PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Năm 2021 đánh dấu chặng đường 35 năm Đổi mới toàn diện của đất nước và đầu năm 2021 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra thành công tốt đẹp. Đại hội đã thảo luận và thông qua những chủ trương, quyết sách quan trọng để định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, toàn diện quá trình triển khai tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Đại hội cũng đưa ra một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ này là việc thực hiện “cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội,...”. Có thể thấy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực không ngừng trong việc cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Năm 2015, Bộ luật hình sự mới được ra đời với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện BLHS của thời kỳ đổi mới nhằm bảo vệ, thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự này, thì các địa phương trong cả nước cũng luôn cố gắng để thực hiện tốt công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm. Quảng Ninh là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc, có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh và là địa bàn trọng điểm trong vùng động lực kinh tế phía Bắc. Trong những năm gần đây Quảng Ninh là điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Nhờ có những cơ chế, chính sách, giải pháp đột phá trong thu hút đầu tư nên kinh tế - xã hội, hạ tầng giao thông, thương mại, du lịch phát triển nhanh chóng và đồng bộ, thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do đặc thù về vị trí địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, Quảng Ninh luôn là địa bàn các loại tội phạm lựa chọn để tiến hành các hoạt động phạm tội. Trong đó, nổi lên là tội phạm về lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời gian gần đây, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không ngừng tăng nhanh và diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức, thủ đoạn lừa dối ngày càng đa dạng, tinh vi và xảo quyệt, nhiều vụ án lừa đảo có quy mô lớn với giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày càng cao. Trong đó xảy ra phổ biến hơn cả ở các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, lĩnh vực tài chính, ngân hàng trong việc vay thế chấp hoặc mua bán bất động sản, lừa đảo người có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài, lừa đảo trong kinh doanh buôn bán, giao thương, sử dụng công nghệ thông tin hoặc công nghệ cao để lừa tiền nạn nhân... nhiều vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị đặc biệt lớn. Có thể nói tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã và đang gây ảnh hưởng rất xấu đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân, trật tự an ninh xã hội, gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân đối với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn tỉnh nói riêng. Việc đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này gặp nhiều khó khăn, bên cạnh nguyên nhân khách quan do điều kiện kinh tế xã hội, môi trường, điều kiện sống, thì chính sách pháp luật hình sự còn nhiều hạn chế, từ quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (thủ tục tiền tố tụng) đến quá trình điều tra, truy tố và xét xử tội phạm sau này trong thực tiễn còn nhiều sai sót, nhất là trong công tác xác minh ban đầu nội dung tin báo, đến quá trình định tội danh và quyết định hình phạt. Còn do nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật, phân biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên thực tế. Tại tỉnh Quảng Ninh, lực lượng Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án luôn quan tâm, chú trọng việc phòng chống tội phạm nói chung cũng như tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng bằng việc phát hiện, xử lý những vụ án LĐCĐTS với số tiền lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên kết quả đạt được chưa cao, những hạn chế của hoạt động phòng ngừa chưa được quan tâm khắc phục kịp thời, một số nội dung, biện pháp phòng ngừa không còn phù hợp với yêu cầu thực tế nhưng chưa được đổi mới cho thích ứng, các vụ án LĐCĐTS với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng vẫn xảy ra, tạo ra những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với các cơ quan thực hiện chức năng phòng ngừa loại tội phạm này. Trước thực trạng trên, để thực hiện tốt hơn nữa công tác phòng chống tội phạm cũng như tội phạm LĐCĐTS trên địa bàn Quảng Ninh, cần phải nghiên cứu tình hình tội phạm LĐCĐTS cũng như xác định những nguyên nhân của tội phạm này để từ đó tìm ra những biện pháp phòng ngừa thiết thực, hiệu quả. Do vậy, việc chọn đề tài “Phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” để làm luận văn thạc sỹ luật học là đáp ứng yêu cầu khách quan, cấp thiết hiện nay. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay, có một số công trình nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước và một số địa phương trong những giai đoạn khác nhau, cụ thể: Luận án tiến sĩ: “Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Việt Nam” của tác giả Lê Đăng Doanh vào năm 2008 tại trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sỹ: “Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Nội” của tác giả Ngô Toàn Thắng vào năm 2012 tại trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sỹ: “Phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Tuân vào năm 2014 tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn thạc sỹ: “Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Nội” của tác giả Trần Văn Việt vào năm 2015 tại trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sỹ: “Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Thị Thu Thủy vào năm 2020 tại trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sỹ: “Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” của tác giả Nguyễn Ngọc Thập vào năm 2020 tại trường Đại học Luật Hà Nội. Có thể đánh giá, các công trình trên tuy có phạm vi nghiên cứu tuy khác nhau, nhưng đều đã chỉ ra được tình hình tội phạm, nguyên nhân và các biện pháp để nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này trên các địa bàn được nghiên cứu. Mặt khác, hiện nay có thể nhận thấy vẫn chưa có bất kỳ một công trình nào nghiên cứu cụ thể về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu cho luận văn lần này hoàn toàn đảm bảo được tính mới. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu mô tả tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hai nội dung gồm thực trạng và diễn biến của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2016 đến năm 2020; - Xác định và giải thích nguyên nhân của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 – 2020; - Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới và đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 4.Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: tình hình, nguyên nhân của tội lừa dảo chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020 và biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Phạm vi nghiên cứu: (i) phạm vi nghiên cứu về không gian là tỉnh Quảng Ninh; (ii) phạm vi nghiên cứu về thời gian là khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020. 5.Các phương pháp nghiên cứu đề tài Một, về phương pháp luận, luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng ngừa tội phạm. Hai, về phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sưu tầm, hệ thống, nghiên cứu các văn bản pháp luật, các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: thông qua nghiên cứu các hồ sơ, tài liệu, số liệu để phân tích, đánh giá, tổng hợp tìm ra nguyên nhân và biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Phương pháp thống kê, so sánh: từ các báo cáo số liệu xét xử sơ thẩm hình sự tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 -2020, tác giả xây dựng các bảng biểu theo các tiêu chí để so sánh tình hình, diễn biến về số vụ và số người phạm tội này qua từng năm từ đó đánh giá các mối liên hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu cũng như diễn biến của tình hình tội này, tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản được lựa chọn, sử dụng trong việc đánh giá tình hình tội LĐCĐTS trong giai đoạn nghiên cứu. Do số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng về tội LĐCĐTS chưa đầy đủ để nghiên cứu, đánh giá về cơ cấu của tội LĐCĐTS theo các tiêu chí khác nhau như theo loại tội phạm, loại và mức hình phạt đã được áp dụng đối với người bị kết án, hình thức thực hiện tội phạm, thủ đoạn phạm tội…và dữ liệu thống kê chính thức cũng không đủ để giải thích nguyên nhân của tội phạm, nên tác giả sẽ sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để tự thu thập dữ liệu khác qua việc phân tích các dữ liệu trong bộ phận các bản án hình sự sơ thẩm về tội LĐCĐTS được lựa chọn. Cụ thể, tác giả dự kiến lựa chọn ngẫu nhiên 102 bản án 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về ý nghĩa khoa học, qua kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập, giảng dạy chuyên ngành tội phạm học tại các cơ sở đào tạo ở nước ta. Đồng thời góp nâng cao hiệu quả công tác về phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 03 Chương như sau: Chương 1: Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 -2020; Chương 2: Nguyên nhân của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020; Chương 3: Dự báo tội phạm và các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
TÌNH HÌNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2016 -2020
Vấn đề chung về tình hình tội phạm
Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, tình hình tội phạm được định nghĩa là trạng thái và xu thế vận động của các loại tội phạm trong một không gian và thời gian nhất định Trong Giáo trình tội phạm học của Đại học Huế, tình hình tội phạm cũng được coi là một hiện tượng xã hội và pháp lý quan trọng.
Lịch sử hình sự đã trải qua những thay đổi đáng kể, phản ánh tính giai cấp và bao gồm một hệ thống thống nhất các tội phạm xảy ra trong một xã hội cụ thể và trong một khoảng thời gian nhất định.
Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh định nghĩa tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính trái pháp luật hình sự và giai cấp Tình hình tội phạm không ngừng thay đổi theo quá trình lịch sử, có tính chất tiêu cực và nguy hiểm cao trong xã hội Nó được hình thành từ một thể thống nhất các tội phạm cụ thể, tồn tại trong không gian và thời gian xác định.
