Hiện nay nước ta định hướng theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đồng thời Việt Nam cũng là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Những thách thức đi cùng điều kiện phát triển nền kinh tế của Việt Nam thiếu sự liên kết, sản xuất nhỏ lẻ, tư liệu sản xuất nghèo nàn nên luôn gặp phải những khó khăn rào cản trong hoạt động thương mại nên cần phải có những hướng đi và biện pháp tích cực để giải quyết vấn đề này. Do đó, việc liên kết các tổ chức, cá nhân lại với nhau nhằm mục đích hỗ trợ, giúp đỡ nhau tiến bộ là rất cần thiết. Đây là cơ sở để phát triển loại hình kinh tế hợp tác xã, đáp ứng yêu cầu của từng thành viên nói riêng và điều kiện góp phần phát triển kinh tế xã hội trong thới kỳ hội nhập nói chung. Đảng, nhà nước luôn kịp thời hỗ trợ và giúp đỡ những chính sách cho loại hình kinh doanh này.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ
Khái quát chung về hợp tác xã
1.1.1 Khái niệm hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế không chỉ nhằm phát triển kinh tế mà còn tạo công ăn việc làm, góp phần ổn định chính trị-xã hội, do đó được ưu tiên phát triển tại Việt Nam Sau khi áp dụng Luật hợp tác xã năm 2003, kinh tế-xã hội nước ta đã có những tiến bộ nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế Luật hợp tác xã năm 2012 ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định về hợp tác xã, phù hợp với bản chất của tổ chức này.
Hợp tác xã là một mô hình kinh tế lâu đời, phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt ở các nước phát triển với nền kinh tế thị trường Mô hình này không chỉ khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa mà còn là một phần thiết yếu của kinh tế thị trường hiện đại.
Tại đại hội ICA lần thứ 31 diễn ra ở Manchester vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, hợp tác xã được định nghĩa là một hiệp hội tự chủ, nơi các cá nhân tự nguyện liên kết để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, văn hóa và xã hội Hợp tác xã hoạt động thông qua các tổ chức kinh tế do các thành viên cùng sở hữu và quản lý một cách dân chủ.
Tùy thuộc vào từng quốc gia, định nghĩa về hợp tác xã có sự khác biệt nhằm đáp ứng nhu cầu và điều kiện cụ thể Tại Việt Nam, định nghĩa hợp tác xã được xây dựng dựa trên tình hình kinh tế - xã hội của đất nước Hơn 50 năm qua, từ khi hợp tác xã đầu tiên ra đời, các hợp tác xã đã khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Năm 1996, đạo luật hợp tác xã đầu tiên được ban hành, đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển loại hình kinh tế này Qua thời gian, các luật hợp tác xã mới đã được thay thế để phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước.
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, được thành lập bởi các cá nhân, hộ gia đình, và pháp nhân với mục tiêu chung là hợp tác và tương trợ trong sản xuất, kinh doanh Theo Luật Hợp tác xã năm 2003, hợp tác xã hoạt động như một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tự chủ và chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn của mình Hợp tác xã không chỉ giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các xã viên mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Hệ thống văn bản hướng dẫn đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế tập thể và khuyến khích thành lập hợp tác xã mới trên toàn quốc, mặc dù vẫn có những thách thức trong quá trình áp dụng, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế.
Luật hợp tác xã năm 2003 đã bộc lộ những hạn chế cần sửa đổi, do đó, Luật hợp tác xã năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP đã ra đời với các quy định phù hợp hơn Những quy định này tạo ra khung pháp lý giúp hợp tác xã vượt qua khó khăn, thách thức và thúc đẩy sự đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Theo Luật Hợp tác xã 2012, hợp tác xã được định nghĩa là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, được thành lập bởi ít nhất 07 thành viên tự nguyện Hợp tác xã hoạt động nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên Hoạt động của hợp tác xã dựa trên nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý.
Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân, được thành lập bởi ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện Mục tiêu của liên hiệp là hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và kinh doanh, đáp ứng nhu cầu chung của các hợp tác xã thành viên Tổ chức này hoạt động dựa trên nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý.
Luật hợp tác xã năm 2012 đã làm rõ bản chất của hợp tác xã như một tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể, được thành lập trên tinh thần tự nguyện vì lợi ích chung của các thành viên Luật này đã loại bỏ quy định rằng hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, đồng thời hoàn thiện và quy định rõ ràng hơn về những đặc điểm cơ bản của tổ chức này.
Hợp tác xã hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, nơi các thành viên đồng sở hữu và đồng sử dụng sản phẩm, dịch vụ, đồng thời là người lao động trong tổ chức này.
2 Điều 1, Luật Hợp tác xã năm 2003
3 Điều 3, Luật Hợp tác xã năm 2012
Thứ hai: Giúp chúng ta phân biệt được hợp tác xã khác với doanh nghiệp ở chỗ họp tác xã phục vụ nhu cầu, nguyện vọng của thành viên.
