng mang tính quốc tế, đồng thời đối mặt với môi trường cạnh tranh gay gắt khi các ngân hàng thương mại mở rộng thu hút đầu tư thông qua các công cụ tài chính đa dạng.

1.1.3 Các chức năng cơ bản của vốn tự có

Vốn tự có đóng vai trò bảo vệ cho ngân hàng, giúp bù đắp tổn thất trong hoạt động kinh doanh Các ngân hàng cần duy trì đủ vốn tự có để đảm bảo khả năng thanh toán và có khoản dự trữ cần thiết để tránh rủi ro từ thua lỗ Do đó, Ngân hàng Nhà nước rất chú trọng đến việc thiết lập các quy định giám sát chặt chẽ đối với vốn tự có của các ngân hàng thương mại.

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trách nhiệm của ngân hàng thương mại đối với tài sản của người gửi tiền, tạo dựng sự tin cậy và an tâm cho khách hàng Hệ số vốn tự có phản ánh mức độ bảo vệ tài sản của người gửi tiền, giúp ngân hàng duy trì an toàn vốn ngay cả khi gặp thiệt hại Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền không chỉ là nghĩa vụ của ngân hàng mà còn là cách để bảo vệ chính sự an toàn của hoạt động kinh doanh ngân hàng, vốn có tính nhạy cảm cao và thường xuyên đối mặt với rủi ro.

Vốn tự có không chỉ đóng vai trò là lá chắn bảo vệ và tạo đệm an toàn cho ngân hàng, mà còn được sử dụng để đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh.

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tài sản cố định của ngân hàng, quyết định quy mô và khả năng hoạt động của ngân hàng Tài sản cố định, bao gồm điều kiện vật chất và công nghệ, ảnh hưởng lớn đến sự hiện đại hóa và gia tăng quy mô của ngân hàng Tuy nhiên, theo Luật các TCTD Việt Nam, ngân hàng thương mại chỉ được phép đầu tư vào tài sản cố định tối đa 50% vốn tự có của mình.

Vốn là yếu tố quan trọng giúp ngân hàng phát triển dịch vụ mới và trang thiết bị hiện đại Khi ngân hàng mở rộng, việc bổ sung vốn là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro liên quan đến các dịch vụ mới Để theo kịp sự phát triển của thị trường, ngân hàng cần mở rộng cơ sở vật chất, xây dựng thêm văn phòng chi nhánh và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng Hơn nữa, việc sử dụng vốn tự có để đầu tư vào tài sản ngắn hạn và dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ không chỉ giúp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn duy trì mức vốn khả dụng.

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng, xác lập giới hạn cho các hoạt động này Các cơ quan quản lý yêu cầu vốn ngân hàng phải phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và tài sản rủi ro Khi ngân hàng thành lập chi nhánh mới hoặc triển khai các hoạt động kinh doanh, cần xác định lại vốn tự có để đáp ứng các yêu cầu thực tế và có cơ sở pháp lý cấp giấy phép kinh doanh Các quy định về tỷ lệ giới hạn vốn tự có được sử dụng như công cụ vĩ mô để điều tiết hoạt động của ngân hàng thương mại, với các tiêu chuẩn pháp lý cụ thể và quy định ràng buộc dựa trên mức độ rủi ro của tài sản đầu tư và sự khác biệt giữa các ngân hàng.

1.1.4 Thành phần vốn tự có

1.1.4.1 Vốn cấp 1 (Vốn tự có cơ bản)

Vốn tự có cấp 1 của ngân hàng bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ và dự phòng, quỹ đầu tư và phát triển nghiệp vụ, cùng với lợi nhuận không chia Vốn điều lệ là nguồn vốn ban đầu mà ngân hàng có khi bắt đầu hoạt động, được ghi rõ trong bảng điều lệ Theo quy định pháp luật, để một tổ chức tín dụng (TCTD) được phép hoạt động, vốn điều lệ thực tế phải lớn hơn hoặc bằng vốn điều lệ tối thiểu, hay còn gọi là vốn pháp định.

Căn cứ theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, mức vốn pháp định áp dụng cho các TCTD như sau:

BẢNG 1.1 QUY ĐỊNH MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH ÁP DỤNG CHO CÁC TỔ CHỨC

Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm

A Ngân hàng thương mại Nhà nước 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

B Ngân hàng thương mại cổ phần 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

C Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

D Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng Đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD

2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng

3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng

5 Ngân hàng hợp tác 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

6 Quỹ tín dụng nhân dân

A Quỹ tín dụng nhân dân TW 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

B Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ đồng 0,1 tỷ đồng

II TCTD phi ngân hàng

1 Công ty tài chính 300 tỷ đồng 500 tỷ đồng

2 Công ty cho thuê tài chính 100 tỷ đồng 150 tỷ đồng

Các phương pháp tăng vốn tự có của NHTMCP

1.2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp tăng vốn tự có

1.2.1.1.Các qui định của NHNN về quản lý vốn tự có

Khi gia tăng vốn tự có, các ngân hàng thương mại cần tuân thủ quy định của nhà nước về quản lý vốn, chỉ được phép tăng vốn từ nguồn hợp pháp và phải thực hiện theo lộ trình đã trình lên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đồng thời, ngân hàng phải chứng minh hiệu quả sử dụng vốn tăng lên và nhận được sự đồng ý từ NHNN Việc huy động vốn điều lệ trên thị trường chứng khoán cũng cần tuân thủ các quy trình và nguyên tắc liên quan Đặc biệt, ngân hàng phải đảm bảo rằng vốn điều lệ thực tế luôn lớn hơn vốn pháp định.

1.2.1.2 Các yếu tố chi phí

Khi quyết định giữa phát hành trái phiếu dài hạn hoặc cổ phiếu, việc lựa chọn phát hành trái phiếu thường ưu việt hơn về mặt chi phí, vì chi phí phát hành cổ phiếu cao hơn Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chi phí trả lãi cho trái phiếu lại thấp hơn.

Yếu tố thời gian đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thời điểm phát hành chứng khoán Khi lãi suất trái phiếu tăng, giá cổ phiếu có xu hướng giảm và ngược lại Do đó, việc phát hành cổ phiếu nên được thực hiện khi lãi suất trái phiếu đang giảm Với sự biến động mạnh mẽ của giá tài sản tài chính trong những năm gần đây, yếu tố thời gian ngày càng trở nên quan trọng hơn trong quyết định đầu tư.

Phát hành chứng khoán nợ để tăng vốn làm cho nợ phải trả tăng, rủi ro phá sản sẽ dễ xảy ra hơn so với phát hành cổ phiếu.

1.2.1.5 Quyền kiểm soát ngân hàng

Khi một cá nhân hoặc nhóm cá nhân lựa chọn phương thức tài trợ thông qua việc phát hành cổ phiếu, họ có thể mất quyền kiểm soát ngân hàng Việc này xảy ra vì những người mua cổ phiếu với số lượng lớn thường có khả năng tham gia vào hội đồng quản trị, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng theo lợi ích riêng của họ.