Theo giáo trình của Đại học Luật Hà Nội, tội phạm được coi là một hiện tượng xã hội tiêu cực, vi phạm pháp luật hình sự, có tính giai cấp và biến đổi theo lịch sử Tình hình tội phạm được thể hiện qua tổng hợp các loại tội phạm cụ thể xảy ra trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo quan điểm cá nhân, học viên đồng ý với định nghĩa của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, vì định nghĩa này làm rõ bản chất của tình hình tội phạm và phân biệt giữa tình hình tội phạm và tội phạm Từ đó, học viên nhận thức được hai nhiệm vụ quan trọng trong nghiên cứu tình hình tội phạm: (1) khảo sát thực trạng tội phạm và (2) phân tích xu hướng phát triển của tội phạm.
1 Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp, 2015, Hà Nội, tr.252
2 Trường Đại học Huế, Trung tâm đào tạo từ xa, Giáo trình tội phạm học, 1999, NXB Giáo dục, tr 58.
3 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình tội phạm học, NXB Hồng Đức, 2016, Hà Nội, tr 23 của tội phạm
Nghiên cứu tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh sẽ tập trung vào thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này Thời gian nghiên cứu được xác định từ năm 2016 đến năm 2020, nhằm phân tích xu thế vận động của tội phạm lừa đảo trong khu vực.
Thực trạng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Thực trạng tội phạm đề cập đến tình hình hiện tại của tội phạm trong một không gian và thời gian cụ thể, bao gồm mức độ và tính chất của nó Nghiên cứu thực trạng tội phạm tập trung vào hai đặc điểm chính: mức độ, thể hiện qua số lượng tội phạm và số người phạm tội; và tính chất, phản ánh qua cấu trúc của tội phạm và các đối tượng vi phạm.
Tình hình tội phạm tại tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS), từ năm 2016 đến 2020 cho thấy sự gia tăng đáng kể về số vụ án và số lượng nạn nhân Thực trạng này được hình thành từ các số liệu thống kê của cơ quan chức năng, bao gồm những vụ án đã được phát hiện và xử lý, đồng thời cũng phản ánh những tội phạm chưa được phát hiện hoặc chưa được đưa vào thống kê Để có cái nhìn toàn diện về tình hình tội phạm LĐCĐTS, cần đánh giá cả về mặt định lượng và định tính, từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa và xử lý hiệu quả hơn.
“định tính” Đó là đánh giá về mức độ của tội phạm (định lượng) và đánh giá về tính chất và cơ cấu của tội phạm (định tính).
4 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, 2015, tr.112
1.2.1 Thực trạng về mức độ của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016-2020
Tình hình tội phạm LĐCĐTS tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016-2020 chủ yếu được phân tích dựa trên số liệu tội phạm rõ, tức là những vụ việc đã được cơ quan chức năng phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử Bài viết tập trung vào việc làm rõ thực trạng của các tội phạm này thông qua thống kê hình sự cụ thể, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình tội phạm trong khu vực.
Bảng 1.1: Số vụ và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2020
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh
Biểu đồ 1.1: Số vụ và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2020
Từ năm 2016 đến 2020, Tòa án tỉnh Quảng Ninh đã xét xử tổng cộng 222 vụ án liên quan đến 257 bị cáo về tội LĐCĐTS, trung bình mỗi năm có khoảng 44,4 vụ với 51,4 bị cáo Năm 2019 ghi nhận số vụ án cao nhất với 55 vụ và 69 bị cáo, trong khi năm 2016 là năm có số vụ án thấp nhất với 35 vụ và 36 bị cáo Để hiểu rõ hơn về thực trạng này, cần so sánh số liệu về các vụ án và số người phạm tội LĐCĐTS trong giai đoạn 2016 – 2020 dựa trên một số tiêu chí nhất định.
Trong giai đoạn 2016 – 2020, tỉnh Quảng Ninh đã ghi nhận số vụ và số người phạm tội liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) so với các tội xâm phạm sở hữu Việc so sánh này giúp làm rõ tình hình tội phạm trong khu vực, đồng thời cung cấp cái nhìn tổng quan về các loại tội phạm đang diễn ra tại tỉnh.
Bảng 1.2 trình bày sự so sánh giữa số vụ và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 – 2020 với số vụ và số người phạm các tội xâm phạm sở hữu trong cùng thời gian Thống kê này giúp làm rõ tình hình tội phạm liên quan đến lừa đảo và xâm phạm sở hữu tại tỉnh Quảng Ninh, cung cấp cái nhìn tổng quan về sự gia tăng hoặc giảm sút của các loại tội phạm này trong giai đoạn nghiên cứu.
