Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.
Tính cấp thiết củađềtài
Triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của phong kiến Việt Nam, đã để lại nhiều giá trị văn hóa và lịch sử quan trọng Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời của nhiều bộ sách quý như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Đại Nam nhất thống chí, cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu lịch sử Bên cạnh đó, văn học thời kỳ này phát triển mạnh mẽ, đánh dấu một giai đoạn lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam với chính sách “chấn hưng văn trị” Nhiều tác giả nổi bật, bao gồm các vị vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cùng với các vương công, hoàng tử và tầng lớp Nho sĩ, đã đóng góp hàng nghìn tác phẩm thơ văn Văn học thời kỳ này không chỉ đa dạng về thể loại mà còn phong phú về nội dung, tạo thành một kho tàng giá trị Tuy nhiên, văn chương trong Hoàng tộc triều Nguyễn vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, chưa phản ánh đúng giá trị của nó.
Hoàng đế Thiệu Trị là vị vua thứ 3 triều Nguyễn, trị vì trong 7 năm (1841-
Mặc dù thời gian tại vị không dài, ông đã để lại một di sản văn học phong phú với hàng nghìn tác phẩm, bao gồm 4 tập Ngự chế thi, 2 tập Ngự chế văn và nhiều tập khác như Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, Ngự chế Bắc tuần thi tập, và Ngự chế vũ công thi tập Những tác phẩm này thể hiện sự đa dạng về thể loại và nội dung, góp phần làm phong phú thêm nền văn học thời kỳ đó.
Thiệu Trị nổi bật với nghệ thuật chơi chữ tinh tế, thể hiện những giá trị đặc sắc trong Thi pháp học Nội dung tác phẩm của ông mang âm hưởng thanh tao và chân thành, phản ánh tình yêu quê hương, đất nước, nhân dân và triều đại.
Vua Thiệu Trị không chỉ sáng tác thơ văn vì đam mê mà còn để giáo hóa và chấn hưng văn trị, thể hiện qua tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập" với 157 bài thơ và 72 thể cách Tác phẩm này bao gồm nhiều thể loại thơ cổ kim mà Thiệu Trị đã sử dụng, đặc biệt nổi bật với bài thơ "Vũ trung sơn thủy" theo thể Hồi văn kiêm Liên hoàn, được xem là kiệt tác văn chương Tập thơ thể hiện nghệ thuật chơi chữ tinh tế, phản ánh tâm hồn thi sĩ và giá trị thi học to lớn của Thiệu Trị, đồng thời cho thấy ý thức độc lập trong sáng tác văn chương Hiện nay, bản gốc tác phẩm vẫn được lưu giữ tại TTLTQGIV-Đà Lạt, là một di sản vật thể quý giá của tiền nhân.
Vấn đề cấp thiết hiện nay là thơ văn của Thiệu Trị chưa được nghiên cứu đúng mức, mặc dù ông có một lượng tác phẩm phong phú Ông không chỉ là một vị Hoàng đế mà còn là một tác gia văn học và nhà nghiên cứu thi học quan trọng của văn học thời Nguyễn và trung đại Việt Nam Cần tiến hành nghiên cứu bài bản về nghệ thuật thể cách thi pháp trong thơ văn Ngự chế của ông, đặc biệt là tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập", nhằm khẳng định vị thế và đóng góp của ông cho nền thi pháp học trung đại Việt Nam Danh tiếng và sự nghiệp sáng tác của ông xứng đáng được ghi nhận trong các tác phẩm và từ điển văn học, để các thế hệ sau hiểu rõ hơn về những đóng góp của ông cho văn học trung đại Việt Nam.
Dựa trên những lý do cấp thiết và quá trình tìm hiểu tài liệu, chúng tôi nhận thấy chưa có nghiên cứu sâu về tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập" của Thiệu Trị Do đó, chúng tôi quyết định chọn thơ văn Ngự chế của Thiệu Trị làm đề tài cho luận án Tiến sĩ với tiêu đề: "Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập".
Đối tượng, phạm vinghiêncứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập" Luận án cũng mở rộng đối tượng nghiên cứu đến các văn bản, tư liệu và tác phẩm chữ Hán ghi chép thơ văn của Thiệu Trị để làm cơ sở tham khảo và đối chiếu.
- Nghiên cứu tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tập:Tác giả, văn bản, giá trị nội dung và nghệ thuật của tácphẩm.
Tư liệu khảo sát được giới hạn trong việc tra cứu tại các thư viện và trung tâm lưu trữ như Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia, Thư viện Khoa học Xã hội tại Hà Nội, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV ở Đà Lạt, và Quần thể di tích Cung đình Huế, tất cả đều liên quan đến tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp.
- Các công trình sử học:Đại Nam thực lục (tiền biên, chính biên); Đại
Namnhất thống chí, Đại Nam liệt truyện (tiền biên, chính biên), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, và Châu bản triều Nguyễn là những tài liệu quan trọng được sử dụng làm công cụ tra cứu, giúp làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến nghiên cứu lịch sử Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài bao gồm sách chuyên khảo, sách tham khảo, bài nghiên cứu, và thông tin từ các báo, tạp chí chuyên ngành, khóa luận, luận văn Những nguồn tư liệu này có giá trị sử dụng khác nhau, cung cấp thông tin khái quát và cụ thể về vấn đề nghiên cứu, giúp người viết có cái nhìn tổng thể về sự nghiệp thơ văn và đóng góp của vua Thiệu Trị.
Phương phápnghiêncứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây để khai thác các nội dung nghiên cứu:
Phương pháp văn bản học là một phương pháp đặc thù trong chuyên ngành Hán Nôm, giúp tiếp cận tác phẩm từ góc độ cấu trúc hình thành Mục tiêu của phương pháp này là xác định tính chính xác của văn bản, niên đại hình thành, quá trình truyền bản, lưu trữ, khảo dị đối sánh, và lựa chọn văn bản tối ưu nhất phục vụ cho nghiên cứu.
Phương pháp thi pháp học là một phương pháp nghiên cứu đặc trưng của phương Đông, được áp dụng phổ biến trong việc phân tích thể thức văn học cổ Phương pháp này giúp tìm hiểu và đánh giá các thể cách thi pháp từ thời kỳ cổ đại đến trung đại của Việt Nam và Trung Quốc Mục tiêu chính là so sánh giá trị của những thể cách mà Thiệu Trị đã sử dụng cùng với các thể cách do vua tự sáng tạo trong tập thơ của mình.
Phương pháp nghiên cứu văn học sử bao gồm việc tìm hiểu lịch sử văn học qua các thời kỳ khác nhau, đồng thời khái quát hóa cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của các tác gia Bên cạnh đó, phương pháp này còn tập trung vào việc khai thác những đặc điểm và giá trị nội dung, nghệ thuật của từng tác phẩm văn học.
Phương pháp điền dã là một phương pháp khảo cứu thực địa, nơi chúng tôi trực tiếp đến những địa điểm liên quan đến vua Thiệu Trị, bao gồm Điện Long An với thơ Ngự chế của nhà vua và đồ bản khảm xà cừ hai bài thơ Hồi văn kiêm liên hoàn Chúng tôi cũng đã thăm Xương Lăng, nơi an táng vua Thiệu Trị, và Khiêm Lăng - lăng vua Tự Đức, nơi lưu giữ những bức tranh gương ghi chép thơ của vua Thiệu Trị Ngoài ra, chùa Diệu Đế, nơi nhà vua được sinh ra, và tháp Phước Duyên - chùa Thiên Mụ cũng là những điểm đến quan trọng, giúp chúng tôi có cái nhìn toàn cảnh và bổ sung tư liệu hình ảnh cho nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành:Vận dụng mối liên hệ giữa Hán Nôm với
Văn học và các lĩnh vực liên quan như Lý luận Văn học, Thi pháp học, Lịch sử và Địa lí, đều cung cấp tri thức cần thiết để tiếp cận và phân tích văn bản tác phẩm một cách chính xác và đầy đủ Chúng tôi áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm thống kê, phân loại và so sánh, nhằm nâng cao chất lượng phân tích và hiểu biết về văn học.
Mục tiêu, nhiệm vụnghiên cứu
Quá trình hình thành văn bản và việc xác định, bổ khuyết thiện bản của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập cần được làm rõ Bài viết sẽ tìm hiểu và luận giải về thể cách thi pháp, đặc điểm và giá trị nội dung của tác phẩm Đồng thời, vai trò của Thiệu Trị trong cương vị Hoàng đế cũng như những dữ kiện lịch sử trong giai đoạn trị vì của ông sẽ được phân tích, bên cạnh vị trí của ông như một tác gia văn học và nhà nghiên cứu thi học.
Tương ứng với mục tiêu trên, luận án có nhiệm vụ sau:
- Khái quát tổng quannhữngnghiên cứuliênquan đếnvăn bản tácphẩmNgự chếcổkim thểcáchthipháp tập;giớithiệutác giảThiệuTrị vàsựnghiệp củaông.
Khảo cứu văn bản tác phẩm là quá trình quan trọng nhằm nhận định hình thức của văn bản, xác định thiện bản, và hiệu điểm Việc bổ khuyết thiện bản không chỉ phục vụ cho nghiên cứu luận án mà còn hỗ trợ các nghiên cứu sau này, đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của thông tin trong nghiên cứu văn học.
Nghệ thuật thể cách thi pháp của tác phẩm phản ánh những đặc điểm độc đáo trong phong cách sáng tác của Thiệu Trị Qua tác phẩm, chúng ta có thể nhận diện những đóng góp quan trọng của ông đối với nền thi học trung đại Việt Nam, từ đó khẳng định vị trí và ảnh hưởng của Thiệu Trị trong bối cảnh văn học thời kỳ này.
Tập thơ của Thiệu Trị nổi bật với những đặc điểm nội dung phản ánh sâu sắc quan niệm sáng tác văn chương chủ đạo của ông Qua việc phân tích thể cách thi pháp, ta nhận thấy sự liên kết chặt chẽ giữa hình thức và nội dung, tạo nên một tổng thể hài hòa Những yếu tố thi pháp không chỉ làm nổi bật cảm xúc mà còn thể hiện tư tưởng nghệ thuật đặc sắc, góp phần khẳng định giá trị văn chương của tác phẩm.
Đóng góp mới củaluậnán
Khi tiến hành nghiên cứu, người viết dự kiến những đóng góp của luận án sẽ đạt được như sau:
- Đưa ra đánh giá một cách tổng quan tình hình nghiên cứu về tác phẩmNgựchế cổ kim thể cách thi pháp tậpcủa ThiệuTrị.
Hiện trạng lưu trữ của văn bản tác phẩm cần được xác định rõ ràng, bao gồm việc nhận diện thiện bản và đối chiếu văn bản Đồng thời, việc bổ khuyết nội dung cho thiện bản là cần thiết để phục vụ cho luận án và các nghiên cứu chuyên sâu trong tương lai.
Thiệu Trị đã có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật thể cách thi pháp cho nền thi học trung đại Việt Nam Bài viết sẽ làm sáng tỏ giá trị thể cách của ông, đồng thời phân tích đặc điểm nội dung của tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp" Những đóng góp này không chỉ làm phong phú thêm kho tàng thơ ca mà còn phản ánh sâu sắc tư tưởng và nghệ thuật của thời kỳ đó.
Bài viết phân tích bối cảnh lịch sử thời kỳ vua Thiệu Trị và đánh giá những cống hiến của ông trong lĩnh vực văn học và chính trị đối với xã hội đương thời Qua đó, nó làm nổi bật vị trí của vua Thiệu Trị trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam.
Cấu trúc củaluận án
Tổng quan tình hìnhnghiên cứu
1.1.1 Tưliệu cổ ghi chép thơ Ngự chế và tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thipháp tập của ThiệuTrị a Ghi chép trong chính sử:Trong mục này, chúng tôi bước đầu khảo cứu ở hai bộ chính sử quan trọng là:Đại Nam thực lụcvàĐại Nam nhất thốngchí.
Sách ĐNTL ghi nhận rằng Thiệu Trị đã ra lệnh cho Nội các lựa chọn các bài thơ trong bộ Thiệu Trị Ngự chế thi để biên soạn thành một tác phẩm mang tên Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập Sau đó, tác phẩm này được san khắc và phát hành rộng rãi Chi tiết về vấn đề này được trình bày rõ trong chương 2.
Trong bài viết về thơ ngự chế của Thiệu Trị tại cung Bảo Định, có đề cập đến 12 cảnh thơ đặc sắc, mỗi cảnh mang một ý nghĩa riêng Những cảnh này bao gồm: Cung khai phiên yến, nơi mở tiệc đãi phiên vương; Điện hội từ thần, không gian họp bầy tôi văn học; Các thưởng hồ sơn, nơi ngắm cảnh hồ và núi; Tạ lâm thiên thủy, khung cảnh thủy tạ nhìn trời nước; Hiên đàm kinh sử, nơi bàn luận về kinh sử; Lang nạp yên hà, hành lang chứa mây ráng; Nam y cung khuyết, phía Nam tựa vào cung khuyết; Bắc tiếp viên trì, phía Bắc liền với vườn hồ; Đông quan vạn tỉnh, phía Đông xem muôn cái giếng; Tây lãm thiên phong, phía Tây xem ngàn ngọn núi; và Hạm tĩnh khán hoa, nơi dựa lan can lặng xem hoa Những hình ảnh này không chỉ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn phản ánh tâm tư của thi nhân trong triều đại Thiệu Trị.
12.Song thanh tọa nguyệt(Ngồi ở cửa sổ thưởng trăng sáng)” [64, tr.977; 68, tr.38].
Trong sách ĐNNTC, mục chép về Doanh Châu ghi nhận rằng vào khoảng niên hiệu Thiệu Trị, có một bài thơ thánh chế mô tả 22 cảnh đẹp của Doanh Châu Các cảnh này bao gồm: Gác Hải Tĩnh niên phong, Lầu Vô hạn ý, Lầu Nhật thành, Đường Cát vân, Hiên Tự ấm, Tạ Tứ phương bình định, Tạ trừng tâm, Tạ truyền tâm, Đình Hồ tâm, Đình Quang đứ c, Đình Bát phong tùng luật, Đình Bồng nguyệt, Đình Thất hạm, cùng với một số cảnh khác như Hiên Ấm lục, Thanh khả cư, Tiên sa, An phường, Đảo Thiêu hô, Đảo Trấn bắc, Cầu Kim thủy và Đê Phượng anh.
Trong sách ĐNTLvàĐNNTC, có mục chép về vườn Cơ Hạ, ghi nhận rằng vào đầu triều Thiệu Trị, dinh điện được xây dựng và gọi là viên Thơ thánh chế đã mô tả 14 cảnh đẹp của Cơ Hạ viên, bao gồm: 1 Điện khai văn yến; 2 Lâu thưởng bồng doanh; 3 Các minh tứ chiếu; 4 Lang tập quân phương; 5 Hiên sinh thi tứ; 6 Trai tả thi hoài; 7 Trị lưu liên phưởng; 8 Sơn tủng tùng đình; 9 Nghê kiều tễ nguyệt; 10 Thủy tạ quang phong; 11 Vũ giang thắng tích; 12 Tiên động phương tung; 13 Hồ tâu liễu lãng; 14 Đảo thụ oanh thanh.
Trong sách ĐNNTC, có ghi chép về hồ Tĩnh Tâm trong niên hiệu Thiệu Trị, với thơ thánh chế vịnh 20 cảnh thần kinh, trong đó có cảnh Tĩnh hồ hạ hứng được chạm vào bảng đồng Bên cạnh đó, mục ghi chép về vườn Thư Quang cũng nêu rõ, vào năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), thánh chế thi vịnh 20 cảnh thần kinh, trong đó có cảnh Thư uyển xuân quang cũng được chạm vào bảng đồng.
Vườn Thường Mậu, được xây dựng bởi vua Minh Mạng và ban cho Hoàng tử Miên Tông, là nơi lý tưởng để nghiên cứu kinh sử Nơi đây từng được sử dụng làm chỗ cày ruộng Tịch điền trong đầu niên hiệu Thiệu Trị Có thơ Ngự chế vịnh 10 cảnh trong vườn, bao gồm các cảnh đẹp như Cao lâu thắng thưởng và Thanh trì hương luyện Vườn Thường Mậu cùng với Quốc Tử Giám là những thắng cảnh nổi bật trong Thần kinh nhị thập cảnh, thể hiện qua các bài thơ như Thường Mậu quan canh Ngoài ra, thơ văn trên kiến trúc cung điện và lăng tẩm, đặc biệt là thơ Ngự chế của Thiệu Trị tại điện Long An, phản ánh văn hóa và tâm hồn của người xưa, hiện đang được bảo tồn tại Bảo tàng cổ vật cung đình Huế.
TheosáchĐ N N T C , đ i ệ nL o n g A n (隆 安 殿)làđ i ệ n c h í n h t h u ộ c c u n g Bảo Đ ịn h tr on g T ử Cấm T hà nh, đ ượ c xây d ựn g nă m Th iệ u T rị th ứ 5
Điện Long An, được xây dựng trong thời kỳ thịnh vượng của mỹ thuật cung đình Nguyễn (1845), là nơi thư giãn và ngâm thơ của vua Thiệu Trị Đây còn là chốn nghỉ ngơi của nhà vua sau lễ Tịch điền hàng năm, được coi là một bảo tàng thơ với mục đích thưởng ngoạn thơ phú Thiệu Trị đã cho khắc chạm thơ của mình lên các bức tường bằng nhiều hình thức phong phú, tạo nên vẻ tao nhã cho ngôi điện Nghệ thuật chạm khắc thể hiện đặc trưng ‘nhất thinh nhất họa’ với thơ ca được sơn son thếp vàng, khảm xà cừ và ngà voi Hai gian chính của điện Long An nổi bật với tác phẩm nghệ thuật khảm xà cừ hai bài thơ Vũ Trung Sơn Thủy.
(Nonnướctrongmưa)vàPhướcV i ê n v ă n h ộ i l ư ơ n g d ạ m ạ n n g â m 福園文會良夜漫
Hình thức Hồi văn thể kiêm liên hoàn độc đáo trong thơ của Thiệu Trị tại Đền thờ ở Phước Viên là một bí ẩn nghệ thuật, thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng và chơi chữ Mặt sau của bản đố trong hai bài thơ này đều chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc, được ghi chép trong tác phẩm "Ngự diên văn bảo."
Bài thơ "Cổng hiến minh" của Lương Vũ Đế được trình bày dưới dạng hình tròn, mang ý nghĩa răn dạy bản thân Bên cạnh đó, điện Long An còn sở hữu hàng trăm bài thơ và câu thơ được trích dẫn trang trí, tạo nên vẻ đẹp thanh tao và đậm chất thi tứ cho ngôi điện.
Thơ văn Ngự chế của vua được ghi chép trong các bộ chính sử và các công trình như cung điện, lăng tẩm, đền gác từ thời nhà Nguyễn, thể hiện tính chính thống và chức năng giáo hóa của tác phẩm.
1.1.2 Công trình thư mục học, số hoá về thơ văn Ngự chế của ThiệuTrị a VềT h i ệ u TrịNgựchếthi 紹 治 御 製
詩,theoDisảnHánNômViệtNamthư mục đề yếu, Trần Nghĩa và Francois Gros, thơ ngự chế của Thiệu Trị hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm -
Hà Nội gồm có 3 bản in có mục lục, 1 tựa,1biểu,1bạt,1chí,gồm:ThiệuTrịNgựchếthi 紹治御製詩,kíhiệu:A.135/1-
13;Thiệu Trị Ngự chế thi 紹治御製詩, kí hiệu: VHv.71/1-7 và VHv.72/1-
Thiệu Trị Ngự chế thi (紹治御製詩), mã hiệu VHv.124/1,4,5, là một tác phẩm nổi bật trong thể loại cổ kim thể cách thi pháp Tác phẩm này được ghi chép trong nhiều bộ sách khác nhau, phản ánh sự phong phú và đa dạng của nghệ thuật thơ ca thời kỳ đó.
- A.3052:Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển nhất, lưu trữ tại VNCHN, HàNội.
- A.1960:Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản chép tay gồm 4 quyển, lưu trữ tại VNCHN, Hà Nội.
29 x 17, lưu trữ tại VNCHN, Hà Nội.
- VHv.1165:Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp,62 trang, khổ 27 x 15,5, lưu trữ tại VNCHN, HàNội.
- A.1877:Ngự chế cổ kim thi thể tập sao,54 trang, khổ 29,5 x 19, lưu trữt ạ i VNCHN, Hà Nội.
- R.1597:Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển mục lục, lưu trữ tại TVQG, HàNội.
- R.1598:Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển tam, lưu trữtại TVQG, Hà Nội.
- Tư liệu mộc bản tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tập,4 quyển đang bảo quản tại TTLTQG IV - ĐàLạt.
Nghiên cứu về Mộc bản triều Nguyễn đã tổng hợp số lượng và ký hiệu của các văn bản thơ Ngự chế của vua Thiệu Trị, hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia.
Nghiên cứu về các văn bản tác phẩm Ngự chế thimà tại Đà Lạt hiện vẫn chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sơ lược, chưa đi sâu vào khảo sát cụ thể về văn bản học và giá trị của các tác phẩm này.
