1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Vai trò của ban an ninh trung ương cục miền nam từ năm 1960 đến năm 1975

215 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vai trò của Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam từ năm 1960 đến năm 1975
Trường học Học viện Khoa học Xã hội
Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 215
Dung lượng 2,85 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 (15)
  • Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BAN AN (31)
  • Chương 4: BAN AN NINH TRUNG ƯƠNG CỤC TRỰC TIẾP CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC AN NINH MIỀN NAM (1960-1975) 86 (66)
  • Chương 5: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 127 (93)

Nội dung

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8

1 1 Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Đến nay, đã có hàng nghìn cuốn sách và công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam Dưới đây là một số công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án tiến sĩ.

Cuốn sách “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Thắng lợi và bài học” do Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh thuộc Bộ Chính trị biên soạn, được xuất bản năm 1996, tổng hợp sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Nội dung sách chỉ ra nguồn gốc và nguyên nhân chiến tranh, cùng với thắng lợi của quân đội nhân dân Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau Cuốn sách khẳng định những ưu điểm và chỉ ra các khuyết điểm trong lãnh đạo chiến tranh của Đảng Đây là một công trình tổng kết một cuộc chiến tranh quy mô kéo dài 21 năm, với nhiều tình huống phức tạp trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, mang ý nghĩa vượt ra ngoài biên giới quốc gia Nó nêu bật những thành tựu và bài học kinh nghiệm quý giá, trong đó nổi bật là việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cũng như bài học về dựa vào dân, coi dân là gốc rễ sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Cuốn sách“Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học” của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (Nhà xuất bản

Cuốn sách "Chính trị quốc gia" (Hà Nội, năm 2000) tổng kết sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh cách mạng kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975, bao gồm hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Tác phẩm khắc họa sinh động và chân thực về cuộc chiến tranh, đồng thời rút ra sáu bài học lớn từ những trận chiến khốc liệt nhưng hào hùng, thể hiện sự hy sinh to lớn của nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam Những bài học này đã trở thành kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ tương lai.

Cuốn sách “Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1954-1975, Tập II” do Hội đồng chỉ đạo biên soạn, với Trần Bạch Đằng làm chủ biên, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị quốc gia vào năm 2012, ghi lại những hoạt động và chiến công lừng lẫy của vùng đất Nam Bộ và những con người kiên cường trong cuộc kháng chiến.

Tổ quốc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ oanh liệt, hào hùng với những thắng lợi vẻ vang

Bộ sách “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975” do Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam chủ biên, xuất bản năm 2013, gồm 09 tập, nghiên cứu sâu về cuộc chiến tranh giải phóng của quân và dân Việt Nam trong 21 năm chống Mỹ Tác phẩm tập trung vào các vấn đề cơ bản như đường lối, phương pháp và chiến lược chiến tranh nhân dân, cũng như tổ chức hậu phương và lực lượng vũ trang Qua đó, sách khẳng định tính đúng đắn của đường lối Đảng trong việc đánh giá tình hình quốc tế và trong nước, giữ vững độc lập tự chủ, xác định nhiệm vụ cho hai miền Nam - Bắc và nhiệm vụ chung của cả nước Đồng thời, sách cũng nêu rõ việc tổ chức toàn quốc đánh địch trên ba vùng chiến lược, bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, chi viện cho miền Nam, và thể hiện nghệ thuật tiến lên giành thắng lợi cuối cùng vào thời điểm có lợi nhất cho cách mạng Việt Nam.

Luận án Tiến sĩ lịch sử “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn 1969-1972 - chống phá bình định nông thôn ở Nam Bộ” của Hà Minh Hồng

Bài viết này phân tích diễn biến cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Nam Bộ từ năm 1969 đến 1972, tập trung vào vai trò và đặc điểm của các trận tuyến chống phá bình định Qua việc xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của cuộc kháng chiến, tác giả rút ra những bài học lịch sử quan trọng nhằm phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hòa bình hiện nay.

Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng “Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá

“quốc sách” ấp chiến lược của Mỹ-ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961-1965)” của

Luận án của Trần Thị Thu Hương tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2000) đã phân tích sâu sắc cuộc đấu tranh chống lại “quốc sách” ấp chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam Bằng cách tiếp cận từ góc độ Lịch sử Đảng, tác giả làm rõ tính chất gay go và giằng co của cuộc chiến này, đồng thời khái quát và phân tích các chủ trương, biện pháp, và kế hoạch của các cấp bộ Đảng Luận án cũng nhấn mạnh tính độc lập và sáng tạo của Trung ương Đảng, TƯC, các Khu ủy, và Tỉnh ủy trong việc đề ra và thực hiện các biện pháp đấu tranh Cuối cùng, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá về lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến chống phá “quốc sách” ấp chiến lược của kẻ thù.