1.1.2 Đặc điểm của hợp tác xã
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế thuộc loại hình kinh tế tập thể, được thành lập theo quy trình cụ thể nhằm phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ Mục tiêu chính của hợp tác xã là nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận cho các thành viên Hợp tác xã hoạt động theo luật định và mang những đặc điểm riêng biệt trong các lĩnh vực hoạt động của mình.
1.1.2.1 Xét về mặt kinh tế
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế quan trọng trong kinh tế tập thể, dựa trên sở hữu của các thành viên và liên kết rộng rãi với người lao động, hộ sản xuất, và doanh nghiệp vừa và nhỏ Thị trường chính của hợp tác xã là cộng đồng thành viên, do đó, số lượng thành viên càng nhiều thì hiệu quả hoạt động càng cao Đặc trưng của hợp tác xã là sở hữu tập thể, từ đó hình thành các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối Hợp tác xã tạo điều kiện cho sự hợp tác bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp khác, đồng thời bảo đảm quyền lợi vật chất cho các thành viên.
1.1.2.2 Xét về mặt pháp lý
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể có tư cách pháp nhân, đảm bảo quyền lợi vật chất cho các thành viên và bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp khác Hợp tác xã có quyền thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, với lợi nhuận là mục tiêu chính Theo pháp luật Việt Nam, một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi đáp ứng bốn điều kiện: được thành lập theo quy định của Bộ luật và luật liên quan; có cơ cấu tổ chức theo quy định; có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; và tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1.1.2.3 Xét về mặt xã hội
4 Khoản 1, Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015
Hợp tác xã, với nguyên tắc tổ chức và hoạt động xã hội, càng có nhiều thành viên thì càng phát huy tinh thần tự quản và mở rộng dân chủ Điều này không chỉ giúp người lao động và những người sản xuất nhỏ vững vàng trong thị trường cạnh tranh mà còn thúc đẩy sự phát triển và giảm bớt áp lực về thất nghiệp Sự nâng cao tinh thần cho các thành viên hợp tác xã chỉ có thể đạt hiệu quả khi được xây dựng trên nền tảng hoạt động kinh tế vững chắc.
1.1.2.4 Xét về hình thức sở hữu tài sản
Sở hữu trong hợp tác xã được hiểu là đồng sở hữu, nơi cá nhân và hộ gia đình cùng hợp tác sản xuất, kinh doanh với mục đích chung theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và dân chủ Tài sản trong hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể, mặc dù Luật hợp tác xã năm 2012 không quy định rõ ràng hình thức này, nhưng từ các điều khoản của luật, có thể xác định rằng tài sản của hợp tác xã là tài sản tập thể Hợp tác xã hình thành từ nguồn vốn góp của các thành viên và thu nhập hợp pháp từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, cùng với sự hỗ trợ từ các nguồn vốn hợp pháp Do đó, việc quản lý và sử dụng tài sản phải được quyết định tập thể theo quy định của Luật hợp tác xã năm 2012.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là yếu tố cốt lõi giúp phân biệt hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp khác Mỗi hợp tác xã cần tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc này khi xây dựng Điều lệ của mình.
Căn cứ theo Điều 7 Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định hợp tác xã tổ chức hoạt động theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tự nguyện là một trong những nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã, khuyến khích các thành viên tham gia dịch vụ mà không bị ép buộc, bất kể giới tính, chủng tộc hay tôn giáo, miễn là đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Luật hợp tác xã năm 2012 quy định rằng cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân có quyền tự nguyện thành lập, gia nhập hoặc rời khỏi hợp tác xã, đồng thời hợp tác xã cũng có quyền tự nguyện tham gia hoặc rút lui khỏi liên hiệp hợp tác xã.
Nội dung nguyên tắc này nhấn mạnh quyền gia nhập và rời khỏi hợp tác xã của cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân Cụ thể, công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền trở thành thành viên nếu đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định và đồng ý với Điều lệ của hợp tác xã Ngoài ra, các thành viên cũng có quyền rời khỏi hợp tác xã nếu họ cảm thấy hợp tác xã không mang lại hiệu quả và lợi ích cho mình, theo quy định trong Điều lệ.
1.2.2 Nguyên tắc kết nạp rộng rãi thành viên hợp tác xã
Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã có nguyên tắc kết nạp thành viên rộng rãi, không giới hạn việc thêm thành viên mới từ cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân Thành viên là yếu tố cốt lõi, đối tác, khách hàng và thị trường chính của hợp tác xã; không có thành viên, hợp tác xã sẽ không tồn tại Việc phát triển của hợp tác xã phụ thuộc vào việc tăng cường nguồn lực, mở rộng thị trường và khách hàng, từ đó tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong bối cảnh thị trường và hội nhập quốc tế.
Nguyên tắc mở rộng đối tượng tham gia hợp tác xã không chỉ giới hạn ở cá nhân và hộ gia đình, mà còn bao gồm các tổ chức và pháp nhân đủ điều kiện theo quy định Luật Hợp tác xã năm 2012 cũng cho phép người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam tham gia hợp tác xã Tất cả các đối tượng này đều có quyền nộp đơn xin gia nhập, miễn là họ tán thành nội quy, quy chế và Điều lệ của hợp tác xã.