1.1.3 Nghiên cứu về tiểu sử, sự nghiệp văn chương của ThiệuTrị a Về tácgiả
Thiệu Trị, vị Hoàng đế thứ 3 của triều Nguyễn, có tiểu sử được ghi chép rõ ràng trong bộ Đại Nam thực lục, chính biên đệ tam kỷ, của Quốc Sử quán triều Nguyễn Bộ sử này ghi lại chi tiết cuộc đời, quá trình trị vì và sự nghiệp sáng tác của ông, là tài liệu chính thống cho các nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Thiệu Trị Viện Sử học đã phiên dịch và xuất bản bộ sử này vào những năm 60 của thế kỷ XX.
Tác giảThiệuTrị
1.2.1 Thân thế cuộc đời và sự nghiệp chínhtrị
Hoàng đế Thiệu Trị (1807-1847), tên thật là Nguyễn Phúc Miên Tông, sinh ngày Nhâm Tý - 11 tháng 5, là vị vua thuộc triều đại Nguyễn Khi lên ngôi, ông đã chọn tên thứ nhất trong Đế hệ, mang tên Nguyễn Phúc Tuyền Theo gia phả, Thiệu Trị là đời thứ 13 tính từ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế Nguyễn Kim, người sáng lập dòng họ Nguyễn Phúc, có quê quán tại tổng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Do kiêng húy tên ông là Tông (宗), các âm và chữ liên quan đã được thay đổi: âm Tông được đọc thành Tôn, chữ Tông thì viết bỏ nét hoặc thay bằng chữ Tôn (尊) Tông Nhân phủ cũng được đổi thành Tôn Nhân phủ Tại Huế, chùa Ấn Tông đã được đổi tên thành chùa Từ Đàm vào năm 1841, và chùa Thiền Tông được đọc thành Thiền Tôn.
Khi mới sinh ra, vua Gia Long đã đến thăm và vui mừng đặt tên cho cậu bé bằng chữ ‘Nhật’ và tự tay viết tên là Dung.
4 Mặc dùđếnđờichúaNguyễnPhúcNguyên(contraichúaNguyễnHoàng,cháunộiNguyễnKim)mớidùngchữPhúc
Nguyễn Kim được xem là vị tổ thứ nhất của dòng họ Nguyễn Phúc, trong khi "福" là tên đệm Vào ngày 16/6/1807 (Đinh Mão), tại ấp Xuân Lộc, Gia Long năm thứ 6, Hoàng tử Miên Tông ra đời là con trưởng của vua Minh Mạng và Hoàng hậu Hồ Thị Hoa Sau khi mẹ qua đời chỉ mười ba ngày sau khi sinh, ông được bà nội chăm sóc trong cung Vua Minh Mạng đã định hướng con đường chính trị cho ông từ sớm, khuyến khích học hỏi về đạo trị nước Năm 1830, ông được phong là Trường Khánh Công và năm 1836, đảm nhận chức vụ Tôn Nhân phủ, chịu trách nhiệm quản lý sổ họ nhà vua và các công việc liên quan đến tước lộc và giáo lệnh.
Hoàng tử Trường Khánh Công là người hiếu thảo, được vua cha yêu quý Ông lớn lên trong thời kỳ thịnh trị của vương triều, trải qua 14 năm dưới triều Gia Long và 21 năm dưới triều Minh Mạng, với sự hướng dẫn của vua Gia Long và Hoàng hậu Thuận Thiên Vua Minh Mạng đã chuẩn bị cho ông kế thừa ngai vàng, thể hiện qua việc truyền đạt ý định truyền ngôi báu trong các buổi lễ tế Nam Giao Ngày 19 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 21 (1840), trước khi qua đời, vua Minh Mạng đã triệu Hoàng tử Miên Tông cùng các đại thần để truyền di mệnh.
Sau khi lên ngôi, vua Thiệu Trị đã cho xây dựng chùa Diệu Đế tại nơi sinh của mình, hiện nằm trên đường Bạch Đằng, phường Phú Cát, TP Huế Chùa được kiến lập vào mùa xuân tháng 3 năm Giáp Thìn (1844) và có bốn chữ lớn "Diệu Đế Quốc Tự" được khắc trước chính điện Bên trái chính điện có án thờ vua Thiệu Trị với thần vị mạ vàng, ghi rõ "Đương kim Thiệu Trị Phật gia vô lượng thọ" Hàng năm, vào ngày 27 tháng 9 âm lịch, Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tổ chức lễ húy kỵ nhà vua tại chùa Diệu Đế, nơi ông được xem là Khai sáng.
6 Trong sáchNghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Ngô Đức Thọ phiên âm là Hồ Văn Vui.
Miên Tông nối ngôi vua SáchĐNTLchính biên, đệ tam kỷ chép sự kiện này như sau:
Hoàng tử Trường Khánh Công, người được kỳ vọng sẽ nối ngôi, đã lên ngôi với niên hiệu Thiệu Trị, trở thành vị vua thứ 3 của triều Nguyễn Tôn chỉ của ông bao gồm Kính thiên, Pháp tổ, Cần chính và Ái dân, thể hiện sự tôn trọng đối với trời đất, noi theo các tiên vương, chăm lo cho chính sự và yêu thương dân chúng Niên hiệu Thiệu Trị mang ý nghĩa tiếp nối thời kỳ thịnh trị, khẳng định con đường cai trị theo dấu chân của các bậc tiền nhân Sách ĐNTL ghi lại sự kiện lên ngôi của vua Thiệu Trị vào ngày Canh Dần, khi ông mặc áo thường và mở hòm Kim Đằng để xem kim sách về đế hệ của Thánh.
Vào ngày Bính Ngọ, 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11/02/1841), vua Thiệu Trị, 34 tuổi, lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hòa, ban hành đại xá và đổi niên hiệu Ông thể hiện lòng kính sợ trước mệnh trời, chăm lo để nối tiếp công lao của Hoàng khảo Dưới triều đại của mình, Thiệu Trị được xem là người hiền hòa, thương dân và siêng năng, nhưng thiếu tính năng động so với vua cha Các định chế pháp luật, hành chính và quân sự chủ yếu được duy trì theo quy củ từ thời Gia Long và Minh Mạng, với ít cải cách mới mẻ Ông chủ yếu tập trung vào việc gìn giữ và phát huy di sản của các vị vua trước, trong khi các quan lại như Trương Đăng Quế, Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Thiếp tích cực hỗ trợ.
Vua Thiệu Trị tập trung vào việc điều hành đất nước bằng đức trị, coi trọng tài đức của những người phục vụ và đặt lợi ích của dân lên hàng đầu Ông tin rằng chính trị phải nuôi dưỡng dân, không sa đà vào xây dựng cung điện xa hoa Vua thận trọng, ghét thói nịnh bợ và luôn ưu tiên pháp luật hơn tình cảm cá nhân Năm 1844, ông ra lệnh cấm ngoại thích tham gia vào công việc chính sự, và điều này được ghi lại tại Văn Miếu ở Phú Xuân Trong những năm thiên tai mất mùa, vua đã gia ân cho dân, tha thuế và hỗ trợ tiền tuất cho những gia đình gặp khó khăn, giúp người dân vượt qua khó khăn.
Vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua Thiệu Trị đã thực hiện một chuyến Bắc tuần quan trọng đến thành Hà Nội để nhận sắc phong từ triều Thanh, có sự tham gia của Sứ thần Bảo Thanh Đây có thể là lần duy nhất vua rời Hoàng cung để thăm nom tình hình các địa phương và khảo sát phong tục tập quán Ngày 20 tháng Giêng năm 1842, vua rời cung bằng cả đường thủy và bộ, cùng Hoàng tử Hồng Nhậm, sau này là vua Tự Đức, trong khi Hoàng tử trưởng Hồng Bảo ở lại Kinh để quản lý việc quân và việc nước Trong hành trình, vua đã thăm hỏi và ban thưởng cho các kỳ lão, đồng thời thực hiện các nghi lễ tại các đền miếu Đặc biệt, vua đã đến Gia Miêu, Tống Sơn, Thanh Hóa để yết lễ Nguyên miếu và bái lăng Trường Nguyên.
Tổ Nguyễn Kim là biểu tượng ghi nhớ công ơn tổ tiên Khi đến Hà Nội, lễ thành tựu được tổ chức, và sau đó, loan giá sẽ trở về kinh đô Phú Xuân vào tháng Tư cùng năm.
Năm Giáp Thìn (1844), vua cho đúc ấn大南皇帝 Đại Nam Hoàng đếvà ấn
Thiệu Trị, vị thần hàn, đã quyết định sử dụng ngọc biếc để làm ấn Từ nay, trong các chuyến tuần thú các địa phương, ban sắc thư ra nước ngoài và những công việc lớn của triều đình, sẽ sử dụng ấn Đại Nam Hoàng đế và ấn Đại Nam thiên tử Điều này nhằm khẳng định đại thống và uy nghiêm của nước Đại Nam hùng mạnh.
7 Vốn dĩ ban đầu vua Thiệu Trị muốn Hoàng tử Hồng Nhậm lưu lại kinh đô để coi sóc việc nước
Vua Thiệu Trị đã bàn với Đại học sĩ Trương Đăng Quế về việc chọn người kế vị, cho rằng Hoàng tử Hồng Bảo, mặc dù tuổi đã lớn, nhưng kiến thức hạn chế khó có thể hoàn thành nhiệm vụ Ông bày tỏ ý muốn giao việc lưu kinh cho Hoàng tử thứ hai, người thông minh hơn Trương Đăng Quế nhấn mạnh rằng quyết định này thuộc về vua Thái hoàng Thái hậu khuyên vua không nên thay đổi truyền thống, cho rằng Hồng Bảo có thể được hỗ trợ bởi các đại thần Tuy nhiên, vua Thiệu Trị đã quyết định để Hồng Bảo lưu kinh và cho Hồng Nhậm theo vua ra Bắc, thể hiện rõ ý định truyền ngôi cho Hồng Nhậm, sau này là vua Tự Đức Điều này chứng tỏ vua Thiệu Trị đã chọn Hồng Nhậm, con thứ hai, làm người kế vị chứ không phải Hồng Bảo, phù hợp với chủ trương của nhà Nguyễn là chọn người có tài đức, đặt lợi ích quốc gia và sự vững mạnh của hoàng tộc lên hàng đầu.
Vào năm Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhà vua đã tổ chức lễ tứ tuần đại khánh, ban ân điển rộng khắp cho muôn dân, giảm tội hình phạt và tha bổng tù nhân, tạo nên không khí ân trạch lan tỏa Cùng năm, một người dân đã dâng tặng ngọc quý, vua xem đó là điềm lành và đã cho khắc ấn Đến năm 1847, ấn được hoàn thành và được cáo với trời đất, tông miếu với nội dung: 大南受天永命傳國璽 (Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ) Hiện nay, ấn này được lưu trữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia, Hà Nội.
Vào giờ Sửu, ngày Quý Mão - 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị qua đời tại chính điện cung Càn Thành, thọ 41 tuổi Ông đã truyền di chiếu cho Hoàng tử thứ hai, Phúc Tuy Công Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, lên nối ngôi, trở thành vua Tự Đức Trong suốt cuộc đời, vua có hơn 30 người vợ và sinh ra 64 người con, bao gồm 29 Hoàng tử và 35 Hoàng nữ Ngoài Hoàng tử thứ hai được di chiếu nối ngôi, Hoàng tử cuối cùng là Nguyễn Phúc Hồng Dật cũng sau này lên ngôi, trở thành vua Hiệp Hòa.
Định hướng nghiên cứu củađềtài
Trong bối cảnh văn bản tác phẩm còn nhiều thiếu sót, bài nghiên cứu “Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập” nhằm khám phá sâu sắc vấn đề văn bản học của tác phẩm này Chúng tôi áp dụng các phương pháp khảo sát tư liệu, khảo dị, đối hiệu và xác định thiện bản để xây dựng một bản hoàn chỉnh về nội dung, đồng thời đánh giá giá trị tác phẩm từ góc độ của nhà nghiên cứu Ngữ văn - Hán Nôm Đề tài tập trung vào những đóng góp của Thiệu Trị về mặt thi học, qua việc vận dụng và phát triển nghệ thuật thể cách thi pháp trong sáng tác thơ ca Nghiên cứu sẽ làm rõ quan niệm thi học và thể cách thi pháp của ông, phân định rạch ròi giữa thể cách cổ nhân và thể cách do chính ông sáng tạo, từ đó khẳng định tài năng và vai trò của Thiệu Trị trong văn học trung đại Việt Nam cũng như những cống hiến của ông đối với nền thi học dân tộc.
Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập tuy là tác phẩm trích từ tổng tập Ngự chế thi của Thiệu Trị, nhưng vẫn tồn tại như một tác phẩm độc lập trong đời sống Luận án nghiên cứu quan niệm của Thiệu Trị về nội dung thơ ca và mối quan hệ giữa nội hàm tác phẩm với thể cách thi pháp Bài viết tìm hiểu giá trị nội dung mà tác giả muốn truyền tải qua tập thơ trong hai vai trò: Hoàng đế và thi sĩ, từ đó cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của Thiệu Trị cùng những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.
Chương 1 đã tiến hành khảo sát thống kê các nghiên cứu liên quan đến đề tài mà trong đó chính yếu là văn bản tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tập Về tác phẩm này, các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu ở các tư liệu thư mục hay chỉ nghiên cứu một vài sáng tác nhất định mà chưa có các nghiên cứu chuyên sâu về văn bản học và cả nội dung, nghệ thuật của tập thơ Tác phẩmnàyhiện được lưu trữ ở 3 nguồn lưu trữ là: VNCHN; TVQG và TTLTQG IV với những hiện trạng khác nhau Trong đó, tại Đà Lạt còn lưu trữ nguồn tư liệu mộc bản quý giá của tác phẩm, đây sẽ là tư liệu gốc có giá trị cao trong công tác nghiên cứu vănbản.
Trong chương 1, chúng tôi tóm tắt về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp chính trị cũng như văn học của Hoàng đế Thiệu Trị, người đã lên ngôi khi mới 34 tuổi.
Vua Thiệu Trị (1841) là một vị vua thông minh, nhân đức và hiếu thuận, sinh ra trong thời kỳ thịnh vượng nhất của vương triều Dưới sự kế thừa những thành tựu chính trị, quân sự, kinh tế và hành chính từ hai vị tiên vương Gia Long và Minh Mạng, ông tiếp tục phát huy giá trị truyền thống của đất nước với ít sự thay đổi.
Trong 7 năm trị vì, ông để lại nhiều thành tựu chính trị tích cực, từ việc dẹp loạn biên cương đến chiến thắng giặc Xiêm La và Cao Miên, bình định trấn Tây Thành Ông cũng chú trọng phát triển văn trị, tổ chức nhiều khoa thi để thu hút nhân tài, đồng thời biên soạn các bộ chính sử và văn chương Sự chăm lo cho mùa màng và đời sống dân chúng đã góp phần tạo ra một xã hội Đại Nam ổn định và hạnh phúc dưới thời Thiệu Trị.
Thiệu Trị để lại một gia tài văn chương phong phú với 16 tập thơ văn ngự chế, khoảng 3.647 bài thơ và nhiều tác phẩm văn khác, thể hiện đam mê sáng tác của ông Thành tựu nổi bật trong sự nghiệp văn chương của ông là những đóng góp về thể cách thi pháp, với tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp" là một ví dụ tiêu biểu Nghiên cứu về văn bản học, đặc điểm nghệ thuật và nội dung của tác phẩm đã giúp đánh giá lại thành tựu của văn học Hoàng tộc triều Nguyễn nói chung và sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị nói riêng.
CHƯƠNG 2: KHẢO CỨU VĂN BẢN
NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP
Chương này tập trung vào nghiên cứu văn bản học, khảo sát sự khác biệt giữa các dị bản và xác định thiện bản, bổ khuyết nội dung cho thiện bản nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu chuyên sâu tác phẩm và phiên dịch Đồng thời, tiến hành khảo cứu phân tích cấu trúc nội dung từng quyển của tác phẩm và đối chiếu với Thiệu Trị Ngự chế thi.
Tên gọi, niên đại và quá trình biên địnhtácphẩm
Xác định nhân duyên hình thành, tên gọi, niên đại và quá trình biên định của tác phẩm Hán Nôm là yếu tố cốt lõi trong nghiên cứu văn bản học Tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thipháp tập" được ghi chép rõ ràng trong chính sử và trong chính tác phẩm, điều này giúp khẳng định giá trị và tính chính xác của nó trong nghiên cứu.
Vào dịp tiết Thanh Minh năm 1847, trong niên hiệu Thiệu Trị thứ 7, sau khi tảo lăng mộ các vị tiên đế, vua Thiệu Trị đã thảo luận về thể cách văn chương với các đại thần Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản.
Vua đã chỉ đạo các quan xem xét kỹ lưỡng các tập thơ Ngự chế, yêu cầu biên soạn lại những nội dung liên quan đến thể cách xưa và nay, nhằm mở rộng tầm hiểu biết cho sĩ phu Sau khi Nội các hoàn thành việc biên soạn, tập thơ được đặt tên là "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập" và đã được dâng biểu xin khắc in Vua đã duyệt và đồng ý bằng chữ "可" (Khả), sau đó hạ lệnh cho Nội các tiến hành khắc in, giao Nguyễn Đăng Giai giám sát công việc này.
Trong quá trình hình thành tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp," Thiệu Trị đã hạ lệnh cho quần thần tuyển chọn các bài thơ trong "Thiệu Trị Ngự chế thi." Đây là một bước quan trọng nhằm biên tập thành một tác phẩm đặc trưng về thể cách thi pháp Vào tháng 2 năm Đinh Mùi (1847), Ngự chế thi mới chỉ được khắc in, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học.
Bài viết đề cập đến việc biên soạn tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp" dựa trên các tập thơ của Thiệu Trị, bao gồm tập sơ (1843) và nhị (1845), cùng với các bản khắc của tam và tứ tập dưới thời Tự Đức (1848) Việc lựa chọn thơ từ Thiệu Trị Ngự chế nhằm đảm bảo tính nhất thống và phù hợp với nội dung của 157 sáng tác được tìm thấy trong 4 tập thơ Qua khảo cứu, tác phẩm này được xem như bản trích lục của Thiệu Trị Ngự chế thi, với bảng tựa đề được đối chiếu trong phần phụ lục.
Tác phẩm được xác định niên đại hình thành vào ngày 9 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7, tức năm 1847 Việc biên soạn tác phẩm hoàn thành sau 7 tháng, bắt đầu từ tiết Thanh Minh tháng 2 đến ngày 9 tháng 9 năm Đinh Mùi Đáng chú ý, vua Thiệu Trị đã qua đời vào ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, chỉ 18 ngày sau khi tác phẩm được hoàn thiện Điều này cho thấy tác phẩm đã được khắc in hoàn chỉnh sau khi vua Thiệu Trị mất.
Tên gọi của tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập" phản ánh ý nghĩa sâu sắc về nguồn gốc và phương pháp sáng tác thơ ca "Ngự chế" ám chỉ việc sáng tác của nhà vua, trong khi "cổ kim" thể hiện sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại "Thể cách" đề cập đến thể loại và cách thức sáng tác, còn "thi pháp" liên quan đến quy luật và phương pháp làm thơ Tóm lại, nhan đề này mang ý nghĩa là tập thơ được sáng tác bởi nhà vua, dựa trên các phương pháp và thể loại thơ ca đã tồn tại từ xưa đến nay.
Một tác phẩm văn chương của Hoàng đế được biên soạn dưới sự chủ trì của Nội các triều đình, mặc dù các đại thần không phải là tác giả chính nhưng họ đóng vai trò quan trọng trong việc khảo hiệu và san khắc tác phẩm Việc nghiên cứu văn bản học Hán Nôm cần mở rộng khái niệm về tác giả, bao gồm những người biên soạn, biên định, hiệu duyệt, sao chép, khắc in, cũng như những người giới thiệu, lưu giữ và truyền bá tác phẩm Tất cả những người này đều tham gia vào quá trình sản sinh và tạo tác văn bản, do đó, cần thiết phải nghiên cứu toàn diện về vai trò của họ trong lĩnh vực này.
Nam liệt truyện chính biênvà các tư liệu liên quan, có thể xác định được danh sách Nội các đại thần tham gia quá trình biên định:
Nguyễn Bá Nghi (1807-1870) là Lễ Bộ Tả Thị Lang, từng đảm nhiệm vị trí Biện Nội các sự vụ và ghi dấu ấn với những thành tích nổi bật Ông có tên tự là Sư Phần, quê quán tại xã Thời Phổ (Lạc Phổ), huyện Mộ Hoa, hiện thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi Năm 1831, ông thi đỗ Cử nhân vào năm Tân Mão, Minh Mạng thứ 12, và sau đó thi đỗ Phó bảng năm Nhâm Thìn.
Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng từ năm 1832, bao gồm Tri huyện, Thự Án sát tỉnh Vĩnh Long, Thự Thị lang bộ Lại, Thị độc Học sĩ, Bố chính An Giang, Tham tri Bộ Lại, Đại thần Cơ mật, Thượng thư bộ Hộ, và Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, với hàm Thự Hiệp biện Đại học sĩ Ông cũng là tác giả của tác phẩm "Sư Phần thi văn".
