PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán được coi là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, các chỉ số chứng khoán phản ánh sức khỏe, triển vọng của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Thị trường chứng khoán thực hiện chức năng là một kênh dẫn vốn quan trọng, và cũng là kênh đầu tư tiềm năng của công chúng. Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt khi nào họ muốn và khả năng thanh khoản chính là một trong những đặc tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán so với các kênh đầu tư khác. Nguyên tắc khi một nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán là mua được những chứng khoán mang lại lợi nhuận cao. Cụ thể, họ mua những cổ phiếu được định giá thấp và bán những cổ phiếu được định giá cao. Chu kỳ không hồi kết này diễn ra liên tục bởi vì những nhà đầu tư khác nhau thay đổi vị thế để tối ưu hóa danh mục đầu tư của họ. Do đó, sự dễ dàng trong giao dịch và giao dịch cổ phiếu với chi phí thấp, hay còn gọi là tính thanh khoản của cổ phiếu sẽ luôn được nhà đầu tư ưu tiên cân nhắc. Vì vậy, khi doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, thanh khoản cũng chính là mục tiêu quan trọng nhất, bởi thanh khoản tốt đồng nghĩa với khả năng thu hút được nhà đầu tư quan tâm bỏ tiền vào các cơ hội đầu tư để kiếm lời trên thị trường, và nhờ đó, doanh nghiệp mới có khả năng huy động vốn khi cần thiết. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng lên trên thế giới và Việt Nam khiến hoạt động kinh doanh và đời sống xã hội ở nhiều nơi ngưng trệ, nhiều doanh nghiệp cắt giảm nhân công, thu hẹp hoạt động kinh doanh và đầu tư. Nhìn ở góc độ tiêu cực thì dịch bệnh và các lệnh phong tỏa, giãn cách làm người dân cả nước phải ở nhà nhiều hơn, tuy nhiên, đó lại là thuận lợi vì họ có nhiều thời gian rảnh rỗi muốn tìm kiếm thêm thu nhập thì khó tìm được kênh đầu tư nào tiện lợi hơn chứng khoán. Chỉ ngồi ở nhà là tìm hiểu được hầu hết thông tin về các cổ phiếu mà mình quan tâm và có thể đặt lệnh online. Đây được gọi là hiệu ứng TINA (There Is No Alternative - không có lựa chọn thay thế tốt hơn). Hiệu ứng TINA xuất hiện khiến thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự bùng nổ với sự tham gia của lớp nhà đầu tư mới F0, khối lượng và giá trị giao dịch của nhà đầu tư cá nhân xoay quanh mức 86% vào nửa cuối năm 2020. Tổng khối lượng cổ phiếu niêm yết đạt gần 105,8 tỷ cổ phiếu. Giá trị vốn hóa niêm yết đạt hơn 4,92 triệu tỉ đồng, tương đương 92% giá trị vốn hóa toàn thị trường cổ phiếu niêm yết, khoảng 78% GDP năm 2020 (GDP theo giá hiện hành). Tuy nhiên, với những diễn biến phức tạp, khó lường của đại dịch Covid -19, nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán (TTCK) thế giới và trong nước đều có thể xuất hiện những biến động, việc nhanh chóng tham gia và bán cổ phiếu để thu lời trong ngắn hạn nhằm giảm thiểu rủi ro trước diễn biến thị trường là tâm lý chung của nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là thế hệ F0 của thị trường. Do đó, ở góc độ nhà đầu tư hay doanh nghiệp, yêu cầu về nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết là cấp thiết hơn bao giờ hết, với mục tiêu có thể thu hút tối đa dòng vốn mới chảy vào thị trường chứng khoán. Trên thực tế, trong giai đoạn thị trường bùng nổ, vẫn có không ít doanh nghiệp niêm yết không tận dụng được dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán, cổ phiếu kém thanh khoản, không thu hút đầu tư. Trong kỳ xem xét bộ chỉ số VNX-Index tháng 4/2020, có tới 263 cổ phiếu có thanh khoản quá kém, bị loại ra khỏi rổ tính chỉ số chung đo lường biến động của 2 sàn niêm yết (Tường Vi, 2020). Dòng tiền đã thực sự lãng quên vào một số lớn cổ phiếu niêm yết, đây là một câu hỏi mà doanh nghiệp nói riêng, thị trường nói chung cần trăn trở. Do đó, việc lưu tâm một cách đúng mực đối với vấn đề quản lý và nghiên cứu về tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết là thật sự cần thiết, không chỉ trong giai đoạn hiện nay mà còn trong tương lai. Trước sự cấp thiết trong nghiên cứu về tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các đề tài nghiên cứu tính đến thời điểm hiện nay vẫn còn tồn tại những khoảng trống nghiên cứu. Thứ nhất, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết nói chung và các nhân tố tác động đến tính thanh khoản nói riêng tại Việt Nam; trong khi đó trên thế giới, việc nghiên cứu về các nhân tố này đã được thực hiện khá đa dạng. Thứ hai, trong số ít các nghiên cứu tại Việt Nam về tính thanh khoản thì chủ yếu xoay quanh việc đo lường thanh khoản hoặc phân tích tác động của yếu tố bên ngoài doanh nghiệp (khủng hoảng kinh tế thế giới), hoặc tác động của quản trị doanh nghiệp hay hoạt động công bố thông tin mà chưa tập trung phân tích các nhân tố tài chính doanh nghiệp tác động đến thanh khoản của cổ phiếu. Trong khi đó, các chỉ số tài chính doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và xu hướng tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp. Gallizo và Salvador (2006) nhận thấy rằng các yếu tố tài chính doanh nghiệp là yếu tố quan trọng quyết định giá trị thị trường của công ty. Tất cả các bên liên quan (cổ đông hay bên cho vay) đều xem xét những yếu tố này khi họ ra quyết định đầu tư. Chính vì vậy, phân tích nhân tố là cơ sở quan trọng trong việc nâng cao thanh khoản cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, có thể đóng vai trò như một chỉ báo về đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và cơ quan quản lý, từ đó, giúp các doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động của mình sao cho phù hợp với chiến lược huy động vốn từ thị trường chứng khoán để có được có cấu vốn tối ưu trong từng thời kì. Thứ ba, quy mô nghiên cứu về thanh khoản của cổ phiếu còn hạn chế, mẫu nghiên cứu thường chỉ tập trung vào các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX) và khoảng thời gian nghiên cứu chưa bao gồm khoảng thời gian mà thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự bùng nổ, thu hút được phần lớn dòng tiền trong nền kinh tế, cụ thể là từ năm 2017 đến nay. Bởi sự cần thiết của đề tài nghiên cứu trong thời điểm hiện tại, với mong muốn được đóng góp những kết quả nghiên cứu tới những nhà quản trị doanh nghiệp và cơ quan quản lý thị trường chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán, từ đó tăng tính hiệu quả của thị trường, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.” Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm ra được các nhân tố tác động đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ đó, tạo lập được cơ sở để có thể đưa ra những giải pháp cho nhà quản trị doanh nghiệp niêm yết và kiến nghị đối với các cơ quan quản lý. Với mục tiêu chung và những phân tích được nêu ở trên, mục tiêu cụ thể của đề tài tập trung vào: Làm rõ được lý luận về tính thanh khoản của cổ phiếu và các nhóm nhân tố tác động đến tính thanh khoản của cổ phiếu. Phân tích thực trạng thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Xây dựng mô hình lượng hóa tác động của các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp cụ thể được lựa chọn từ từng nhóm nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp cho nhà quản trị doanh nghiệp và kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhằm nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết. Câu hỏi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu này phải trả lời được các câu hỏi sau: Những nhân tố nào tác động đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam? Mức độ tác động của các nhân tố này như thế nào? Cần tác động tới các nhân tố ra sao để nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam? Đối tượng nghiên cứu Tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết. Phạm vi nghiên cứu. Về không gian: 554 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Về thời gian: giai đoạn nghiên cứu từ năm 2017 đến năm 2020. Về nội dung nghiên cứu: Các chỉ tiêu tài chính được lựa chọn từ các nhóm nhân tố: quy mô, đòn bẩy, khả năng thanh khoản, hiệu suất sử dụng tài sản, khả năng sinh lời, lợi nhuận biên và nhóm nhân tố thị trường của doanh nghiệp để tìm hiểu tác động của những nhân tố này tới tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp tiếp cận và mô hình nghiên cứu Tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết được xem như là một tiêu chí quan trọng cho sự phát triển, tính ổn định và tính hiệu quả của thị trường chứng khoán bởi vai trò quan trọng nhất của thị trường này chính là tạo ra môi trường giao dịch tự do các tài sản tài chính, từ đó giúp chia sẻ và đa dạng hóa rủi ro cho nhà đầu tư. Khả năng dễ dàng chuyển đổi cổ phiếu thành tiền mặt trong thời gian ngắn với chi phí thấp vốn dĩ là đặc tính hấp dẫn nhất của thị trường chứng khoán so với các kênh đầu tư khác. Đặc biệt, với những diễn biến khó lường của đại dịch Covid -19, nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán thế giới và trong nước đều có thể xuất hiện những biến động, việc nhanh chóng tham gia và bán cổ phiếu để thu lời trong ngắn hạn nhằm giảm thiểu rủi ro trước diễn biến thị trường là tâm lý chung của nhiều nhà đầu tư. Như vậy, có thể nói vấn đề thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid vẫn đang diễn biến phức tạp là vấn đề rất đáng quan tâm cả về phương diện điều hành thị trường, phương diện doanh nghiệp huy động vốn và cả các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng giải quyết vấn đề thanh khoản không chỉ đơn thuần dựa vào cảm nhận định tính mà chúng ta cần các thước đo thanh khoản đúng nghĩa, từ đó mới có thể lượng hóa tác động của các nhân tố tài chính doanh nghiệp đến tính thanh khoản cổ phiếu niêm yết và các khuyến nghị được đưa ra mới có căn cứ. Lúc đó, các nhà quản lý thị trường chứng khoán, doanh nghiệp và nhà đầu tư mới có thể có những quyết sách phù hợp đối với vấn đề nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, nghiên cứu về nhân tố tác động đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam được tiếp cận dưới các giác độ theo quy trình như sau: (i) Khái quát nội dung cơ bản về tính thanh khoản cổ phiếu niêm yết, đặc biệt là các phương pháp đo lường tính thanh khoản của cổ phiếu ; (ii) Tìm hiểu nội dung cơ bản của các nhóm nhân tố tác động đến tính thanh khoản cổ phiếu, đặc biệt quan tâm đến các chỉ tiêu tài chính cụ thể của từng nhóm nhân tố; (iii) Phân tích thực trạng thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đồng thời phân tích đánh giá tác động của các nhân tố tới các doanh nghiệp này dựa trên số liệu thông tin thứ cấp; (iv) Lượng hóa số liệu và thông tin thu thập được và đưa ra kết quả lượng hóa; (v) Đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam bằng cách tác động vào các nhân tố có ảnh hưởng đến rủi ro này. Từ hướng tiếp cận trên, bên cạnh các nội dung nghiên cứu về mặt cơ sở lý luận và phân tích khái quát thực trạng thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đề tài sẽ lượng hoá tác động của các nhân tố đến thanh khoản cổ phiếu thông qua khung phân tích sau. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu Cách thức tiếp cận để giải quyết mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Khung lý thuyết được xây dựng dựa trên câu hỏi nghiên cứu và tổng quan nghiên cứu, có thể được biểu diễn qua mô hình nghiên cứu sau: Dựa trên câu hỏi nghiên cứu và mô hình nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu sau được đề xuất: GT1Quy mô doanh nghiệp tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu GT2Đòn bẩy tài chính tác động ngược chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu GT3Khả năng thanh toán hiện hành tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu GT4Hiệu suất sử dụng tài sản tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu GT5Khả năng sinh lời trên tài sản tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu GT6Lợi nhuận biên tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu GT7Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách PB tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu Phương pháp nghiên cứu Dưới góc độ tiếp cận và quy trình nghiên cứu được đưa ra, tác giả áp dụng phương pháp định lượng là phương pháp nghiên cứu chính cho đề tài. Phương pháp nghiên cứu định lượng Lý do lựa chọn phương pháp nghiên cứu định lượng Phương pháp nghiên cứu định lượng chủ yếu mang tính khai phá, mô tả, cung cấp các kết quả nhằm phân tích tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết tại Việt Nam. Chính vì vậy, để làm rõ mối quan hệ mang tính quy luật giữa các nhân tố, nghiên cứu định lượng được lựa chọn. Nguồn dữ liệu và phương pháp thu thập Dữ liệu trong nghiên cứu định lượng là dữ liệu thứ cấp trong 4 năm từ 2017 đến 2020 của 554 doanh nghiệp phi tài chính được thu thập trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nguồn dữ liệu được lấy từ các website cung cấp dữ liệu tài chính và thị trường, bao gồm: https://finance.vietstock.vn/; https://cafef.vn/; Mẫu nghiên cứu Mẫu được sử dụng cho nghiên cứu bao gồm 554 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên TTCK Việt Nam. Mẫu được lựa chọn căn cứ vào: Thứ nhất, các công ty phải có đầy đủ đầy đủ thông tin và dữ liệu để tính toán các biến số trong mô hình, bao gồm dữ liệu giá lịch sử cũng như các báo cáo tài chính đã kiểm toán: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh Thứ hai, công ty phải kết thúc năm tài khóa vào ngày 31 tháng 12 hàng năm. Bộ số liệu sẽ được sử dụng trong xây dựng mô hình nghiên cứu cho tổng thể các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam. Các biến và thước đo BiếnThước đoVai trò của biến Tính thanh khoảnILR= Ln(Amihud Illiquidity)=ln(1/Diy*∑_(t=1)^Diy▒|Riyd|/VOLDiyd)Biến phụ thuộc Quy mô doanh nghiệp FS = Ln(tổng tài sản)Biến độc lập Đòn bẩy tài chính (Hệ số nợ)LEV = (Tô ̉ng Nợ )/(Tổng tài sản)Biến độc lập Khả năng thanh toán hiện hànhCR = (Tài sản ngắn hạn)/(Nợ ngắn hạn)Biến độc lập Hiệu suất sử dụng tài sảnTAT = (Doanh thu thuần )/(Tô ̉ng ta ̀i sản)Biến độc lập Khả năng sinh lời trên tổng tài sản PM = (Lơ ̣i nhuâ ̣n sau thuế )/(Tô ̉ng ta ̀i sản)Biến độc lập Lợi nhuận biên PM = (Lơ ̣i nhuâ ̣n sau thuế )/(Doanh thu thuần )Biến độc lập Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B)P/B = (Gi(a ) ́tr(i ) ̣thi ̣ trươ ̀ng cu ̉a c(ô ) ̉phiếu)/(Gia ́ tr(i ) ̣s(ô ) ̉sa ́ch cu ̉a c(ô ) ̉phiếu)Biến độc lập Kết cấu đề tài Bài nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết Chương 2: Thực trạng tính thanh khoản của cổ phiếu và kiểm định thực chứng tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương 5: Giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CỔ PHIẾU NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Cơ sở lý luận về các nhân tố tác động đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
Tính thanh khoản (liquidity) là khả năng mua hoặc bán hàng hóa trên thị trường một cách nhanh chóng mà không bị ảnh hưởng bởi yếu tố giá cả Khái niệm này được đưa ra bởi John Maynard Keynes vào năm 1930, cho rằng một tài sản có tính thanh khoản cao hơn nếu nó có thể được giao dịch chắc chắn trong thời gian ngắn mà không gặp phải bất kỳ sự thua lỗ nào.
Từ khái niệm cơ bản về tính thanh khoản, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Theo Robert F Stambaugh (2002), thanh khoản cổ phiếu là khả năng giao dịch một khối lượng lớn cổ phiếu nhanh chóng với mức phí thấp và không gây biến động giá Amihud, Mendelson và Pedersen (2006) định nghĩa cổ phiếu có tính thanh khoản là những cổ phiếu dễ dàng bán lại với giá cả ổn định theo thời gian Nếu cổ phiếu khó tìm người mua hoặc phải bán với giá thấp, nhà đầu tư sẽ phải chịu tổn thất tài chính lớn, điều này được gọi là rủi ro thanh khoản trong đầu tư cổ phiếu.
Tính thanh khoản cổ phiếu được định nghĩa là khả năng giao dịch mà không làm ảnh hưởng đến giá trị của chúng Trong lĩnh vực chứng khoán, tính thanh khoản của cổ phiếu thể hiện khả năng chuyển đổi cổ phiếu thành tiền mặt, đồng thời phản ánh khối lượng giao dịch thực tế của cổ phiếu trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo Berk và cộng sự (2012), một khoản đầu tư, bao gồm tài sản, cổ phiếu và trái phiếu, được coi là có tính thanh khoản nếu có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt thông qua việc bán ngay lập tức với giá thị trường cạnh tranh.
Khái niệm mà Rasa nghiên cứu vào năm 2014 liên quan đến tính thanh khoản của cổ phiếu, định nghĩa là khả năng mua hoặc bán cổ phiếu một cách nhanh chóng và với khối lượng lớn, mà không gây ra tác động đáng kể đến giá cả và không phải chịu chi phí giao dịch cao.
Nghiên cứu nổi tiếng của Amihud (2002) về tính thanh khoản của cổ phiếu chỉ ra rằng tính thanh khoản phụ thuộc vào hai yếu tố chính: giá trị giao dịch và chênh lệch giá cổ phiếu Giá trị giao dịch thể hiện dòng tiền hiện diện trên thị trường, phản ánh lượng tiền mà nhà đầu tư cần bỏ ra để đầu tư vào cổ phiếu Tính thanh khoản của cổ phiếu được xác định dựa trên sự tương xứng giữa giá trị giao dịch và khối lượng giao dịch, tức là số cổ phiếu được giao dịch trong một khoảng thời gian nhất định Chênh lệch giá cổ phiếu thể hiện sự biến động giá trong từng phiên giao dịch, cho thấy chất lượng hoạt động của doanh nghiệp và nhu cầu của nhà đầu tư đối với cổ phiếu, từ đó ảnh hưởng đến tính thanh khoản của cổ phiếu.