6 Khoản 1, Điều 7, Luật Hợp tác xã năm 2012
Theo Khoản 10, Điều 8 của Luật Hợp tác xã năm 2012, các thành viên của hợp tác xã có thể là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Ngoài ra, hộ gia đình cũng có thể tham gia thông qua người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật, cùng với các cơ quan, tổ chức là pháp nhân Việt Nam.
Bình đẳng là yếu tố cốt lõi trong hoạt động và quản lý của hợp tác xã, quyết định sự tồn tại và phát triển của mô hình này Không có bình đẳng, hợp tác xã không thể hoạt động hiệu quả Tất cả thành viên đều có quyền bình đẳng và biểu quyết ngang nhau, không phụ thuộc vào vốn góp, trong việc quản lý và quyết định các hoạt động của hợp tác xã Họ cũng được đảm bảo quyền lợi về thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác liên quan đến sản xuất, kinh doanh, tài chính và phân phối thu nhập, theo quy định của điều lệ.
Trong công ty cổ phần, quyền biểu quyết của các cổ đông được xác định theo nguyên tắc “mỗi cổ phần, một phiếu bầu”, nghĩa là cổ đông sở hữu nhiều cổ phiếu sẽ có nhiều quyền lực hơn trong các quyết định Ngược lại, trong hợp tác xã, mọi thành viên đều có quyền bình đẳng trong bầu cử và mỗi người đều có một phiếu bầu để thể hiện quyền lợi của mình Tất cả các thành viên tham gia quản lý hợp tác xã thông qua biểu quyết, với mỗi phiếu bầu có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào vốn góp hay chức vụ của họ.
Các thành viên trong hợp tác xã có quyền ứng cử và đề cử cho các vị trí trong Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và các chức danh khác Họ cũng có quyền kiến nghị, yêu cầu và đề xuất ý kiến với Hội đồng quản trị và Giám đốc.
Ban kiểm soát có trách nhiệm giải trình về hoạt động của hợp tác xã Nếu không thể cung cấp giải trình thỏa đáng, các thành viên có quyền yêu cầu đưa vấn đề ra đại hội thành viên để giải quyết.
Khi xác định phương hướng hoạt động sản xuất và kinh doanh, tất cả các thành viên đều có quyền bình đẳng trong việc thảo luận và đưa ra ý kiến nhằm tối ưu hóa hiệu quả thực hiện các phương án.
8 Điểm a, khoản 1, Điều 13, Luật Hợp tác xã năm 2012
9 khoản 3, Điều 7, Luật Hợp tác xã năm 2012
10 khoản 6, Điều 14, Luật Hợp tác xã năm 2012
11 khoản 13, Điều 34, Luật Hợp tác xã năm 2012
12 khoản 6, Điều 14, Luật Hợp tác xã năm 2012
Theo khoản 7, Điều 14 của Luật Hợp tác xã năm 2012, các thành viên có quyền được thông tin về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc trích lập quỹ và chia lãi dựa trên vốn góp cũng như mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã Ngoài ra, các thông tin liên quan đến đóng góp xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên, cũng như tình hình hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát sẽ được công khai, trừ những thông tin thuộc bí mật kinh doanh theo quy định của hội đồng thành viên.
1.2.4 Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Tự chủ và tự chịu trách nhiệm là quyền lợi và nghĩa vụ của hợp tác xã, bao gồm việc tổ chức hoạt động sản xuất và kinh doanh theo quy định của pháp luật, đồng thời phải có trách nhiệm với hợp tác xã, các thành viên và cộng đồng xã hội.
Luật hợp tác xã năm 2012 quy định: “Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật” 14
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự quản, mang lại lợi ích cho các thành viên và tự chủ về tài chính, hoạt động độc lập trong mọi lĩnh vực Hợp tác xã tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh, đồng thời quyết định về phân phối thu nhập, bộ máy quản lý và huy động vốn Không có cá nhân hay tổ chức nào can thiệp vào hoạt động nội bộ Lợi nhuận được phân phối dựa trên mức độ sử dụng dịch vụ, công sức và vốn góp của từng thành viên Hợp tác xã còn tự lập quỹ, quy định tiền công, tiền lương cho nhân viên, chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và chịu trách nhiệm pháp lý về các hợp đồng đã ký.
1.2.5 Nguyên tắc gắn kết về kinh tế của thành viên hợp tác xã
Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định rằng các thành viên và hợp tác xã phải thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và điều lệ Thu nhập của hợp tác xã được phân phối chủ yếu dựa trên mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ hoặc công sức lao động của các thành viên Nguyên tắc này nhấn mạnh sự cần thiết của việc giao kết hợp đồng theo quy định của điều lệ hợp tác xã, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồng.