Tôn Thất Cáp (1814-1862) là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam, từng giữ nhiều chức vụ cao như Công Bộ Hữu Thị lang và Thượng thư bộ Hộ Ông, còn được biết đến với tên gọi Tôn Thất Hiệp, sinh ra tại Phú Xuân, là cháu nội của Lạng Giang Quận Công Tôn Thất Hội và cháu ngoại của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành Là một võ tướng kiệt xuất, ông đã lãnh đạo quân đội chống lại thực dân Pháp tại thành Gia Định, thể hiện tinh thần yêu nước và tài năng quân sự của mình Trong sự nghiệp, ông cũng đảm nhận các vị trí như Thự lang trung bộ Lại, Thự Án sát Khánh Hòa, Tuần phủ Ninh Bình và Tổng đốc An Tịnh.
Nguyễn Cửu Trường (1793-1853) là một nhân vật quan trọng trong triều đại nhà Nguyễn, từng giữ nhiều chức vụ như Tu soạn, Tri phủ Kiến Xương, và Bố chính sứ Hà Nội Ông sinh ra tại huyện Quý Hương, Thanh Hóa, sau đó chuyển đến huyện Lệ Thủy, Quảng Bình Năm 1838, ông thi đỗ Tiến sĩ và được vua Tự Đức đặc biệt yêu mến, ban tặng bài thơ Ngự chế Tuy có tài văn học và từng phục vụ trong Nội các, ông đã qua đời vào năm 1853 do đau mắt, sau khi được vua cho phép nghỉ ngơi tại nhà.
Vũ Phạm Khải (1807-1872) là một nhân vật nổi bật trong lịch sử Việt Nam, sinh ra tại xã Thiên Trì, huyện Yên Mỗ, trấn Thanh Hoa Ngoại (nay thuộc Yên Mạc, Yên Mô, Ninh Bình) Ông thi đỗ Cử nhân năm Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831) và đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như Tri huyện Thanh Chương, Lễ khoa Cấp sự trung và Lang trung Với tên hiệu là Phượng Trì và tự là Đông Dương, ông đã có những đóng góp đáng kể cho nền hành chính thời bấy giờ.
Bộ Hình, Hàn lâm Trực Học sĩ, Sử quán Toản tu, Bố chính Thái Nguyên là những tác giả nổi bật trong lĩnh vực văn học và lịch sử Các tác phẩm tiêu biểu của họ bao gồm Đông Dương văn, Đông Dương văn tập, Lịch đại chính hình thông khảo, Ngu sơn thi văn toàn tập, Ngu sơn văn tuyển, Ngu sơn toàn tập, Phượng Trì văn tập, Tiến lãm văn thảo, và Vũ Đông Dương văn tập Những tác phẩm này không chỉ góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử và văn hóa Đông Dương.
Mai Anh Tuấn (1815-1855) là một học sĩ xuất sắc của Hàn Lâm viện, từng đảm nhiệm chức vụ bí thư Sở hành tẩu Ông có hiệu là Lương Phu, quê quán tại Thạch Giản, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa Sự nghiệp của ông nổi bật trong thời kỳ Thiệu Trị thứ 3.
Phân loại và hiện trạngvănbản
Văn bản tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tậphiện được truyền bản lưu trữ ở 3 nguồn chínhsau:
2.2.1 Tưliệu lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, HàNội a Bảnin
Tại VNCH, có bản in quyển nhất với ký hiệu A.3052, kích thước 27 x 16cm, gồm 47 tờ, mỗi tờ có hai trang, tổng cộng là 94 trang Sách vẫn giữ được tình trạng tốt nhưng thiếu các tờ 7b, 8a, 10b và 11a Ngoài ra, còn có bản chép tay.
Tại VNCHN, hiện còn lưu trữ các bản chép tay với các mã kí hiệu sau: A.1960;VHv.123; VHv.1165; A.1877.
Bản A.1960 là một ấn phẩm có đóng dấu của Viện Viễn Đông bác cổ, với bìa sách mang tên "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập" Sách có kích thước 27 x 16 cm, tình trạng còn nguyên vẹn với khung viền và chữ viết rõ nét, dễ đọc Mỗi trang được chia thành 7 dòng, trung bình mỗi dòng có 24 chữ, với ít nhất 4 chữ trong một dòng Tác phẩm gồm 4 quyển, tổng cộng 97 tờ, mỗi tờ có 2 trang, tương đương 194 trang.
Quyển mục lục gồm 15 tờ, được đánh số trang theo kiểu sách khắc in với tổng cộng 30 trang (mỗi tờ hai trang a, b) Nội dung bao gồm bài Biểu và tổng mục, tuy nhiên, sách có một số sai sót và thiếu sót như: tờ 2b và 3b trùng lặp nội dung; thiếu các mục “Tùng yến thưởng”, “Dụng thiền liên thể”, “Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm” - Tự sáng vi toàn chuyển chu hoàn thể; “Đề Nghiêm Tử lăng đồ”; “Đề Lý Bí đồ” - Hữu nhị chương phỏng chiết tự thi tăng sáng vi giản ước thể; và “Vân thủy đình”.
Phỏng Bạch Lạc Thiên chiết tự thể, bao gồm các tác phẩm như “Phú đắc ký vũ tình diệc giai” và “Quý thu” Tác phẩm của Phỏng Bào Minh Viễn được thể hiện qua số thể nguyên tự, với cấu trúc thập tự kim cải dụng thất ngôn luật Ngoài ra, các bài thơ như “Thủ vỹ ngâm” và “Ngự viên ngẫu đề” cũng góp mặt, thể hiện vẻ đẹp của danh thắng trong thiên nhiên.
+Quyển nhất:gồm 27 tờ, được đánh số trang theo kiểu sách khắc in, mỗi tờ hai trang a, b là 54 trang.
Quyển nhị bao gồm 21 tờ, được đánh số theo kiểu sách khắc in, với tổng cộng 42 trang (hai trang a, b mỗi tờ) Tuy nhiên, nội dung chép còn thiếu một số bài viết quan trọng như phụ lục nguyên thể bài “Tịch giao mục đích”, bài “Sơn tự thiền chung”, bài “Nham hác tiều nhàn” và phụ lục nguyên thể Đặc biệt, đầu đề bài “Giang thôn ngư lạc” cũng được đề cập trong quyển này.
Quyển tam gồm 34 tờ, được đánh số theo kiểu sách khắc in, tương đương với 68 trang, trong đó trang 34b để trống Nội dung bị thiếu bao gồm bài “An biên” từ chữ nguy (危) đến hết bài, phụ lục nguyên thể Kiến trừ thể, bài “Trị công”, và tờ 15a5 thiếu dòng phụ lục nguyên thể Điệp vận trường ca.
3) Bản VHv.1165:Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp,62 trang, khổ 27 x 15,5
4) Bản A.1877:Ngự chế cổ kim thi thể tập sao,54 trang, khổ 29,5 x19.
Trái:Bản inquyển nhất A.3052 tại VNCHN; phải:Bản chép tayA.1960 tại VNCHN
2.2.2 Tưliệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, HàNội
Theo thông tin số hoá ảnh ấn của TVQG, trích dẫn về tác phẩmNgự chế cổkim thể cách thi pháp tập,như sau:
1) KíhiệuR.1600,御製古今體格詩法集,Ngựchếcổkimthểcáchthipháptập (q.01).
2) KíhiệuR 1598,御製古今體格詩法集,Ngựchếcổkim th ể cáchthipháptập (q.03).
3) KíhiệuR.1597,御製古今體格詩法集,Ngựchếcổkimthểcáchthipháptập
Theo đó, tên đề mục giới thiệu và nội dung tác phẩm có những điểm lưu ý sau:
Bản R.1600, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, thực chất thuộc quyển mục lục và có ký hiệu là R.1597 Do đó, TVQG đã nhầm lẫn giữa quyển mục lục và quyển nhất, cũng như ký hiệu của tác phẩm này.
Bản R.1597, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, được xác định là q.05-06 thuộc Thiệu Trị Ngự chế thi tứ tập, ký hiệu R.1600 Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp chỉ bao gồm 4 quyển: 1 quyển mục lục và 3 quyển nội dung chính (quyển nhất, quyển nhị, quyển tam), do đó việc ghi nhận có quyển 5 và quyển 6 là sai Bản này chứa các bài thơ được trích chọn từ tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, dẫn đến sự nhầm lẫn trong thông tin.
-BảnR.1598,御製古今體格詩法集,Ngựchếcổkimthểcáchthipháptập,quyển tam: là đúng nội dungquyển tamcủa tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.
Chúng tôi nhận thấy rằng TVQG đã nhầm lẫn giữa tên gọi và nội dung của hai bản R.1597 và R.1600 Cụ thể, tại TVQG không có bản in quyển nhất - R.1600; còn quyển được gọi là R.1597, q.05-06 thực tế là q.05-06 thuộc Thiệu Trị Ngự chế thi, được TVQG ký hiệu là R.1600 Do đó, tại TVQG chỉ có quyển mục lục, ký hiệu R.1597 và quyển tam, ký hiệu R.1598.
Quyển mục lục ký hiệu R.1597 chứa đựng bài Biểu và tổng mục, với kích thước sách 25 x 16 cm Nội dung đầy đủ, tình trạng sách còn nguyên vẹn, bao gồm trang bìa in mực son đề tên sách "御製古今體格詩法集" cùng ấn triện của vua Thiệu Trị Tổng cộng quyển sách có 45 tờ, mỗi tờ gồm hai trang, tương đương 90 trang.
Quyển tam có ký hiệu R.1598, kích thước 25 x 16 cm, mặc dù bị mối mọt ở một số trang nhưng nội dung vẫn được bảo toàn Sách bao gồm 44 tờ, tương đương 88 trang, tuy nhiên hiện tại thiếu tờ 30.
Trái:Trang bìa bản inNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tậptại TVQG;
Phải:Bản inquyển mục lục R.1597 tại TVQG
Bản inquyển tam R.1598 tại TVQG
2.2.3 Tưliệu mộc bản lưu trữ lại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV, ĐàLạt
Mộc bản triều Nguyễn là nguồn tư liệu lịch sử quý giá và chính xác nhất của triều Nguyễn, hiện được lưu trữ tại TTLTQG IV, Đà Lạt Tại đây, có 34.619 tấm, tương đương 55.320 mặt khắc mộc bản, với 9 chủ đề chính: Lịch sử, Địa lý, Chính trị xã hội, Quân sự, Pháp chế, Tư tưởng Triết học Tôn giáo, Thơ văn, Ngôn ngữ văn tự, và Quan hệ quốc tế, tổng cộng 152 đầu sách với 1.953 quyển Hầu hết các tài liệu này được chế tác trong thời kỳ trị vì của triều Nguyễn (1802-1945) và một phần được chuyển từ Văn miếu Quốc Tử Giám Thăng Long về Quốc Tử Giám Phú Xuân sau khi vua Gia Long thống nhất giang sơn Việc bảo tồn mộc bản triều Nguyễn là cơ sở khoa học quan trọng cho nghiên cứu, khai thác và đối chiếu với các bộ chính sử và tài liệu thư tịch Hán Nôm, đặc biệt là các tác phẩm thơ văn ngự chế của các vị Hoàng đế thời Nguyễn, nhằm bổ sung cho các nghiên cứu văn chương học thuật của thời kỳ này.
Tác phẩm "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp" của Thiệu Trị vẫn còn lưu giữ nguồn tư liệu mộc bản quý giá Nhờ sự hỗ trợ của Phân viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế, chúng tôi đã in được bản sao từ mộc bản lưu trữ tại TTLTQG IV Tác phẩm có kích thước 28 x 15cm, bao gồm 4 quyển: 1 quyển mục lục và 3 quyển nội dung chính, tổng cộng 148 tờ, tương đương 296 trang.
Quyển mục lục của sách có tình trạng rõ nét, với trang bìa in mực son đề tên sách "御製 古今體格詩法集" và khắc ấn triện của vua Thiệu Trị Sách gồm tổng cộng 45 tờ, hiện còn lại 30 tờ, trong đó thiếu 11 tờ chứa nội dung bài Biểu, cùng với các tờ 13, 14, 15, 16 do số mộc bản bị thất lạc, tổng cộng thiếu 15 tờ.
+Quyển nhất:Sách tình trạng rõ nét; tổng số tờ hiện còn là 46 tờ; sách thiếu tờ
47 do mộc bản bị thất lạc.
Quyển nhị của sách tình trạng có 33 tờ, bao gồm cả tờ 27 bị trùng lặp Tuy nhiên, quyển này thiếu các tờ 11, 12, 25, 26, 35 và 36 do mộc bản bị thất lạc Cần tiến hành khảo dị và chỉnh lý để giải quyết sự trùng lặp về số tờ.
+Quyển tam:Sách tình trạng rõ nét, tổng số tờ đầy đủ nội dung củaquyểntamlà
44 tờ, hiện còn lưu trữ 39 tờ, thiếu tờ các tờ: 7; 8; 27 (tờ 27 này xếp nhầm ở Q.2); 37;
38 do số mộc bản bị thất lạc.
Trái:Trang bìabản in mộc bản; phải:Bản inquyển nhất mộc bảntại TTLTQG IV
Bảng 2.1: Thống kê hiện trạng lưu trữ văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thipháp tập
Quyển Bản lưu trữ tại
VNCHN Bản lưu trữ tại
TVQG Bản lưu trữ tại
- Bản chép tay A.1960:C ó quyển mục lục
- Bản in R.1597 - Bản in mộc bản:quyển mụclục
- Bản chép tay A.1960:cónội dungquyểnnhất
- Không có - Bản in mộc bản:quyển nhất
Quyển nhị - Không có bảnin.
- Bản chép tay A.1960:cónội dungquyểnnhị
- Không có - Bản in mộc bản:quyển nhị
Quyển tam - Không có bảnin.
- Bản chép tay A.1960:cónội dungquyểntam
- Bản in R.1598 - Bản in mộc bản:quyển tam
*Nhận xét tình hình văn bản:Văn bản tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thiphápcó các bản hiện lưu trữ ở 3 nguồn:1)tại VNCHN: 1 bản inquyển nhấtA.3052;
Khảo dị, xác định và bổ khuyếtthiện bản
2.3.1 Khảo dị và xác định thiệnbản
Trong nghiên cứu về tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháphiện, bản in mộc bản được coi là nguồn tư liệu gốc quan trọng nhất vì có niên đại cùng thời với tác giả Bản này sẽ được sử dụng làm cứ liệu nòng cốt để đối hiệu với các dị bản khác nhằm khôi phục hoàn chỉnh diện mạo tác phẩm, phục vụ cho việc khảo cứu và phiên dịch Quá trình khảo dị đối hiệu sẽ được thực hiện thông qua việc so sánh giữa các dị bản, bao gồm bản in mộc bản, các bản in (A.3052; R.1597; R.1598) và bản chép tay A.1960 Tất cả nội dung sẽ được kiểm định đối hiệu với Thiệu Trị Ngự chế thi, nguồn tư liệu gốc của thơ Thiệu Trị.
Quy ước ghi chú trong bài viết này nhằm đảm bảo tính nhất quán giữa các bản in, bản chép tay và Thiệu Trị Ngự chế Chúng tôi sẽ ghi chú rõ quyển, số tờ, số dòng ngay dưới nội dung cần khảo hiệu để độc giả dễ dàng theo dõi Kết luận về bản được chọn sẽ được trình bày rõ ràng trong mục nội dung chuẩn xác Lưu ý rằng tác phẩm này chỉ là bản trích lục của Thiệu Trị Ngự chế, do đó nội dung bài Biểu ở quyển mục lục sẽ không có mặt tại đây.
Bảng 2.2: Bảng đối hiệu các dị bản của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp vớiThiệu Trị Ngự chế thi
Quyển Bản in mộc bản Bảnin
Bản chép tay (A.1960) Thiệu Trị
Ngự chế thi Nộidung chuẩnxác
Tờ 1b1: 季冬觸 景偶作 季春觸景偶作 季春觸景偶作
- Tờ 4b:從宴賞 Nb - Tờ 2b và3btrùng lặpnộidung;
- Trong đó tờ 2bchép nhầmnộidung của tờ3b.Vì vậy, bảnnàybỏ sótkhôngchép nộidungcủa tờ b2 vốncó,tương đươngvớinội dung củabảnin bên cạnh
- 從宴賞(用蟬 - 從宴賞(用蟬
(用蟬聯體);池 聯體);池塘初 聯體);池塘初
塘初夏臨興水榭 夏臨興水榭放 夏臨興水榭放
放吟(自創爲旋
轉周環體);題嚴 吟(自創爲旋
轉周環體);題 吟(自創爲旋
轉周環體);題 子陵圖, 題李泌 嚴子陵圖, 題 嚴子陵圖, 題
圖(右二章倣折 李泌圖(右二 李泌圖(右二
字詩增創爲簡約 章倣折字詩增 章倣折字詩增
體); 創爲簡約體); 創爲簡約體);
- Tờ 5a:雲水亭 -雲水亭(倣 -雲水亭(倣
(倣白樂天折字 白樂天折字體- 白樂天折字體-
體-附錄原體); 附錄原體);賦 附錄原體);賦
賦得旣雨晴亦佳 得旣雨晴亦佳 得旣雨晴亦佳
(倣鮑明遠雜數 (倣鮑明遠雜數 (倣鮑明遠雜數
體自一至十字今 體自一至十字 體自一至十字
On September 9, 2023, a new regulation was introduced, marking a significant update to existing laws This change emphasizes the importance of adhering to the latest legal standards As of this date, all relevant parties must comply with the revised guidelines to ensure proper governance and legal conformity.
總數) 又加總數) 又加總數).
- Tờ 5b1-5b4:附 -附錄原體;季 -附錄原體;季
錄原體;季秋 秋(首尾吟); 秋(首尾吟);
(首尾吟);御園 御園偶題每句 御園偶題每句
偶題每句各用園 各用園中名勝; 各用園中名勝;
中名勝;天高地 天高地厚 天高地厚.
曉色奇峯 晚色奇峯 晚色奇峯 曉色奇峯 曉色奇峯
覽天地文章 Tờ 10a2:
覽天地文物 覽天地文章 覽天地文章
連環玉形 Tờ 30a5:
連環玉刑 連環玉形 連環玉形
皆全本韻 Tờ 30a4:
皆全本体 皆全本韻 皆全本韻
Tờ 30a5: 押韻 Tờ 30a5:Nb Tờ 13a5: 押体 押韻 押韻
Q.1 Không dị biệt Nb Nb Nb Không dị biệt
Tờ 13b4: 台 Không có Tờ 8a6:
Tờ 13b5: 庭 Nt Tờ 8a6: 朝 庭 庭
Tờ 19b2: 附 Tờ 12a1: 右 附 附
Toàn văn Phụ lục nguyên thể bàiTịch giao mụcđịch 夕郊牧笛
Chép thiếu: toàn vănPhụ lụcnguyên thểbàiTịch giao mục địch 夕郊牧笛.
Không có Phụ lục nguyên thể
Toàn vănPhụlục nguyên thểbàiTịch giaomục địch
附錄原體藏字迴
Toàn văn bàiSơn tự thiền chung 山
Chép thiếu: toàn văn bàiSơn tự
Lời chú thích cho bàiSơn tựthiền chung thiền chung 山寺
禪鐘; Lời chú thích cho bàiSơn tự thiền chung chung 山寺禪
鐘; Lời chú thích cho bàiSơn tự thiền chung chung 山寺禪
鐘; Lời chú thích cho bàiSơn tự thiền chung
Chép thiếu: toàn văn bàiNham
Nham hác tiều nhàn (巖壑樵閒) là một tác phẩm văn học nổi bật, mang đậm giá trị nghệ thuật và triết lý Tác phẩm không chỉ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn phản ánh tâm hồn con người trong cuộc sống tĩnh lặng Phụ lục nguyên thể của tác phẩm cung cấp thêm thông tin và bối cảnh, giúp người đọc hiểu sâu hơn về nội dung và ý nghĩa của nó Việc nghiên cứu tác phẩm này không chỉ là khám phá văn hóa mà còn là hành trình tìm về những giá trị tinh thần quý báu.
Nt Chép thiếu: Đầu đề bàiGiang thôn ngư lạc 江 Giang thôn ngưlạc 江村漁 樂
Giang thôn ngưlạc 江村漁 樂 lạc 江村漁樂 村漁樂.
Tờ 24b2: 附 Nt Tờ 13b7: 倣 附 附
Nội dung bàiAn biên 安邊: từ
Chép thiếu: Nội dung bàiAn biên
An biên 安邊: chữnguy 危 đến hết bài kết thúc ở chữcao
Bài viết này khám phá từ "nguy" (危) và cách nó được sử dụng trong các ngữ cảnh khác nhau, từ đầu đến cuối Từ "nguy" không chỉ mang ý nghĩa về sự nguy hiểm mà còn liên quan đến những khía cạnh khác trong cuộc sống Hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về sự phát triển ý nghĩa của từ này trong các bài viết kết thúc với từ "cao".