Các tội xâm phạm sở hữu (1)
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (2)
Tỷ (2) so với (1) (đơn vị %)
Tỷ lệ số người phạm tội
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh
Các tội xâm phạm sở hữu Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Biểu đồ 1.2 trình bày sự so sánh giữa số vụ và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 – 2020 với số vụ và số người phạm các tội xâm phạm sở hữu trong cùng khoảng thời gian Thông qua biểu đồ, ta có thể nhận thấy xu hướng và mức độ gia tăng hoặc giảm sút của các loại tội phạm này tại địa phương, từ đó đưa ra những đánh giá và biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm.
Theo thống kê, tỷ lệ vụ án liên quan đến tội LĐCĐTS chiếm 13,71% tổng số vụ xâm phạm sở hữu, trong khi tỷ lệ người phạm tội LĐCĐTS là 11,68% Điều này cho thấy số lượng vụ án và người phạm tội LĐCĐTS có sự hiện diện đáng kể trong tổng số các vụ án xâm phạm sở hữu.
Thứ hai, so sánh giữa số vụ, số người phạm tội LĐCĐTS tại tỉnh Quảng
Ninh với số vụ, số người phạm tội nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020
Bảng 1.3 cung cấp một cái nhìn tổng quan về tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh, so sánh số vụ và số người phạm tội trong lĩnh vực này với tổng số vụ và số người phạm tội nói chung trên địa bàn tỉnh Thông qua bảng số liệu, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt rõ rệt giữa tội phạm lừa đảo và các loại tội phạm khác, từ đó đưa ra những đánh giá và biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (2)
Tỷ (2) so với (1) (đơn vị %)
Tỷ lệ số người phạm tội
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Biểu đồ 1.3 thể hiện sự so sánh giữa số vụ và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh với tổng số vụ và số người phạm tội nói chung trong khu vực Thông qua biểu đồ này, chúng ta có thể nhận thấy mức độ nghiêm trọng của tội phạm lừa đảo trong bối cảnh tội phạm tổng thể tại tỉnh Quảng Ninh.
Trong giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ các vụ án và số người phạm tội liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) tại tỉnh Quảng Ninh không lớn, với 222 vụ án và 257 người phạm tội So với tổng số vụ án hình sự và người phạm tội trên toàn tỉnh, lần lượt là 6.733 vụ án và 11.662 người, tỷ lệ các vụ án và người phạm tội LĐCĐTS chỉ chiếm 3,30% và 2,20%.
Bài viết so sánh chỉ số tội phạm liên quan đến lao động, cư trú, và đời sống xã hội (LĐCĐTS) của tỉnh Quảng Ninh với các chỉ số tương ứng tại thành phố Hải Phòng, Thái Bình và toàn quốc trong giai đoạn 2016 – 2020 Lý do tác giả chọn các tỉnh này là vì dân số trung bình qua các năm gần như tương đương với tỉnh Quảng Ninh và có vị trí địa lý gần gũi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sánh.
Để đánh giá mức độ phổ biến của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, chỉ số tội phạm là một tiêu chí quan trọng Chỉ số này được tính dựa trên tỷ lệ số vụ phạm tội hoặc số người phạm tội trên 100.000 hoặc 10.000 dân, giúp hiểu rõ hơn về tình hình tội phạm trong cộng đồng Việc xem xét chỉ số tội phạm là cần thiết khi đánh giá thực trạng tội phạm tại các địa phương khác nhau trong cùng một khoảng thời gian.
Bảng 1.4 trình bày sự so sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội trung bình liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng, tỉnh Thái Bình, và toàn quốc trong giai đoạn 2016 – 2020, được tính trên 100.000 dân.