Trong đầu tư chứng khoán, tính thanh khoản cao là yếu tố quan trọng mà nhà đầu tư ưa chuộng, trong khi cổ phiếu kém thanh khoản thường đòi hỏi một khoản bù rủi ro nhất định Tính thanh khoản được định nghĩa qua nhiều khía cạnh, bao gồm tốc độ giao dịch, khả năng thực hiện giao dịch nhanh chóng mà không làm ảnh hưởng tiêu cực đến giá, hoặc với sự thay đổi giá nhỏ Ngoài ra, một số tác giả còn nhấn mạnh đến chi phí giao dịch thấp và hoạt động giao dịch cao Shwartz và Francioni (2004) cho rằng tính thanh khoản có thể được đánh giá qua tần suất giao dịch chứng khoán trên thị trường.
Năm 2011, tính thanh khoản được tiếp cận qua bốn yếu tố chính: khối lượng, tốc độ, chi phí và sự biến động giá cả Biến động giá phản ánh rủi ro liên quan đến tính thanh khoản kém, trong khi khối lượng giao dịch thấp, thời điểm chậm và chi phí giao dịch cao có thể ảnh hưởng đến sự biến động giá, từ đó tác động đến tính thanh khoản Bằng cách phân tích các thuộc tính này, chúng ta có thể xác định mức độ thanh khoản của cổ phiếu, với khối lượng giao dịch cao, tốc độ nhanh, chi phí thấp và giá ổn định cho thấy tính thanh khoản tốt của cổ phiếu.
Tính thanh khoản của cổ phiếu là khả năng chuyển đổi thành tiền trong thời gian ngắn và chi phí thấp, đóng vai trò quan trọng trong một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả Nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhà đầu tư, sàn giao dịch và doanh nghiệp niêm yết, được xem như dòng máu của thị trường chứng khoán, giúp đảm bảo sự vận hành thông suốt của thị trường tài chính và nền kinh tế Doanh nghiệp niêm yết cần cổ phiếu có tính thanh khoản cao để thu hút vốn đầu tư, trong khi nhà đầu tư thường ưa chuộng cổ phiếu thanh khoản cao để dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt, giảm thiểu rủi ro mắc cạn vốn.
1.1.1.2 Đặc điểm tính thanh khoản cổ phiếu niêm yết trên thi trường chứng khoán
Tính thanh khoản là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tài sản (Cheng, 2007), tuy nhiên, để hiểu rõ về tính thanh khoản không phải là điều dễ dàng đối với nhà đầu tư Thanh khoản cổ phiếu không chỉ đơn thuần là một biến số mà bao gồm nhiều đặc tính khác nhau Thông thường, có bốn đặc tính chính của thanh khoản cổ phiếu, bao gồm thời gian giao dịch, độ chặt, độ sâu và độ co giãn.
Thời gian giao dịch là khả năng thực hiện giao dịch ngay lập tức với mức giá hiện tại Thời gian chờ giữa các giao dịch tiếp theo và số lượng giao dịch trong một đơn vị thời gian được xem là thước đo cho thời gian giao dịch (Wyss, 2004).
Độ chặt là khả năng của nhà đầu tư trong việc thay đổi vị thế mà không gây ra sự chênh lệch lớn về giá, phản ánh chi phí giao dịch tại thời điểm cụ thể Nói cách khác, độ chặt thể hiện chi phí của tính tức thời và thường được đo bằng khoảng chênh lệch giá (Ivanchuk, 2004).
Độ sâu thị trường là khả năng của thị trường trong việc hấp thụ khối lượng giao dịch lớn mà không làm biến động giá niêm yết của chứng khoán Theo Crockett (2008), giá niêm yết được hiểu là giá chào bán hoặc giá đặt mua được ghi nhận trong sổ lệnh Để đo lường độ sâu thanh khoản, người ta có thể sử dụng các chỉ số như chỉ số lệnh, số giao dịch hoặc chỉ số dòng tiền.
Độ co giãn là khả năng mua hoặc bán cổ phiếu mà không làm ảnh hưởng đến giá niêm yết Khi xem xét độ sâu của thị trường, nó liên quan đến số lượng giao dịch tại mức giá đặt mua hoặc chào bán tốt nhất Đặc tính co giãn đảm bảo sự cân bằng giữa cung và cầu, trong khi độ co giãn của tính thanh khoản được mô tả thông qua hệ số hiệp phương sai.
1.1.2 Đo lường tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
Tổng quan nghiên cứu về tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
1.2.1 Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trong một khoảng thời gian xác định Kết quả cho thấy yếu tố nội bộ của công ty đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tính thanh khoản của cổ phiếu và thị trường chứng khoán nói chung Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến tính thanh khoản lại khác nhau giữa các quốc gia.
1.2.1.1 Nhóm nhân tố về quy mô
Quy mô của doanh nghiệp là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, thường được thể hiện qua các chỉ số như vốn điều lệ, tổng tài sản, doanh thu, số lượng lao động và giá trị vốn hóa Tại Việt Nam, doanh nghiệp được phân loại theo quy mô dựa trên tổng nguồn vốn và số lượng lao động, chia thành doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, theo quy định tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP.
Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp, thường được đo bằng tổng tài sản hoặc giá trị vốn hóa, có mối quan hệ thuận chiều với tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết Cụ thể, các nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp có quy mô lớn thường có cổ phiếu thanh khoản tốt hơn, điều này được lý giải bởi việc quy mô lớn giúp nhà đầu tư dễ dàng nhận diện doanh nghiệp, đồng thời tạo ra dòng tiền đầu tư vào những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và minh bạch Doanh nghiệp lớn thường có đầy đủ nền tảng, chiến lược và tầm nhìn, và khi niêm yết trên thị trường chứng khoán, họ thường xuyên cập nhật thông tin hoạt động, giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về doanh nghiệp, từ đó thu hút sự chú ý và tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu Những nhận định này đã được xác nhận qua nhiều nghiên cứu khác nhau, như nghiên cứu của Heflin và cộng sự (2000) về tác động tích cực của quy mô doanh nghiệp đối với tính thanh khoản cổ phiếu.