1.2.1.6 Lợi tức trên mỗi cổ phiếu (Earning per Share-EPS)

Khi ngân hàng tăng số lượng cổ phiếu phát hành mà lợi tức giữ nguyên, mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu sẽ giảm, điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông.

Trong bối cảnh kinh tế phát triển và lạm phát, ngân hàng không thể chỉ đáp ứng nhu cầu tăng vốn một lần mà cần phải có kế hoạch tài trợ nhiều lần trong tương lai Khi quyết định tăng vốn, ngân hàng cần cân nhắc ảnh hưởng của quyết định này đến khả năng huy động vốn sau này Việc phát hành cổ phiếu hiện tại sẽ không làm giảm khả năng vay nợ trong tương lai, trong khi phát hành trái phiếu có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động vốn sau này.

1.2.2 Hoạch định nhu cầu vốn ngân hàng

Để đối phó với áp lực gia tăng vốn, các ngân hàng cần chú trọng hơn đến việc hoạch định nhu cầu vốn dài hạn Mặc dù mỗi ngân hàng có thể phát triển các hệ thống hoạch định riêng, nhưng hầu hết đều tập trung vào bốn bước cơ bản trong quy trình này.

Bước 1: Xây dựng kế hoạch tài chính tổng thể cho ngân hàng

Trước hết, việc xác định loại ngân hàng mong muốn là rất quan trọng, bao gồm các yếu tố như quy mô ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng, và mức sinh lời mà ngân hàng cần đạt được trong dài hạn.

Trong bối cảnh hiện nay, việc các ngân hàng sát nhập để tạo ra những tổ chức tài chính lớn mạnh, an toàn và hiệu quả đang trở thành xu hướng phổ biến Tuy nhiên, các ngân hàng nhỏ vẫn có những lợi thế riêng, đặc biệt là ở các thị trường nhỏ và khu vực nông thôn Do đó, Hội đồng quản trị và ban giám đốc của ngân hàng cần xác định quy mô phù hợp với loại dịch vụ mà ngân hàng muốn cung cấp cho khách hàng.

Sự nới lỏng quy định trong hoạt động ngân hàng toàn cầu đã tạo cơ hội cho việc cung cấp nhiều dịch vụ mới trong lĩnh vực giao dịch chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực khác Các ngân hàng cần phải xác định loại dịch vụ nào có khả năng làm tăng rủi ro, như giảm lợi nhuận, rủi ro phá sản và gia tăng chi phí, đồng thời nhận diện các dịch vụ có thể giảm thiểu rủi ro đó Thông thường, những dịch vụ mới có khả năng giảm rủi ro thường yêu cầu ít vốn hơn, trong khi các dịch vụ có thể gia tăng rủi ro lại đòi hỏi nhu cầu vốn lớn hơn.

Bước 2: Dựa trên mục tiêu hoạt động, các dịch vụ dự kiến cung cấp, mức rủi ro chấp nhận và quy định của cơ quan quản lý, cần xác định số vốn cần thiết để phù hợp với các mục tiêu, dịch vụ và rủi ro có thể xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng.

Trong thực tế hoạt động, một ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với hai yêu cầu trái ngược nhau về vốn tự có:

Các cơ quan quản lý ngân hàng thường yêu cầu các ngân hàng tăng cường vốn nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống Tuy nhiên, nếu một ngân hàng sở hữu quá nhiều vốn tự có, điều này có thể làm giảm hiệu quả của đòn bẩy tài chính và khả năng sinh lời từ các khoản đầu tư vay mượn Hệ quả là lợi nhuận có thể giảm và giá trị chứng khoán sẽ thấp hơn, khi các nhà đầu tư dự đoán rằng lợi nhuận tương lai của ngân hàng sẽ không khả quan.

Hai là, nhu cầu tăng thu nhập của các nhà đầu tư trên thị trường vốn đã dẫn đến việc các ngân hàng có vốn tự có hạn chế gặp khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro Điều này khiến nhà đầu tư lo ngại về sự biến động lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời tạo ra rủi ro cho những khách hàng gửi tiền lớn.

Bước 3: Xác định vốn bên trong có thể tạo ra từ lợi nhuận giữ lại

Hội đồng quản trị ngân hàng cần quyết định tỷ lệ phần trăm lợi nhuận hàng năm để chia cổ tức cho cổ đông và phần giữ lại cho đầu tư mở rộng và đáp ứng yêu cầu tăng vốn theo quy định pháp lý Đồng thời, hội đồng cũng phải dự báo mức tăng trưởng lợi nhuận để đảm bảo cung cấp đủ vốn cho nhu cầu phát triển.

Bước 4: Đánh giá và lựa chọn phương cách tăng vốn thích hợp với nhu cầu và các mục tiêu của ngân hàng

Phương án tăng vốn hiệu quả cho ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau Hiện tại, các ngân hàng có thể áp dụng nhiều phương thức để tăng vốn dài hạn, bao gồm phát hành cổ phiếu, phát hành tín phiếu vốn, bán tài sản, thuê trụ sở, và đẩy mạnh tăng trưởng lợi nhuận.

1.2.3 Cách thức tăng vốn tự có

1.2.3.1 Tăng vốn từ nguồn bên trong

Ý ngh ĩ a c ủ a vi ệ c t ă ng v ố n t ự có

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là năng lực cạnh tranh còn yếu kém do vốn tự có nhỏ bé và cơ cấu chưa hợp lý Hoạt động ngân hàng chứa nhiều rủi ro có thể ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, do đó, các ngân hàng cần thường xuyên nghiên cứu, phân tích và có biện pháp phòng ngừa hiệu quả Để bảo vệ tình trạng tài chính, ngân hàng có thể nâng cao chất lượng quản lý, đa dạng hóa nguồn vốn và bảo hiểm tiền gửi Vốn chủ sở hữu là biện pháp cuối cùng để bù đắp tổn thất từ các khoản cho vay và đầu tư kém hiệu quả Tăng vốn điều lệ giúp nâng cao năng lực tài chính, giảm rủi ro và đáp ứng yêu cầu quản lý của Chính phủ, đồng thời gia tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài Tăng vốn tự có là yếu tố quan trọng trong hoạt động ngân hàng, giúp ngân hàng phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, thể hiện sức mạnh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường Để phát triển, các ngân hàng thương mại cần tăng vốn tự có từ nhiều nguồn, như lợi nhuận giữ lại hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi Việc lựa chọn phương án tăng vốn tối ưu yêu cầu cân nhắc kỹ lưỡng về chi phí và rủi ro nhằm đạt hiệu quả cao nhất Các ngân hàng cần xác định mức vốn tự có cần thiết để bù đắp rủi ro và lựa chọn giải pháp phù hợp để đảm bảo sức mạnh tài chính Chương này cũng phân tích kinh nghiệm quản lý vốn tự có ở một số nước Châu Á, rút ra bài học cho Việt Nam trong việc tăng vốn tự có của các NHTMCP trong tương lai.