14 khoản 4, Điều 7, Luật Hợp tác xã năm 2012
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hợp tác xã
1.3.1 Lịch sử hình thành hợp tác xã trên thế giới
Hợp tác xã đóng vai trò quan trọng trong kinh tế, chính trị và xã hội của nhiều quốc gia, kể cả những nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Thụy Điển, Canada, Nhật Bản và Hàn Quốc Vào đầu thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất diễn ra, lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, dẫn đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường Những người sản xuất và buôn bán nhỏ phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thử thách, như thiếu vốn và khả năng tiếp cận công nghệ hạn chế, nhận ra rằng họ không thể tự giải quyết khó khăn Do đó, họ quyết định hợp tác, góp vốn để kinh doanh, và từ đó, những hợp tác xã đầu tiên ra đời Hợp tác xã đầu tiên trên thế giới được thành lập tại Anh vào tháng 12 năm 1844 bởi 18 người dệt và thợ thủ công, mang tên “Hợp tác xã của những người tiên phong bình đẳng Rochdale” Đến nay, phong trào hợp tác xã đã phát triển mạnh mẽ tại hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) được thành lập vào ngày 19 tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, với sự tham gia của 207 đại biểu từ nhiều quốc gia, hiện có 800 triệu thành viên và tạo ra hàng nghìn việc làm, đảm bảo thu nhập cho khoảng 3 tỷ người Năm 1988, tại Đại hội Liên hiệp hợp tác xã quốc tế lần thứ 29 ở Thụy Điển, Liên minh hợp tác xã Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ICA.
1.3.2 Lịch sử hình thành và phát triển hợp tác xã ở Việt Nam
Lịch sử hình thành và sự phát triển của hợp tác xã chứng tỏ rằng kinh tế hợp tác là một phần quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI, phong trào hợp tác xã đã có những bước tiến đáng kể, khẳng định vai trò thiết yếu của nó trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
(năm 1986) cho đến nay, ngoài những hợp tác xã kiểu cũ đã chuyển đổi có hiệu quả thì
Theo Điều 7, Khoản 20 của Luật Hợp tác xã năm 2012, nhiều hợp tác xã đã ra đời với tên gọi đa dạng và sự tự nguyện trong các ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn khác nhau Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến loại hình kinh tế hợp tác, ban hành nhiều chính sách cụ thể nhằm phát triển kinh tế tập thể Sự phát triển này có thể được khái quát qua các giai đoạn khác nhau.
1.3.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 Đặc trưng lớn nhất của giai đoạn này là hợp tác xã hình thành và phát triển trong điều kiện đất nước có chiến tranh.
Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954 đánh dấu sự phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Việt Nam Trong thời kỳ này, hợp tác xã chưa phát triển mạnh mẽ, nhưng sau khi giành độc lập, vùng căn cứ kháng chiến ATK đã được thành lập để tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến Ngày 8 tháng 3 năm 1948, hợp tác xã thủy tinh được thành lập từ một tổ chức sản xuất chai lọ và ống tiêm phục vụ kháng chiến, đánh dấu sự ra đời của hợp tác xã thủ công đầu tiên ở Việt Nam Mặc dù năng lực sản xuất còn hạn chế, sự kiện này đã tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của hợp tác xã trong tương lai.
Giai đoạn từ năm 1955 đến 1957 là thời kỳ thí điểm hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc, khi Đảng và Nhà nước triển khai chương trình thí điểm và tổ chức hội nghị tổng kết Mặc dù các hợp tác xã còn hạn chế và trình độ yếu kém, nhưng chúng được xây dựng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nông dân Đến tháng 10 năm 1957, kế hoạch mở rộng phong trào hợp tác xã đã được ban hành.
Giai đoạn 1960-1965 đánh dấu nỗ lực của Đảng và nhà nước trong việc xây dựng hợp tác xã bậc cao, nhằm đưa người lao động tiến gần hơn tới chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1966-1975 đánh dấu sự nỗ lực cải cách quản lý hợp tác xã ở miền Bắc, nhằm thúc đẩy sản xuất và hỗ trợ cuộc kháng chiến miền Nam Mặc dù Đảng và Nhà nước đã tích cực vận động phát triển hợp tác xã, nhưng kinh tế hợp tác xã vẫn gặp nhiều khó khăn, từ vấn đề nhân lực đến vật chất Quản lý hợp tác xã còn lỏng lẻo, thiếu lao động trẻ có trình độ do phải tham gia chiến trường, trong khi tay nghề của lao động còn yếu.
1.3.2.2 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1996
Giai đoạn 1975 - 1986 đánh dấu sự sản xuất và củng cố hợp tác xã tại miền Bắc Trong thời gian này, miền Bắc đã tổ chức lại sản xuất và cải tiến cơ chế quản lý hợp tác xã theo hướng sản xuất lớn, thực hiện theo Nghị quyết số 61/NQ-CP ngày 5 tháng 4 năm.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 1977, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-TW nhằm thí điểm cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp miền Nam, đưa hầu hết nông dân vào hợp tác xã và tập đoàn sản xuất giống như miền Bắc Tuy nhiên, hoạt động của các hợp tác xã giai đoạn này gặp nhiều bất cập, như việc chú trọng tập thể hóa mà không quan tâm đến lợi ích của hộ gia đình và cá nhân xã viên Phương thức quản lý chưa hiệu quả, dẫn đến sự không gắn kết giữa xã viên và hợp tác xã, cùng với việc ruộng đất và tài sản sử dụng không phù hợp Hợp tác xã còn bị xem như tổ chức xã hội, làm giảm vai trò của các tổ chức kinh tế khác, và các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng hợp tác xã bị xâm phạm nghiêm trọng.
Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) tháng 7 năm 1979 đã đưa ra nghị quyết về các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, cho phép một số hợp tác xã thực hiện khoán sản phẩm đến hộ và khuyến khích thành viên đầu tư vốn, sức lao động để tăng năng suất Đến ngày 13 tháng 01 năm 1981, Chỉ thị số 100/CT-TW được ban hành, xác nhận chủ trương khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động Tuy nhiên, do cơ chế quản lý tập trung và quan liêu, những đổi mới về kinh tế hợp tác xã không được thực thi hiệu quả, dẫn đến việc giảm vai trò của hợp tác xã trong nhiều lĩnh vực như thương mại và tiểu thủ công nghiệp Các hợp tác xã phải đối mặt với khó khăn do mất thị trường Liên Xô và Đông Âu, trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, dẫn đến tình trạng tan rã hoặc giải thể của nhiều hợp tác xã.
Giai đoạn 1986-1996 đánh dấu sự nhận thức mới về kinh tế hợp tác xã, khi Đại hội Đảng lần thứ VI xác định rõ đường lối đổi mới kinh tế và thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ Kinh tế tập thể, với hợp tác xã là nòng cốt, được nhìn nhận với tư duy mới, trong đó kinh tế hộ được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ Hợp tác xã bắt đầu có cấu trúc mới, bao gồm cả kinh tế tập thể và kinh tế hộ gia đình của các xã viên.
Mặc dù có các chính sách như Chỉ thị 100/CT-TW năm 1981, Nghị quyết 10/NQ-TW năm 1988, Luật Hợp tác xã năm 1996 và các nghị định của Chính phủ, số lượng hợp tác xã ở Việt Nam không những không tăng mà còn giảm mạnh Từ năm 1986 đến năm 1996, số lượng hợp tác xã giảm tới 75%, từ 73.470 xuống còn 18.607, tương ứng với mức giảm 25,3% Giai đoạn này được coi là thời điểm khó khăn nhất đối với hợp tác xã tại Việt Nam.
1.3.2.3 Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2003
Ngày 20 tháng 3 năm 1996 Quốc hội đã thông qua Luật Hợp tác xã và có hiệu luật từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 Năm 1996 Luật Hợp tác xã ra đời đánh dấu sự kiện pháp lý thuận lợi cho sự thay đổi của hợp tác xã và phát triển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Sau khi Luật Hợp tác xã năm
1996 ra đời thì có nhiều hợp tác xã kiểu củ chuyển sang hoạt động theo luật hợp tác xã
Pháp luật điều chỉnh về hợp tác xã
Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Nhà nước đã thể chế hóa chính sách đối với hợp tác xã thông qua Luật Hợp tác xã năm 1996 Để khuyến khích sự phát triển của hợp tác xã, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/NĐ-CP vào ngày 21 tháng 02 năm 1997 Tuy nhiên, do thiếu hướng dẫn thực hiện từ các Bộ chức năng, hầu hết các hợp tác xã vẫn chưa được hưởng các chính sách ưu đãi từ Nhà nước.
Ngày 18 tháng 3 năm 2002, hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ban hành Nghị quyết số 13 “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, Nghị quyết đã đề ra 6 nhóm cơ chế, chính sách đối với kinh tế tập thể, đó là: chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực, chính sách đất đai, chính sách tài chính - tín dụng, chính sách hỗ trợ về khoa học và công nghê, chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường, chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Luật Hợp tác xã năm 2003 đã thể chế hóa nội dung của Nghị quyết, ban hành các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã Những chính sách này tập trung vào đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực, quản lý đất đai, tài chính và tín dụng Đồng thời, luật cũng quy định các biện pháp hỗ trợ hợp tác xã trong việc áp dụng khoa học và công nghệ, tiếp thị, mở rộng thị trường, và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Ngoài ra, luật tạo điều kiện cho hợp tác xã tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội do nhà nước tổ chức.
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2005/NĐ-CP nhằm hỗ trợ và khuyến khích phát triển hợp tác xã Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ hợp tác xã còn được quy định trong nhiều văn bản pháp lý khác như Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi, Luật đất đai năm 2013, Luật Bảo hiểm xã hội, cùng với một số Nghị định hướng dẫn thi hành.
Luật Hợp tác xã số 23/2012/QD913, được Quốc hội khóa VIII thông qua vào ngày 20 tháng 11 năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2013, là sự tiếp nối của Luật Hợp tác xã năm 2003 Luật này khẳng định vai trò quan trọng của mô hình doanh nghiệp hợp tác xã trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cần thiết để phát triển và thúc đẩy hoạt động của các hợp tác xã.
Năm 2012 đánh dấu sự khởi đầu cho những thay đổi tích cực trong hoạt động của các hợp tác xã, khi Chính phủ ban hành Nghị định 193/2013/NĐ-CP vào ngày 21 tháng 11 Nghị định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương.