Nghiên cứu của các tác giả như cũng nhận định rằng quy mô doanh nghiệp có tác động thuận chiều đến tính thanh khoản cổ phiếu, với việc các doanh nghiệp nhỏ có sự biến động giá cổ phiếu lớn hơn so với doanh nghiệp lớn (2004) Cheng (2007) cũng ghi nhận mối liên hệ này trên thị trường chứng khoán Đài Loan Kim và cộng sự (2006) chỉ ra rằng khi quy mô công ty tăng lên, việc bán cổ phiếu trở nên dễ dàng hơn, đồng nghĩa với việc tính thanh khoản cổ phiếu tăng Rasa và cộng sự (2014) đã xây dựng mô hình nghiên cứu về tác động của các yếu tố nội bộ doanh nghiệp lên tính thanh khoản cổ phiếu tại các thị trường chứng khoán Baltic, cho thấy quy mô doanh nghiệp Latvian có mối quan hệ thuận chiều với tính thanh khoản Nghiên cứu của Nassar (2016) cũng khẳng định điều này với mẫu 199 doanh nghiệp công nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Istanbul Đặc biệt, nghiên cứu của Lê Đạt Chí và Hoàng Thị Phương Thảo (2015) về tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu lên tính thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng tìm ra mối liên hệ thuận chiều giữa quy mô doanh nghiệp và tính thanh khoản.
1.2.1.2 Nhóm nhân tố về khả năng cân đối vốn- đòn bẩy tài chính Đòn bẩy tài chính (financial leverage) là một khái niệm được sử dụng để chỉ cấu trúc nguồn vốn (nợ- vốn chủ sở hữu) mà doanh nghiệp đã huy động và tài trợ vào hoạt động sản xuất kinh doanh Cấu trúc vốn trong các nghiên cứu thường được thể hiện thông qua hệ số nợ (nợ/tổng tài sản) Đũn bẩy tài chính thực sự là mụ̣t ô con dao hai lưỡi ằ, khi doanh nghiệp sử dụng tốt, đầu tư đúng hướng thì đem lại lợi nhuận cao cho chủ sở hữu, tuy nhiên lại tiềm ẩn nhiều rủi ro khi doanh nghiệp không xác đinh đúng hướng đi cũng như hoạt động các dự án kém hiệu quả, từ đó lợi ích của cổ đông không còn được đảm bảo, kém thu hút nhà đầu tư tham gia vào cổ phiếu Vì vậy, mà kết quả nghiên cứu tác động của đòn bẩy tài chính đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết vẫn còn nhiều tranh cãi.
Frieder và Martell (2006) chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính có tác động tích cực đến tính thanh khoản của cổ phiếu, khi việc huy động nợ buộc các nhà quản lý phải làm việc hiệu quả hơn và đầu tư vào các dự án có giá trị ròng dương (NAV>0) Điều này dẫn đến lợi nhuận cao hơn, thu hút nhà đầu tư và tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu của chủ sở hữu Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rasa (2014), tập trung vào các doanh nghiệp ở Estonia.
Lesmond và cộng sự (2008) phát hiện mối liên hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính và tính thanh khoản của cổ phiếu, cho rằng việc phụ thuộc nhiều vào nguồn tài chính vay nợ làm gia tăng bất cân xứng thông tin, từ đó giảm tính thanh khoản Tương tự, Lipson và Mortal (2009) cũng chỉ ra tác động này, giải thích rằng các công ty tối ưu hóa cấu trúc vốn thông qua việc đánh đổi giữa chi phí vốn chủ sở hữu và chi phí nợ Lá chắn thuế làm giảm chi phí nợ, trong khi tính thanh khoản của cổ phiếu lại giảm chi phí vốn chủ sở hữu, khiến các công ty phụ thuộc nhiều hơn vào vốn chủ sở hữu Nghiên cứu của Khan (2019) trên thị trường chứng khoán Pakistan cũng xác nhận ảnh hưởng tiêu cực từ đòn bẩy tài chính đến tính thanh khoản, cho rằng khi đòn bẩy tăng, nhà đầu tư sẽ giảm khoản đầu tư do lo ngại rủi ro vỡ nợ.
1.2.1.3 Nhóm nhân tố về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là chỉ số quan trọng phản ánh khả năng đáp ứng nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, thông qua việc phân loại và đánh giá tài sản có tính thanh khoản Các nhà nghiên cứu đã sử dụng chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành (tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn) để kiểm định mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và tính thanh khoản của cổ phiếu.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và thanh khoản cổ phiếu cho thấy khả năng thanh toán có tương quan thuận chiều với thanh khoản cổ phiếu Khi doanh nghiệp duy trì khả năng thanh toán tốt, tình hình tài chính của họ sẽ an toàn, giúp tăng cường khả năng độc lập và tự chủ Điều này đảm bảo lợi ích cho cổ đông, thu hút đầu tư và nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu so với những doanh nghiệp gặp rủi ro thanh khoản.
Khi phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và nhà đầu tư thường sử dụng các chỉ tiêu tỷ lệ cơ bản như lợi nhuận biên (PM) và tỷ suất sinh lời của tổng tài sản (ROA) để so sánh hiệu quả sinh lời giữa các doanh nghiệp.
Lợi nhuận biên (Profit Margin)
Lợi nhuận biên là chỉ số quan trọng mà nhà đầu tư cần xem xét để đánh giá hiệu suất quản lý của doanh nghiệp Tỷ lệ biên lợi nhuận càng cao cho thấy hiệu suất quản lý tốt hơn, giúp doanh nghiệp thu về nhiều lợi nhuận ròng và khả năng sinh lời cao hơn.