Thực trạng và kết quả đạt được trong quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam

Bối cảnh kinh tế và nguyên nhân buộc các NHTMCP phải tăng vốn tự có

2.1.1 Bối cảnh kinh tế trước yêu cầu tăng vốn tự có của các NHTMCP

Thế kỷ 21 chứng kiến xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, với nền kinh tế thế giới trở nên phụ thuộc lẫn nhau và không còn tồn tại những ốc đảo kinh tế độc lập Các quốc gia buộc phải hòa nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu, chịu ảnh hưởng từ các tác động chung Sự phát triển của làn sóng sáp nhập và mua lại đã làm thay đổi cục diện cạnh tranh, khiến các công ty phải liên kết để nâng cao sức mạnh cạnh tranh Trong bối cảnh này, sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc cùng với sự hỗ trợ từ cộng đồng người Hoa ở nước ngoài đang tạo ra thế cân bằng mới trong quan hệ kinh tế Đông - Tây Tuy nhiên, thế giới hiện đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, mang tính chất cấu trúc toàn cầu, do việc quản lý nguồn vốn lưu chuyển tự do và khả năng vay nợ cao tại Mỹ mà không có khả năng chi trả.

Khả năng trả nợ đã giảm 40 lần, dẫn đến tình trạng mất cân đối tài chính liên quan đến các tên tuổi tín dụng lớn Cuộc khủng hoảng này được dự báo sẽ ảnh hưởng lâu dài trong những năm tới.

Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc sau 20 năm đổi mới, trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong hai năm 2006.

2007 là những dấu ấn quan trọng, mang tính bước ngoặt cho quá trình phát triển Năm

Năm 2007, kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 8,5%, đánh dấu năm thứ ba liên tiếp tăng trưởng trên 8% Tỷ lệ đầu tư đạt 40,4% GDP, với 59 nghìn doanh nghiệp mới được thành lập, tăng 26% so với năm trước Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng gần gấp đôi, đạt 20,3 tỷ USD, trong khi vốn hóa thị trường chứng khoán đạt 43% GDP Dự trữ ngoại hối tăng từ 10 tỷ lên 21,6 tỷ USD, tương đương 30,2% GDP Xuất khẩu không tính dầu thô tăng 27%, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,5 tỷ USD Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đối mặt với lạm phát, cán cân thanh toán thiếu hụt và nguy cơ "bong bóng" trong lĩnh vực bất động sản Bước sang năm 2008, kinh tế toàn cầu suy thoái, giá cả và lạm phát gia tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam Tăng trưởng nóng đã dẫn đến sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng và nhân lực chất lượng cao, trong khi thị trường chứng khoán và bất động sản trở nên ảm đạm.

Năm 2008, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể, với sự gia tăng rõ rệt của luồng vốn nước ngoài Đầu tư trong nước cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đồng thời chất lượng đầu tư được cải thiện rõ ràng.

Ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua sự tăng trưởng nhanh chóng, với số lượng ngân hàng tăng từ 9 vào năm 1991 lên 80 vào năm 2007, chủ yếu tập trung vào các ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cho thấy sức hấp dẫn của ngành đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng đã vượt 1.500 ngàn tỷ đồng, tương đương hơn 130% GDP năm 2007, với tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động tiền gửi đạt trung bình trên 35%/năm trong giai đoạn 2002 - 2007 Năm 2007, tăng trưởng tín dụng đạt 54%, phản ánh nhu cầu cao trong nền kinh tế, đặc biệt là trong đầu tư chứng khoán và bất động sản Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng này cũng mang lại rủi ro, khi tỷ lệ tín dụng/tiền gửi toàn ngành luôn trên 90%, cao hơn mức trung bình khu vực khoảng 83%.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước hiện nay, việc củng cố năng lực tài chính là yếu tố then chốt đối với ngành ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần Để phát triển bền vững, các ngân hàng cần tăng cường vốn tự có và nâng cao năng lực tài chính, từ đó giảm thiểu nguy cơ tiềm ẩn và đảm bảo sự ổn định trong hoạt động.

2.1.2 Nguyên nhân buộc các NHTMCP tăng vốn tự có

2.1.2.1.1 Áp lực trong vấn đề hội nhập quốc tế

Trước đây, người ta thường nghĩ rằng doanh nghiệp và người dân là những đối tượng chính thiếu vốn và phải vay ngân hàng Tuy nhiên, hiện nay, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với thách thức gia tăng nguồn vốn tự có để đáp ứng các tiêu chí quốc tế tối thiểu, điều này trở nên cấp thiết trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay.

Theo Hiệp ước Basel mà Việt Nam đã ký với IMF, giai đoạn 2007-2008, các ngân hàng Việt Nam cần đạt yêu cầu an toàn vốn tối thiểu 8% Tuy nhiên, vốn tự có của các ngân hàng Việt Nam còn rất nhỏ so với mức trung bình của khu vực, với ngân hàng quốc doanh chỉ khoảng 3.600 tỷ đồng và ngân hàng cổ phần là 180 tỷ đồng Hiện nay, vốn tự có bình quân của các ngân hàng thương mại cổ phần chỉ đạt 9.000 tỷ đồng (600 triệu USD), trong khi đó, các ngân hàng trong khu vực có vốn trung bình lên tới 50 tỷ USD Áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, dẫn đến nguy cơ xuất hiện thêm các loại rủi ro Việc tăng vốn là cần thiết để các ngân hàng nâng cao khả năng tự vệ Đặc biệt, từ ngày 1/4/2007, theo cam kết gia nhập WTO, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ không bị phân biệt với các ngân hàng thương mại trong nước, điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, phải tăng vốn điều lệ để cạnh tranh hiệu quả.

2.1.2.1.2 Những quy định pháp lý ràng buộc từ phía NHNN và Chính phủ

Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ban hành ngày 22/11/2006, mức vốn pháp định của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) sẽ đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm 2010 Để tồn tại và phát triển bền vững, các NHTMCP cần phải tăng cường vốn.

Nếu ngân hàng thương mại gặp phải nhiều nợ xấu và rủi ro khác như mất quỹ tiền mặt và rủi ro thanh toán không dùng tiền mặt, mà quỹ dự phòng rủi ro không đủ khả năng xử lý, thì thanh tra các TCTD của NHNN có quyền yêu cầu ngân hàng sử dụng vốn điều lệ để xóa nợ Nếu ngân hàng sử dụng 50% vốn điều lệ để xử lý nợ xấu nhưng không thể tăng vốn trong thời gian ngắn, NHNN có quyền tuyên bố ngân hàng đó đã phá sản.

Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 và Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 của Thống đốc NHNN Việt Nam, quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đảm bảo an toàn trong lĩnh vực tài chính.