皐 cao 皐 皐 皐
Từ tờ 3a7 trở đi chép thiếu Hữu phỏngLương Tuyên Đế Kiến trừ thể
Hữu phỏngLương Tuyên Đế Kiến trừ thể
倣梁宣帝建除體 右倣梁宣帝建 右倣梁宣帝建 và toàn văn Phụ lục nguyên thểKiến trừ thể
除體và Không có Phụ lục nguyên thể
除體và toàn văn Phụ lục nguyên thể
Nội dung bàiTrị công 治功
Từ tờ 3a7 trở đi chép thiếu Nội dung bài
Trị công 治功 Nội dung bài
Phụ lục nguyên thểĐiệp vận trường ca 附錄
Chép thiếu: Phụ lục nguyên thểĐiệp vận trường
Không có Phụ lục nguyên thể
Phụ lục nguyên thểĐiệp vận trường ca 附錄
原體曡韻長歌 ca 附錄原體曡韻 原體曡韻長歌
Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập bao gồm nhiều dị bản với hiện trạng khác nhau, do đó việc xác định thiện bản là cần thiết trong khảo sát văn bản học Hán Nôm Qua công tác khảo dị đối hiệu, bản in mộc bản được xác định là bản tốt nhất trong số các bản hiện có Mặc dù có một số tờ khuyết thiếu do các tấm mộc bản thất lạc, nhưng với giá trị của nguồn tư liệu gốc và sự tồn tại của 4 quyển, chúng tôi kết luận đây là bản đầy đủ nhất Chúng tôi đã quyết định chọn bản in mộc bản làm thiện bản vì những lý do đã nêu.
Thứnhất,mộcbảnlànguồntưliệuđộcbảncủaQuốcSửquántriềuNguyễn,là tư liệu gốc từ thời đại của tác giả được khắc in mộc bản năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), đến nay (năm
Mộc bản khắc thơ ngự chế của vua, được Quốc Sử quán biên tập và thẩm định, đã tồn tại 173 năm, trở thành bản in tốt nhất Quy trình biên tập bao gồm khảo hiệu nội dung và trình vua phê chuẩn trước khi khắc in Tác phẩm được chép cẩn thận, sau đó giao cho bộ phận san khắc để tạo ván in, từ đó xuất bản thành sách và phát hành rộng rãi trong các trường học, cũng như ban tặng cho vương công và quần thần Tư liệu mộc bản sau khi khắc in sẽ được lưu trữ tại Quốc Sử quán.
Sử quán là nguồn tư liệu gốc, chính thống được lưu trữ tại Quốc Sử quán triều Nguyễn, hiện nay tại TTLTQGIV-Đà Lạt Hầu hết các bộ thiết yếu của nước ta phần lớn không còn giữ được bản gốc (thủ bản, nguyên bản) của tác giả, do quá trình truyền bản phức tạp Việc tìm thấy một tư liệu gốc thuộc thời đại của tác giả là vô cùng quý giá và có giá trị quan trọng hàng đầu trong nghiên cứu văn bản học Hán Nôm Do đó, bản in mộc bản được coi là nguồn tư liệu gốc và chính xác.
Thứ hai, bản in mộc bảntác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thipháptại
TTLTQGIV-ĐàLạt bao gồm 4 quyển, trong khi hệ thống bản in hiện tại tại các thư viện chỉ có số lượng rải rác không đủ Mặc dù có 4 quyển bản chép tay, nhưng đây là tư liệu được Viện Viễn Đông Bác Cổ sao chép từ một bản in chưa xác định, có thể cách xa niên đại với thời kỳ xuất bản tác phẩm Hiện tượng sao chép này cũng dẫn đến việc thiếu sót và nhầm lẫn nội dung so với bản in gốc.
Bản in mộc bản đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một văn bản chuẩn mực, đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy cho công tác nghiên cứu Do đó, chúng tôi quyết định chọn bản in mộc bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập làm thiện bản phục vụ cho quá trình nghiên cứu của luận án.
Việc xác định bản in mộc bản là thiện bản, tuy nhiên, do một số tấm mộc bản bị thất lạc, nên việc bổ khuyết nội dung cho văn bản là cần thiết để đảm bảo quá trình nghiên cứu không bị gián đoạn Công tác bổ khuyết văn bản bao gồm việc kiểm định và hiệu đối nội dung bị khuyết của bản in mộc bản với các bản in, bản chép tay và Thiệu Trị Ngự chế thi, nhằm đạt được nội dung hoàn chỉnh nhất.
- Quyển mục lục:Bổ sung11 tờ nội dung bàiBiểu;tờ 13; 14; 15; 16, lấy nguồn từ bản in ảnh ấn tại TVQG, ký hiệu R.1597.
- Quyển nhất:Thiếu tờ 47, lấy nguồn từ bản in tại VNCHN, ký hiệuA.3052.
- Quyển nhị:Thiếu tờ 11; 12; 25; 26; 35; 36; lấy nguồn từquyển nhịthuộcbản chép taytại VNCHN, ký hiệu A.1960, đã qua kiểm định đối hiệu vớiThiệu TrịNgự chế thi,chi tiết như sau:
+ Tờ 11; 12 (gồm tr.11a - 11b; tr.12a - 12b): Chọn nội dung ở bản A.1960 từ chữ thứ 8 (論luận) thuộc tờ 6b6; đến chữ thứ 15 (飲ẩm) thuộc tờ 7b6.
+ Tờ 25; 26 (tr.25a - 25b; tr.26a - 26b): Chọn nội dung ở bản A.1960 từ chữ thứ
8 (碎toái) thuộc tờ 14a3 đến chữ thứ 15 (律luật) thuộc tờ 15a4.
+ Tờ 35; 36 (tr.35a - 35b; tr.36a - 36b): Chọn nội dung ở bản A.1960 từ chữ thứ
12 (此thử) thuộc tờ 20a2; đến chữ thứ 3 (翼dực) thuộc tờ 21a6.
Nội dung quyển nhịtồn tại 2 tờ đánh số thứ tự 27 Qua khảo sát, tờ số 27 thứ nhất chứa nội dung Phụ lục nguyên thể bài thơ Điệp vận trường, thuộc quyển tam Khi so sánh với bản chép tay và Ngự chế, nội dung tờ này hoàn toàn trùng khớp Điều này chứng minh rằng bản gốc tư liệu mộc bản không có lỗi nhầm lẫn trùng lặp, mà nguyên nhân là do phân loại về sau.
- Quyển tam:Thiếu tờ 7; 8; 27 (tờ này xếp nhầm ở q.2); 37; 38, lấy nội dung từ bản in ảnh ấn tại TVQG, ký hiệu R.1598:
+ Tờ 7, 8: Bổ sung nội dung tờ 7, 8 của bản in R.1598.
+ Tờ 27: Bổ sung tờ 27 xếp nhầm ởquyển nhịsang đúng vị trí tạiquyển tam. + Tờ 37, 38: Bổ sung nội dung lấy tờ 37, 38 của bản in R.1598.
Quy ước bảng bổ khuyết quy định rằng nội dung bổ khuyết cho bản in mộc bản chỉ trích dẫn chữ Hán mà không phiên âm hay dịch nghĩa, đồng thời ghi rõ nguồn trích dẫn ở cột cuối cùng Đối với các tờ được trích từ bản chép tay, vị trí chữ sẽ được ghi cụ thể theo tờ và dòng Chúng tôi cũng sẽ đối chiếu và ghi chú số tờ thuộc Thiệu Trị Ngự chế để tăng độ chính xác và tin cậy cho nội dung Tuy nhiên, trong Ngự chế chi, chỉ dẫn tựa đề của các bài Phụ lục nguyên thể mà không chép toàn văn, vì vậy các đoạn chữ Hán chỉ căn cứ vào bản chép tay đã được kiểm định để đảm bảo tính tương thích và chính xác với bản in mộc bản Ngoài ra, nội dung bài Biểu sẽ không có trong Ngự chế vì đây là Biểu cho tập Ngự chế cổ kim thể cách thích hợp.
Bảng 2.3: Bổ khuyết nội dung cho thiện bản
Quyển Nội dung bổ khuyết cho thiện bản
Nguồn trích dẫn 1).Nội dung bàiBiểu 表:
内閣臣等稽首頓首謹奏,爲恭將御製古今體格詩法集,懇請鐫刻頒行以
闡化源用光文治事.
臣等竊惟詩教其來遠矣,根於情而發於聲.詩學豈易言哉.大其規必要
其正,自三百五篇之删定,鏗金振玉至矣無加,歷數千百載之謳歌,掞藻
敷英 俊又復不少.一代有一代之制作.一家有一家之文章.本四詩之四聲,
經三正而三變,緣機觸興,別體殊名,爲騷體爲詩餘,徙步律音之外,有
器銘有琴操,濫觴風雅之先,或似歌似行而綺合羣異,或限字限句而輳
集百難.詩歸古選之所傳,仍多脫簡,玉海度針之見採未免漏巵,紛然萬
籟之皆可爲聲.散之羣書而不一其致,蓋必有筆參造化,渾成法語之方
圓.始能坐策古今,盡作詩城之部典者也.
欽惟皇帝陛下心源鏡宙,理蘊澄天,參兩大而成能,乾坤同其體用,統六
經而出治,日月炳其文章,清暇書樓樂幾餘之講畫.淡如詩舍,廑乙夜之
品題,歐歌雅頌之徽.日新謂盛,敦厚温柔之化.時出不窮,歲每二週詩
成一部,二三四部比初而加富,千萬億年,積數而彌隆,集其大成度越皇
虞而上,示之別趣,兼羅周漢以來.
謂爲詩雖本於性情,而學詩必明夫體格.作者不一,兼之最難,若不會其
On September 9th, 2018, the innovative approach of Bu Hongcai raises the question of how to effectively implement his ideas without a solid foundation in musical theory Despite the skillful artistry of the eight principles, they remain constrained by traditional norms.
蹊,蓋觀於水者必觀其瀾,而進於技者方進於道.
于是蒐羅章法,明示體裁.聖製姓氏一章.宸翰新創諸體,先其大者,推
而廣之,遂沿古近之源流,悉發風騷之淵藪其新創也.天文地輿,文德武
On September 9th of the seventh year, the government experienced a renewal, unveiling previously undiscovered potential The harmony of fishing, woodcutting, farming, and reading came together to inspire poetry, celebrating the beauty of nature and the changing seasons.
禽魚, 復因詩而作對,有縱横之體,有簡約之名,周環則順讀倒讀,分爲
Khảo cứu cấu trúc nội dung văn bản tác phẩmNgự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.56.1 Khảo cứubàiBiểu
Sau khi hoàn thiện việc phục dựng diện mạo cho thiện bản, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và phân tích cấu trúc của từng quyển, từng trang nội dung của tác phẩm "Ngựchế cổ kim thể cách thi pháp tập".
Bài biểu thuộc quyển mục lục từ tờ 1a đến tờ 8a, có hình thức gáy đuôi cá, với chữ 表 Biểu và số tờ khắc chính giữa Mỗi tờ gồm 2 trang, mỗi trang có 7 dòng, mỗi dòng tối đa 16 chữ Các dòng khắc tựa đề hay chú thích được lùi xuống 2 ô chữ, sử dụng chữ Khải rõ nét Nội dung bài biểu bắt đầu từ tờ 1a, khắc: 内閣臣等 稽首頓首謹奏, 為恭將御製古今體格詩法集, 懇請鐫刻頒行, 以闡化源用光文治.
Nội các đã hoàn thành việc biên soạn một tập sách và xin vua xem xét, cho phép khắc in để phổ biến rộng rãi Mục đích của việc này là nhằm làm sáng tỏ và phát huy giá trị của nền văn trị, đồng thời thể hiện sự cẩn trọng trong quá trình soạn thảo.
Trong bài biểu, có hiện tượng viết đài cụm từ tôn xưng như "lưỡng đại 兩 大" (tờ 2b4), "càn khôn 乾 坤" (tờ 2b5) và "Thánh chế tính thị 聖 製 姓 氏" (tờ 4a3), với các chữ được khắc cao hơn so với khung viền sách khoảng một ô chữ Hán Bài biểu này không tìm thấy trường hợp chữ kiêng húy.
Bài Biểu là một tác phẩm quan trọng, giải thích rõ ràng ý nghĩa của văn chương trong việc cai trị đất nước, thể hiện vai trò của văn trị (文治) trong triều đại Sáng tác văn chương không chỉ là để phô diễn tài năng mà còn nhằm giáo hóa và củng cố quyền lực Vua đã noi theo hai vị tiên đế Gia Long và Minh Mạng, đồng thời chú trọng đến việc sưu tầm và phát triển các thể loại văn chương, từ đó tạo ra những thể cách mới, đóng góp giá trị cho nền thi học nước nhà Tập thơ được tuyển chọn từ Thiệu Trị Ngự chế thi gồm 157 chương, sử dụng hơn bảy mươi thể thơ cổ kim, thể hiện sự sáng tạo và tinh tế trong nghệ thuật viết văn của nhà vua.
1q u y ể n m ụ c l ụ c , t r ì n h l ê n n h à v u a n g ự l ã m v ớ i n h a n đ ề :御製古今體格詩法
集 Kính cẩn dâng lên lời tấu thỉnh xin san khắc tác phẩm để ban hành trong quốc độ xưng tụng, lấy đó làm khuôn ngọc để mãi noitheo.
Tờ 7b4 ghi lại niên đại tác phẩm vào ngày 9 tháng 9, năm Thiệu Trị thứ bảy.
7 (1847) Tờ 7b6 khắc một chữ 可 Khả,đây là châu phê của vua Thiệu Trị về việc đồng ý cho phép mang đi khắc in.
Tờ 8a khắc tên 4 vị đại thần dâng Biểu là: Nguyễn Bá Nghi, Tôn Thất Cáp, Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải; trang 8b để trống Nội dung tiếp theo là khắc tên người biên soạn, được đánh số từ tờ 1a1 đến tờ 3a3 khắc tên và chức vụ của đại thần Nội các biên soạn, khảo hiệu, viết chữ, giám sát khắc in mà chúng tôi đã trình bày ở nội dung trên Tờ 2b và 3b để trống Toàn văn bài Biểu đến đây là kết thúc.
2.4.2 Khảo cứu tựa dẫn của các sángtác
Ngoài lời biểu dâng của Nội các đại thần, tập thơ còn bao gồm 3 bài văn tựa cho các sáng tác hoặc từng quyển, cung cấp thông tin về căn nguyên sáng tác và giúp độc giả hiểu rõ hơn về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Chúng tôi đã khảo cứu nội dung các lời tựa theo thứ tự 3 quyển, bắt đầu với quyển nhất, từ tờ 37b4 đến 39a2, cho bài thơ "Trọng thu hòa thục thời hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảohàhạnh".
Trong bài viết, Thiệu Trị thể hiện nỗi lo lắng về việc thu hoạch lúa vào mùa thu, đặc biệt là sự lo ngại về mưa lớn và lũ lụt có thể ảnh hưởng đến quá trình thu hoạch và cuộc sống của người nông dân Sau khi nghe báo cáo từ quần thần rằng công việc thu hoạch đã hoàn thành trước kỳ mưa lũ, ông cảm thấy an tâm hơn.
10 Hán:仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常有默禱何幸
Giữa mùa thu, lúa đã chín vàng, lòng ta lo lắng về nguy cơ lũ lụt dâng cao, thường cầu nguyện cho mùa màng bội thu Thời tiết năm nay thuận lợi, từ đầu tháng tám đến nay, trời ít mưa, dự đoán nước lũ sẽ đến chậm Theo báo cáo từ các quan phủ Thừa Thiên, nông dân đều hài lòng với mùa thu hoạch, cây lúa phát triển tốt nhờ thời tiết lý tưởng Đến ngày 20 tháng tám, hầu hết các nơi đã hoàn tất thu hoạch lúa, năm nay được mùa lớn Nếu cuối tháng có lũ, cũng không còn lo ngại vì tình hình đã ổn định Thời tiết dịu mát, không có cảnh nước dâng cao, tin vui đến như báu vật, khiến ta phấn khởi sáng tác thơ ca Vua Thiệu Trị thường đến ngôi nhà Đạm Như thixá để thưởng cảnh và nghiên cứu sách cổ, nơi ông đã sáng tác nhiều bài thơ trong tập Ngự chế cổ kim.
Heaven observes and cares for the people, especially farmers This year has shown promising signs of a bountiful harvest, with favorable weather from August, characterized by ample sunshine and minimal rain, leading to ripe crops Recent inquiries to the officials in charge of agricultural matters confirm that all counties report a successful autumn harvest, benefiting from timely rains Early crops have been largely gathered, while late crops are nearing completion, with the harvest expected to conclude around the 20th of this month Despite any potential late-season rain, the outlook remains positive for a prosperous yield As of August 20th, the weather has remained clear and pleasant, ensuring a fruitful harvest and bringing joy to the farming community.
In the midst of summer's leisure, there is no greater joy than indulging in the beauty of classic literature The tranquility of a quiet study allows for deep engagement with the wisdom of the ancients As one immerses in poetic reflections, the scenery of thoughts unfolds like a vivid landscape, enriching the mind and spirit.
思.覽天地文章,雲物無限,襟懷集古今體格詩歌,偶然賦咏.
Trong những khoảnh khắc nhàn rỗi, người ta thường tìm đến thiên nhiên và sách vở cổ để thư giãn Suốt mùa hè, không gian yên bình trở thành nơi lý tưởng để thưởng thức văn chương, giúp tâm hồn thanh thản và mở mang tri thức Thi xá Đạm Như đã thể hiện tài năng qua những tác phẩm thơ ca, từ đó khơi gợi cảm hứng từ cảnh vật xung quanh Việc nghiên cứu các thể loại thơ cổ kim không chỉ làm phong phú thêm vốn hiểu biết mà còn góp phần vào sự phát triển của nền văn hóa thời đại Qua bốn mươi chương sáng tác đề vịnh mùa hè, tác giả đã khéo léo kết hợp nhiều thể loại văn chương, nhằm quảng bá và nâng cao giá trị giáo dục cho học sinh trong các trường học.
2.4.3 Khảo cứu nội dung văn bản tácphẩm
Sách có kích thước 28 x 15cm, bao gồm 45 tờ, tương đương với 90 trang nội dung, không tính trang bìa Sách được thiết kế với 2 trang bìa màu mực son, trong đó trang bìa đầu tiên in tựa đề: 御製.
Tập thơ "Ngựchếcổkimthểcáchthi" chứa đựng những hình ảnh tinh xảo như hai rồng chầu mặt trời theo dáng thẳng đứng Trang khắc ấn "Thể Thiên Hành Kiện" và "Thiệu Trị Thần Hàn" được trang trí bằng hình thoi tròn, xung quanh là các họa tiết diềm và lọng Bìa đệm chỉ in tựa đề tập thơ, trong khi nội dung được chia thành ba phần riêng biệt: bài Biểu, danh sách Nội các và mục lục chính.
Quan niệm về thể cách thi pháp củaThiệuTrị
Thi học, theo Hán ngữ đại từ điển, được định nghĩa là khoa học về làm thơ và phân tích thơ ca, trong khi thi pháp chỉ cách thức sáng tác thơ Thi học là lĩnh vực nghiên cứu thơ ca, với nhiều tầng nghĩa và mỗi tầng nghĩa tương ứng với những phạm vi nghiên cứu khác nhau Ngô Kiến Dân chỉ ra rằng thi học có 6 lĩnh vực nghiên cứu, trong đó thể cách thi pháp thuộc về Nghiên cứu kỹ thuật sáng tác và hình thức thơ ca.
Thi pháp là tổng hợp các yếu tố cấu thành thi ca như thể thơ, thi cách, từ pháp, cú pháp, dụng vận và dụng điển, nhằm xây dựng quy luật nghệ thuật Nó tạo ra tiêu chuẩn mỹ học, góp phần vào việc truyền thụ kiến thức và nâng cao khả năng sáng tác.
13 Theo sáchTrung Quốc cổ đại thi học nguyên lícủa Ngô Kiến Dân,Thi học gồm có 6 lĩnh vực nghiên cứu:1)
Nghiên cứu lí luận cơ bản về thi ca bao gồm các khía cạnh như tính chất, nguồn gốc, công năng, giá trị, tác dụng, địa vị và phong cách thơ ca, cũng như các trào lưu trường phái và mối quan hệ giữa thơ ca với các môn nghệ thuật khác Bên cạnh đó, nghiên cứu phạm trù cơ bản của thi học tập trung vào các yếu tố như lục nghĩa, tứ thủy, tỉ, hứng, ngôn chí, duyên tình, tài tính, tải đạo, hư thực, hình thần, phục cổ, thông biến, cảnh giới, ý tượng, khí điệu, phong cốt, phong cách sáng tác thơ ca và các thuật ngữ chuyên môn trong lĩnh vực thơ.
Nghiên cứu kỹ thuật sáng tác và hình thức thơ ca bao gồm việc biện luận và phân tích thể chế thi ca, tìm hiểu nguồn gốc và sự biến đổi của các thi thể thơ ca Bên cạnh đó, khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến sự kế thừa và phát triển của thi thể cũng là một phần quan trọng, đồng thời nghiên cứu khái niệm thipháp để hiểu rõ hơn về quy luật sáng tác trong thơ ca.