Luận án Tiến sĩ của Trần Như Cương tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng trong phong trào đấu tranh chống lại chương trình bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn tại miền Đông Nam Bộ từ năm 1961 đến 1965 Nghiên cứu này không chỉ làm rõ những chiến lược và phương thức đấu tranh của Đảng mà còn phân tích tác động của phong trào đến tình hình chính trị và xã hội trong khu vực.

Tác giả Minh (bảo vệ năm 2003) đã phân tích chi tiết vị trí chiến lược của miền Đông Nam Bộ và những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn trong chương trình bình định Qua đó, bài viết làm nổi bật lịch sử đấu tranh kiên cường của quân dân miền Đông Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện qua việc xây dựng và phát triển lực lượng cũng như phong trào cách mạng Từ những kinh nghiệm rút ra, Đảng đã có những chỉ đạo quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại chương trình bình định của địch tại khu vực này.

Luận án Tiến sĩ của Phí Văn Thức tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2006, tập trung vào vai trò chiến lược của đô thị miền Nam trong giai đoạn 1961-1968 Tác giả phân tích âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đồng thời làm rõ sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng đường lối chiến tranh cách mạng Luận án cũng nhấn mạnh việc củng cố lực lượng chính trị tại các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và tái hiện phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân nhằm chống lại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.

Trong giai đoạn từ năm 1961 đến 1968, chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ đã tạo ra nhiều thách thức cho phong trào đấu tranh chính trị tại các đô thị lớn ở miền Nam Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn đã giúp các cấp ủy Đảng vận dụng sáng tạo và cụ thể hóa đường lối của Đảng, từ đó lãnh đạo hiệu quả phong trào đấu tranh Sự đóng góp của các cấp ủy Đảng trong việc định hướng và hỗ trợ phong trào chính trị đã góp phần quan trọng vào cuộc chiến chống lại sự can thiệp của Mỹ.

Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Căn cứ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở cực

Luận án "Nam Trung Bộ (1954-1975)" của Chu Đình Lộc, được bảo vệ năm 2011 tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, đã khái quát và đánh giá một cách toàn diện quá trình hình thành, xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ kháng chiến chống Mỹ ở cực Nam Trung Bộ Tác phẩm không chỉ nêu bật những đặc điểm của căn cứ kháng chiến mà còn rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá, góp phần vào việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và khu vực phòng thủ cấp tỉnh tại cực Nam Trung Bộ trong bối cảnh hiện nay.

Các công trình nghiên cứu về Công an nhân dân và An ninh miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đóng góp quan trọng vào Lịch sử CAND Đến nay, đã có nhiều đề tài và ấn phẩm được xuất bản, trong đó nổi bật là những công trình tiêu biểu phản ánh sự phát triển và vai trò của lực lượng Công an trong giai đoạn lịch sử này.

Cuốn sách “An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ 1954-1975”, Thiếu tướng Ngô Quang Nghĩa chủ biên (Nhà xuất bản CAND, thành phố Hồ Chí Minh, năm

Cuốn sách năm 1995 nêu bật vai trò quan trọng của lực lượng ANMN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, phản ánh quá trình tồn tại và phát triển của lực lượng này từ 1954-1975 Nội dung chủ yếu tập trung vào chức năng, nhiệm vụ của ANMN trong việc theo dõi tình hình ta và địch, bảo vệ phong trào quần chúng, và triển khai các hoạt động nghiệp vụ tại ba vùng chiến lược Lực lượng ANMN đã tấn công các đối tượng chỉ định, bảo vệ lực lượng cách mạng và căn cứ địa, đồng thời góp phần xây dựng cơ sở cách mạng ở những vùng khó khăn Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy, ANMN luôn giữ vững chính trị, sắc bén về nghiệp vụ, và có sự đoàn kết chặt chẽ với các lực lượng cách mạng khác Hệ thống tổ chức từ An ninh Miền đến an ninh cơ sở được xây dựng vững mạnh, với đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trung thành, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

Cuốn sách “Lịch sử Công an nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Tập II

(1954-1975)” do Đại tá Trần Cường chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Cuốn sách năm 1997 đã ghi lại quá trình phát triển của lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định (An ninh T4) trong thời kỳ chống Mỹ, nhấn mạnh những bài học quý giá từ các nhiệm vụ cụ thể Những bài học này bao gồm việc quán triệt kịp thời chỉ đạo từ TƯC, BANTƯC và Khu ủy, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định trong công tác chiến đấu và xây dựng lực lượng; phát huy tinh thần tự lực tự cường, mưu trí sáng tạo trong việc tấn công địch và đảm bảo giao liên an toàn; bám sát dân, xây dựng căn cứ lòng dân vững chắc làm chỗ dựa cho các hoạt động tấn công, đồng thời bảo vệ căn cứ địa cách mạng và lãnh đạo, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang để tiêu hao sinh lực địch, góp phần vào sự nghiệp cách mạng.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BAN AN

TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1975

2 1 Sự cần thiết thành lập Ban An ninh Trung ƣơng Cục miền Nam

2 1 1 Đặc điểm cách mạng Việt Nam sau năm 1954

Cuộc kháng chiến kéo dài 09 năm của nhân dân Việt Nam, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã tạo áp lực buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định.

Vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, hội nghị Genève đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam với nhiều điều kiện thuận lợi, nhưng cũng đối mặt với những khó khăn phức tạp.

Theo Hiệp định, Việt Nam tạm thời chia thành hai miền với chế độ chính trị khác nhau Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra hoàn toàn giải phóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội, tập trung vào hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế Mục tiêu là bảo đảm đời sống nhân dân, củng cố miền Bắc thành hậu phương chiến lược cho cả nước, làm nền tảng cho cuộc đấu tranh vì một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Sau khi hòa bình được lập lại, tình hình an ninh trật tự ở miền Bắc vẫn phức tạp do sự phá hoại của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các lực lượng phản động trong nước Trước, trong và sau ngày đình chiến, kẻ thù đã tiến hành các chiến dịch dụ dỗ và cưỡng ép hàng trăm nghìn đồng bào, chủ yếu là người theo đạo Thiên Chúa, di cư vào Nam Chúng đã cài cắm nhiều ổ nhóm gián điệp và tung ra các toán biệt kích để phá hoại các cơ sở kinh tế và mục tiêu quân sự, quốc phòng - an ninh Các đảng phái phản động cũng đã kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương và phát tán tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng và Chính phủ Việt Nam nhằm gây hoang mang trong nhân dân Tại biên giới phía Bắc, hàng nghìn thổ phỉ được các thế lực thù địch Pháp, Mỹ tiếp tay hoạt động phá hoại và chống phá cách mạng.

Miền Nam Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào, tạm thời nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Ngô Đình Diệm và sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ Sự chuyển biến này đã khiến cách mạng miền Nam phải đối mặt với tình thế hiểm nghèo, khi phần lớn cán bộ và bộ đội phải tập kết ra miền Bắc Hoạt động cách mạng buộc phải chuyển sang phương thức hợp pháp và bất hợp pháp, vừa công khai vừa bí mật, tạo ra một đảo lộn lớn trong phong trào Thay đổi này tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm của đồng bào miền Nam và đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ mới khó khăn và phức tạp, với nhiều thách thức nghiêm trọng.

Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới với hai chiến lược đồng thời: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu thống nhất đất nước Mặc dù còn nhiều thách thức, miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, trở thành hậu phương vững mạnh với quân đội và chính quyền kiên cố, cùng mặt trận đoàn kết rộng rãi Nhân dân miền Nam có nhận thức chính trị cao và tinh thần cách mạng mạnh mẽ, góp phần vào thành công của cuộc cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp Đảng Cộng sản Việt Nam có lực lượng hùng hậu với hơn một triệu đảng viên và sự ủng hộ từ nhân dân tiến bộ toàn thế giới, tạo nên sức mạnh to lớn để vượt qua mọi kẻ thù.

Đế quốc Mỹ từ lâu đã âm thầm thực hiện kế hoạch thay thế thực dân Pháp nhằm độc chiếm Đông Dương Sự rút lui của quân Pháp khỏi khu vực này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Mỹ tiến hành xâm lược miền Nam Việt Nam, biến nơi đây thành một thuộc địa kiểu mới của Mỹ tại Đông Nam Á.

Vào ngày 13-6-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về miền Nam để thành lập chính phủ mới Đến ngày 8-8-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, do Tổng thống Aixenhao lãnh đạo, đã chính thức quyết định thực hiện âm mưu thôn tính miền Nam Việt Nam Dưới danh nghĩa viện trợ quân sự và văn hóa, Mỹ đã đưa hàng trăm chuyên viên, cố vấn quân sự và gián điệp vào miền Nam Âm mưu chủ yếu của Mỹ là tiêu diệt phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam, chia cắt đất nước, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, đồng thời thiết lập một phòng tuyến ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa xã hội xuống Đông Nam Á, sử dụng miền Nam làm căn cứ tấn công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới trong khu vực.

Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành cải cách các cơ quan đàn áp cũ của Pháp, xây dựng một hệ thống chính quyền mới và thành lập lực lượng quân đội gồm 10 sư đoàn bộ binh cùng hàng chục trung đoàn độc lập Bộ Tổng tham mưu hoàn toàn thân Mỹ được thiết lập, với các cố vấn Mỹ được phân bổ tại Phủ Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu, Nha Cảnh sát, các bộ thuộc chính quyền Sài Gòn, cũng như trong các đơn vị quân đội và hệ thống chính quyền từ trung ương đến cấp cơ sở.

Hệ thống cơ quan tình báo Mỹ và chính quyền Sài Gòn được tổ chức chặt chẽ với nhiều cơ quan công khai và bí mật Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) là đơn vị chỉ huy chính cho mọi hoạt động tình báo tại Việt Nam, trong khi Cục tình báo Bộ Quốc phòng Mỹ (DIA) phụ trách các hoạt động tình báo quân sự ở miền Nam Phái đoàn Quân sự Mỹ tại Sài Gòn (SMM) có nhiệm vụ tư vấn và huấn luyện cho quân đội, an ninh và cảnh sát của chính quyền Sài Gòn Ngoài ra, Phái đoàn cố vấn (ATOM) do CIA chỉ đạo chịu trách nhiệm về viện trợ cho quân đội và an ninh của chính quyền này, và Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MAAG-VN) theo dõi tình hình chiến sự tại miền Nam.

Mỹ đã thực hiện nhiệm vụ viện trợ và huấn luyện lực lượng vũ trang chính quyền Sài Gòn, chỉ đạo hoạt động tình báo lục - hải - không quân nhằm đàn áp phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam Từ tháng 6-1954, đại tá tình báo Lansdale được phái đến Sài Gòn để tổ chức mạng lưới tình báo từ trung ương đến địa phương, bao gồm Phủ Đặc uỷ Trung ƣơng tình báo do Ngô Đình Nhu phụ trách và các tổ chức tình báo trá hình khác Đồng thời, Mỹ cũng tăng cường xây dựng bộ máy đàn áp phong trào yêu nước, tổ chức mạng lưới kiểm soát nhân dân và tiêu diệt các cơ sở cách mạng đến tận cấp xã, phường.

Vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý nhằm phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Ngày 26 tháng 10 cùng năm, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa Đến ngày 4 tháng 3 năm 1956, ông tổ chức một cuộc bầu cử gian lận, thành lập quốc hội bù nhìn của Việt Nam Cộng hòa, đồng thời phân chia lại các đơn vị hành chính, chia chiến trường từ 3 quân khu thành 6 quân khu, và thiết lập các tổ chức như Tỉnh đoàn bảo an, Tổng đoàn dân vệ cùng các đơn vị tình báo, biệt kích.

Liên đội quan sát, Nha liên lạc, Thanh niên cộng hòa và Phụ nữ liên đới được thành lập nhằm mục đích tập hợp lực lượng quần chúng Các tổ chức này đã thực hiện việc mua chuộc một số chức sắc cao cấp của Cao Đài Tây Ninh và ký kết "Thỏa ước Bính Thân" với Cao Đài.

Sau khi xây dựng một bộ máy đàn áp mạnh mẽ bao gồm công an, cảnh sát và quân đội, Mỹ - Diệm đã triển khai kế hoạch thanh trừng các giáo phái Các chiến dịch như Hoàng Diệu (9-10-1955), Đinh Tiên Hoàng 2 (9-12-1956), và Nguyễn Huệ (1-5-1956) được thực hiện để truy quét quân Bình Xuyên và tiêu diệt quân đội Hòa Hảo, đồng thời thanh toán tướng Trịnh Minh Thế Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc và gây chia rẽ để lôi kéo các tướng lĩnh Cao Đài và Hòa Hảo đầu hàng Ngày 13-4-1956, tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) của Hòa Hảo cũng bị bắt, dẫn đến việc lực lượng vũ trang Hòa Hảo ở Đồng Tháp Mười và Cao Đài Tây Ninh bị chính quyền Sài Gòn tiêu diệt Tại các tỉnh thuộc khu V, lực lượng Đại Việt và Quốc dân đảng cũng lần lượt bị tiêu diệt bằng vũ lực.

Từ tháng 5-1955 đến đầu năm 1956, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai chiến dịch “tố cộng giai đoạn I” với khẩu hiệu “tiêu diệt cộng sản nằm vùng”, dẫn đến nhiều vụ thảm sát đẫm máu tại các địa điểm như đập Vĩnh Trinh (Quảng Nam), Mỏ Cày (Bến Tre) và Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định) Chỉ trong khoảng thời gian từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, có 93.362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước tại các tỉnh Nam Bộ bị giết hại hoặc giam cầm.

2 1 2 Yêu cầu khách quan thành lập Ban An ninh Trung ƣơng Cục miền Nam

Ngày đăng: 21/08/2022, 08:52

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w