+ TCTD, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro;

+ Tổng dư nợ cho vay của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD;

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định rằng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần phải trừ đi 70 tỷ đồng cho bảng hiệu, và mỗi 20 tỷ đồng vốn điều lệ còn lại cho phép ngân hàng thành lập một chi nhánh Theo Quyết định 888/2005/QĐ-NHNN, để mở chi nhánh, ngân hàng phải có vốn điều lệ hiện có trừ đi vốn pháp định tối thiểu, với mỗi chi nhánh cần ít nhất 20 tỷ đồng Do đó, để phát triển kinh doanh và mở rộng thị phần, các tổ chức tín dụng thường xuyên phải thành lập thêm chi nhánh mới, đồng nghĩa với việc tăng vốn điều lệ Đến năm 2010, NHNN Việt Nam quy định vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng thương mại cổ phần là 3.000 tỷ đồng.

Các ngân hàng phải tự đánh giá dựa trên các tiêu chí như vốn tự có, chất lượng tài sản, năng lực quản trị, kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng thanh khoản, với mức điểm tối đa là 100 theo quyết định số 6 của Thống đốc NHNN về xếp hạng NHTMCP Dữ liệu tự chấm điểm bao gồm bảng cân đối tài khoản, báo cáo thống kê, số liệu thanh tra giám sát của NHNN, và báo cáo kiểm toán Các NHTMCP cần hoàn thành việc tự đánh giá và gửi kết quả về NHNN chi nhánh trước ngày 10-5-2009 Thống đốc NHNN sẽ phê chuẩn kết quả vào tháng sáu hàng năm, và kết quả xếp loại chính thức sẽ được công bố trên website của ngân hàng Nhà nước.

Theo quy định pháp luật hiện hành, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng không được đầu tư quá 50% vốn điều lệ vào tài sản cố định Để hiện đại hóa và mở rộng trụ sở, các chi nhánh, phòng giao dịch cũng như đầu tư vào công nghệ mới như máy ATM và thiết bị hiện đại, các ngân hàng thương mại cổ phần cần thường xuyên tăng vốn điều lệ.

Tình hình t ă ng v ố n t ự có c ủ a các NHTMCP t ạ i Vi ệ t Nam

2.2.1 Tăng vốn từ nguồn bên trong

Các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đang tăng vốn tự có thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu để nâng cao vốn điều lệ Cụ thể, NHTMCP Phương Nam đã phát hành 11.041.800 cổ phần trong đợt chia cổ tức năm 2006, tương đương với giá trị vốn cổ phần phát hành là 110,418 tỷ đồng Hình thức phân phối được áp dụng cho tất cả cổ đông có tên trong Sổ đăng ký cổ đông đến ngày 31/12/2006, với tỷ lệ chia cổ tức 15% trên vốn điều lệ bình quân năm 2006 Điều này có nghĩa là cổ đông sẽ nhận được mức cổ tức 15% trên số vốn cổ phần phát hành từ ngày 11/10/2006 trở về trước và 15% trên số vốn cổ phần phát hành từ ngày 12/10/2006 đến 31/12/2006 Tương tự, NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng thực hiện chi trả cổ tức cho năm tài chính này.

2007 bằng cồ phần với tỷ lệ 15%/vốn cổ phần với số lượng cổ phiếu phát hành là

Trong Đại hội cổ đông thường niên năm 2008 diễn ra vào ngày 17/03/2008, Sacombank đã quyết định phân phối cổ tức năm 2008 bằng cổ phần với tỷ lệ từ 14% đến 16% trên vốn cổ phần, tương đương 66.732.212 cổ phiếu trị giá 667.322.120.000 đồng Đồng thời, vốn điều lệ của ngân hàng cũng được tăng cường thông qua việc phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông, lấy từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và thặng dư vốn cổ phần Trong năm 2007, Southern Bank đã phát hành 16.732.700 cổ phiếu thưởng, với tổng giá trị vốn cổ phần phát hành đạt 167,327 tỷ đồng.

Việc tăng vốn tự có của các ngân hàng còn được thực hiện thông qua việc gia tăng lợi nhuận giữ lại hàng năm, tuy nhiên, sự đóng góp của lợi nhuận này vào tổng vốn tự có vẫn còn hạn chế Dưới đây là bảng số liệu và biểu đồ minh họa tình hình gia tăng lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần.

BẢNG 2.1 LỢI NHUẬN GIỮ LẠI CỦA MỘT SỐ NHTMCP GIAI ĐOẠN 2006-2007 Đvt: triệu đồng

STT Tên NHTM CP Năm 2006 Năm 2007 % tăng

(Nguồn: Báo cáo phân tích năm 2008-BVSC) Đông Á Quân Đội Kỹ Thương Xuất nhập Khẩu

Sài Gòn Thương Tín Á Châu

BIỂU ĐỒ 2.1 LỢI NHUẬN GIỮ LẠI CỦA MỘT SỐ NHTMCP GIAI ĐOẠN 2006-2007

(Nguồn: Báo cáo phân tích năm 2008-BVSC)

2.2.2 Tăng vốn từ nguồn bên ngoài

Từ năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đã đồng loạt và liên tục tăng vốn tự có thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi trên thị trường chứng khoán Trong giai đoạn này, các NHTMCP đã công bố nhiều kế hoạch tăng vốn điều lệ, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng Theo dõi quá trình này cho thấy sự thay đổi đáng kể về mặt thời gian trong việc tăng vốn điều lệ của các NHTMCP.

 Giai đoạn cuối năm 2006 đến năm 2007

Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gia tăng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính – ngân hàng, đặc biệt từ khi các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam vào ngày 1/4/2007, hệ thống ngân hàng nội địa, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần, đã nỗ lực nâng cao năng lực tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt động và đa dạng hóa sản phẩm cũng như dịch vụ tín dụng.

Các ngân hàng thương mại cổ phần đã xây dựng lộ trình tăng vốn cụ thể để đáp ứng yêu cầu của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP Sacombank, với sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh TP.HCM, đã thực hiện kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 2.340 tỷ đồng lên 4.448 tỷ đồng trong năm nay.

2007 Sacombank đề ra kế hoạch cụ thể là, trong năm 2007, vốn điều lệ sẽ được tăng lên xấp xỉ 4.448 tỷ đồng và tổng tài sản đạt gần 38.000 tỷ đồng.

Năm 2007, NHTMCP Đông Á đã tăng vốn điều lệ từ 880 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu, theo kế hoạch đã được Hội đồng Quản trị thông qua Số tiền 416 tỷ đồng dự trữ tích lũy qua các năm sẽ được chuyển thành cổ phiếu, trong đó 600 tỷ đồng (30% vốn điều lệ) sẽ được bán cho nhà đầu tư nước ngoài Việc phát hành cổ phiếu cho các cổ đông nước ngoài sẽ được thực hiện theo quy định của NHNN và hoàn tất trong năm 2007 Nhờ đó, Đông Á đã hoàn thành kế hoạch tăng vốn điều lệ sớm hơn so với lộ trình của Chính phủ, yêu cầu vốn tối thiểu của ngân hàng thương mại phải đạt 2.000 tỷ đồng vào năm 2008.