Phạm vi Chỉ số tội phạm về số vụ
Chỉ số tội phạm về số người phạm tội
5 PGS.TS Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn, Nxb Công an nhân dân, 2009, tr 207
Cách tính các chỉ số này cụ thể như sau:
Bảng 1.5: Chỉ số tội phạm, chỉ số người phạm tội trung bình của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chỉ số tội phạm về số vụ
Chỉ số tội phạm về số người phạm tội (=(2)*100.000/(3)) 2,94 4,42 3,47 5,21 3,96
Trung bình chỉ số tội phạm về số vụ 3,47
Trung bình chỉ số tội phạm về số người phạm tội 4,00
Nguồn: Tổng cục thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
Bảng 1.6: Chỉ số tội phạm, chỉ số người phạm tội trung bình của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng
Dân số trung bình (Nghìn người) 7 (3) 1980,8 1997,7 2013,8 2033,3 2053,5
Chỉ số tội phạm về số vụ
Chỉ số tội phạm về số người phạm tội
Trung bình chỉ số tội phạm về số vụ 1,24
Trung bình chỉ số tội phạm về số người phạm tội 1,76
Nguồn: Tổng cục thống kê, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
Bảng 1.7: Chỉ số tội phạm, chỉ số người phạm tội trung bình của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình
6 Tổng cục thống kê, https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0201&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB
%91%20v%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng, truy cập ngày 01/08/2021
7 Tổng cục thống kê, https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0201&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20v
%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng, truy cập ngày 01/08/2021
Dân số trung bình (Nghìn người) 8 (3) 1790 1791,5 1793,2 1862,2 1870,3
Chỉ số tội phạm về số vụ
Chỉ số tội phạm về số người phạm tội (=(2)*100.000/(3)) 1,62 1,56 1,45 1,45 1,50
Trung bình chỉ số tội phạm về số vụ 1,30
Trung bình chỉ số tội phạm về số người phạm tội 1,52
Nguồn: Tổng cục thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
Bảng 1.8: Chỉ số tội phạm, chỉ số người phạm tội trung bình của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên cả nước
Dân số trung bình (Nghìn người) 9 (3) 92695,
Chỉ số tội phạm về số vụ
Chỉ số tội phạm về số người phạm tội (=(2)*100.000/(3)) 3,12 2,97 2,80 2,74 2,72
Trung bình chỉ số tội phạm về số vụ 2,15
Trung bình chỉ số tội phạm về số người phạm tội 2,87
Nguồn: Tổng cục thống kê, Tòa án nhân dân tối cao
8 Tổng cục thống kê, https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0201&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20v
%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng, truy cập ngày 01/08/2021
9 Tổng cục thống kê, https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0201&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB
%91%20v%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng, truy cập ngày 01/08/2021
Chỉ số tội phạm về số vụ Chỉ số tội phạm về số người phạm tội
2.87 Tỉnh Quảng Ninh Thành phố Hải Phòng Tỉnh Thái Bình Cả nước
Trong giai đoạn 2016 – 2020, biểu đồ 1.4 cho thấy sự so sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội trung bình về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Ninh với thành phố Hải Phòng, tỉnh Thái Bình và toàn quốc, được tính trên 100.000 dân.
Qua số liệu và biểu đồ, có thể nhận thấy trong 5 năm từ năm 2016 đến năm
Diễn biến của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Theo Giáo trình tội phạm học của Đại học Luật Hà Nội, diễn biến của tội phạm được định nghĩa là sự thay đổi về mức độ và tính chất của tội phạm trong một khoảng thời gian nhất định tại một không gian cụ thể.
Nghiên cứu tình hình tội phạm LĐCĐTS tại tỉnh Quảng Ninh giúp dự đoán xu hướng phát triển của loại tội phạm này trong tương lai Qua đó, việc này hỗ trợ xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả, phù hợp với thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội LĐCĐTS nói riêng.
1.3.1 Diễn biến của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016-2020 xét về mức độ
1.3.1.1 Diễn biến số vụ, số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020
Nghiên cứu diễn biến tội phạm LĐCĐTS được thực hiện bằng cách so sánh số vụ và số người phạm tội trong năm 2016, được lấy làm mốc 100% Mức độ tăng giảm của các năm tiếp theo sẽ được phân tích dựa trên số liệu này.
13 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, 2015, tr.120
Bảng 1.25: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số vụ Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh
Số vụ Số người phạm tội
Biểu đồ 1.21: Diễn biến của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Từ năm 2016 đến năm 2020, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) tại tỉnh Quảng Ninh đã có xu hướng gia tăng đáng kể Cụ thể, năm 2017, số vụ và số người phạm tội LĐCĐTS tăng 40% và 52,7% so với năm 2016 Năm 2018, mức tăng này là 17,14% về số vụ và 22,22% về số người Đặc biệt, năm 2019 chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ với 57,14% số vụ và 91,67% số người phạm tội so với năm gốc Năm 2020, số vụ và số người phạm tội LĐCĐTS tiếp tục tăng 20% và 47,22% Để hiểu rõ hơn về tình hình tội phạm LĐCĐTS trong giai đoạn này, tác giả sẽ so sánh số liệu giữa tội phạm LĐCĐTS và các tội phạm xâm phạm sở hữu tại Quảng Ninh trong cùng khoảng thời gian.