Năm 2013, Chính phủ ban hành quy định một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012, cùng với Thông tư số 03/2014/TT-BKHDT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký và báo cáo hoạt động của hợp tác xã Quyết định 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014 phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020, kết hợp với Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 24 tháng 07 năm 2015 nhằm đẩy mạnh việc thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012, đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của các hợp tác xã tại Việt Nam.
Hợp tác xã đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, mặc dù đã hình thành từ sớm, nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế qua các giai đoạn phát triển Luật Hợp tác xã năm 2012 cung cấp cái nhìn tổng quan về khái niệm, đặc điểm, vai trò, và lịch sử hình thành của hợp tác xã, khẳng định bản chất của nó là tổ chức kinh tế do các thành viên tự nguyện thành lập nhằm tối đa hóa lợi ích chung Các thành viên không chỉ góp vốn mà còn đồng sở hữu và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã Để hiểu rõ hơn về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012, bài luận văn sẽ phân tích sâu hơn ở chương 2.
QUY ĐỊNH VỀ VIỆC THÀNH LẬP, TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ
Quy định về thủ tục thành lập hợp tác xã
2.1.1 Điều kiện thành lập hợp tác xã
Hợp tác xã được hình thành từ ý tưởng của cá nhân, hộ gia đình hoặc pháp nhân, với sự tự nguyện của các sáng lập viên Những người này đóng vai trò quan trọng trong việc khởi xướng và chuẩn bị cho sự ra đời của hợp tác xã, bao gồm việc vận động tuyên truyền, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, dự thảo điều lệ, và tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã.
Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, để thành lập hợp tác xã, cần có ít nhất 07 thành viên tự nguyện, tạo thành một tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân Hợp tác xã hoạt động dựa trên nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ, nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và kinh doanh, đồng thời tạo việc làm để đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên Thành viên hợp tác xã là những cá nhân trực tiếp góp vốn, có nhu cầu hợp tác và đồng ý với điều lệ của hợp tác xã.
Thành viên của hợp tác xã bao gồm cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Ngoài ra, hộ gia đình có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật và các cơ quan tổ chức là pháp nhân Việt Nam cũng có thể tham gia Đối với hợp tác xã việc làm, thành viên chỉ được là cá nhân.
Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, để trở thành thành viên của hợp tác xã, cá nhân cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp lý và quy định trong điều lệ của hợp tác xã Cụ thể, cá nhân phải là công dân Việt Nam hoặc là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
Theo quy định, cá nhân từ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự, có nhu cầu hợp tác và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, cần có đơn tự nguyện gia nhập và đồng ý với điều lệ của hợp tác xã Họ cũng phải góp vốn theo quy định của pháp luật và điều lệ hợp tác xã, cùng với các điều kiện khác theo quy định của điều lệ.
22 Điều 3, Luật Hợp tác xã năm 2012
23 Điều 13, Luật Hợp tác xã năm 2012
Theo Điều 13 của Luật Hợp tác xã năm 2012, điều kiện để cá nhân là người Việt Nam trở thành thành viên hợp tác xã được quy định rõ ràng và linh hoạt Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho những cá nhân có nhu cầu và nguyện vọng tham gia vào tổ chức hợp tác xã, đồng thời đảm bảo rằng các thành viên không vi phạm pháp luật và các quy định liên quan khác.
Bộ luật dân sự quy định về năng lực hành vi, năng lực dân sự và độ tuổi Đặc biệt, đối với công chức Nhà nước, luật này chỉ cho phép họ tham gia hợp tác xã với tư cách thành viên, không được tham gia vào việc quản lý hoặc điều hành hợp tác xã, theo quy định của Luật Cán bộ, công chức Điều này có nghĩa là cán bộ, công chức, viên chức chỉ có quyền góp vốn mà không có quyền điều hành hay quản lý trong trường hợp này.
Luật Hợp tác xã hiện hành quy định rằng chỉ cá nhân mới được tham gia vào hợp tác xã tạo việc làm, nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của các thành viên Mức độ sử dụng sản phẩm và dịch vụ trong hợp tác xã này được xác định dựa trên tỷ lệ tiền lương của từng thành viên Đối với người nước ngoài, luật cho phép họ trở thành thành viên của hợp tác xã nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Hợp tác xã năm 2012 Điều này thể hiện sự bình đẳng trong giao dịch dân sự và tạo điều kiện cho tất cả cá nhân, bao gồm cả người nước ngoài, có đủ năng lực hành vi dân sự tham gia vào hợp tác xã Để trở thành thành viên, người nước ngoài cần cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên và đáp ứng các quy định pháp luật liên quan đến lao động Nếu hợp tác xã có ngành nghề kinh doanh hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn của người nước ngoài, việc tham gia của họ cũng phải tuân thủ các quy định này.
25 Điểm a, khoản 1, điều 13, Luật Hợp tác xã năm 2012
26 Khoản 7, Điều 4 Luật Hợp tác xã năm 2012
Điểm a, Khoản 1, Điều 13 của Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định về các điều kiện liên quan đến ngành nghề trong lĩnh vực đầu tư, bên cạnh đó còn phải tuân thủ các điều kiện khác được xác định bởi điều lệ của hợp tác xã.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khung pháp luật về hợp tác xã cần được điều chỉnh để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và thực tiễn trong nước Luật Hợp tác xã năm 2012 đã tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào mô hình hợp tác xã tại Việt Nam, khẳng định cam kết của nước ta trong việc thu hút đầu tư và đảm bảo công bằng giữa các thành viên Mặc dù các quy định pháp luật ngày càng thông thoáng, tạo điều kiện cho cá nhân nước ngoài tham gia vào nền kinh tế, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ cho phép họ thành lập hợp tác xã để tận dụng lợi thế và chính sách ưu đãi, gây thiệt hại cho các chủ thể trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Đối với pháp nhân Việt Nam, theo quy định, họ có quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật và được điều chỉnh bởi Luật Hợp tác xã năm 2012, với điều kiện phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về tổ chức và trách nhiệm tài sản.
Theo Điều 13 của Luật Hợp tác xã năm 2012, chỉ có các cơ quan, tổ chức là pháp nhân Việt Nam được phép tham gia hợp tác xã, không bao gồm pháp nhân nước ngoài Trong bối cảnh hiện nay, việc cho phép pháp nhân Việt Nam tham gia vào hợp tác xã là một bước tiến quan trọng, giúp tăng cường năng lực sản xuất và kinh doanh, đặc biệt cho các hợp tác xã có nhiều thành viên là cá nhân và hộ gia đình với quy mô nhỏ Quy định này nhấn mạnh việc ưu tiên cho pháp nhân Việt Nam trong hoạt động hợp tác xã.
Luật Hợp tác xã năm 2012 kế thừa những quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003, cho phép các pháp nhân tham gia vào nhiều hợp tác xã miễn là điều lệ của các hợp tác xã đó không có quy định khác.
Theo Khoản 1, Điều 13 của Luật Hợp tác xã năm 2012 và Điều 4, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân có quyền tham gia nhiều hợp tác xã, đồng thời hợp tác xã cũng có thể là thành viên của nhiều liên hiệp hợp tác xã, trừ khi điều lệ quy định khác Quy định này mở rộng quyền tham gia của các pháp nhân trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, cho phép họ tham gia vào nhiều hợp tác xã cùng lúc Mặc dù luật không nêu rõ việc pháp nhân có thể tham gia hợp tác xã liên quan gián tiếp hay trực tiếp đến ngành nghề, nhưng theo phương pháp suy luận, pháp nhân sẽ tham gia vào các hợp tác xã có liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của mình.
Pháp nhân là một chủ thể phức tạp trong hợp tác xã, do đó cần có những quy định cụ thể hơn cho loại chủ thể này, tương tự như các quy định áp dụng cho cá nhân là người nước ngoài.
Theo đó, luật giao quyền quy định cụ thể về điều kiện đối với pháp nhân cho cơ quan hành pháp theo quy định.
Ngày 21 tháng 11 năm 2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 193/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã, theo đó nghị định quy định rất cụ thể về điều kiện đối với thành viên hợp tác xã là pháp nhân Việt Nam Cụ thể, theo điều 3 Nghị số 193/2013/NĐ-CP quy định: Pháp nhân Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự có nhu cầu hợp tác với các thành viên khác và nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã; pháp nhân Việt Nam khi tham gia hợp tác xã phải có đơn tự nguyện gia nhập và tán thành điều lệ của hợp tác xã Người ký đơn phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó ủy quyền của pháp nhân đó; người đại diện của pháp nhân tại hợp tác xã là người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền) của pháp nhân đó; góp vốn theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật hợp tác xã và điều lệ hợp tác xã; các điều kiện khác do điều lệ hợp tác xã quy định
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
Cơ cấu tổ chức của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012 bao gồm các thành phần chính như: Đại hội thành viên, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) và Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên.
2.2.1 Đại hội thành viên hợp tác xã
33 Điều 4, Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ kế hoạch đầu tư
34 Khoản 3, Điều 14 nghị định 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013
Điều 29 và Điều 30 của Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định về cơ cấu tổ chức của Hợp tác xã, có nhiều điểm khác biệt so với Luật Hợp tác xã năm 2003 Một trong những thay đổi đáng chú ý là tên gọi của đại hội xã viên được thay thế bằng đại hội thành viên Ngoài ra, đại hội thường kỳ cũng được đổi thành đại hội thường niên, đánh dấu một điểm mới trong Luật Hợp tác xã năm 2012.
Đại hội thành viên là cơ quan quyết định cao nhất của hợp tác xã, nơi tất cả các thành viên có quyền biểu quyết ngang nhau Tại đại hội, các thành viên bầu chọn hội đồng quản trị và ban kiểm soát, đồng thời quyết định các tiêu chuẩn tham gia và phương thức góp vốn Đại hội cũng thảo luận về tình hình sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của từng thành viên trong quá trình phát triển.
Khi hợp tác xã có nhiều thành viên, có thể tổ chức đại hội đại biểu thành viên, và việc bầu đại biểu này được quy định bởi điều lệ của hợp tác xã Đại hội đại biểu thành viên và đại hội toàn thể thành viên (gọi chung là đại hội thành viên) có quyền và nhiệm vụ tương đương nhau.
- Cách thức tiến hành họp đại hội thành viên:
Khi hợp tác xã có trên 100 thành viên, có thể tổ chức Đại hội đại biểu thành viên; nếu có 100 thành viên trở xuống, tổ chức đại hội toàn thể Đối với hợp tác xã từ 100 đến 300 thành viên, tỷ lệ đại biểu tham gia Đại hội phải đạt tối thiểu 30% tổng số thành viên Đối với hợp tác xã từ 300 đến 1000 thành viên, tỷ lệ tham dự không thấp hơn 20% tổng số thành viên và không dưới 200 đại biểu cho hợp tác xã có trên 1000 thành viên.
- Đại hội thành viên gồm có:
Đại hội thường niên là cuộc họp quan trọng của các thành viên, diễn ra trong vòng 03 tháng sau khi kết thúc năm tài chính, do Hội đồng quản trị tổ chức.
Đại hội thành viên bất thường được triệu tập khi có sự đồng thuận của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, kiểm soát viên hoặc thành viên đại diện của ít nhất một phần ba tổng số thành viên.
Hội đồng quản trị có thể triệu tập đại hội thành viên bất thường trong các trường hợp như: giải quyết các vấn đề vượt quá thẩm quyền của Hội đồng quản trị, không tổ chức được cuộc họp định kỳ sau hai lần triệu tập, theo đề nghị của ban kiểm soát viên, hoặc theo đề nghị của ít nhất một phần ba tổng số thành viên trong hợp tác xã.
36 Khoản 2, 3,4, 5, 6, Điều 31 Luật hợp tác xã năm 2012
Trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được đề nghị từ Ban kiểm soát hoặc từ ít nhất một phần ba tổng số thành viên của hợp tác xã, Hội đồng quản trị có trách nhiệm triệu tập đại hội thành viên bất thường.
Nếu Hội đồng quản trị không triệu tập đại hội thành viên trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận được đề nghị của Ban kiểm soát hoặc ít nhất một phần ba tổng số thành viên, hoặc không tổ chức đại hội thường niên trong vòng 3 tháng sau khi kết thúc năm tài chính, thì Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên có quyền triệu tập đại hội thành viên Người triệu tập sẽ chủ trì đại hội, trừ khi có quyết định bầu chủ trì khác từ đại hội Đại hội thành viên chỉ được tiến hành khi có ít nhất 75% tổng số thành viên hoặc đại biểu tham dự; nếu không đủ số lượng, đại hội sẽ bị hoãn lại.
Nếu cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện, cuộc họp lần thứ hai sẽ được triệu tập trong vòng 30 ngày từ ngày dự kiến họp lần thứ nhất Cuộc họp Đại hội thành viên lần thứ hai chỉ được tiến hành khi có ít nhất 50% tổng số thành viên hoặc đại diện thành viên tham dự.
Đại hội thành viên của hợp tác xã có quyền quyết định nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm thông qua báo cáo hoạt động, phê duyệt báo cáo tài chính, và phương án phân phối thu nhập Các thành viên cũng có thể thảo luận về kế hoạch sản xuất, đầu tư, và việc thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện Luật Hợp tác xã năm 2012 nhấn mạnh vai trò của đại hội thành viên trong việc thể hiện quyền lợi của các thành viên thông qua thảo luận và biểu quyết Mỗi thành viên đều có quyền bầu cử và đóng góp ý kiến mà không bị ảnh hưởng bởi số vốn góp hay chức vụ trong hợp tác xã, với mỗi thành viên chỉ có một phiếu biểu quyết.
- Chuẩn bị đại hội thành viên: Theo Luật Hợp tác xã năm 2012 thì công tác “chuẩn bị đại hội thành viên” gồm những nội dung sau:
Người triệu tập đại hội thành viên cần lập danh sách thành viên và đại biểu có quyền tham dự, đồng thời chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu và dự thảo Nghị quyết Cần xác định thời gian, địa điểm và gửi giấy mời cho các thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc đại biểu ít nhất 7 ngày trước ngày khai mạc đại hội, kèm theo chương trình và tài liệu liên quan.
Nội dung chương trình đại hội có thể được điều chỉnh nếu ít nhất một phần ba tổng số thành viên, hợp tác xã viên hoặc đại biểu thành viên gửi kiến nghị bằng văn bản Kiến nghị cần phải được gửi đến người triệu tập họp ít nhất 3 ngày làm việc trước ngày khai mạc và phải ghi rõ tên của thành viên hoặc đại biểu cùng nội dung kiến nghị.
Người triệu tập đại hội thành viên chỉ được phép từ chối kiến nghị trong một số trường hợp nhất định, bao gồm: kiến nghị gửi không đúng thời hạn hoặc không phù hợp với nội dung của đại hội; nội dung kiến nghị không thuộc thẩm quyền của đại hội thành viên; và các trường hợp khác theo quy định trong điều lệ.