Tương tự, trong năm 2007, NHTMCP An Bình cũng đưa ra dự kiến tăng vốn điều lệ từ mức 990 tỷ đồng lên đến 2.000 tỷ đồng.

Giữa năm 2007, đại hội cổ đông NHTMCP Southern Bank đã thông qua kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 1.290 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng vào cuối năm Cùng năm, NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank) cũng dự kiến nâng vốn điều lệ từ hơn 1.212 tỷ đồng lên 2.800 tỷ đồng Eximbank đã phát hành 2.800 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi cho cổ đông hiện hữu, với tỷ lệ chuyển đổi 50% hàng năm khi được NHNN chấp thuận Sau khi hoàn tất việc bán cổ phần cho đối tác nội và hai quỹ đầu tư nước ngoài vào cuối tháng 11, Eximbank đã xin tăng vốn lên 3.700 tỷ đồng Đến tháng 10 năm 2007, vốn điều lệ của Eximbank đã đạt 2.800 tỷ đồng, với lợi nhuận trước thuế trong 9 tháng đầu năm đạt gần 500 tỷ đồng.

NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã tăng vốn điều lệ từ 1.500 tỷ lên 2.700 tỷ đồng, trong khi NHTMCP Á Châu (ACB) cũng nâng vốn từ trên 1.100 tỷ lên hơn 2.530 tỷ đồng Đồng thời, NHTMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) đã chào bán 75 triệu cổ phiếu ra công chúng, nhằm tăng vốn điều lệ từ 750 tỷ đồng lên 1.500 tỷ đồng trong đợt I/2007, với mục tiêu đạt 2.000 tỷ đồng trong năm tới.

Năm 2007, theo kế hoạch được NHNN chấp thuận, NHTMCP Sài Gòn Công Thương (Saigonbank) đã tăng vốn điều lệ từ 689 tỷ đồng lên 1.020 tỷ đồng vào cuối năm Cùng lúc, NHTMCP Đông Nam Á (SeABank) cũng thực hiện tăng vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng lên 1.500 tỷ đồng, đúng theo kế hoạch tăng vốn đã được Hội đồng quản trị phê duyệt trong quý II/2007.

Đến cuối tháng 10 năm 2007, các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đang gấp rút thực hiện kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn đã được thông qua tại đại hội cổ đông NHTMCP VietA đã chính thức phát hành cổ phiếu tăng vốn lên 1.250 tỷ đồng, trong khi NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) nhận được sự phê duyệt của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho kế hoạch tăng vốn từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng với việc phát hành 150 triệu cổ phiếu NHTMCP Miền Tây cũng thực hiện kế hoạch tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng vào cuối năm 2007 Đến cuối tháng 11 và đầu tháng 12 năm 2007, hầu hết kế hoạch tăng vốn của các ngân hàng cổ phần đã được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông qua, tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng hoàn thành mục tiêu tăng vốn đã đề ra.

Trong tháng 12 năm 2007, NHTMCP Phát triển nhà TP HCM (HDBank) thông báo phát hành 50 triệu cổ phiếu để tăng vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng NHTMCP VietA cũng hoàn tất việc tăng vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng lên 750 tỷ đồng bằng cách phát hành quyền mua cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 2:1 với giá 1 triệu đồng/cổ phiếu NHTMCP Eximbank đã hoàn thành đợt phát hành gần 93 triệu cổ phiếu, nâng vốn điều lệ lên 2.800 tỷ đồng cho các cổ đông hiện hữu và cổ đông chiến lược nước ngoài ACB chào bán hơn 9,995 triệu cổ phiếu phổ thông với giá khởi điểm 170.000 đồng/cổ phiếu Cuối cùng, SHBank công bố kế hoạch tăng vốn gấp bốn lần từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng thông qua phát hành thêm 150 triệu cổ phiếu.

Thống kê tình hình tăng vốn tự có của một số các NHTMCP thông qua tăng vốn điều lệ qua bảng sau:

BẢNG 2.2 VỐN ĐIỀU LỆ CỦA MỘT SỐ NHTMCP GIAI ĐOẠN 2006-2007 Đvt: tỷ đồng

STT Ngân hàng Vốn điều lệ % Tăng

(Nguồn: Tổng hợp từ Internet)

Kỹ Thương Phương Nam Eximbank

BIỂU ĐỒ 2.2 VỐN ĐIỀU LỆ CỦA MỘT SỐ NHTMCP GIAI ĐOẠN 2006-2007

(Nguồn: Tổng hợp từ Internet)

Vào năm 2007, tại TP.HCM, các ngân hàng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ về vốn điều lệ Đặc biệt, khối ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) ước tính tổng vốn tự có đạt 24.407 tỷ đồng, tăng 43,1% so với cuối năm 2006 Trong đó, vốn điều lệ đạt 18.786 tỷ đồng, tăng 44,1% so với năm trước và tăng 94,6% so với cùng kỳ Đến cuối năm 2007, có 3 ngân hàng có vốn trên 2.000 tỷ đồng và 5 ngân hàng có vốn đạt trên 5.000 tỷ đồng.

BẢNG 2.3 VỐN ĐIỀU LỆ VÀ VỐN TỰ CÓ CỦA KHỐI NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN

TPHCM GIAI ĐOẠN 2006-2007 Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn tự có (tỷ đồng) Năm 2006 Năm 2007 Tỷ lệ tăng Năm 2006 Năm 2007 Tỷ lệ tăng

(Nguồn: Tổng hợp từ Internet)

Vốn điều lệ Vốn tự có

BIỂU ĐỒ 2.3 VỐN ĐIỀU LỆ VÀ VỐN TỰ CÓ CỦA KHỐI NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN

(Nguồn: Tổng hợp từ Internet)

BẢNG 2.4 VỐN ĐIỀU LỆ VÀ VỐN TỰ CÓ CỦA TECHCOMBANK GIAI ĐOẠN 2006-

Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn tự có (tỷ đồng)

Năm 2006 Năm 2007 Tỷ lệ tăng Năm 2006 Năm 2007 Tỷ lệ tăng

(Nguồn: Website www.techcombank.com.vn )

BIỂU ĐỒ 2.4 VỐN ĐIỀU LỆ VÀ VỐN TỰ CÓ CỦA TECHCOMBANK GIAI ĐOẠN 2006-

(Nguồn: Website www.techcombank.com.vn )

Từ giữa tháng 3 năm 2008, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đã bắt đầu mùa Đại hội Cổ đông với kế hoạch tăng vốn điều lệ đáng kể Cụ thể, NHTMCP Đông Á dự kiến tăng vốn từ 1.600 lên 3.000 tỷ đồng, trong khi NHTMCP Sài Gòn Thương Tín từ 4.449 lên 6.049 tỷ đồng NHTMCP Á Châu cũng sẽ tăng vốn từ 2.630 lên 6.355 tỷ đồng, và NHTMCP Nhà Hà Nội lên ít nhất 3.000 tỷ đồng Đặc biệt, NHTMCP Xuất Nhập Khẩu ghi nhận mức tăng kỷ lục từ 2.800 lên 7.400 tỷ đồng, nhờ vào nguồn thặng dư phát hành cổ phiếu cho các đối tác chiến lược Eximbank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế đạt 1.500 tỷ đồng trong năm 2008, gấp đôi so với năm trước Nhiều NHTMCP khác như Habubank và VIB Bank cũng lên kế hoạch tăng vốn từ 2.000 tỷ lên 3.000 tỷ đồng SHB dự kiến tăng vốn lên 4.500 tỷ đồng để mở rộng hệ thống giao dịch và đầu tư vào công nghệ Đến đầu năm 2008, vốn tự có của các ngân hàng thương mại tại TP.HCM đạt gần 28.230 tỷ đồng, tăng hơn 90% so với cùng kỳ năm trước, với 5 ngân hàng có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng.

Trước khi tăng vốn, có 7 ngân hàng có mức vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng Sau khi tăng, tổng tài sản của các ngân hàng thương mại cổ phần tại thành phố đã đạt hơn 395.770 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước.

Kết quả từ quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP

2.3.1.1.Quy mô vốn tự có của các NHTMCP đã tăng lên đáng kể

Sau một thời gian thực hiện lộ trình tăng vốn tự có, các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đã có quy mô vốn tự có lớn hơn trước, nhiều ngân hàng vượt xa quy định của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP Đến đầu năm 2008, Eximbank đã trình Đại hội cổ đông kế hoạch tăng vốn từ 2.800 tỷ đồng lên 7.400 tỷ đồng, trong khi ngân hàng Á Châu đã tăng vốn điều lệ từ 2.630 tỷ đồng lên 5.805,7 tỷ đồng Ngân hàng Đông Á cũng có kế hoạch tăng vốn từ 1.600 tỷ đồng lên 3.400 tỷ đồng, và Sacombank, với mức vốn điều lệ lớn thứ hai, đã đề xuất tăng vốn từ 4.449 tỷ đồng lên 6.493 tỷ đồng.

2.3.1.2 Hệ thống NHTMCP đã có sự tăng trưởng ngoạn mục

Trước áp lực giải ngân từ nguồn vốn tăng, các ngân hàng đã chủ động triển khai nhiều biện pháp để thúc đẩy đầu ra Các ngân hàng lớn đã cho ra mắt hàng loạt sản phẩm hấp dẫn, thể hiện sự tích cực trong hoạt động kinh doanh Dù gặp nhiều khó khăn, hệ thống NHTMCP Việt Nam vẫn ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội Cuộc đua mới giữa các NHTM, đặc biệt là các NHTMCP, đã chính thức bắt đầu.

Khối NHTMCP đã đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn trước, mặc dù tín dụng được kiểm soát ở mức thấp và thị phần thu hẹp Điều này cho thấy các ngân hàng đã cải thiện khả năng dự phòng rủi ro và có những chuyển biến tích cực trong cơ cấu thu nhập, với tỷ trọng hoạt động tín dụng giảm và tỷ trọng hoạt động dịch vụ tăng.

Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trong những năm gần đây đã tăng mạnh, duy trì ở mức cao nhất trong nền kinh tế Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2008, khi nền kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn, NHTMCP vẫn ghi nhận lợi nhuận ấn tượng, như ACB đạt hơn 1.000 tỷ đồng và Sacombank cũng có kết quả khả quan.

Trong năm qua, nhiều ngân hàng tại Việt Nam đã ghi nhận lợi nhuận ấn tượng, với Eximbank đạt 754 tỷ đồng, Đông Á hơn 400 tỷ đồng, và một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như Quân đội, Hàng Hải, Sea Bank cũng báo cáo lợi nhuận hàng trăm tỷ đồng.

2.3.1.3 Khả năng cạnh tranh của các NHTMCP ngày càng tăng

Mặc dù các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trong nước còn gặp nhiều thách thức về khả năng cạnh tranh, nhưng họ vẫn sở hữu những lợi thế nhất định như mạng lưới rộng rãi, giúp tiếp cận khách hàng và mở rộng thị phần Đặc biệt, họ đã xây dựng được một lượng khách hàng truyền thống đông đảo với thói quen tiêu dùng khó thay đổi Đến cuối năm 2007, Sacombank dẫn đầu với hơn 225 chi nhánh và phòng giao dịch trải rộng trên 45 tỉnh thành, cùng một văn phòng đại diện tại Trung Quốc.

Techcombank hiện có 9.700 đại lý thuộc 250 ngân hàng tại 91 quốc gia và vùng lãnh thổ, cùng với khoảng 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng động và sáng tạo Ngân hàng phục vụ khoảng 51.000 cổ đông đại chúng và sở hữu 109 điểm giao dịch trải rộng trên 16 tỉnh, thành phố, đặc biệt tập trung ở miền Bắc.

Tính đến cuối năm 2007, Eximbank đã có 59 điểm giao dịch trong tổng số 84 chi nhánh và phòng giao dịch Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đã mở rộng mạng lưới với chi nhánh hoặc phòng giao dịch có mặt ở khắp các tỉnh, thành phố, và hầu hết các khu công nghiệp đều có sự hiện diện của các NHTMCP.

Các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đã tiếp cận nhiều kinh nghiệm và công nghệ để cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài, với xu hướng hiện đại hóa và đa dạng hóa sản phẩm Nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại, các ngân hàng đang nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và mạng diện rộng, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế Đặc biệt, sự hỗ trợ tài chính từ Ngân hàng Thế giới (WB) lên tới 300 triệu USD cho quá trình hiện đại hóa đã thúc đẩy sự phát triển này Tính đến tháng 11/2007, hệ thống ngân hàng đã phát hành khoảng 7 triệu thẻ và lắp đặt khoảng 4.300 máy ATM cùng gần 22.000 máy POS Qua đó, NHTMCP đã đạt được những cải thiện đáng kể về tài chính, công nghệ và quản trị điều hành.

2.3.1.4 Đầu tư của các đối tác nước ngoài vào các NHTMCP ngày càng tăng

Trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm đến thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trong nước lại tỏ ra bình tĩnh và chủ động liên kết với các ngân hàng quốc tế để nâng cao sức cạnh tranh Một ví dụ điển hình là sự hợp tác giữa Eximbank và Tập đoàn tài chính SUMITOMI MITSUI BANKING CORPORATION (SMBC) của Nhật Bản, khi Eximbank bán 15% vốn cổ phần cho SMBC với giá 225 triệu USD SMBC cam kết hỗ trợ Eximbank về kỹ thuật, công nghệ và quản trị Các ngân hàng cổ phần khác như ACB, Sacombank, VPbank, Habubank, và Techcombank cũng đã thực hiện các thương vụ tương tự với các đối tác nước ngoài như ANZ, HSBC, và IFC, cho thấy xu hướng hợp tác chiến lược này đang ngày càng phát triển.

2.3.2.1.Quy mô vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam vẫn còn nhỏ

Mặc dù vốn tự có của các ngân hàng đã tăng mạnh, quy mô của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam vẫn còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đang bội thực nguồn cung, các ngân hàng cần cẩn trọng trước những khó khăn và rủi ro khi quyết định tăng vốn Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tăng trưởng nhanh về số lượng, nhưng tỷ lệ ngân hàng có vốn điều lệ trên 2.000 tỷ đồng vẫn rất khiêm tốn Vốn điều lệ là yếu tố quan trọng thể hiện sức mạnh tài chính của ngân hàng Sự hội nhập và cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đòi hỏi tăng vốn điều lệ và nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như nguồn nhân lực.

2.3.2.2 Nhiều NHTMCP đã tăng vốn một cách quá mức trong thời gian ngắn

Trong thời gian gần đây, cuộc đua tăng vốn trong khối ngân hàng thương mại cổ phần đã diễn ra sôi động, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập WTO Việc tăng vốn nhằm mở rộng dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh là điều dễ hiểu, nhưng nhiều ngân hàng đã tăng vốn quá mức, vượt xa mức độ và phạm vi hoạt động Điều này không chỉ tạo áp lực về việc trả cổ tức cao mà còn tiềm ẩn rủi ro cho cả ngân hàng lẫn thị trường trái phiếu, cổ phiếu mới hình thành tại Việt Nam Năm 2007, NHNN đã liên tiếp chấp thuận các kế hoạch tăng vốn của ngân hàng thương mại cổ phần, trong khi một số ngân hàng như Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Sài Gòn Công Thương phát hành trái phiếu chuyển đổi và niêm yết trên thị trường chứng khoán Cổ phiếu và trái phiếu của các ngân hàng này trở thành mục tiêu săn lùng của nhà đầu tư, với giá trị giao dịch cao gấp 5 đến 7 lần so với giá gốc, thậm chí cổ phiếu của Ngân hàng Á Châu có thời điểm cao gấp 15 lần mệnh giá Sự quan tâm mạnh mẽ từ nhà đầu tư nước ngoài và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng cổ phần với mức cổ tức cao đã thúc đẩy tình trạng này, nhưng việc tăng vốn quá mức, thường gấp hơn 2 lần so với vốn hiện tại, đang dẫn đến áp lực duy trì mức trả cổ tức cao và nhiều vấn đề khác.

Việc tăng vốn liên tục của các ngân hàng cổ phần trong thời gian gần đây đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong bảng xếp hạng quy mô vốn của các ngân hàng này Ví dụ, vào đầu năm 2007, Ngân hàng Phương Nam đã từ vị trí thứ

5 đã qua mặt ACB để vượt lên chiếm vị trí thứ 2 Sang đến tháng 06 năm 2008, ACB đã vượt qua ngân hàng Sacombank để chiếm vị trí dẫn đầu,…

2.3.2.3 Khó khăn trong việc sử dụng nguồn vốn tăng thêm

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều ngân hàng thương mại gặp khó khăn do tăng vốn quá nhanh, đặc biệt trong những tháng đầu năm 2007 Mặc dù tỷ lệ an toàn vốn của nhiều ngân hàng vượt mức 8%, nhưng quy mô hoạt động và năng lực quản trị chưa phù hợp với yêu cầu phát triển Để cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng nội địa đã đầu tư mạnh vào nhân lực và công nghệ, nhưng lợi nhuận chủ yếu vẫn đến từ tín dụng, trong khi doanh thu từ dịch vụ chưa đạt một nửa Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán đã thúc đẩy phong trào thành lập ngân hàng mới, nhưng lợi nhuận của một số ngân hàng lại chủ yếu đến từ kinh doanh chứng khoán, điều này không bền vững khi thị trường tài chính có dấu hiệu biến động.

2.3.2.4 Cổ phiếu ngân hàng không còn nhận được nhiều sự quan tâm

Từ đầu năm 2008, các ngân hàng thương mại cổ phần đã đồng loạt công bố kế hoạch tăng vốn cho cổ đông Tuy nhiên, tình hình thị trường chứng khoán hiện tại có sự khác biệt rõ rệt so với đầu năm.

Nguyên nhân hạn chế

2.4.1 Sự không cân xứng giữa việc tăng vốn tự có với chất lượng và hiệu quả hoạt động

Câu chuyện tăng vốn không hề đơn giản.

Việc quản lý một ngân hàng với vốn điều lệ lên đến hàng ngàn tỷ đồng khác biệt hoàn toàn so với ngân hàng chỉ có vài trăm tỷ đồng Mặc dù vốn có thể tăng lên hàng trăm phần trăm, nhưng khối lượng công việc có thể tăng đến hàng ngàn phần trăm Điều này yêu cầu khả năng bao quát, tầm nhìn và hệ thống thông tin - phản hồi phải được cải thiện và nâng cao hơn trước, tạo ra những áp lực lớn cho các nhà quản lý ngân hàng.

Hiện nay, các nghiệp vụ ngân hàng còn đơn giản và thiếu đa dạng, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm truyền thống như tín dụng, nhận gửi và thanh toán Hệ thống dịch vụ ngân hàng thương mại trong nước vẫn còn đơn điệu và chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, chủ yếu nặng về dịch vụ truyền thống Đáng chú ý, ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới hình thức tiền gửi, chiếm 94% tổng nguồn vốn, trong khi hoạt động cấp tín dụng chiếm hơn 80% tổng thu nhập của ngân hàng.

Gần đây, nhiều chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng đã phát triển nhanh chóng, nhưng điều này dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong đội ngũ nhân viên, với một số người mặc đồng phục trong khi những người khác lại ăn mặc không phù hợp Hơn nữa, quy trình giao dịch diễn ra chậm chạp và thường xuyên xảy ra sai sót.

Cổ đông kỳ vọng rằng vốn góp của họ sẽ được sử dụng một cách hiệu quả nhất Mặc dù việc huy động vốn diễn ra nhanh chóng, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần vẫn chưa có kế hoạch rõ ràng để sử dụng số vốn này trong hoạt động kinh doanh sắp tới, dẫn đến việc chưa đảm bảo hiệu quả sử dụng và lợi nhuận cho cổ đông.

Với sức hấp dẫn của cổ phiếu ngân hàng, việc huy động vốn hiện nay không còn khó khăn Tuy nhiên, khi mở rộng quy mô, ngân hàng cần chú trọng đến chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo khả năng phục vụ khách hàng không bị ảnh hưởng Trình độ quản lý kinh doanh và tính chuyên nghiệp trong hoạt động ngân hàng thương mại vẫn còn thấp, dẫn đến năng lực quản lý và lãnh đạo không theo kịp sự phát triển Đội ngũ cán bộ chất lượng chưa cao, cùng với tình trạng dư thừa nhân sự và năng suất lao động thấp, đã cản trở việc xây dựng một hệ thống ngân hàng thương mại hiện đại Hơn nữa, duy trì tỷ lệ cổ tức cao cũng là thách thức lớn đối với ban điều hành.

Mạng lưới ngân hàng đang mở rộng mạnh mẽ, đặc biệt tại các thành phố lớn như TP HCM, nơi mà chỉ trong một đoạn ngắn có thể thấy nhiều chi nhánh ngân hàng hoạt động cạnh nhau Trong khi đó, các tỉnh lại thiếu vắng sự hiện diện của ngân hàng, tạo ra cơ hội lớn cho các ngân hàng khẳng định vị thế trước sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới không đồng nghĩa với việc mở rộng dịch vụ cung cấp, điều này cần được các ngân hàng chú trọng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Hiện nay, các ngân hàng chủ yếu tập trung vào huy động vốn và cho vay, dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt Mặc dù số lượng chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng tăng lên, nhưng lượng tiền gửi từ dân cư không tăng đáng kể, khiến một số nơi trở nên "ế khách".

2.4.2 Sự tăng thêm của hàng tỷ cổ phiếu ngân hàng ra thị trường Đây là câu hỏi không dễ trả lời, nhất là trong bối cảnh thời “vàng son” của các ngân hàng dường như không còn; thị trường tài chính – tiền tệ đang gặp nhiều khó khăn; nhà đầu tư vô vọng tìm kiếm niềm tin với thị trường chứng khoán đang bị thất lạc đâu đó Tính đến cuối tháng 3/2008, cả nước có 33 ngân hàng TMCP đô thị, với tổng vốn điều lệ 45.144 tỷ đồng Làm một phép tính: nếu các ngân hàng đều lấy mức tăng bình quân khoảng 80% vốn hiện có, thì năm 2008, các ngân hàng TMCP đô thị sẽ phát hành thêm khoảng 36.000 tỷ đồng, cũng có nghĩa là có thêm 3,6 tỷ cổ phiếu (mệnh giá 10.000 đồng) được đổ ra thị trường Con số này trên thực tế có thể còn lớn hơn, bởi các ngân hàng tăng vốn khá mạnh tay (Ngân hàng TMCP Á Châu có kế hoạch tăng vốn từ 5.805,7 tỷ đồng hiện tại lên 6.355 tỷ đồng vào cuối năm 2008, mức tăng lên đến 141% so với thời điểm đầu năm 2008; Eximbank trình Đại hội đồng cổ đông thông qua kế hoạch tăng vốn từ 2.800 tỷ đồng lên 7.400 tỷ đồng, mức tăng 164%; Ngân hàng TMCP Đông Á có kế hoạch tăng vốn từ 1.600 tỷ đồng lên 3.400 tỷ đồng, tăng 112% ) Vấn đề đặt ra là, ai sẽ sở hữu hàng tỷ cổ phiếu phát hành thêm của các ngân hàng thương mại cổ phần?.

Các ngân hàng đang chú trọng đến việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài do họ có lợi thế về vốn, trong khi nhà đầu tư trong nước đang gặp khó khăn do thị trường chứng khoán giảm sút và nguồn vốn hạn chế Nhà đầu tư nước ngoài cũng đang tìm kiếm cơ hội mua cổ phiếu ngân hàng trong nước với giá thấp, với mục tiêu sở hữu trên 10% vốn để tham gia vào hội đồng quản trị và có thể thực hiện các chiến lược tiếp theo.

Các ngân hàng thương mại quốc doanh đang tận dụng cơ hội để mở rộng ảnh hưởng của mình vào các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) có nhu cầu tăng vốn Họ ưu tiên lựa chọn những NHTMCP đã có sự hiện diện vững chắc tại các khu vực mà họ chưa khai thác, cùng với những ngân hàng sở hữu dữ liệu khách hàng chất lượng và tiềm năng.

Các cổ đông sẽ có cơ hội tăng cường sở hữu cổ phiếu ngân hàng thông qua chính sách chia cổ tức bằng cổ phiếu cho những người hiện hữu, hoặc thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu với giá ưu đãi nhằm thu hút nhà đầu tư mới.

Trong trung hạn, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ bán lẻ, sẽ tăng cao do doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp phải phụ thuộc nhiều hơn vào kênh ngân hàng Tuy nhiên, trong giai đoạn này, ngân hàng có thể đối mặt với những thách thức, khiến cổ phiếu ngân hàng trở nên kém hấp dẫn.

2.4.3 Vốn tự có tăng nhanh nhưng thu nhập không tăng nhanh tương ứng làm nản lòng các nhà đầu tư

Ngân hàng tăng vốn điều lệ quá nhanh nhưng lợi nhuận không tăng tương ứng, dẫn đến giá trị cổ phiếu giảm Năm 2008, ACB dự kiến lợi nhuận trước thuế 2.500 tỷ đồng, với thu nhập trên mỗi cổ phiếu khoảng 3.400 đồng, trong khi STB nếu đạt kế hoạch sẽ có thu nhập khoảng 2.900 đồng/cổ phiếu Mức thu nhập này thấp hơn so với nhiều cổ phiếu hạng trung và nhỏ trên sàn Chẳng hạn, Công ty Việt Hàn (VHG) có vốn điều lệ 250 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế năm 2007 là 86 tỷ đồng, dự kiến năm 2008 sẽ giữ nguyên vốn điều lệ nhưng lợi nhuận sau thuế tăng lên 110 tỷ đồng, tương ứng với thu nhập 4.400 đồng/cổ phiếu, cao hơn ACB và STB Điều này khiến cổ phiếu ngân hàng trở nên kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư.

2.4.4 Thị trường tài chính tiền tệ trong nước còn nhiều bất cập

Hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hóa tài chính đang gia tăng áp lực cạnh tranh và rủi ro lãi suất, tỷ giá, cũng như chu chuyển vốn trên thị trường tiền tệ Điều này đặt hệ thống tài chính trong nước vào tình thế đối mặt với bất ổn và nguy cơ khủng hoảng từ thị trường quốc tế.

Hệ thống doanh nghiệp và khách hàng của ngân hàng hiện đang gặp phải sức cạnh tranh yếu, điều này chủ yếu do công nghệ lạc hậu và năng lực cạnh tranh thấp Những yếu tố này đã dẫn đến việc giảm hiệu quả kinh doanh và gia tăng nguy cơ tổn thương cho hệ thống ngân hàng.

Biện pháp gia tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam

Ngày đăng: 07/09/2022, 19:34

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w