Cổ phiếu của doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thường thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư, dẫn đến việc cổ phiếu được giao dịch dễ dàng hơn trên thị trường chứng khoán và tăng thanh khoản Mối quan hệ tích cực giữa lợi nhuận biên và thanh khoản cổ phiếu đã được khẳng định trong nghiên cứu của Khan và cộng sự vào năm 2019.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (Return on Asset)
ROA (Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản) là chỉ số quan trọng mà nhà đầu tư xem xét khi đánh giá khả năng sinh lời của một doanh nghiệp trước khi mua cổ phiếu Mặc dù thu nhập ròng thể hiện lợi nhuận sau thuế, nhưng nó không cung cấp cái nhìn tổng quan rõ ràng về hiệu suất của doanh nghiệp do tính chất tuyệt đối của nó, khiến cho việc so sánh giữa các doanh nghiệp trở nên khó khăn Vì vậy, ROA được coi là một chỉ tiêu chính xác hơn để đánh giá hiệu quả tài chính Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ tích cực giữa khả năng sinh lời và tính thanh khoản của cổ phiếu, như các nghiên cứu của Rasa (2014) tại Estonia và Nassar (2016) trên thị trường chứng khoán Istanbul, cho thấy doanh nghiệp có lợi nhuận tốt hơn thường có cổ phiếu dễ giao dịch hơn.
Một kết luận quan trọng là mối quan hệ ngược chiều giữa khả năng sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Pakistan và thanh khoản cổ phiếu của họ Điều này trái ngược với các lập luận ban đầu của tác giả Khan (2019), người cho rằng sự gia tăng ROA có thể dẫn đến giảm thanh khoản cổ phiếu do nhà đầu tư giảm đầu tư hoặc yêu cầu phí bù rủi ro cao hơn Nguyên nhân có thể là các nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu này không muốn bán, với hy vọng đạt được lợi nhuận cao hơn trong tương lai thông qua tỷ suất cổ tức, dẫn đến giảm khối lượng giao dịch và thanh khoản.
1.2.1.5 Nhóm nhân tố về khả năng hoạt động
Nghiên cứu trước đây tại nhiều quốc gia cho thấy khả năng hoạt động của doanh nghiệp ảnh hưởng tích cực đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết Các tác giả như Singh và Davidson (2003), Fairfield và Yohn (2001), cùng với nghiên cứu của Khan và cộng sự năm 2019 tại Pakistan đã khẳng định mối quan hệ thuận chiều giữa hiệu suất sử dụng tổng tài sản (TAT) và tính thanh khoản cổ phiếu Cụ thể, hệ số TAT cao phản ánh hiệu suất hoạt động tốt của công ty, thu hút nhà đầu tư và dẫn đến giao dịch cổ phiếu hiệu quả với chi phí thấp, từ đó nâng cao tính thanh khoản.
1.2.1.6 Nhóm nhân tố phản ánh thi trường
THỰC TRẠNG THANH KHOẢN CỔ PHIẾU VÀ KIỂM ĐỊNH THỰC CHỨNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CỔ PHIẾU NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Thực trạng thanh khoản cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1 Khái quát hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau 21 năm kể từ ngày đi vào hoạt động (28/7/2000 - 28/7/2021), thi trường chứng khoán Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và chất lượng, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thị trường cổ phiếu Việt Nam đã có sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô và chiều sâu, từ chỉ 2 doanh nghiệp niêm yết ban đầu, đến cuối tháng 6/2021, đã có 748 doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn giao dịch TP Hồ Chí Minh và Hà Nội Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 6.838 nghìn tỷ đồng, tăng 29,2% so với năm 2020, tương đương 108,7% GDP Sự phát triển này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của thị trường chứng khoán như một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2000 - 2005, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán chỉ chiếm khoảng 1% GDP, nhưng đã tăng mạnh lên 22,7% GDP vào năm 2006 và trên 43% vào năm 2007 Tuy nhiên, sự biến động của thị trường tài chính toàn cầu và khó khăn trong nền kinh tế nội địa đã khiến chỉ số giá chứng khoán giảm liên tục trong năm 2008, làm giảm mức vốn hóa thị trường xuống còn 18% GDP Năm 2009, sau khi HNX khai trương thị trường UPCoM vào ngày 24/6, số lượng doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán tăng nhanh, cùng với sự hồi phục nhẹ của nền kinh tế trong nước và thế giới từ quý sau.
Vào tháng 2 năm 2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại, giúp giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 37,71% GDP vào cuối năm 2009 Đến năm 2010, giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tiếp tục tăng lên 39% GDP.
Giai đoạn 2011 - 2020 là thời kỳ phát triển quan trọng của thị trường chứng khoán Việt Nam, với sự mở rộng cả về số lượng sản phẩm và chiều sâu giao dịch Đến cuối năm 2020, tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường cổ phiếu, bao gồm cả niêm yết và UPCoM, đã đạt gần 5,29 triệu tỷ đồng, tương đương 81,11% GDP Việt Nam, vượt qua các chỉ tiêu đề ra.
Tính đến ngày 30/6/2021, chỉ số VN Index trên HOSE và HNX đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, với tỷ lệ tăng lần lượt là 27,6% và 59,20% so với cuối năm 2020 Giá trị giao dịch bình quân hàng tháng trên thị trường cổ phiếu cũng tăng 29,2% so với năm 2020, đạt khoảng 108,7% GDP Điều này cho thấy thanh khoản của thị trường cổ phiếu niêm yết đang ngày càng được cải thiện.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với sự phát triển của hệ thống nhà đầu tư tổ chức và vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng Tính đến năm 2020, thị trường có hơn 2,77 triệu tài khoản đầu tư, trong đó có hơn 35 nghìn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài, tăng 8,6% so với năm 2019 Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2021, số lượng tài khoản cá nhân mở mới đã đạt kỷ lục 629 nghìn tài khoản, tăng 58,3% so với năm 2020 Tổng số tài khoản đầu tư trong và ngoài nước đã vượt qua 3,394 triệu tài khoản, tăng hơn 22,48% so với cuối năm 2020, trong đó tài khoản của các tổ chức và cá nhân nước ngoài đạt gần 37,62 nghìn, tăng 0,73% so với cuối năm 2020.
Sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán (TTCK) trong năm 2020 và những tháng đầu năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, có thể được lý giải bởi sự thay đổi trong hành vi đầu tư của người dân Đại dịch đã khiến nhiều hoạt động kinh doanh và đời sống xã hội bị ngưng trệ, dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm nhân công và thu hẹp quy mô hoạt động Mặc dù người dân phải ở nhà nhiều hơn do các lệnh phong tỏa, nhưng điều này lại tạo cơ hội cho họ tìm kiếm thêm thu nhập thông qua đầu tư chứng khoán Với việc có nhiều thời gian rảnh, họ dễ dàng tiếp cận thông tin về các cổ phiếu và thực hiện giao dịch trực tuyến, từ đó hình thành hiệu ứng TINA (There Is No Alternative).
Dòng tiền mới từ nhà đầu tư F0 đã mang lại thanh khoản cao cho thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, đặc biệt trong năm 2020 và những tháng đầu năm 2021 Sự tác động tích cực từ các quỹ hoán đổi danh mục (ETF) như FTSE ETF, VFM VN30 và V.N.M ETF, cùng với sự bùng nổ của các quỹ ETF nội, đã chứng tỏ sức hấp dẫn của TTCK Việt Nam Thanh khoản tăng mạnh là điểm nhấn nổi bật của thị trường trong năm 2020 và nửa đầu năm 2021.
Hình 2.1 Khối lượng và giá trị giao dịch của các nhóm nhà đầu tư giai đoạn 2016- 2020
Nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thị trường trong 20 năm qua Từ năm 2016 đến 2020, khối lượng và giá trị giao dịch của nhóm này luôn duy trì khoảng 80% Mặc dù tỷ lệ này giảm xuống mức thấp nhất 79% vào năm 2019, nhưng đã nhanh chóng phục hồi lên 86% vào nửa cuối năm 2020 và đạt 88% trong tháng 01/2021 Sự suy giảm đầu năm 2020 chủ yếu là do tác động của đại dịch Covid-19.
Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, nền kinh tế và thị trường chứng khoán toàn cầu cũng như trong nước có thể xảy ra nhiều biến động Nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là thế hệ F0, có tâm lý nhanh chóng tham gia và bán cổ phiếu để thu lợi ngắn hạn nhằm giảm thiểu rủi ro Do đó, việc lựa chọn cổ phiếu có tính thanh khoản cao trở thành xu hướng để phòng tránh rủi ro "mắc cạn vốn" do thanh khoản kém, trong bối cảnh dòng tiền ồ ạt đổ vào thị trường hiện nay.
2.1.2 Thực trạng thanh khoản cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Mặc dù thị trường chứng khoán đang sôi động với thanh khoản cao hơn so với những năm trước, gần một nửa số cổ phiếu trên HSX và HNX vẫn có thanh khoản rất thấp, dưới 10,000 đơn vị mỗi phiên Cụ thể, trong kỳ xem xét chỉ số VNX-Index AllShare tháng 4/2020, có đến 263 cổ phiếu có thanh khoản quá kém và đã bị loại khỏi rổ tính chỉ số chung đo lường biến động của hai sàn niêm yết.
Thanh khoản là tiêu chí quan trọng nhất trong việc loại bỏ doanh nghiệp khỏi danh sách niêm yết, do cổ phiếu thanh khoản kém không phản ánh đúng tình hình thị trường của sàn giao dịch.
Trong danh sách các mã cổ phiếu bị loại khỏi rổ tính chỉ số VN-Allshare, có nhiều cổ phiếu nổi bật như CTCP Bibica với vốn hóa thị trường 678 tỷ đồng và CTCP Thép Pomina Những tiêu chí dẫn đến việc loại bỏ bao gồm không đủ tư cách tham gia (67 cổ phiếu) và tính thanh khoản kém (chỉ 12 cổ phiếu).
CTCP Transimex có vốn điều lệ 630 tỷ đồng và vốn thị trường đạt 1.600 tỷ đồng CTCP Cao su Hòa Bình có vốn điều lệ 302 tỷ đồng, với vốn hóa trên 1.100 tỷ đồng CTCP Thủy điện Thác Bà ghi nhận vốn hóa 1.450 tỷ đồng Ngoài ra, CTCP Chứng khoán Dầu khí có vốn điều lệ 598 tỷ đồng Các công ty như CTCP Xây dựng điện VNECO3 và CTCP Xây dựng điện VNECO4 cũng góp mặt trong danh sách này.
Kiểm định thực chứng tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1.1 Phương pháp thu thập số liệu Để phân tích tác động của các nhân tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết trên thi trường chứng khoán Việt Nam, tác giả đã sử dụng dữ liệu thứ cấp của 554 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên sở giao dich chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HSX) và sở giao dich chứng khoán Hà Nội (HNX) trong khoảng thời gian 4 năm từ 2017 đến 2020 được cung cấp bởi Vietstock Finance và tiến hành xử lý số liệu.
2.2.1.2 Phương pháp xử lý số liệu
Tác giả đã sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2016 để tính toán các chỉ tiêu cần thiết cho nghiên cứu từ bộ dữ liệu thu thập được, sau đó chuyển dữ liệu vào phần mềm thống kê Stata theo mô hình Panel Data Tiếp theo, tác giả tiến hành phân tích tương quan giữa các biến độc lập và thực hiện thống kê mô tả cho các biến trong mô hình, bao gồm việc xác định các thống kê đặc trưng như trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất và độ lệch chuẩn Cuối cùng, tác giả áp dụng phương pháp ước lượng để xây dựng mô hình hồi quy với dữ liệu dạng bảng, từ đó lựa chọn các phương pháp phù hợp cho phân tích.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng ba mô hình hồi quy: mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model), mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model) và OLS gộp (Pooled OLS) để phân tích dữ liệu Tất cả các phân tích được thực hiện bằng phần mềm thống kê Stata 16.
2.2.1.3 Mô hình nghiên cứu
- Lựa chọn cách đo lường thanh khoản
Thanh khoản là một khái niệm rộng với nhiều khía cạnh khác nhau, không thể chỉ sử dụng một thước đo để bao quát toàn bộ Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng thước đo độ kém thanh khoản Amihud (2002), một công cụ phổ biến đã được nhiều nhà nghiên cứu trước đây như Nas và cộng sự (2011), Haddad sử dụng.
(2012), De Cesari và cộng sự (2012), và Asem và cộng sự (2016); Khan (2019).
Thước đo kém thanh khoản của Amihud phản ánh mối quan hệ nghịch đảo với tính thanh khoản, trong đó giá trị cao hơn cho thấy tính thanh khoản thấp hơn Nó đánh giá mức độ thanh khoản của một cổ phiếu dựa trên ba yếu tố: lợi tức hàng ngày tuyệt đối (độ chặt), khối lượng giao dịch hàng ngày theo đơn vị tiền tệ (độ sâu) và số ngày cổ phiếu được giao dịch trong năm (thời gian giao dịch) Sự gia tăng trong số ngày giao dịch, khối lượng giao dịch tính theo tiền tệ và lợi tức tuyệt đối giảm cho thấy khả năng thanh khoản cao hơn của cổ phiếu niêm yết.
Thước đo kém thanh khoản (Illiquidity Amihud) được xác định bằng cách tính trung bình giá trị tuyệt đối của tỷ suất sinh lợi hàng ngày của chứng khoán chia cho tổng giá trị giao dịch trong một khoảng thời gian xác định, trong nghiên cứu này được thực hiện theo năm.
Tính thanh khoản Amihud (2002) đo lường phản ứng của giá hàng ngày của chứng khoán i theo giá trị giao dịch hàng ngày của nó Trong đó, Riyd là tỷ suất sinh lợi của chứng khoán i trong ngày d của năm y, VOLDiyd là giá trị giao dịch hàng ngày của chứng khoán i, và Diy là số ngày giao dịch của chứng khoán i trong năm y.
Mô hình kiểm định tác động của các yếu tố đến rủi ro hệ thống được xây dựng bằng cách sử dụng hồi quy trên dữ liệu của 554 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam Để đo lường thanh khoản cổ phiếu, tác giả chọn hệ số kém thanh khoản Amihud Tuy nhiên, giá trị thực của hệ số này rất nhỏ và không tương ứng với các biến độc lập, do đó, loga Nepe của thước đo Amihud được sử dụng làm biến phụ thuộc Phương pháp này phù hợp với việc hầu hết các biến độc lập thường được tính bằng đơn vị phần trăm, giúp mô hình giải thích sự thay đổi của 1% biến độc lập tác động đến bao nhiêu phần trăm thanh khoản cổ phiếu Lựa chọn này tương đồng với mô hình của Khan (2019) trong nghiên cứu tại thị trường chứng khoán Pakistan.
Trong mô hình nghiên cứu, các biến độc lập được lựa chọn bao gồm những chỉ tiêu tài chính đã được chứng minh có ảnh hưởng đến tính thanh khoản của cổ phiếu niêm yết, bao gồm: Quy mô tổng tài sản, Hệ số nợ, Khả năng thanh toán hiện hành, Hiệu suất sử dụng tổng tài sản, Khả năng sinh lời trên tổng tài sản, Lợi nhuận biên, và Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của cổ phiếu Đặc biệt, để đồng nhất với các chỉ tiêu đánh giá khác như hệ số nợ và tỷ suất sinh lời, tác giả sử dụng biến loga Nepe của tổng tài sản (ln(tổng tài sản)), nhằm đánh giá sự biến động của tính thanh khoản cổ phiếu tương ứng với 1% thay đổi trong tổng tài sản.
Cuối cùng, mô hình được kiểm đinh được xây dựng là:
ILR it = β 0 +β 1 FS it +β 2 LEV it +β 3 CR it +β 4 TAT it +β 5 ROA it +β 6 PM it +β 7 PB it + u i + e i
Độ kém thanh khoản của cổ phiếu i được xác định bởi biến của cổ phiếu doanh nghiệp thứ i tại thời điểm t, cùng với thành phần sai số riêng biệt của từng cổ phiếu doanh nghiệp và sai số ngẫu nhiên thông thường.
Bảng 2.1 Ý nghĩa của các biến trong mô hình
ILR= ln (Illiquidity Amihud) ln(
Phản ánh thanh khoản cổ phiếu, nếu giá tri này tăng, thanh khoản cổ phiếu giảm
(và ngược lại) Quy mô doanh nghiệp
FS = Ln (Tổng tài sản)
Quy mô doanh nghiệp được phản ánh qua tổng tài sản, trong khi đòn bẩy tài chính (LEV) thể hiện mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp Khả năng thanh toán cũng là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe tài chính của công ty.
Phản ánh khả năng thanh khoản của doanh nghiệp qua hệ số khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio)
Khả năng hoạt động TAT phản ánh hiệu suất của doanh nghiệp thông qua chỉ số doanh thu trên tổng tài sản (Total Assets Turnover) Chỉ số này cho thấy mức độ hiệu quả trong việc sử dụng tài sản để tạo ra doanh thu, giúp doanh nghiệp đánh giá khả năng sinh lời và quản lý tài sản của mình Việc cải thiện TAT không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn góp phần tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường.
Khả năng sinh lời ROA Phản ánh tính sinh lời qua chỉ tiêu khả năng sinh lời của tổng tài sản (Return on Assets)
Lợi nhuận biên PM Phản ánh khả năng quản lý chi phí qua chỉ tiêu tỷ lệ biên lợi nhuận (Profit Margin)
Mối quan hệ giữa giá trị thị trường và giá trị sổ sách của doanh nghiệp phản ánh sự chênh lệch giữa số tiền mà nhà đầu tư sẵn sàng chi trả và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Điều này cho thấy sự đánh giá của thị trường về tiềm năng phát triển và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Các hệ số từ β1 đến β7 phản ánh ảnh hưởng của các yếu tố đến tính thanh khoản của cổ phiếu Nếu các hệ số này bằng không với mức ý nghĩa xác định, điều này cho thấy rằng các yếu tố không có ý nghĩa thống kê và không tác động đến tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Dựa trên cơ sở lý thuyết và kết quả kiểm định thực chứng từ các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất các giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Về quy mô doanh nghiệp