Nghiên cứu về các trào lưu sáng tác thơ ca bao gồm việc tìm hiểu khởi nguyên, phân kỳ và tình hình thịnh suy của các trào lưu này Nó cũng đề cập đến sự thay đổi của các dòng chảy lý luận, cùng với các tác giả và tác phẩm tiêu biểu Qua đó, nghiên cứu giúp làm nổi bật sự phát triển của các dòng tư tưởng khác nhau thông qua việc so sánh giữa các tác giả và tác phẩm.
Nghiên cứu về các bộ tổng tập, tuyển tập, biệt tập thi ca hoặc tác phẩm cụ thể yêu cầu một phương pháp nghiên cứu toàn diện Phương pháp này bao gồm việc sưu tập và chỉnh lý tài liệu, xác định chân ngụy, cũng như thực hiện chú thích và phê bình Điều này giúp người nghiên cứu có thể phân tích và đánh giá tác phẩm một cách sâu sắc, dựa trên những phương pháp cố định và có hệ thống.
Nghiên cứu về tác giả và việc hình thành nhóm tác giả có cùng quan điểm sáng tác bao gồm tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân, quan niệm sống, và các mối quan hệ xã hội của tác giả Bên cạnh đó, cần phân tích ảnh hưởng của truyền thừa trong khuynh hướng sáng tác, cũng như vai trò và địa vị của các thành tựu sáng tác trong thi tầng Cuối cùng, khảo sát tình hình hoạt động, phong cách, và sự đánh giá của giới phê bình văn học đối với các quần thể của mỗi trào lưu sáng tác là điều cần thiết.
Lý luận thi ca nghiên cứu và chỉnh lý lịch sử lý luận thơ ca, đồng thời đề cập đến các nguyên tắc cấm kỵ trong sáng tác Thi pháp được hiểu là các phương pháp và quy luật để sáng tác thơ ca Ngoài ra, thi pháp học (詩法學) là ngành khoa học nghiên cứu về nghệ thuật, phương pháp và quy luật sáng tác thơ ca.
Thể cách, hay còn gọi là thể thơ và cách thơ, là yếu tố quan trọng trong sáng tác thơ ca, đặc biệt tại Trung Quốc Nó không chỉ phản ánh cá tính, tâm ý, và cảm xúc của tác giả mà còn là cấu trúc nền tảng cho một tác phẩm thơ Sự phân biệt giữa thể và cách là cần thiết, vì chúng có thể được hiểu là các phương pháp làm thơ khác nhau Trong tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách, Thiệu Trị đã sử dụng các thuật ngữ này với tần suất khác nhau, cụ thể là 59 lần cho thể và 7 lần cho cách Điều này cho thấy sự không rõ ràng trong việc phân định giữa hai khái niệm này, đồng thời mở ra cơ hội nghiên cứu sâu hơn về quan niệm của Thiệu Trị về thể cách trong thơ ca.
Thi pháp là phương pháp và quy luật làm thơ, trong đó quy luật sáng tác chủ yếu liên quan đến âm vận Các phương pháp làm thơ bao gồm nhiều thể loại và cách thức khác nhau, mỗi thể loại có cấu trúc và quy luật riêng Hai phạm trù quan trọng trong sáng tác thơ ca là thể và cách, đóng vai trò trọng tâm trong việc hình thành bài thơ Chúng tôi hiểu rằng mỗi thể cách đều mang những đặc điểm và quy tắc riêng biệt.
Thể thơ, hay còn gọi là thi thể, là khái niệm chỉ thể loại, thể tài và hình thể của một bài thơ, với những tính chất và quy luật riêng biệt Mỗi thể thơ có tên gọi riêng dựa vào nội hàm và hình dạng của nó, chẳng hạn như Liên hoàn thể thể hiện sự liên tục trong câu chữ; Hỏa diệm thể có hình dạng giống như ngọn lửa; Ngư danh thể sử dụng tên các loài cá; và Cung điện thể lấy cảm hứng từ tên gọi của các cung điện Do đó, thể thơ được xác định dựa trên thể loại, thể tài và hình thức hay ý nghĩa của tác phẩm.
Khái niệm về cách (hay còn gọi là thi cách, quy cách) đề cập đến các phương pháp sáng tác và quy tắc âm vận tiêu chuẩn trong thơ ca Triệu Dực, một nhà thơ thời nhà Thanh, đã nhấn mạnh trong tác phẩm "Âu Bắc thi thoại" rằng từ xưa đến nay, thơ ca chưa từng có quy định nào như vậy.
‘格’称者,大歷以后始有.‘齐梁格’、‘ 元和格’,则以诗之宗派而言;‘轆轤格’、‘进退
格’,则律诗中又增限制” [123,t r 5 8 ] / T h ờ i c ổ t r o n g t h ơ v ố n c h ư a c ó k h á i n i ệ m g ọ i l à ‘ c á c h ’ , t ừ s a u t h ờ i v u a Đ ạ i L ị c h n h à Đ ư ờ n g m ớ i b ắ t đ ầ u x u ấ t h i ệ n , ‘ T ề L ư ơ n g c á c h ’ , ‘ N g u y ê n H ò a c á c h ’ , t ứ c l à l ấ y t ô n g p h á i c ủ a b à i t h ơ m à đ ặ t t ê n ; ‘ L ộ c l ô c á c h ’ , ‘ T i ế n t h o á i c á c h ’ , t ứ c l à t h e o v i ệ c g i a t ă n g h ạ n c h ế t r o n g l u ậ t t h i m à g ọ i t ê n N h ư v ậ y , c á c h k h ô n g p h ả i l à t h ể t h ơ n h ấ t đ ị n h m à c h í n h l à c á c h l u ậ t â m v ậ n đ ư ợ c s ử d ụ n g t r o n g m ộ t t h ể n h ư n g t ồ n t ạ i đ ộ c l ậ p v ề m ặ t c ấ u t r ú c C á c h l à m ộ t t i ể u l o ạ i c ủ a t h ể , l à m ộ t b i ệ t t h ể v à s o n g h à n h t ồ n t ạ i v ớ i t h ể t r o n g c ù n g m ộ t b à i thơ.
Phú đắc không phải là một thể thơ mà là một phương pháp sáng tác thơ độc đáo, có thể coi là một biệt thể Nó được hình thành từ việc lấy ý tưởng từ các điển tích, điển cố của thơ ca để tạo ra những tác phẩm mới Bài thơ phú đắc cần thể hiện rõ ràng ý nghĩa của các điển tích, điển cố và có thể sử dụng bất kỳ thể thơ nào Vì vậy, phú đắc chính là một cách thức sáng tác thơ đặc biệt, không chỉ đơn thuần là một thể loại.
Bài thơ “Sơn tự thiền chung” là một ví dụ điển hình về sự kết hợp giữa thể và cách trong thơ ca, được sáng tác theo thể thất ngôn tuyệt với niêm luật chặt chẽ Tác phẩm này không chỉ tuân thủ quy tắc thơ mà còn được bổ sung bởi Thất chính cách, với bảy yếu tố nhật theo Thiệu Trị, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong nghệ thuật thơ.
Nguyệt, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là những yếu tố quan trọng trong bài thơ, với các từ và bộ chữ phải phản ánh ý nghĩa của bảy hình tượng này Thất chính cách không phải là một thể thơ độc lập, mà là phương pháp sử dụng trong sáng tác thơ ca, nhằm tạo nên sự hài hòa và sâu sắc cho tác phẩm.
Thể cách thi phápcổkim
3.2.1 Khái quát thể cách thi pháp cổkim
Thể cách thi pháp cổ kim đề cập đến các phương pháp và quy tắc làm thơ từ xưa đến nay, với khoảng 120 thể cách theo Thiệu Trị Mỗi thời đại và tác giả có những thể cách riêng, bắt nguồn từ thơ ca dân gian và phát triển qua thời gian, nâng cao năng lực truyền tải nội dung và thị hiếu thưởng thức thơ Trong tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, Thiệu Trị đã lựa chọn 57 thể cách cổ kim, từ bài Hoàng ngaca đến Ngư phủ từ, đồng thời giới thiệu thêm 46 thể cách dành cho thơ 4, 5 và 7 chữ Danh sách 57 thể cách bao gồm nhiều loại như Thể minh, Ly hợp thể, Cận thể, và nhiều thể khác, cho thấy sự phong phú và đa dạng trong văn chương Việc phân tích các thể cách này sẽ giúp hậu thế hiểu rõ hơn về di sản văn học của tiền nhân.
Bảng 3.1: Thống kê sáng tác theo đặc trưng thể cách cổ kim
TT Tên thể thơ Tên bài thơ Q
1 銘Thể minh 1.迎遵聖製於齋宮栽松十株各銘銅牌懸示來許 Nghênh tuân
Thánh chế ư Trai cung tài tùng thập chu các minh đồng bài huyền thị lai hứa
2.御筵文寶銘Ngự diên Văn bảo minh Q.1
3.夕蒸霞彩 Tịch chưng hà thái (Thương minh) Q.2
4.空架虹霓 Không giá hồng nghê Q.2
5.日長講誦 Nhật trường giảng tụng Q.2
2 離 合體Ly hợp thể[Dược phương ly hợpthể; Dược danh ly hợp thể]
1.雨聲,其一 Vũ thanh, kỳ nhất Q.1
2.雨聲,其二 Vũ thanh, kỳ nhị Q.1
3.賦得飛空作雨聲 Phú đắc Phi không tác vũ thanh Q.1
4.平橋閒步 Bằng kiều nhàn bộ Q.2
3 近體Cận thể 1.御園偶題每句各用園中名勝 Ngự viên ngẫu đề mỗi cú các dụng viên trung danh thắng
4 首尾吟Thủ vỹ ngâm 1.季春觸景偶作 Quý Xuân xúc cảnh ngẫu tác Q.1
2.據刑部將諸地方春季寧帖彙册呈覽堪慰于懷卽援筆紀事 Cứ
Hình bộ tương chư địa phương xuân quý ninh thiếp vị sách trình lãm kham úy vu hoài tức viên bút kỷ sự
4.晴林鳥語 Tình lâm điểu ngữ Q.1
5.仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常有默禱何幸 Trọng
Thu hòa thục thời hậu dư khủng trị liêu tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh.
6.清宵蟬韻 Thanh tiêu thiền vận Q.2
5 轆轤Lộc lô cách 1.憶昔 ,其一Ức tích, kỳ nhất (điệuThủ vỹ ngâm) Q.1
6 進退格Tiến thoái cách 1.憶昔,其二 Ức tích, kỳ nhị (điệuThủ vỹ ngâm) Q.1
2.曠埜螢燈 Khoáng dã huỳnh đăng Q.2
Bài viết này trình bày về việc sáng tác cổ thể qua việc hồi tưởng những câu thơ của Đỗ Phủ Tác giả đã chọn lọc và trích dẫn một số câu thơ tiêu biểu để tạo thành một tác phẩm cổ thể mới Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong thơ ca cổ điển, đồng thời khám phá sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại trong văn học.
Cao Minh Tam Chương có bốn câu trong chương thứ tư, trong khi Bác Hậu Tam Chương cũng có bốn câu ở chương thứ tư Ngoài ra, Sủng Tuy Tam Chương bao gồm hai câu trong chương thứ hai, bốn câu trong chương thứ tư và sáu câu trong chương thứ nhất.
5.忠良三章章四句 Trung lương tam chương chương tứ cú Q.1
6.慈愛三章章四句 Từ ái tam chương chương tứ cú Q.1
7.孝悌三章章四句 Hiếu đễ tam chương chương tứ cú Q.1 8.造端三章章四句 Tạo đoan tam chương chương tứ cú Q.1
9.友于三章章四句 Hữu vu tam chương chương tứ cú Q.1
10.止信三章章四句 Chỉ tín tam chương chương tứ cú Q.1
11.臨池有會 Lâm trì hữu hội Q.1
12.南風來行 Nam phong lai hành Q.1
8 三言體Tam ngôn thể 1.隴畝耘耡 Lũng mẫu vân sừ Q.2
9 四言體Tứ ngôn thể 1.泛海歸帆 Phiếm hải quy phàm Q.2
10 五言體Ngũ ngôn thể 1.濟川擊楫 Tế Xuyên kích tiếp Q.2
11 三五七 年 九 月 初 九 日言詩Tam ngũ thất ngôn thi
Vào đêm thu, ngày mùng 9 tháng 9 năm 753, Bộ Nguyên Trịnh Doãn Đoan đã sáng tác một bài thơ thất ngôn mang đậm âm hưởng nguyên vận.
2.巖壑樵閒 Nham hác tiều nhàn Q.2
12 一字至十字體Nhất tự chí thập tự thể
1.開卷自勗 Khai quyển tự úc Q.1
1.林泑校獵 Lâm ửu giáo liệp Q.2
Phú đắc không phải là một thể thơ cố định mà là một cách sử dụng trong sáng tác thơ, có thể kết hợp với nhiều thể loại khác nhau Do tính chất hợp thể của nó, việc phân loại một bài thơ theo cách Phú đắc trở nên khó khăn Vì vậy, chúng tôi dựa vào nội dung của từng bài thơ để phân loại cho dễ dàng tra cứu.
1.賦得燕燕于飛 Phú đắc Yến yến vu phi Q.1
2.天庥滋至國慶增隆玉璽應十成壽旦啟十全之美瑶圖徵萬世佳
Năm 2023, nhiều sự kiện quan trọng đã diễn ra, mang đến những cơ hội mới cho sự phát triển Thiên nhiên và văn hóa quốc gia đã được tôn vinh, tạo ra những giá trị bền vững Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân Những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực nghệ thuật và văn học đã góp phần khẳng định bản sắc dân tộc Thông qua những tác phẩm nghệ thuật, chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp và sức mạnh của văn hóa Việt Nam.
Bài thơ "Phú đắc Ngọc tỉ thập thành trưng cát thụy dao đồ vạn thế ứng gia tường" thể hiện ý nghĩa sâu sắc về sự thịnh vượng và may mắn vĩnh cửu Hình ảnh ngọc tỉ biểu trưng cho quyền lực và tài lộc, trong khi những biểu tượng cát tường gợi lên sự bình an và hạnh phúc cho muôn đời sau Tác phẩm khẳng định rằng, với sự phù trợ của những điều tốt đẹp, mọi gia đình sẽ luôn đón nhận phúc lộc và an khang.
4.賦得天和時若繁榮遂 Phú đắc Thiên hòa thời nhược phồn vinh toại
5.賦得地利年豐富庶彰 Phú đắc Địa lợi niên phong phú thứ chương
6.賦得河順鄉村欣案堵 Phú đắc Hà thuận hương thôn hân án đổ Q.1
7.賦得海恬舟楫樂徜徉 Phú đắc Hải điềm chu tiếp lạc thảng dương
8.賦得任才考績森賢輔 Phú đắc Nhâm tài khảo tích sâm hiền phụ
9.賦得感化來賓撫臘羗 Phú đắc Cảm hóa lai tân phủ lạp khương Q.1
10.賦得保定武功清遠裔 Phú đắc Bảo định vũ công thanh viễn duệ
11.賦得振興文治御羣方 Phú đắc Chấn hưng văn trị ngự quần phương
Phú đắc Dân khang, hộ tịch tăng phiên, thịnh quốc thái, bang cơ vĩnh cửu.
14 迴文體兼連環Hồi văn thể kiêm liên hoàn
1.雨中山水 Vũ trung sơn thủy Q.1
15 迴文體Hồi văn thể 1.亭院納凉 Đình viện nạp lương Q.2
16 藏字迴文體Tàngtự hồivănthể/秦觀格
1.夕郊牧笛 Tịch giao mục địch Q.2
Vào mùa xuân, khi mưa bắt đầu tạnh và không khí trong lành, chúng ta có dịp thưởng thức không khí tươi vui của lễ hội Đây là thời điểm lý tưởng để tận hưởng những buổi tiệc tùng, thưởng thức ẩm thực và giao lưu cùng bạn bè tại những khu vườn xinh đẹp Sự kết hợp giữa thiên nhiên và niềm vui lễ hội mang lại cảm giác hạnh phúc và thư giãn cho mọi người.
Bài thơ "Phú đắc Phi không tác vũ thanh" và "Phú đắc Phi tiềm động thực giai xuân ý" gồm ba phần thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và sự chuyển mình của mùa xuân Những âm thanh của mưa rơi và sự sống động của cây cối trong tiết trời xuân được khắc họa sinh động, mang lại cảm giác tươi mới và tràn đầy sức sống Các hình ảnh thơ tạo nên một bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và con người, thể hiện tâm hồn nhạy cảm và tình yêu với cuộc sống.
18 雜數體Tạp số thể 1.冬晴 Đông tình Q.1
2.賦得旣雨晴亦佳 Phú đắc Ký vũ tình diệc giai Q.1
3.蘋洲宿鷺 Tần châu túc lộ Q.2
19 六言體Lục ngôn thể 1.晚眺 Vãn thiếu Q.1
2.古渡孤舟 Cổ độ cô chu Q.2
20 九言體Cửu ngôn thể 1.將雨 Tương vũ Q.1
2.垂堂竹蔭 Thùy đường trúc ấm Q.2
21 折字體Chiết tự thể 1.雲水亭 Vân thủy đình Q.1
2.高閣清居 Cao các thanh cư Q.2
22 姓氏體Tính thị thể 1.人姓 Nhân tính Q.3
23 排律Thể bài luật 1.秋蘭盛開置之座右走筆成咏 Thu lan thịnh khai trí chi tọa hữu tẩu bút thành vịnh
2.冬晴八韻 Đông tình bát vận Q.1
24 唐堯戒Đường Nghiêu giới
1.靜裡觀天 Tĩnh lý quán thiên Q.2
25 歌Ca 1.咸孚沐日 Hàm phu mộc nhật (phỏngKhanh vân ca) Q.2
2.星朗三垣 Tinh lãng tam viên (phỏngViệt nhân ca) Q.2 3.霽光萬宇 Tễ quang vạn vũ (phỏngĐại phong ca) Q.2
4.夜靜銀河 Dạ tĩnh ngân hà (phỏngLâm hà ca) Q.2
5.空山疲馬 Không sơn bì mã (phỏngHoàng Nga ca) Q.2
26 禹鑄鼎繇Vũ Chú đỉnh diêu
1.晚綴雲容 Vãn xuyết vân dung Q.2
27 水僊操Thủy tiên tháo 1.陣來煙雨 Trận lai yên vũ Q.2
28 栢梁體Bách lương thể 1.漢浮玉鏡 Hán phù ngọc kính Q.2
29 雙韻體Song vận thể 1.曉色竒峯 Hiểu sắc kỳ phong Q.2
30 曡韻體Điệp vận thể 1.晴輝秀水 Tình huy tú thủy Q.2
31 全平韻Toàn bằng vận 1.韞玉山輝 Uẩn ngọc sơn huy Q.2
32 全仄體Toàn trắc thể 1.懷珠川媚 Hoài châu xuyên mị Q.2
33 疊字體Điệp tự thể 1.重樓雅望 Trùng lâu nhã vọng Q.2
34 重疊字體Trùng điệp tự thể
1.曲榭遣閒 Khúc tạ khiển nhàn Q.2
35 句句用字體Cú cú dụng tự thể
1.池塘玩月 Trì đường ngoạn nguyệt Q.2
36 扇對格Phiến đối cách 1.風爽吟哦 Phong sảng ngâm nga Q.2
37 楚辭Sở từ 1.江村漁樂 Giang thôn ngư lạc Q.2
38 孤鴈入羣格Cô nhạn nhập quần cách
1.松陂鹿伏 Tùng bì lộc phục Q.2
39 孤鴈出羣格Cô nhạn xuất quần cách
1.萍道魚游 Bình đạo ngư du Q.2
40 口字體Khẩu tự thể 1.談論 Đàm luận Q.3
41 建除體Kiến trừ thể 1.安邊 An biên Q.3
42 宮殿體Cung điện thể 1.治功 Trị công Q.3
43 郡縣名體Quận huyện danh thể
44 四氣體Tứ khí thể 1.賞景 Thưởng cảnh Q.3
45 八音體Bát âm thể 1.煙鎖池塘柳 Yên tỏa trì đường liễu Q.3
46 六府體Lục phủ thể 1.霜濡錦堞蕉 Sương nhu cẩm điệp tiêu Q.3
47 卦名體Quái danh thể 1.漁艇江天樂 Ngư đĩnh giang thiên lạc Q.3
48 各色體Các sắc thể (tứ sắc thể)
1.樵柯水石閒 Tiều kha thủy thạch nhàn Q.3
49 長短句體Trường đoản cú thể
1.耕犁隴畝適 Canh lê lũng mẫu thích Q.3
50 葫蘆韻體Hồ lô vận thể
1.讀卷聖贒歡 Độc quyển thánh hiền hoan Q.3
51 樹名體Thụ danh thể 1.樹標歷歲榮 Thụ tiêu lịch tuế vinh Q.3
52 鳥名體Điểu danh thể 1.禽飛來往遂 Cầm phi lai vãng toại Q.3
53 謎字體Mê tự thể 1.謎語 Mê ngữ Q.3
54 火焰體Hỏa diệm thể 1.春臺 Xuân đài Q.3
55 飛鴈體Phi nhạn thể 1.夀域 Thọ vực Q.3
56 疊韻長歌體Điệp vận trường ca thể
57 倒句體Đảo cú thể 1.品類 Phẩm loại Q.3
3.2.2 Luận giải thể cách thi pháp cổkim
Luận giải là quá trình phân tích và giải mã thông qua nhiều thể loại và cách thức phong phú, đa dạng về âm vận Mỗi thể loại đều có quy tắc riêng, nhưng đều xoay quanh sự biến đổi trong cách luật âm vận Một số thể loại thách thức khả năng giải mã của thi nhân, thể hiện sự sáng tạo trong việc chơi chữ và thơ ca của những người có hiểu biết sâu sắc về âm vận và tài năng văn chương.
Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp của Thiệu Trị bao gồm khoảng 57 thể cách cổ kim, thể hiện sự sáng tạo và cải chế thư pháp độc đáo của ông Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các khái niệm về cách luật của từng thể cách, từ đó áp dụng phương pháp giải mã để khám phá giá trị nghệ thuật của thơ Thiệu Trị Do số lượng thể cách phong phú và quy luật riêng biệt của mỗi thể, chúng tôi sẽ thực hiện phân tích riêng lẻ cho từng thể cách, đồng thời kết hợp các thể cách có cấu trúc tương tự để đưa ra những luận giải sâu sắc hơn.
Cựu thể phi cách luật 舊體非格律 và Cựu thể cách luật 舊 體格律:
Cựu thểhay còn gọi làCổ thểhoặcCổ phongnhư Kinh Thi, Sở từ, Hán Ngụy
Nhạc phủ… thể thơ này không quy định về cách luật, gieo vần tự do nên thường được gọi tên làCựu thể phi cáchluật.
Thơ Cựu thể phi cách luật đã trải qua quá trình phát triển và được các danh sĩ, thi nhân bổ sung quy định về âm vận, từ đó hình thành thể thơ mới gọi là Cựu thể cách luật hay thơ Cận thể Thể thơ này đạt đỉnh cao vào thời Đường và thường được gọi là thơ Đường luật, với cấu trúc gồm 4 hoặc 8 câu, mỗi câu có 5 hoặc 7 chữ Các thể loại bao gồm Thất ngôn bát cú luật, Ngũ ngôn bát cú luật, Thất ngôn tứ tuyệt và Ngũ ngôn tứ tuyệt Trong thơ, quy luật vần bằng trắc và vận cước được tuân thủ chặt chẽ, cùng với các quy định về đối, niêm, và cách gieo vần cho các câu.
Xuyên suốt tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, hai thể thơ này được vận dụng trong hầu hết các bài thơ, hòa trộn với các cách luật và thể thơ riêng biệt Việc phân chia rõ ràng hai thể trên trong tác phẩm chỉ mang tính chất tương đối Ví dụ, bài Vũ trung sơn thủy sử dụng thể Hội văn và Liên hoàn, nhưng sau khi giải mã, bài thơ lại được gieo độc vận, với 4 câu hoặc 8 câu tương đương như một bài thơ Cựu thể cách luật Các bài minh đồng của Thiệu Trị tại Trai cung - Nam Giao cũng mang dáng dấp của thơ Cổ thể Đặc biệt, Thiệu Trị đã đạt đến tầm cao mới với thể thơ Cựu thể cách luật qua hai bài: Vũ trung sơn thủy và Trì đường sơ hạ lâm hứng, sử dụng thể Toàn chuyển chu hoàn (tân sáng) với 56 chữ mỗi bài, tương đương số chữ của bài thất ngôn luật Ông khéo léo sử dụng kỹ xảo dựa trên yếu tố đơn âm tiết, cấu trúc ngữ pháp đặc biệt và sự linh động của từ pháp để thay đổi phương pháp sắp xếp trật tự từ, kết hợp đọc thuận nghịch, xoay trái xoay phải, tạo nên những bài thơ thất ngôn hoàn chỉnh với âm vận và niêm đối Cổ thể và Cận thể có thể xem là hai nội hàm chính trong toàn bộ tác phẩm này.
Nhóm các thể mang màu sắc dân gian :
Các thể ca như Đường Nghiêu, Khanh Vân, Đại Phong, Vũ Chú Đỉnh Diêu, Thương Minh, và Việt Nhân Ca là những lời ca dân gian kết hợp với nhạc điệu, được truyền miệng qua nhiều thế hệ và có thể coi là hình thức sơ khai của thơ Những bài ca này, có niên đại hàng nghìn năm, đã được sử dụng để diễn xướng, ca ngợi chế độ và người tài trong các không gian cộng đồng như lễ hội và đình làng Sự kết hợp giữa hình thức diễn xướng có tiết tấu và không gian cộng đồng đã giúp những bài ca này nhanh chóng lan tỏa trong xã hội, dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều các sáng tác mới mô phỏng hình thức này.
Thể cách thi pháptânsáng
3.3.1 Khái quát thống kê thể cách thi pháp tânsáng
Trong tập thơ "Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp", chúng tôi nhận thấy rằng nhiều thể cách cổ kim của các danh sĩ Trung Hoa khi được Thiệu Trị tiếp nhận đều đã được cải biên hoặc điều chỉnh về hình thức, mà không giữ nguyên thể Điều này đã tạo tiền đề cho ông sáng tạo ra những thể cách thơ ca mới, áp dụng vào quá trình sáng tác của mình Tập thơ ghi nhận 15 thể cách tân sáng, bao gồm: Toàn chuyển chu hoàn thể, Giản ước thể, Thất chính cách, và Bát ngôn thể.
Thập ngôn thể, Thiên văn thể, Địa dư thể, Văn đức thể, Vũ công thể, Quần phương thể, Ngư danh thể, Tập đề thể, Đối thi thể, Liên hoàn thể, và Tung hoành thể là những thể loại văn chương đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của Thiệu Trị Bài viết sẽ lần lượt trình bày khái niệm và phân tích các thể cách này, tương tự như các thể loại cổ kim.
Bảng 3.2: Thống kê sáng tác theo đặc trưng Thể cách tân sáng
TT Tên thể/ cách Tên bài thơ Q
01 自 創爲 旋轉 周環 體Tự sáng vi Toàn chuyểnc h u hoàn thể.
1.池塘初夏臨興水榭放吟 Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm Q.1
02 增創簡約體Tăng sáng
1.題嚴子陵圖 Đề NghiêmTử lăngđồ 2.題李泌圖 ĐềLýBíđồ
03 新創七 年 九 月 初 九 日政格Tân sáng 1.山寺禪鐘 Sơn tự thiền chung Q.2
04 新創八言體Tân sáng Bát ngôn thể
1.倚檻荷香 Ỷ hạm hà hương Q.2
05 新創十言體Tân sáng
1.蘆岸沐鷗 Lô ngạn mộc âu Q.2
06 新創天文 體Tân sáng
07 新創地輿體Tân sáng Địa dư thể
08 新創文德體Tân sáng
09 新創武功體Tân sáng Vũ công thể
10 新創羣芳體Tân sáng
1.花發隨時馥 Hoa phát tùy thời phức Q.3
11 新創魚名 體Tân sáng
1.魚泳淺深泓 Ngư vịnh thiển thâm hoằng Q.3
12 新創集題體Tân sáng Tập đề thể 1.以題爲對爰成律詩 Dĩ đề vi đối viên thành luật thi Q.3
13 新創對詩體Tân sáng Đối thi thể
1.以題爲詩復向前對 Dĩ đề vi thi phục hướng tiền đối Q.3
14 新創連環 體Tân sáng
15 新創縱橫 體體Tân sáng
3.3.2 Luận giải thể cách thi pháp tân sángTânsáng Bátngônthể 新創八言
Bát ngônlà thể thơ do Thiệu Trị tự sáng tạo và quy định cách luật Một bài gồm
64 chữ, 8 câu, mỗi câu 8 chữ và gieo độc vận Đây là điểm khác biệt so với thơ bát cú
Cổ phong ở mục thể cách cổ kim Tìm hiểu bài thơỶ hạm hà hương 倚 檻 荷
香,bàithơnàyđượcgieođộcvậnThượngbìnhtứChi 上 平四 支 thểhiệnở cáccâu 2:trì 池;câu4:kì 奇;câu 6:tư 滋;câu8:tri 知.
Tân sáng Thập ngôn thể 新創十言體:
Thập ngôn là thể thơ độc đáo do Thiệu Trị sáng tạo, với cấu trúc gồm 80 chữ, chia thành 8 câu, mỗi câu 10 chữ và có quy tắc gieo vần độc Bài thơ "Lô ngạn mộcâu" (蘆岸沐鷗) được viết theo thể thơ này, sử dụng vần Khứ thanh nhị thập tứ Kính (去聲二十四).
敬, thể hiện các câu 2:chính 正; câu 4:vịnh 泳; câu 6:tính 性; câu 8:chính 政.
Tân sáng Quần phương thể 新創羣芳體 và Ngư danh thể 新創魚名體:
Quần phương và Ngư danh là hai thể thơ độc đáo do Thiệu Trị sáng tạo, lấy cảm hứng từ các thể Điểu danh và Thụ danh Quần phương tập trung vào tên gọi của các loài hoa cỏ, trong khi Ngư danh sử dụng tên các loài cá để làm thơ Cả hai thể thơ đều tuân theo quy luật của thất ngôn và ngũ ngôn, có thể mở rộng thành thất tuyệt và ngũ tuyệt, với toàn bộ bài thơ được gieo độc vận Bài viết sẽ tìm hiểu sâu hơn về hai thể thơ này.
- Quầnphươngthể:BàiHoapháttùythờiphức 花發隨時馥,làmộtbàithất ngôn luật, có 8 loài hoa cỏ được sử dụng tương ứng với vị trí đầu 8 câu thơ:mẫuđơn
Bài thơ được gieo độc vận vào ngày 9 tháng 9 năm 2019, thể hiện những cảm xúc sâu lắng về các loài hoa như mẫu đơn, thược dược, hà chi, huệ lan, hoàng hoa, đan quế, kim túc và ngọc mai Những hình ảnh trong thơ không chỉ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn chứa đựng ý nghĩa về phương, hương, quang và vương, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống và tâm hồn.
Bài thơ "Ngư vịnh thiển thâm hoằng" sử dụng ngôn ngữ luật để thể hiện vẻ đẹp của các loài cá như côn, kình, phụ, tức, lư và niêm Với hình thức gieo vần thượng bình, bài thơ tạo nên âm điệu hài hòa và sâu lắng Các câu thơ được sắp xếp với các từ khóa như "nhai," "trì," "thì," và "chi," mang lại cảm xúc và hình ảnh sống động về thế giới dưới nước.
Tân sáng Tập đề thể và Tân sáng Đối thi thể là hai thể loại thơ độc đáo do Thiệu Trị sáng tạo Hai thể loại này sử dụng việc lựa chọn và sắp xếp tựa đề của các bài thơ để tạo thành một tác phẩm có tính đối xứng, mang lại sự mới mẻ và sáng tạo trong nghệ thuật thơ ca.
Tựa đề “ngư - tiều - canh - độc” được chọn để thể hiện sự đối xứng trong luật thi Các từ trong câu được sắp xếp theo từng cặp 1 - 2 và 3 - 4, tạo nên sự đối lập về ý nghĩa và tuân theo quy tắc bằng trắc.
漁 艇 江 天樂 Ngư đĩnh giang thiên lạc
樵 柯水 石 閒 Tiều kha thủy thạch nhàn
耕犁隴畝適 Canh lê lũng mẫu thích
讀卷聖贒歡.Độc quyển thánh hiền hoan.
ThểĐối thi: tương tự như bài trên, lấy tựa đề bài thơ có ý nghĩa “hoa -thụ - cầm
- ngư” mà đối xứng theo từng cặp về ý nghĩa và luật bằng trắc.
花發隨時馥 Hoa phát tùy thời phức
樹標歷歲榮 Thụ tiêu lịch tuếvinh
禽飛來往遂 Cầm phi lai vãng toại
魚泳淺深泓.Ngư vịnh thiển thâm hoằng.
Nhóm thể cách tân sáng của Thiệu Trị, được xây dựng dựa trên nguyên tắc sử dụng hư tự để thể hiện ý nghĩa chủ đề, được gọi là Cấm tự thể Các thể loại trong Cấm tự thể bao gồm Thiên văn, Địa dư, Văn phong, Vũ liệt và Thất chính cách Dưới đây là ví dụ về một trường hợp cụ thể cho dạng thơ Cấm tự thể này.
Thất chính cách 七 年 九 月 初 九 日政格:
Thể thơ Thất chính cách được Thiệu Trị sáng tạo và áp dụng trong bài thơ Sơn tự thiền chung Theo chú thích của ông, mỗi câu bảy chữ chứa đựng ý nghĩa của các yếu tố như nhật, nguyệt, thổ, kim, thủy, mộc, hỏa mà không nhất thiết phải theo thứ tự Các hư tự được vay mượn để sử dụng nhưng không được sắp đặt trong câu, và các yếu tố này không xuất hiện trực tiếp, tạo nên Cấm tự thể Thất chính cách sử dụng bảy yếu tố này để sáng tác thơ, thể hiện qua các bộ chữ như Thần (bộ nhật), Lãng (bộ nguyệt), Chung (bộ kim), Thụ (bộ mộc), Phù (bộ thủy), Đăng (bộ hỏa), và Dã (bộ thổ) trong bài thơ Sơn tự thiền chung.
晨熹漸朗林嶔遠 Thần hi tiệm lãng lâm khâm viễn
樹影鋪輝峭壁濃,Thụ ảnh phô huy tiễu bích nùng,
燈撤梵 堂浮曉 鏡 Đăngtriệt Phạmđường phùhiểu kính 煙消
曠 埜 聽 朝 鐘.Yên tiêu khoáng dã thínhtriêu chung Tiếng chuông thiền tịnh của ngôi chùa trênnúi
Mặt trời vừa mọc, ánh sáng trăng dần khuất sau đỉnh núi xa
Bóng muôn cây hiển bày dày đặc trên vách núi cheo leo,
Phạm đường vừa tắt đèn, buổi sớm mặt hồ trong như gương
Cánh đồng rộng khói tan dần, nghe tiếng chuông sớm vọng lại.
- Các hư tự biểu thị 7 yếu tố nhưsau:
Thần hi 晨熹: mặt trời buổi sớm, có bộnhậttức
日;Lãng 朗: ánh sáng trăng khuất xa, có bộnguyệttức
月;Chung 鐘: chuông bằng đồng, có bộkimtức 金;
Thụ 樹: cây, có bộmộctức 木;
Phù 浮: mặt nước nổi, có bộthủytức 水; Đăng 燈: đèn, có bộhỏatức 火;
Dã 埜: cánh đồng, có bộthổtức 土.
Vận dụng Thất chính cách, chúng ta có thể sáng tác một bài thơ tương tự như Thê húc 棲旭, thể hiện hình ảnh ánh sáng mặt trời trên cầu và cây cỏ, sử dụng bộ nhật trong chữ húc để chỉ mặt trời - 日 Sự sáng tạo và nhạy cảm của tâm hồn sẽ quyết định cách chọn lọc và sắp xếp câu chữ theo quy tắc âm vận và cách luật, từ đó tạo ra một bài thất tuyệt Qua ví dụ này, ta nhận thấy thể và cách tuy tách biệt nhưng có thể song hành trong một bài thơ.
Tân sáng Tung hoành thể 新創縱橫 體體:
Thể thơ Tung hoành được Thiệu Trị sáng tạo và áp dụng trong bài thơ Cảnh sắc, cho phép đọc các câu theo chiều dọc và ngang Tên gọi của thể thơ này phản ánh quy luật cơ bản: "tung" nghĩa là dọc, còn "hoành" nghĩa là ngang Bài thơ không bị ràng buộc bởi cách luật cụ thể và có thể bao gồm các thể loại như thất ngôn, ngũ ngôn hay bát cú Cổ phong, Cận thể Sơ đồ đọc bài thơ Cảnh sắc theo thể Tung hoành cho thấy rằng bốn câu đầu được đọc theo chiều dọc trước, tiếp theo là bốn câu sau được đọc theo chiều ngang, tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh với ý nghĩa hợp lý.
遠岫粧新黛 Viễn tụ trangtânđại Ngọn núi được tô điểmmới
輕煙媚早風 Khinh yên mỵtảo phong Làn khói tươi nhẹ bay trướcgió
蘭猶凝露白 Lan do ngưng lộ bạch Hoa lan ngưng đọng giọt sươngtrắng
楓乍染霜紅 30 Phong sạnhiễmsươnghồng Cây phong chợt nhiễm sươnghồng 濯練漏魚藂 Trạc luyện lậungư tùng Đàn cá uốn lượn trong làn nước
Trận nhạn hoành không điểm, đàn nhạn tô điểm giữa trời không; ráng mây như dải lụa đỏ.
印藍浮水天.Ấn lam phù thủythiên Sắc lam trời chiếu trênnước.
Tự sáng Toàn chuyển chu hoàn thể 旋轉周環體:
Thể thơ Toàn chuyển chu hoàn được Thiệu Trị sáng tạo và sử dụng trong bài thơ Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm Bài thơ miêu tả cảnh đẹp đầu hè bên bờ thủy tạ, thể hiện sự tinh tế và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên.
Bài thơ được Thiệu Trị chú thích với nội dung sâu sắc về âm vận và cấu trúc thể thơ Nó sử dụng thể Toàn chuyển chu hoàn, kết hợp với bằng trắc và tám vận, tạo nên sự kỳ diệu khi có thể đọc thành 96 bài thơ khác nhau, tất cả đều tuân theo luật thơ Nội dung bài thơ tương tự như bài Vũ trung sơn thủy, mặc dù có 56 chữ và sử dụng các vận trong Bội văn vận phủ, nhưng phương pháp thể hiện khác nhau Để hiểu rõ hơn về cấu trúc và mật mã trong bài thơ, cần tìm hiểu các thể cách được sử dụng.
- Toàn chuyểncòn gọi làTả toàn hữu chuyển- xoay trái xoay phải, câu thơ đượcđọctheolốiuyểnchuyểnphảitráimàkhôngphảiđườngthẳng.Chuhoàncó
30 Theo chúng tôi, câu này có thể lấy ý trong câu thơ “Thu mãn phong lâm sương diệp hồng
Giá trị thi học củatácphẩm
Nền thi học của một dân tộc bao gồm nhiều khía cạnh của thơ ca và văn chương, được phân chia thành sáu chủ đề nghiên cứu chính: lí luận cơ bản về thi ca, kỹ thuật sáng tác và hình thức thơ ca, các trào lưu sáng tác, nghiên cứu các bộ tổng tập và tác phẩm cụ thể, tác giả và nhóm tác giả, cùng với lý luận thi ca Tác phẩm này được đánh giá dựa trên hai giá trị cốt lõi: giá trị thể cách thi pháp và giá trị tính dân tộc trong văn chương.
Thiệu Trị đã biên soạn tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp với mục đích nâng cao việc sử dụng thể và cách trong sáng tác văn chương, thể hiện rõ chính sách chấn hưng văn trị qua việc tổ chức 11 khoa thi trong 7 năm trị vì, khuyến khích sĩ tử tham gia học tập và thi cử Ông tiếp nhận và cải biên các thể cách cổ kim, tạo ra những dạng thể mới, như trong hai bài thơ Hỏa diệm và Phinh hạn, để làm phong phú thêm phương thức sáng tác Sự phát triển của thể Song thất lục bát từ thể Thất ngôn tuyệt và Lục bát cũng chứng minh tính độc lập và sự khẳng định vị thế của thể thơ dân tộc Thiệu Trị đã kết hợp hai thể Hồi văn và Liên hoàn trong bài Vũ trung sơn thủy và Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm, tạo nên kiệt tác thi hoạ, thể hiện sự linh hoạt của âm luật trong thi pháp cổ kim Sự xuất hiện của 15 thể cách mới đã làm phong phú thêm kho tàng thi pháp trung đại Việt Nam, khẳng định tình yêu và đam mê của ông đối với thi học, đồng thời biến ông thành hình mẫu cho những nỗ lực sáng tạo trong văn chương cho thế hệ sau.
Giá trị dân tộc trong văn chương được thể hiện qua nỗ lực của Hoàng Đế Thiệu Trị trong việc biên soạn các tác phẩm như sách âm vận Thiệu Trị văn quy, nhằm thúc đẩy nền văn học Đại Nam Ông thể hiện ý thức độc lập và tự chủ, không chỉ đơn thuần là cạnh tranh với học thuật Trung Quốc Việc tiếp thu và cải biên từ nền văn minh khác cho thấy sự chọn lọc, giúp giữ gìn bản sắc dân tộc và khẳng định sức sống của nền văn hiến Đại Nam Thiệu Trị mong muốn cung cấp những tài liệu cơ bản phù hợp với quan điểm sáng tác của người Việt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và sáng tác thơ ca cho các thế hệ sau.
Tự điển và Vận phủ của Trung Quốc đã hình thành sự cộng hưởng trong lực lượng sáng tác văn học nước nhà Tập thơ ra đời nhằm mục đích phổ biến những phương thức sáng tác đặc biệt để các danh thần sĩ tử có thể học hỏi và áp dụng Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có danh sĩ đại thần nào thực hiện phỏng tác theo những thể cách được coi là đặc biệt này, như bài Vũ trung sơn thủy với thể cách Hồi văn.
Liên hoànđộc đáo của nghệ thuật dùng chữ, chơi chữ nhưng không thấy tác gia nào làm theo hình thứcnày 31
Thiệu Trị từng khẳng định rằng “nước ta là một đất nước văn hiến” và “văn vật nước ta không kém gì Trung Quốc”, thể hiện niềm tự hào về văn hóa dân tộc Mặc dù là dẫn lời của tiền nhân, nhận định này phản ánh thực trạng xã hội đương thời và ý thức biên soạn tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp cùng sách Thiệu Trị văn quy Điều này chứng tỏ Thiệu Trị xứng đáng được công nhận là một thi sĩ và nhà nghiên cứu, thể hiện tinh thần tự tôn và tụ cường dân tộc của một vị Hoàng Đế Nghiên cứu sự nghiệp sáng tác văn chương của Thiệu Trị cho thấy sự hưng thịnh của nền văn học, phong phú trong văn phong và giá trị của chính sách chấn hưng văn trị dưới triều Nguyễn, khẳng định vị thế của Hoàng đế Thiệu Trị trong lĩnh vực thi học.
Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, và việc cho rằng không có danh sĩ nào đủ trình độ về thể cách thi pháp, âm vận và văn từ để sáng tác là không chính xác Lịch sử đã chứng minh có nhiều bậc danh sĩ tài hoa, bao gồm cả các vị vua, đã đóng góp cho nền văn học.
Tự Đức kế thừa vua Thiệu Trị cùng các Hoàng đệ như Miên Thẩm, Miên Trinh đều là những người có tài năng văn chương, nhưng lại không có ai sáng tác Có thể lý giải nguyên nhân này qua hai điểm chính: Thứ nhất, thể loại Hồi văn thể kiêm liên hoành hay Tự sáng Toàn chuyển chu hoàn thể đòi hỏi kỹ thuật cao và khó áp dụng Thứ hai, trong thời phong kiến, quân vương được coi là tối cao, khiến mọi người không dám vượt mặt để tôn trọng và tránh hệ lụy Nếu có ai đó sáng tác một bài thơ theo hình thức này mà không hay, họ sẽ bị mang tiếng; còn nếu làm quá hay, vượt trội hơn vua, có thể gặp tai họa bất cứ lúc nào, đặc biệt nếu bị các đại thần khác ghen ghét và quy tội, dẫn đến nguy cơ tru di dòng tộc Những lý do này phần nào giải thích vì sao không thấy những tác phẩm kiểu này từ các danh sĩ sau này.
Thi học là nghiên cứu về thơ và các phương pháp sáng tác thơ ca, trong đó thi pháp đóng vai trò quan trọng Khái niệm thể cách thi pháp, theo vua Thiệu Trị, chỉ ra các quy tắc và phương pháp cần thiết để sáng tác thơ Chương này tổng hợp về thể loại và cách thức sáng tác, trong đó thể loại được xác định qua hình thức và nội dung, còn cách thức liên quan đến quy luật sáng tác Thiệu Trị cho rằng thơ xuất phát từ tâm hồn, nhưng việc hiểu biết về thể cách thi pháp là điều thiết yếu để có thể sáng tác thành công Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học thơ và nghiên cứu thi pháp để phát triển khả năng sáng tác.
Trong tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, có 72 thể cách, bao gồm 57 thể cách cổ kim và 15 thể cách tân sáng Chúng tôi đã trình bày khái niệm và cách luật vận hành của từng thể, đồng thời ứng dụng giải mã các bài thơ của Thiệu Trị Với các thể cách cổ kim, chúng tôi khảo cứu khái niệm dựa trên các bài phụ lục nguyên thể của các tác gia Trung Quốc mà Thiệu Trị phỏng tác, từ đó đối chiếu cách luật và thư pháp giữa nguyên thể và thơ của ông Nhiều thể cách được Thiệu Trị tiếp nhận có sự cải chế thư pháp và âm vận, thể hiện ý thức cá nhân và nhu cầu khẳng định giá trị bản thể của ông, đồng thời là tiền đề cho việc sáng tạo thể cách mới Đóng góp của Thiệu Trị trong thi học là sự phong phú trong việc vận dụng nhiều thể cách cổ kim và tân sáng, khẳng định ông đã nghiên cứu sâu sắc âm luật và thể cách Khám phá nghệ thuật thể cách thi pháp của Thiệu Trị mở ra một khía cạnh mới về ông - một thi sĩ đề cao sự toàn mỹ trong văn chương.
Nghiên cứu về thể cách thi pháp cổ kim và tân sáng của tác phẩm này cho thấy chủ ý của Thiệu Trị trong việc tạo ra một đầu sách cơ bản về thể cách sáng tác văn chương cho Đại Nam Việc biên soạn sách về âm vận Thiệu Trị văn quy chứng minh tinh thần độc lập và tự chủ của ông trong lĩnh vực thể cách và âm vận.
Trị trong tư cách một vị thi sĩ Hoàng đế.
CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP
Trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu đặc điểm nội dung thơ ca của Thiệu Trị, nhằm làm rõ quan niệm của ông về văn chương trong vai trò một Hoàng đế sử dụng văn học để trị quốc và một thi sĩ đam mê thiên nhiên Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phân tích mối quan hệ giữa nội dung và thể cách thi pháp trong tác phẩm của ông.
Quan niệm về nội dung thơ ca và mối quan hệ của nó với thể cáchthi pháp
Trước khi tìm hiểu quan niệm sáng tác của Thiệu Trị, chúng tôi sơ lược tìm hiểu quan niệm chung của thời kỳ Văn học trung đại Việt Nam.
4.1.1 Quan niệm về nội dung thơ ca thời trung đại ViệtNam
Trong thời kỳ trung đại, quan điểm "thi dĩ ngôn chí" và "văn dĩ tải đạo" đã xuất hiện mạnh mẽ trong văn chương, đặc biệt là thơ ca của các danh sĩ Theo vua Thuấn, thơ ca không chỉ là hình thức nghệ thuật mà còn là phương tiện giáo hóa muôn dân, giúp truyền đạt tâm tư tình cảm và chí khí của con người Ông nhấn mạnh rằng thơ là lời nói phát ra từ tâm hướng đến một mục đích nhất định, và việc sử dụng thơ ca trong trị quốc là cách để giáo dục những kẻ cứng rắn và kiêu ngạo Lưu Hiệp trong tác phẩm "Văn tâm điêu long" cũng đã khẳng định rằng thơ ca thể hiện chí hướng và cảm xúc tự nhiên của con người, phản ánh bảy tình cảm cơ bản như hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục Văn chương trở thành nơi gửi gắm nỗi lòng trước thế sự và là con đường tiến thân của các danh sĩ xưa.
Quan niệm sáng tác văn chương của tiền nhân thường được thể hiện qua các lời tựa, bạt và cảm khái ngôn hoài Trong tác phẩm "Việt âm thi tập", danh sĩ Phan Phu Tiên đã khẳng định rằng tâm tư của con người luôn có điều gì đó ẩn chứa, và vì vậy thơ ca ra đời nhằm để diễn đạt những điều đó: “Tâm hữu sở chi tất hình ư ngôn, cố thi dĩ ngôn chí dã”.
Nguyễn Tư Giản cho rằng văn chương của thánh nhân và văn nhân có những đặc điểm khác nhau, trong đó văn của văn nhân bao gồm văn nghĩa lý, văn chính sự và văn từ chương, nhưng cốt yếu nằm ở thần, khí, thể và cách Để sáng tác một tác phẩm văn chương xuất sắc, tác giả cần thỏa mãn bốn yếu tố quan trọng: tinh nghĩa, tầm nhìn rộng, trải nghiệm phong phú và kiến thức sâu rộng Tinh nghĩa thể hiện thiên bẩm riêng biệt của mỗi cá nhân, giúp văn bút trở nên điêu luyện Tác giả cần có cái nhìn bao quát về thế sự và thấu cảm với tha nhân, đồng thời phải trải nghiệm thực tế và thu nhận kiến thức từ nhiều nguồn Đọc nhiều sách và nghiên cứu kinh điển cũng là yếu tố quan trọng để tạo ra những câu chữ bay bổng, như Đại thi hào Đỗ Phủ đã từng nói: “Đọc sách nát vạn quyển, hạ bút như có thần.” Những yếu tố này là nền tảng để bước vào thế giới văn chương huyền diệu.
Tình lý là yếu tố cốt lõi của văn chương, được các bậc thánh nhân và danh sĩ văn nhân đề cao từ xưa đến nay Lê Văn Đức từng nói: “Tình dấy ở bên trong mà phát thành thơ, kẻ đa tình xem thơ đó mà cảm xúc với nó” Nguyễn Đức Đạt cũng cho rằng: “Văn chương là cơ bắp của tình lý, tình lý là xương cốt của văn chương” Tình lý thâm sâu là chìa khóa để lời lẽ văn chương trở nên tuyệt diệu, và nó vốn gốc ở tâm, xuất phát thành lời thơ, thể hiện giọng điệu và phong cách sáng tác riêng biệt của mỗi thi, văn nhân Tài năng văn chương không chỉ đến từ học vấn mà còn là thiên bẩm, như Phạm Nguyễn Du từng nói: “Thơ là tài nghệ tài nghệ phần nhiều nảy sinh từ thiên bẩm, chứ không hoàn toàn do học vấn”.
Để tạo ra một tác phẩm văn chương, yếu tố thiên bẩm và tâm hồn nhạy cảm là rất quan trọng, giúp biến những rung động từ trái tim thành lời thơ Bên cạnh đó, hiểu biết về thi pháp cũng là yêu cầu cần thiết để chuyển hóa cảm xúc thành một cấu trúc tác phẩm hoàn chỉnh, từ đó giúp tác phẩm tồn tại vĩnh cửu với thời gian.
4.1.2 Quan niệm về nội dung thơ ca của ThiệuTrị
Thiệu Trị (1807-1841) sống trong nửa đầu thế kỷ XIX, thuộc giai đoạn phát triển rực rỡ của Văn học trung đại Việt Nam Giai đoạn này không chỉ phong phú về nội dung mà còn đa dạng về hình thức, ghi dấu ấn qua những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao Ông tiếp thu sâu sắc thành tựu văn học thời kỳ này, thể hiện qua tư tưởng “thi dĩ ngôn chí”, cho rằng thơ là sự chuyển tải tâm tư và chí khí từ trong lòng ra thành lời Theo ông, thơ là tiếng lòng chân thật, phản ánh cảm xúc và cuộc sống xã hội.
Ngoàiquanniệmtưtưởngsángtácvănchươnglà“thidĩngônchí”,vớitư cáchmộtHoàngđế,ôngđềcaoviệcsángtácthơvănlàđể“chínhgiáohóa”.Điều
32 TheoNguyễnĐăngNa,“10thếkỷVănhọctrungđạiViệtNam đượcchialàm4giaiđoạn:1)ThếkỷX–
Trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến nửa cuối thế kỷ XIX, văn chương được sử dụng như một công cụ để bình trị thiên hạ và giáo hóa muôn dân Việc giảng dạy qua thơ ca không chỉ nhằm mục đích truyền đạt kiến thức mà còn thiết lập một nền văn trị vững mạnh, thông qua việc tổ chức các khoa thi tuyển chọn nhân tài Hoàng đế nhấn mạnh rằng thơ ca không chỉ là phương tiện diễn đạt tình cảm mà còn mang tính giáo dục sâu sắc, khẳng định rằng "không học thơ thì không thể nói được", cho thấy sự quan trọng của việc học tập thơ ca trong việc phát triển nhân cách và trí tuệ.
Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của thơ ca, coi đó là tiếng nói thể hiện tâm tư của trời đất Trong lời tựa của Ngự chế thi sơ tập, ông viết: “Thơ là lòng của trời đất, là nguyên tắc đạo đức cho các vị quân vương, là nguồn gốc của mọi phúc lộc, và là cửu ngọc của muôn vật.”
Thơ ca gắn liền với càn khôn vũ trụ và thiên mệnh, không chỉ là cảm hứng cá nhân mà chứa đựng đạo trời đất Theo quan điểm của ông, thơ là đạo của bậc quân vương, gốc rễ của trăm phúc và cửa ngõ của muôn vật, nâng tầm giáo hóa trong việc trị quốc an dân Lê Quý Đôn nhấn mạnh rằng học vấn của đế vương là để giáo hóa, không chỉ là việc sáng tác văn chương cho thú vui Văn chương của vua cần thiết lập nền trị bình, và chỉ khi việc triều chính nhàn hạ mới có thể thưởng thức thơ ca Thiệu Trị cũng cho rằng trong lúc nhàn rỗi, việc thưởng ngoạn cảnh và đọc sách cổ sẽ dẫn đến việc sáng tác thơ ca tự nhiên Ông khẳng định thơ phải đạt được nét đẹp hài hòa và điều hòa, với yêu cầu hàng đầu là giáo hóa đúng đắn, thể hiện nét đẹp thuần phong mỹ tục trong thơ ca, để mọi nơi đều thừa hưởng ân huệ của trời đất.
4.1.3 Mối quan hệ giữa nội dung thơ ca và thể cách thipháp
Mối quan hệ giữa nội dung và thể cách thi pháp là hai khía cạnh không thể tách rời, có sự tương hỗ lẫn nhau Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích hai yếu tố chính liên quan đến vấn đề này.
Tính gắn kết giữa nội dung và thể cách trong thơ ca là rất quan trọng, thể hiện qua việc sử dụng đúng các phương pháp làm thơ và tuân thủ luật âm vận Một bài thơ hay phải có sự kết hợp hoàn hảo giữa hình thức và nội dung, với việc gieo vần đúng cách Các tác phẩm phá cách tuy có thể thể hiện cá tính của tác giả nhưng chiếm số lượng ít Đối với các danh sĩ xưa, sáng tác thơ không chỉ đòi hỏi tâm hồn nhạy bén mà còn cần hiểu rõ cách luật thơ ca để đảm bảo câu từ rõ nghĩa và thể cách thông suốt, phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa thể cách và nội dung.
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và tính thẩm mỹ thể hiện rõ nét trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn, đặc biệt dưới triều đại Thiệu Trị Ông là người có niềm đam mê với cái đẹp và luôn đề cao sự "toàn mỹ trong văn chương", góp phần nâng cao giá trị nghệ thuật của thời kỳ này.
Việc áp dụng các thể cách độc đáo trong thơ không chỉ gia tăng tính thẩm mỹ mà còn mang đến cho người đọc một trải nghiệm cảm xúc mới Thơ trở thành một tác phẩm nghệ thuật thi hoạ, kết hợp giữa ngôn từ và mỹ thuật, tạo nên một bức tranh sinh động Điều này không chỉ làm tăng giá trị của bài thơ mà còn khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa thi pháp và nội dung truyền tải.
Bài thơ "Vũ trung sơn thuỷ" tại điện Long An - Cố đô Huế không chỉ miêu tả vẻ đẹp cảnh sắc của xứ Huế mà còn thể hiện sự sáng tạo trong kỹ xảo sắp xếp của thể thơ Hồi văn thể kiêm Liên hoàn, tạo nên một hình ảnh nghệ thuật độc đáo như trận đồ bát quái Điều này đã nâng tầm bài thơ từ một tác phẩm thất ngôn bát cú thông thường thành một tác phẩm nghệ thuật văn chương có giá trị thẩm mỹ cao Người đọc không chỉ đơn thuần thưởng thức thơ mà còn bị cuốn hút vào việc tìm hiểu và giải mã ý nghĩa sâu xa của tác phẩm.
Bức tranh thơVũ trung sơn thuỷ-Non nước trong mưa được khảm xà cừ trên đố bản của gian chính điện Long An - Cố đô Huế.
Nội dung thơ ca trong cương vị mộtHoàngđế
Hoàng đế Thiệu Trị đã sử dụng thơ ca như một công cụ để trị nước, điều này tạo nên sự khác biệt so với những danh sĩ thông thường Chủ đề này xuyên suốt các tác phẩm thi ca của ông, thể hiện rõ nét trong toàn bộ tập thơ Những nội dung chính được truyền tải bao gồm việc trị quốc an dân, chăm lo cho nông nghiệp, cầu mong thời tiết thuận lợi và mùa màng bội thu.
4.2.1 Vận dụng tư tưởng Nho giáo trong trị quốc andân
Triều Nguyễn, dưới sự lãnh đạo của Thiệu Trị, đã áp dụng Nho giáo làm nền tảng cho việc cai trị đất nước, với tư tưởng thiên mệnh mà vua cha Minh Mạng đã định hướng Nho giáo khẳng định vua là thiên tử, được trời phái để cai trị dân chúng, do đó, nghi thức tế đàn Nam Giao trở thành một trong những nghi lễ quan trọng nhất của chế độ phong kiến, tạo nên mối liên kết giữa Hoàng đế và vũ trụ Trước khi tiến hành lễ cáo trời đất, nhà vua phải thực hiện trai giới nghiêm ngặt để tâm hồn và thể xác được trong sạch Hành cung trai cung tại đàn Nam Giao là nơi để nhà vua tịnh tâm trước khi thực hiện các nghi lễ tế.
Với vai trò Hoàng đế, Thiệu Trị luôn mong muốn triều đại bền vững và dân chúng được ấm no Ông thể hiện ước nguyện này bằng cách tuân theo pháp chế của các tiên vương và trực tiếp tham gia vào các nghi lễ tế Giao Ngoài ra, ông còn bày tỏ tâm tư qua việc sáng tác 10 bài minh khắc trên biển đồng treo tại Trai cung.
遵 聖製於 齋宮栽 松十 株各銘 銅牌懸 示來 許).Nộid u n g n h ữ n g b à i m i n h v ớ i h à m ý c ầ u n g u y ệ n c h o đ ấ t n ư ớ c t h a n h b ì n h , H o à n g t r i ề u h ư n g t h ị n h d à i l â u , v ữ n g c h ã i n h ư k h í c h ấ t c ủ a c â y t ù n g , đ ư ợ c t h ể h i ệ n q u a n h ữ n g ý thơ:
遵依家法 Tuân ygia pháp Tuân theo giapháp
駕幸齋宮 Giá hạnhtrai cung Ngự đến trai cung
親栽嘉樹 Thân tàigia thụ Thân trồng câytốt
永對宸楓 Vĩnh đối thần phong.Mãi xứngcungvua (其一,Kỳnhất)
Vua đến Trai cung theo phép Hoàng triều để giữ gìn trai giới, cầu mong cho đất nước mưa thuận gió hòa, muôn dân ấm no Cây tùng, biểu tượng cho khí chất người quân tử, hiên ngang giữa trời, với tán cây xanh mát mang ý nghĩa che chở nhân dân Nhà vua đã tự tay trồng cây tùng ở đàn Nam Giao để thể hiện ước nguyện lớn lao này.
百木爲長 Bách mộc vi trưởng Đứng đầu trăm cây
萬古長存 Vạn cổ trường tồn Muôn năm còn mãi
負荷日月 Phụ hà nhật nguyệt Ngày tháng gánh vác
矗翠乾坤 Súc thúy càn khôn Cao vútđất trời (其三,Kỳtam)
Cây tùng, biểu tượng của tinh thần bất khuất và vững chắc, vươn cao giữa bão táp, với rễ sâu cuốn chặt vào lòng đất Bóng mát của cây tùng lan tỏa khắp không gian, khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu Việc trồng cây tùng không chỉ mang lại vẻ đẹp cho cảnh quan mà còn thể hiện ý chí kiên cường, bền bỉ của con người trước thử thách.
Thái đàn tượng trưng cho sự vững chãi của rường cột, nền móng nước nhà, gốc cành nối nhau nghìn vạn năm để quốc gia muôn đời vững mạnh.
明哲君子 Minh triết quân tử Quân tử sáng suốt
正直大夫 Chính trực đại phu Đại phu chính trực
邦國之輔 Bang quốc chi phụ Phò tá quốc gia
伊呂之儔 Y Lữ chi trù Sánh cùngY Lữ (其七 年 九 月 初 九 日,Kỳthất)
Nho giáo nhấn mạnh phẩm chất quân tử và khuyến khích tránh xa hành vi tiểu nhân Qua việc trồng cây tùng và sáng tác minh văn, vua muốn nhắc nhở quần thần sống theo khí chất quân tử Người quân tử cần sáng suốt, còn đại phu phải ngay thẳng, không để quyền lực và lợi ích cá nhân làm mờ tâm trí, tránh xa con đường tội lỗi Trung thần phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, tận tâm phục vụ quân vương và mang lại ấm no cho nhân dân, từ đó nâng cao đạo đức quân tử và đại phu trong xã hội.
Y Doãn và Lã Vọng Khương Tử Nha là những nhân vật tiêu biểu thể hiện lòng trung quân ái quốc trong lịch sử Việt Nam Y Doãn đã phò tá Thành Thang để xây dựng nhà Thương, trong khi Lã Vọng Khương Tử Nha hỗ trợ Chu Vũ Vương trong việc khai lập triều đại nhà Chu Họ không chỉ là những người lãnh đạo tài ba mà còn là biểu tượng cho tinh thần yêu nước và sự trung thành với đất nước.
肇造先澤 Triệu tạo tiên trạch Tiền nhân mở mang
培擁榮光 Bồi ủng vinh quang Bồi đắp vinh quang
一本萬葉 Nhất bổn vạn diệp Một gốc muôn cành
百世無疆 Bách thế vô cương Nối mãimuônđời (其十,Kỳthập)
Kính sự tế Giao thể hiện lòng tưởng nhớ sâu sắc đến công ơn của các bậc tiền nhân, đặc biệt là các vị chúa Nguyễn, bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng, người đã có tầm nhìn chiến lược và mở rộng bờ cõi vào vùng đất Thuận Hóa Các chúa kế tiếp đã không ngừng phát triển miền Nam, tạo thành thế lực Đàng Trong vững mạnh, đối trọng với Đàng Ngoài, cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Ánh thống nhất giang sơn vào năm 1802, khởi đầu triều đại nhà Nguyễn với niên hiệu Gia Long Dưới sự lãnh đạo của ông, đất nước đã ổn định và các định chế được thống nhất Vua Minh Mạng đã yêu thương và dạy dỗ ông, nuôi dưỡng kỳ vọng lớn lao, trong khi Thiệu Trị tiếp nối triều đại với sự trân trọng ơn đức của các tiên vương, dốc lòng bồi đắp phép điển và cai trị bằng đức sáng, để hoàng triều ngày càng xương minh và phát triển bền vững.
Việc giữ gìn an ninh biên giới là rất quan trọng, nhất là khi các tỉnh phía Bắc như Sơn Tây, Tuyên Quang, Bắc Ninh và Thái Nguyên đối mặt với nạn đạo tặc Vua đã cử Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, Nguyễn Đăng Giai, để tuyên truyền ý chí của triều đình, giúp những kẻ lầm đường nhận ra lỗi lầm và cải tà quy chính, từ đó mang lại hòa bình cho bốn bể Vua cũng đã thể hiện sự quan tâm đến những thành quả đạt được từ chính sách phủ dụ, khi nhận được thiếp báo thành công từ các địa phương, điều này khiến nhà vua vui mừng và cảm tác.
憂勤圖治撫盈成 Ưu cần đồ trị phủ doanhthành
德化承先正令行 Đức hóa thừa tiên chính lệnhhành
廾六地方無一盜 Củng lục địa phương vô nhất đạo
萬千閭里遂三生 Vạn thiên lư lý toại tamsinh
輸誠納款風埃淨 Thâu thành nạp khoản phong ai tịnh
變惡歸良海宇平 Biến ác quy lương hải vũbình
振刷百爲安自得 Chấn xoát bách vi an tựđắc
Ưu cần đồ trị và chăm sóc đất nước đã mang lại thành tựu đáng kể Việc thăm hỏi và động viên nhân dân trong nước là rất quan trọng, giúp củng cố sự đoàn kết và phát triển Thừa hưởng những giá trị và chính sách của tiên đế, chúng ta cần tiếp tục thực hiện các chính lệnh để xây dựng một tương lai tươi sáng hơn cho đất nước.
Hai sáu địa phương không có một tên ăn trộm
Muôn nghìn làng mạc đầy đủ thỏa nguyện cuộc sống
Các khoản thâu nộp qua gió bụi vẫn chân thật
Chuyển ác về lương thiện bốn bể yên bình
Việc chấn chỉnh trăm sự được ổn định Ân cần thăm hỏi vỗ về trong nước được thành tựu.
Trong 7 năm trị vì (1841-1847) của Thiệu Trị, vì được kế thừa thành quả của hai triều vua trước nên tình hình đất nước Đại Nam cơ bản ổn định về mọi mặt. Thiệu Trị đã sáng tác 10 bài thơ Phú đắc miêu tả sự yên bình thịnh trị của đất nước tở nhiều phương diện như:Thiên hòa, Địa lợi, Hà thuận, Hải điềm, Nhâm tài,
Cảmhóa, Bảo định vũ công, và Dân khang hộ tịch tăng là những chính sách quan trọng mà triều đình Thiệu Trị kỳ vọng sẽ gia tăng nhân khẩu Bài thơ Phú đắc Dân khang hộ tịch tăng thể hiện rõ mong mỏi của nhà vua về một đất nước thịnh vượng, quốc thái dân an, và sự bền vững trong tương lai.
三朝皆愛養 Tam triều giai ái dưỡngBa triều đều yêu thương nuôi dưỡng
九域共咸綏 Cửu vực cộnghàm tuy Khắp cõi đều được vỗ về an ổn
Sống an lành và hạnh phúc mang lại sự bình yên cho mọi người Sự thịnh vượng và giàu có sẽ tạo ra niềm vui cho xã hội Dù có hàng nghìn điều khó khăn, nhưng vẫn có nhiều điều tốt đẹp không thể đếm hết Sự giàu có có thể vượt xa cả trăm vạn, mang lại hy vọng và niềm vui cho cuộc sống.
本固邦寧謐 Bổn cố bangninhmật Bờ cõi được yên định bềnchắc
Bài thơ "Diên hồng ứctải cơ" ca ngợi sự chăm lo và nuôi dưỡng của các triều đại Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị đối với nhân dân, góp phần làm cho dân số ngày càng đông đúc và thịnh vượng Những số liệu trong bài thơ phản ánh sự phát triển dân số của đất nước ta trong giai đoạn đầu Sự vững mạnh của quốc gia được thể hiện qua việc chăm sóc đời sống của muôn dân, kéo dài đến muôn ức năm.
Trong thời kỳ Gia Long (1802), dân số đạt 72 vạn 2.590 người, đến năm thứ 18 (1819) giảm xuống còn 61 vạn 3.912 người Dưới triều Minh Mạng (1820), dân số tăng lên 62 vạn 246 người và đến năm 1840 đạt 97 vạn 560 người Năm 1841, dưới triều Thiệu Trị, dân số là 92 vạn 5.184 người, nhưng sau khi khu vực trấn Tây rút quân về và phong vương cho nước Cao Miên, dân số khu vực này không được tính, chỉ còn 4 vạn 9.165 người Đến năm 1846, dân số tăng lên 98 vạn 6.231 người và năm 1847 là 102 vạn 4.388 người, cho thấy sự gia tăng 3 vạn 8.157 người trong khoảng thời gian từ 1846 đến 1847.
Nội dung văn chương trong tư cách mộtthi nhân
Thiệu Trị, không chỉ là một vị Hoàng đế với tôn chỉ cai trị bằng văn chương, mà còn là một thi sĩ đam mê vẻ đẹp thiên nhiên Trước cảnh vật hữu tình, ông luôn cảm nhận được nguồn cảm hứng thi ca dồi dào Tình yêu quê hương, tình cảm dành cho vua cha và nhân dân được thể hiện qua những bài thơ mộc mạc và chân thành của ông.
4.3.1 Tình cảm với vua cha
Thiệu Trị luôn thể hiện lòng hiếu thảo với vua cha Minh Mạng Sinh ra không lâu sau khi mẹ mất, ông được ông nội và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu chăm sóc, đặc biệt là sự yêu thương và dạy dỗ của vua cha để chuẩn bị cho ông kế vị Ông luôn kính trọng và không trái ý vua cha, kề cận bên ngài để học hỏi và giữ trọn hiếu đạo Hai bài thơ Ức tích thể hiện nỗi nhớ thương của ông dành cho vua cha.
寒夜鐘沈雨又風 Hàn dạ chung trầm vũ hựu phong
愁暌色養歷三冬 Sầu khuê sắc dưỡng lịch tam đông
傳心遺訓良規在 Truyền tâm di huấn lương quy tại
繞膝承歡往事空 Nhiễu tất thừa hoan vãng sựkhông.Đêm mưa gió lạnh tiếng chuông vọngđưa
Sầu xa cách dung mạo nuôi dưỡng đã ba đông
Truyền tâm lời di huấn vẫn luôn thường tại
Nương vui dưới gối cha muôn sự đều không.
Bài thơ được sáng tác ba năm sau khi vua Minh Mạng qua đời, diễn tả nỗi nhớ thương và sự day dứt của thi sĩ trong đêm lạnh, khi ông lắng nghe tiếng chuông vọng giữa gió mưa Nỗi buồn mất mát kéo dài suốt ba năm qua, khiến ông luôn nhớ về những khoảnh khắc hạnh phúc bên vua cha Thi sĩ, với lòng hiếu thuận, không ngừng ghi nhớ những di huấn cuối cùng của vua cha, thể hiện tình cảm sâu sắc và sự kính trọng đối với người đã khuất.
腸斷夢驚疎侍問 Trường đoạn mộng kinh sơ thị vấn
人生悲極隔音容 Nhân sinh bi cực cách âm dung
悠悠濛密蒼天外 Du du mông mật thương thiênngoại
Trong đêm lạnh, tiếng chuông ngân vang giữa mưa và gió Khi tỉnh giấc, tâm hồn chợt nhận ra nỗi buồn sâu thẳm Cuộc đời con người thật đau đớn khi phải xa cách hình bóng yêu thương.
Dằng dặc ngoài trời cao mưa nhẹ rơi Đêm mưa gió lạnh tiếng chuôngvọngđưa (憶昔其二,Ứctích - kỳ nhị)
Nỗi đau đớn tột cùng của người con khi phải sống trong ký ức về cha được thể hiện sâu sắc qua giấc mộng, nơi vẫn còn khát khao được ở bên Nỗi đau cách trở âm dương, không thể nghe tiếng cha hay nhìn thấy hình ảnh cha, khiến tâm hồn tan nát Câu thơ “Nhân sinh bicực cách âm dung” đã phản ánh rõ nét nỗi bi thương thấm đẫm trong tâm trí của Thiệu Trị.
難堪憶昔日承恩 Nan kham ức tích nhật thừa ân
止孝思忠奉聖人 Chỉ hiếu tư trung phụng thánh nhân
息木乘舟方訓政 Tức mộc thừa chu phương huấnchính
稱觴舞綵正娛親 Xưng thương vũ thải chính ngu thân.Khó lòng quên được lúc xưa ngày ngày được thừaân
Nay duy chỉ có hiếu và trung tuân mệnh thánh nhân [vua cha]
Tựa cây ngồi thuyền mọi nơi vâng theo khuôn phép dạy bảo
Thiệu Trị thể hiện lòng hiếu trung và tôn kính đối với vua cha bằng cách ngày ngày thực hiện các nghi lễ thờ cúng và chăm lo việc nước, dù có cách trở vẫn luôn giữ tâm hồn gần gũi với tổ tiên Ông nhất nhất tuân theo lời dạy của vua cha, từ việc nghỉ ngơi đến những hoạt động giải trí như uống rượu xem múa hát, đều giữ được phẩm hạnh ngay thẳng Điều này phản ánh rõ nét phẩm chất ôn nhu, hiền hòa của ông, không sa đà vào dục lạc mà chỉ một lòng gìn giữ sự ổn định của đất nước.
天長地久 長心懷舊 Thiên trường địa cửu tâm hoài cựu
暑往寒來眼界新 Thử vãng hàn lai nhãn giới tân
霜露感時增戀慕 Sương lộ cảm thời tăng luyếnmộ
Trời cao đất dày chứng minh tấm lòng luôn nhớ ơn quá khứ Mỗi mùa hè qua đông tới, con mắt nhìn thế sự ngày càng mới mẻ Sương móc thấm nhuần lòng cảm mộ, khiến lòng biết ơn càng tăng thêm Khó lòng quên được những ngày tháng trước đây, khi luôn được thừa hưởng ân huệ.
Tấm lòng thương nhớ vua cha của ông được thể hiện qua việc ông luôn tuân theo các chính sách và định chế mà vua Minh Mạng đã thiết lập nhằm gìn giữ truyền thống Nỗi nhớ thương ấy, với sự chứng giám của trời đất, càng trở nên sâu sắc theo năm tháng, khiến ông không thể quên được những ngày tháng hầu cận và ân đức từ vua cha.
4.3.2 Hình tượng con người, thiên nhiên trong thơ ThiệuTrị
Thơ Thiệu Trị thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với nỗi vất vả của người dân qua hình tượng con người mộc mạc, bình dị như người chăn trâu, tiều phu, và lão ngư phủ Ông khắc họa những quang cảnh sinh hoạt hàng ngày của muôn dân, cho thấy quan điểm rằng một vị vua không chỉ ngồi trên ngai vàng mà cần thực sự hiểu và cảm thông với cuộc sống của nhân dân, cả trong những niềm vui lẫn nỗi đau.
兌山夕照蘸明波 Đoài sơn tịch chiếu trám minh ba
巽二輕催泛艇過 Tốn nhị khinh thôi phiếm đĩnhquá
振懾魚鰕驚釣網 Chấn nhiếp ngư hà kinh điếu võng 艮知鷗鷺伴江河 Cấn tri âu lộ bạn gianghà
閒看天外雲離合 Nhàn khán thiên ngoại vân Lyhợp
不累塵中路坎軻 Bất lụy trần trung lộ Khảmkha
萬壑坤輿隨所遇 Vạn hác Khôn dư tùy sởngộ
一鐘乾竺助清歌 Nhất chung Càn trúc trợ thanhca. Ánh nắng chiều xuyên qua núi rọi sáng consóngHai mái chèo nhẹ buông thuyền trôiđi
Khiến lũ tôm cá sợ hãi va vào lướicâu
Biết cùng với chim hải âu làm bạn trên sông nước
Nhàn ngắm trời cao mây bay tan hợp
Không bị trói buộc trong chốn bụi trần nhiêu khê
Muôn vùng đất hang hốc hiểm nguy đều từng gặp
Một tiếng chuông giữa trời hòa tiếng catrongngần (Ngư đĩnh giang thiênlạc)
Thi sĩ Miên Tông tìm niềm vui trong cảnh ngư phủ mưu sinh trên sông nước, hòa mình vào tiếng ca và niềm hạnh phúc giản dị của họ Mặc dù cuộc sống của người ngư phủ đầy khó khăn, họ vẫn sống ung dung, ôm mái chèo và giăng lưới, cùng với những chú chim hải âu bay lượn Bài thơ của Miên Tông khéo léo vận dụng thể quái danh, với 8 câu thơ chứa đựng ý nghĩa của mỗi quẻ dịch trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài, tạo nên một nhịp điệu hài hòa và sâu sắc.
黄 葉 秋 霜 縱 步 穿 Hoàng diệp thu sương túng bộ xuyên
絳 雲 遠 蘸 瀉 紅 泉 雲 遠 蘸 瀉 紅 泉 紅 泉 Giáng vân viễn trám tả hồng tuyền
蒼枝一斧供王質 Thương chi nhất phủ cung vươngchất
碧洞雙峰樂鄭虔 Bích động song phong lạc trịnh kiền
白璧不嫌隨世俗 Bạch bích bất hiềm tùy thếtục
黑甜乍醒學神僊 Hắc điềm sạ tỉnh học thầntiên
藍橋翠嶂煙霞趣 Lam kiều thúy chướng yên hàthú
綠水青山歲月緣 Lục thủy thanh sơn tuế nguyệtduyên.
Mùa thu lá vàng rơi sương xuyên qua lối đi
Xa xa mây giáng xuống chảy qua con suối hồng
Cành cây xanh một nhát búa còn nguyên chất
Trước động bích khỏe khoắn trèo lên ngọn núi
Ngọc trắng chẳng ngại chi theo thói đời Điềm đen bỗng tỉnh học thần tiên
Lam kiều xanh biếc khói chiều nhẹ bay qua ngọn núi
Núi xanh nước biếc tùy duyên theo tháng năm.(Tiều kha thủy thạch nhàn)
Bài thơ khắc họa hình ảnh người tiều phu đốn củi trên núi, thể hiện sự hài hòa của sắc màu thiên nhiên như lá vàng mùa thu, áng mây hồng bên suối, cây xanh và ngọc trắng Những gam màu của núi xanh và nước biếc được khéo léo lồng ghép, tạo nên đặc trưng nổi bật của thể thơ.
耕一梨 Canh nhất lê
田一畝 Điền nhấtmẫu
田間滴滴纔雨後 Điền gian trích trích tài vũ hậu
田上依依應作耦 Điền thượng y y ứng tác ngẫu
稼穡艱難深念之 Giá sắc gian nan thâm niệmchi
勤劬終歲憐農叟 Cần cù chung tuế lân nông tẩu.Cày mộtcái
Sau khi trời vừa mới rơi nhẹ mấy giọt mưa
Trên đồng hai người cùng nương nhau cày ruộng
Gieo mạ gặt hái gian nan, thấu tỏ được điều đó
Thương người nông phu cần cùsuốtnăm (Canh lê lũng mẫuthích)
Trên cánh đồng rộng, người nông phu cặm cụi cày cấy, thể hiện sự gian nan và vất vả trong công việc hàng ngày Hình ảnh mục đồng trên lưng trâu, tay cầm sáo trúc hòa mình vào thiên nhiên trong ánh tà dương, gợi lên cảm xúc sâu sắc về cuộc sống giản dị Những hình ảnh này không chỉ quen thuộc trong thơ ca nước nhà mà còn phản ánh tình yêu quê hương của một vị Hoàng đế, mang đến sự mộc mạc và thanh tao trong từng câu chữ.
飯牛歸野正斜暉, Phạn ngưu quy dã chính tàhuy,
野正斜暉幾曲吹 Dã chính tà huy ki khúcxuy.
幾曲吹殘雲夢竹, Ki khúc xuy tàn vân mộngtrúc,
殘雲夢竹飯牛歸 Tàn vân mộng trúc phạn ngưuquy.
Trâu ăn đồng xa, trở về lúc chiều tà,
Trở về lúc chiều tà, khúc nhạc thổi
Khúc nhạc thổi lên, mây tàn mộng trúc,
Mây tàn mộng trúc, trâu ăn đồng xatrởvề (Tịch giao mục địch)
Thiệu Trị thể hiện tình yêu sâu sắc đối với non sông đất nước, điều này không chỉ là niềm tự hào dân tộc mà còn được thể hiện qua thơ ca đầy cảm xúc Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông phản ánh tâm hồn nghệ sĩ trước vẻ đẹp bình dị và lôi cuốn của đất nước, đặc biệt là kinh đô Phú Xuân Ông dành phần lớn cuộc đời để khám phá vẻ đẹp của núi sông, chỉ một lần thực hiện chuyến Bắc tuần, từ đó sáng tác tập thơ Bắc tuần thi tập ghi lại những danh lam thắng cảnh và phong tục tập quán mà ông gặp Đáng tiếc là ông chưa có dịp khám phá phương Nam để chiêm ngưỡng thiên nhiên Đại Nam Thiệu Trị cũng rất chú trọng đến nghệ thuật thi họa, sáng tác tác phẩm Thần kinh nhị thập cảnh với hai mươi cảnh đẹp nổi tiếng của đất thần kinh, sau đó cho in ấn thành sách và minh họa bằng tranh mộc bản Qua những hoạt động này, ông không chỉ bảo tồn các thắng cảnh tự nhiên mà còn thể hiện sự cầu toàn đối với nghệ thuật thi họa.
Bài thơ "Vũ trung sơn thủy" là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của tác giả, nổi bật nhờ phương thức sáng tác độc đáo theo thể Hồi văn thể kiêm Liên hoàn Tài năng của ông trong việc vận dụng thi pháp thể cách thể hiện rõ qua cách chơi thơ tao nhã, giúp nâng tầm bài thơ thành một tác phẩm mỹ thuật đầy cảm hứng Phong cảnh non nước trong bài thơ được khắc họa một cách hài hòa và sinh động, thu hút người đọc một cách mạnh mẽ.
灣 環 雨 下 江 潮 汛環雨下江潮 汛汛 Loan hoàn vũ hạ giang triềutấn
漲溢風前岸汴清 Trướng dật phong tiền ngạn biệnthanh
山鎖暗雲催陣陣 Sơn tỏa ám vân thôi trậntrận
浪生跳玉滴聲聲 Lãng sinh khiêu ngọc trích thanhthanh
潺潺水澗苔滋潤 Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận
漾漾波洲蓼茂榮 Dạng dạng ba châu liệu mậuvinh
閒釣一舟漁逸迅 Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn
向林雙剪燕飛輕 Hướng lâm song tiễn yến phikhinh.
Chỗ khuỷu sông, mưa xuống nước dâng cao
Nước mênh mông, gió thổi tận bến bờ
Mây từng trận, che phủ trên đỉnh núi
Nước sóng vỗ, giọt nhảy như tiếng ngọc
Khe nước chảy, rì rì rêu thêm đượm
Nước gợn sóng, cù lao rau tươi tốt
Nhẹ buông câu, thuyền ngư ông đang tới
Hướng về rừng, đôi én nhẹ nhàng bay.
Bài thơ mang đến cái nhìn tổng thể về cảnh vật non nước trong mưa, với hình ảnh mưa như hạt ngọc rơi xuống dòng sông, nước cuộn dâng cao ở khuỷu sông và bờ cỏ xanh tươi Khung cảnh thi vị được tô điểm bởi chiếc thuyền của lão ngư đang thả câu, tạo nên nét chấm phá giữa không gian bao la Trong lúc yên bình, thi sĩ bất ngờ bắt gặp đôi chim én bay về rừng Nghệ thuật thi trung hữu họa được thể hiện rõ nét qua những hình ảnh tinh tế, như trong bài thơ của Vương Bột thời Sơ Đường, vẽ nên bức tranh mùa thu tuyệt sắc.