1.3.1.2 So sánh diễn biến của số vụ, số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm
Bảng 1.26 thể hiện mức độ tăng và giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cùng các tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn từ 2016 đến 2020 Thống kê này cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình tội phạm liên quan đến sở hữu tài sản, giúp các cơ quan chức năng có cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh hiệu quả.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Các tội xâm phạm sở hữu
Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016)
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở hữu là những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội Biểu đồ 1.22 thể hiện diễn biến số vụ phạm tội liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 – 2020, cho thấy sự gia tăng đáng kể của các hành vi này Việc hiểu rõ tình hình tội phạm sẽ giúp nâng cao nhận thức và biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở hữu là những vấn đề pháp lý nghiêm trọng tại tỉnh Quảng Ninh Biểu đồ 1.23 thể hiện diễn biến số lượng người phạm tội liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở hữu trong giai đoạn 2016 – 2020 Sự gia tăng của các tội phạm này cần được chú ý và có biện pháp ngăn chặn hiệu quả.
Theo phân tích bảng số liệu và biểu đồ, tội LĐCĐTS và các tội phạm xâm phạm sở hữu có sự biến động tương đồng về số vụ và số người phạm tội Tuy nhiên, mức độ tăng giảm của tội LĐCĐTS lại cao hơn, với số vụ và số người phạm tội gia tăng mạnh mẽ hơn so với các tội xâm phạm sở hữu.
Từ năm 2016 đến năm 2020, số vụ tội LĐCĐTS có xu hướng tăng mạnh, với mức tăng 40% trong năm 2017, 17,14% trong năm 2018, 57,14% trong năm 2019 và 20% trong năm 2020 so với năm gốc Trong khi đó, số vụ tội phạm xâm phạm sở hữu chỉ tăng lần lượt 21,18% (2017), 15,28% (2018), 23,96% (2019) và 1,74% (2020) Điều này cho thấy sự gia tăng đáng kể của tội LĐCĐTS so với tội xâm phạm sở hữu trong giai đoạn này.
Trong năm 2017, số người phạm tội liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) đã tăng 52,78% so với năm 2016, trong khi đó tội xâm phạm sở hữu chỉ tăng 13,48% Sự gia tăng này cho thấy mối lo ngại về tình hình tội phạm liên quan đến lừa đảo ngày càng nghiêm trọng hơn.
Từ năm 2018 đến năm 2020, tình hình tội phạm có sự biến động rõ rệt Cụ thể, năm 2018, số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) tăng 22,22% so với năm gốc, trong khi tội phạm xâm phạm sở hữu chỉ tăng 6,86% Đến năm 2019, tội phạm LĐCĐTS tiếp tục tăng mạnh với 91,67%, trong khi tội phạm xâm phạm sở hữu tăng 19,36% Tuy nhiên, năm 2020 ghi nhận sự giảm nhẹ 0,49% trong tội phạm xâm phạm sở hữu, mặc dù tội phạm LĐCĐTS vẫn tăng 47,22% Điều này cho thấy sự gia tăng đáng kể của tội phạm lừa đảo so với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu.
1.3.1.3 So sánh diễn biến của số vụ, số bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020
Bảng 1.27: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016 – 2020
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội phạm nói chung
Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016
Tỷ lệ so với năm 2016)
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội phạm nói chung
Biểu đồ 1.24 thể hiện sự thay đổi về số vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tội phạm nói chung tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 – 2020 Dữ liệu cho thấy xu hướng tăng hoặc giảm của các vụ lừa đảo, đồng thời phản ánh tình hình tội phạm trong khu vực này Thông qua biểu đồ, có thể nhận thấy những biến động đáng chú ý trong hoạt động tội phạm, góp phần nâng cao nhận thức về an ninh trật tự tại Quảng Ninh.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội phạm nói chung
Biểu đồ 1.25 thể hiện sự biến động của số lượng người phạm tội liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội phạm nói chung tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 – 2020 Số liệu cho thấy xu hướng tội phạm trong lĩnh vực lừa đảo có những thay đổi đáng kể, phản ánh tình hình an ninh trật tự tại địa phương trong thời gian qua.
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên có thể thấy: