1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)

100 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ảnh Hưởng Của Nhân Tố Quản Trị Công Ty Đến Mức Độ Công Bố Thông Tin Trách Nhiệm Xã Hội – Bằng Chứng Thực Nghiệm Tại Các Công Ty Niêm Yết Trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (HOSE)
Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thu
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 2,62 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (10)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu (12)
  • 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Tóm tắt phương pháp nghiên cứu (14)
  • 5. Đóng góp mới của nghiên cứu (15)
  • 6. Kết cấu của đề tài (15)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC (17)
    • 1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến CBTTTNXH (17)
    • 1.2. Bàn luận kết quả đạt được từ việc tổng hợp các nghiên cứu trước (21)
      • 1.2.1. Mối quan hệ giữa sở hữu quản lý với CBTTTNXH (21)
      • 1.2.2. Mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước với CBTTTNXH (22)
      • 1.2.3. Mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với CBTTTNXH (23)
      • 1.2.4. Mối quan hệ giữa thành viên độc lập HĐQT với CBTTTNXH (24)
      • 1.2.5. Mối quan hệ giữa vai trò kiêm nhiệm giữa CEO và chủ tịch HĐQT với (25)
      • 1.2.6. Mối quan hệ giữa ủy ban kiểm toán với CBTTTNXH (25)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (27)
    • 2.1. Các khái niệm căn bản (27)
      • 2.1.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (27)
      • 2.1.2. Công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (34)
      • 2.1.3. Nhân tố quản trị công ty (36)
    • 3.1. Thiết kế nghiên cứu (43)
    • 3.2. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu (44)
      • 3.2.1. Giả thuyết nghiên cứu (44)
      • 3.2.2. Mô hình nghiên cứu (49)
    • 3.3. Thang đo (51)
      • 3.3.1. Biến phụ thuộc (51)
      • 3.3.2. Biến giải thích và biến kiểm soát (0)
    • 3.4. Dữ liệu nghiên cứu và cách thức thu thập dữ liệu (56)
      • 3.4.1. Xác định mẫu nghiên cứu (56)
      • 3.4.2. Nguồn dữ liệu (57)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (58)
    • 4.1. Thống kê mô tả (58)
    • 4.2. Phân tích tương quan các biến (60)
    • 4.3. Kiểm định sự khác biệt (63)
    • 4.4. Kết quả hồi quy (65)
      • 4.4.1. Mô hình 1: Tác động của sở hữu quản lý (MOWN) đến mức độ (67)
      • 4.4.2. Mô hình 2: Tác động của sở hữu nhà nước (GOVOWN) đối với (67)
      • 4.4.3. Mô hình 3: Tác động của sở hữu nước ngoài (FOROWN) đối với (67)
      • 4.4.4. Mô hình 4: Tác động của thành viên độc lập HĐQT (BIND) đối với (68)
      • 4.4.5. Mô hình 5: Tác động của thành viên kiêm nhiệm vị trí CEO với chủ tịch HĐQT (CEODU) đối với CBTTTNXH (68)
      • 4.4.6. Mô hình 6: Tác động của tổng số thành viên trong ủy ban kiểm toán (AUDCOM) đối với CBTTTNXH (68)
      • 4.4.7. Mô hình 7: Kiểm định độ tin cậy của mô hình (69)
  • CHƯƠNG 5: BÀN LUẬN VÀ KẾT LUẬN (16)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin tài chính xã hội của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) Quản trị công ty được đánh giá qua cấu trúc sở hữu, bao gồm sở hữu quản lý, sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài, cùng với các đặc điểm của quản trị doanh nghiệp như sự tham gia của các thành viên độc lập trong Hội đồng Quản trị, vai trò kiêm nhiệm giữa CEO và Chủ tịch Hội đồng Quản trị, cũng như hoạt động của ủy ban kiểm toán.

Từ đó, mục tiêu cụ thể được xác định như sau:

(1) Xác định các nhân tố thuộc QTCT

Để đánh giá mức độ công bố thông tin tài chính tại các công ty trong phạm vi nghiên cứu, cần thực hiện tính toán và đo lường Kết quả này sẽ được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ giữa yếu tố quản trị công ty và vấn đề công bố thông tin tài chính.

Xem xét sự khác biệt trong đặc điểm quản trị công ty giữa nhóm công ty niêm yết có mức độ công bố thông tin tài chính và phi tài chính cao và nhóm công ty niêm yết có mức độ công bố thấp.

Từ đó, mục tiêu nghiên cứu được khái quát qua câu hỏi nghiên cứu:

Mối quan hệ giữa quản trị công ty (QTCT) và công bố thông tin tài chính (CBTTTNXH) trong các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là một vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu Nếu tồn tại mối liên hệ này, QTCT có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng và tính minh bạch của CBTTTNXH, từ đó góp phần nâng cao niềm tin của nhà đầu tư và cải thiện hiệu quả hoạt động của công ty Việc hiểu rõ mối quan hệ này sẽ giúp các công ty điều chỉnh chiến lược quản lý và công bố thông tin một cách hiệu quả hơn.

Đóng góp mới của nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài được kỳ vọng sẽ mang lại những đóng góp về mặt lý thuyết và thực tiễn như sau:

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối liên hệ giữa quản trị công ty và công bố thông tin tài chính trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là tại Việt Nam, nơi mà nghiên cứu về công bố thông tin tài chính vẫn còn hạn chế.

Vấn đề công bố thông tin tài chính trong doanh nghiệp được xác định bởi mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các bên liên quan, nhấn mạnh tầm quan trọng của lý thuyết các bên liên quan trong việc hiểu và thực hành công bố thông tin tài chính.

Nghiên cứu này góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý thuyết, tạo nền tảng vững chắc cho các nghiên cứu tiếp theo liên quan đến chủ đề công bố thông tin trong lĩnh vực xã hội tại Việt Nam.

Kết quả cung cấp thông tin quản trị cho doanh nghiệp giúp hiểu rõ mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và thành phần hội đồng quản trị đối với mức độ công bố thông tin tài chính và xã hội Điều này hỗ trợ nhà quản trị trong việc đưa ra các quyết định chiến lược nhằm phát triển bền vững doanh nghiệp Đối với nhà đầu tư, mức độ công bố thông tin tài chính và xã hội của doanh nghiệp sẽ giúp họ có cái nhìn thận trọng hơn về các hoạt động của doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định đầu tư.

Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, nghiên cứu được tác giả xây dựng thành 5 chương, cụ thể:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu trước Chương 2: Cơ sở lý thuyết

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Bàn luận và kết luận

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến CBTTTNXH

Nghiên cứu trước đây cho thấy rằng mức độ công bố thông tin tài chính và phi tài chính (CBTTTNXH) trong báo cáo thường niên của doanh nghiệp tại các nước phát triển đã tăng lên theo thời gian Sự gia tăng này nhằm đáp ứng các yêu cầu từ nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm việc nâng cao tính hợp pháp, giảm thiểu rủi ro, hoạt động của các nhóm áp lực, sự quan tâm từ nhà đầu tư có đạo đức, cũng như ảnh hưởng từ các sự kiện, giải thưởng, hoạt động kinh tế, truyền thông và nhận thức xã hội, chính trị.

Nghiên cứu năm 2005 chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính, bao gồm sở hữu quản lý, sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài, sự tham gia của các thành viên độc lập trong hội đồng quản trị, vai trò kiêm nhiệm của CEO và chủ tịch hội đồng quản trị, cũng như sự tồn tại của ủy ban kiểm toán.

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã điều tra tác động của quản trị công ty (QTCT) đến công bố thông tin tài chính xã hội (CBTTTNXH) Các biến đại diện cho QTCT thường được xem xét bao gồm cơ cấu và quy mô của Hội đồng quản trị (HĐQT), giới tính của thành viên HĐQT, và cấu trúc sở hữu doanh nghiệp Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu này thường mâu thuẫn và chưa thống nhất Một số nghiên cứu cho thấy các yếu tố như sở hữu nước ngoài, thành viên độc lập HĐQT, vai trò kiêm nhiệm CEO và chủ tịch HĐQT, cùng với ủy ban kiểm toán có mối tương quan dương có ý nghĩa thống kê với CBTTTNXH, trong khi đó, một số nghiên cứu khác lại phát hiện mối tương quan âm hoặc không tìm thấy mối tương quan nào.

Nghiên cứu về công bố thông tin trách nhiệm xã hội (CBTTTNXH) tại Việt Nam hiện đang còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện và báo cáo trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, như nghiên cứu của Phạm Đức Hiếu Hồ Thị Vân Anh đã tìm hiểu mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính với dữ liệu từ các doanh nghiệp niêm yết Một số nghiên cứu khác, như của Nguyễn Phương Mai (2013), chỉ tập trung vào ngành dệt may Đặc biệt, nghiên cứu về tác động của yếu tố quản trị công ty (QTCT) đến CBTTTNXH còn rất ít, với nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hòa (2017) chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất niêm yết, chưa mở rộng ra các lĩnh vực khác như dịch vụ, thương mại hay bất động sản.

Từ đó, tác giả xác định những khe hổng nghiên cứu quan trọng để nhận dạng vấn đề nghiên cứu của mình:

Kết quả các nghiên cứu trước đây về chủ đề thông tin truyền thông xã hội (CBTTTTXH) ở Việt Nam thường mâu thuẫn, có thể do sự khác biệt trong thước đo, phương pháp nghiên cứu, quy mô mẫu và các giai đoạn nghiên cứu Đặc biệt, lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế trong việc nghiên cứu sâu hơn.

Phần lớn các nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhân tố QTCT và CBTTTNXH chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, trong khi các nghiên cứu tương tự tại các nước có nền kinh tế mới nổi còn hạn chế Ngoài ra, nhiều học giả cho rằng TNXH chịu ảnh hưởng từ bối cảnh thể chế, văn hóa, cũng như quy định và luật pháp ở từng quốc gia và khu vực, dẫn đến sự khác biệt trong thực hành CBTTTNXH khi nghiên cứu ở các vị trí địa lý khác nhau.

Việc thực hiện công bố thông tin trách nhiệm xã hội (CBTTTNXH) ở các nước có nền kinh tế mới nổi khác biệt rõ rệt so với các nước phát triển, dẫn đến tiêu chuẩn báo cáo liên quan đến trách nhiệm xã hội (TNXH) không đồng nhất giữa hai nhóm nước này.

Cụ thể việc tổng hợp sẽ được tác giả trình bày qua bảng tổng hợp sau:

Bảng 1 1: Bảng tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTTTNXH

Biến Tác giả Kết quả

Sở hữu quản lý Ghazali (2007) _

(Tuy nhiên, khi xem xét những doanh nghiệp định hướng xuất khẩu, nhà quản lý có xu hướng CBTTTNXH nhiều hơn.)

Sở hữu nhà nước Eng và Mak (2003) +

Sở hữu nước ngoài Haniffa và Cooke (2005) +

Majeed và cộng sự (2015) Không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê

Vai trò kiêm nhiệm giữa CEO và chủ tịch HĐQT

(Đề xuất giả thuyết vai trò kiêm nhiệm CEO tác động nghịch chiều đến mức độ CBTTTNXH Chưa đưa ra lý do giải thích cho kết quả.)

Khan và cộng sự (2013) Không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê Ủy ban kiểm toán Said và cộng sự (2009) +

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Bàn luận kết quả đạt được từ việc tổng hợp các nghiên cứu trước

1.2.1 Mối quan hệ giữa sở hữu quản lý với CBTTTNXH Ảnh hưởng của sở hữu quản lý đến việc công bố thông tin tự nguyện từ lâu đã là chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu kế toán Johnson và Greening

Nghiên cứu của năm 1999 chỉ ra mối tương quan dương giữa sở hữu của ban quản lý cấp cao và hiệu quả hoạt động xã hội liên quan đến môi trường và chất lượng sản phẩm Mohd Nasir và Abdullah (2004) đã xác định rằng cấu trúc sở hữu ảnh hưởng đến mức độ công bố tự nguyện của các công ty tài chính tại Malaysia, với sở hữu quản lý có mối liên hệ tích cực Tuy nhiên, nghiên cứu của Donnelly và Mulcahy (2008) lại không phát hiện mối liên hệ nào giữa công bố tự nguyện và sở hữu quản lý.

Nhiều nghiên cứu cho thấy sở hữu quản lý có tác động nghịch chiều đến mức độ công bố tự nguyện, đặc biệt trong các doanh nghiệp có thành viên gia đình làm quản lý Chau và Gray (2002) phát hiện mối tương quan âm giữa sở hữu gia đình và thực hành công bố thông tin tự nguyện ở các doanh nghiệp niêm yết tại Hồng Kông và Singapore Tương tự, Ho và Wong (2001) cùng Eng và Mak (2003) cũng báo cáo kết quả giống nhau khi nghiên cứu các doanh nghiệp niêm yết tại hai khu vực này Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ đánh giá mức độ công bố thông tin trên cả hai khía cạnh tài chính và phi tài chính, mà không xem xét riêng mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội.

Nghiên cứu của Ghazali (2007) tại Malaysia chỉ ra rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phiếu cao do nhà quản lý nắm giữ thường công bố ít thông tin về trách nhiệm xã hội trong báo cáo tài chính Tương tự, Oh và cộng sự (2011) cho rằng ở một số quốc gia Châu Á, nơi nhà quản lý chịu ít áp lực từ các vấn đề xã hội, họ có xu hướng tập trung vào các chiến lược ngắn hạn để gia tăng lợi nhuận, thay vì đầu tư vào hoạt động cộng đồng và công bố thông tin về trách nhiệm xã hội Kết quả nghiên cứu của Khan và cộng sự (2013) tại Việt Nam cũng cho thấy mối tương quan âm giữa sở hữu quản lý và công bố thông tin trách nhiệm xã hội Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu, các tác giả nhận thấy rằng nhà quản lý có xu hướng cung cấp nhiều thông tin trách nhiệm xã hội hơn do áp lực từ khách hàng quốc tế.

1.2.2 Mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước với CBTTTNXH

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu phân tán có thể làm tăng áp lực đối với việc công bố thông tin tự nguyện (Ullmann, 1985; Chau và Gray).

Nghiên cứu của Ghazali (2007) cho thấy các doanh nghiệp có nhà nước là cổ đông lớn thường công bố nhiều thông tin về trách nhiệm xã hội hơn trong báo cáo tài chính Điều này xuất phát từ việc các doanh nghiệp này được thành lập với mục đích đặc biệt, do đó, họ cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội để thể hiện sự phù hợp với kỳ vọng của quốc gia Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Eng và Mak (2003), chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu và các thành phần trong hội đồng quản trị ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của 158 doanh nghiệp niêm yết tại Singapore.

Nghiên cứu của Said và cộng sự (2009) tại Malaysia cho thấy rằng sở hữu nhà nước có tác động đến mức độ công bố thông tin tài chính và xã hội Họ chỉ ra rằng sự can thiệp của chính phủ có thể thúc đẩy các doanh nghiệp công bố nhiều thông tin hơn, nhờ vào niềm tin của công chúng vào chính phủ như một cơ quan đáng tin cậy.

Nghiên cứu năm 2013 cho thấy doanh nghiệp nhà nước thường đối mặt với áp lực lớn từ cộng đồng về trách nhiệm xã hội Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp này tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội và công khai những nỗ lực này nhằm khẳng định tính hợp pháp và sự tồn tại của mình.

1.2.3 Mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với CBTTTNXH

Yêu cầu công bố thông tin của cổ đông có sự khác biệt, đặc biệt là khi cổ đông nước ngoài nắm giữ tỷ lệ lớn cổ phiếu, điều này được khẳng định bởi Craswell & Taylor (1992) và Schipper (1981) Nghiên cứu của Haniffa và Cooke (2005) về công bố thông tin xã hội của 139 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur cho thấy rằng sở hữu nước ngoài có mối tương quan dương với mức độ công bố thông tin tự nguyện Các doanh nghiệp có vốn sở hữu nước ngoài lớn thường công bố thông tin xã hội nhiều hơn như một chiến lược nhằm thu hút đầu tư nước ngoài Kết quả này cũng được Khan và cộng sự (2013) xác nhận, trong khi Khan (2010) chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ công bố thông tin xã hội tại các ngân hàng thương mại tư nhân ở Việt Nam.

Mặc dù nhiều nghiên cứu đã đề cập đến mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài và công bố thông tin về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, nhưng nghiên cứu của Majeed và cộng sự (2015) cho thấy rằng cổ đông nước ngoài tại Pakistan không quan tâm đến việc công bố hoạt động cộng đồng của doanh nghiệp Điều này cho thấy rằng vẫn còn sự thiếu thống nhất trong các kết quả nghiên cứu về vấn đề này.

1.2.4 Mối quan hệ giữa thành viên độc lập HĐQT với CBTTTNXH

Forker (1992) lập luận rằng việc bổ sung các thành viên không điều hành vào HĐQT có thể nâng cao chất lượng công bố thông tin tài chính Nghiên cứu thực nghiệm của Chen và Jaggi (2000) tại Hồng Kông đã xác nhận rằng tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT có ảnh hưởng tích cực đến tính toàn diện của thông tin tài chính được công bố Tuy nhiên, Eng và Mak (2003) đã mở rộng nghiên cứu và chỉ ra rằng việc gia tăng số lượng thành viên độc lập trong HĐQT lại dẫn đến việc giảm mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Nghiên cứu của Khan và cộng sự (2013) chỉ ra rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ thành viên độc lập trong hội đồng quản trị cao thường công bố nhiều thông tin về trách nhiệm xã hội hơn Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Barako, Hancock và Izan (2006) cùng với Harjoto và Jo (2011).

Majeed và cộng sự (2015) đã nghiên cứu tác động của thành viên độc lập HĐQT đến việc công bố thông tin tài chính và xã hội của các doanh nghiệp Pakistan, nhưng không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hai yếu tố này Các tác giả nhận định rằng thành viên độc lập HĐQT có xu hướng chú trọng đến thông tin tài chính hơn là các báo cáo hoạt động xã hội, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu trước đó của Ho và Wong (2001).

1.2.5 Mối quan hệ giữa vai trò kiêm nhiệm giữa CEO và chủ tịch HĐQT với

Bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của vai trò kiêm nhiệm giữa CEO và chủ tịch HĐQT đối với công bố thông tin tài chính và xã hội (CBTTTNXH) vẫn còn gây tranh cãi Nghiên cứu của Haniffa và Cooke (2005) cho thấy mối tương quan dương giữa hai vai trò này, cho rằng các chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm CEO có xu hướng đưa ra quyết định CBTTTNXH nhằm xoa dịu lo ngại của cộng đồng Ngược lại, nghiên cứu của Jizi và cộng sự (2014) trên các ngân hàng thương mại lớn ở Mỹ từ 2009-2011 lại chỉ ra rằng vai trò kiêm nhiệm CEO có thể tác động nghịch chiều đến CBTTTNXH, mặc dù họ cũng phát hiện mối tương quan dương có ý nghĩa thống kê nhưng chưa giải thích rõ nguyên nhân.

Nghiên cứu của Cheng và Courtenay (2006) chỉ ra rằng không có mối liên hệ giữa vai trò kiêm nhiệm của CEO và chủ tịch HĐQT với mức độ công bố thông tin tự nguyện Tương tự, nghiên cứu của Khan và cộng sự (2013) cũng không phát hiện mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa vai trò kiêm nhiệm và mức độ công bố thông tin tài chính xã hội, cho thấy rằng trong bối cảnh Việt Nam, vai trò kiêm nhiệm của CEO và chủ tịch HĐQT thường không mang lại ý nghĩa quan trọng.

1.2.6 Mối quan hệ giữa ủy ban kiểm toán với CBTTTNXH

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Các khái niệm căn bản

2.1.1 Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp

2.1.1.1 Nguồn gốc và sự phát triển của TNXHDN

Vấn đề TNXHDN bắt nguồn từ trước Thế chiến thứ Hai (Carroll & Shabana,

Vào năm 2010, khái niệm về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (TNXHDN) bắt nguồn từ xu hướng dân chủ - xã hội, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện “kiểm toán xã hội” đối với hành vi của doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội (Capron & Quairel-Lanoizelee, 2009) Đến giữa thế kỷ XX, TNXHDN bắt đầu nổi bật tại Hoa Kỳ với sự ủng hộ từ các học giả và giám đốc điều hành (Frederick, 2006) Năm 1953, Howard Bowen đã xuất bản cuốn sách "Trách nhiệm xã hội của Doanh nhân", trong đó ông nhấn mạnh rằng người quản lý phải tôn trọng quyền lợi của người khác và có trách nhiệm giúp đỡ những người gặp khó khăn (Bowen trích trong Capron & Quairel-Lanoizelee, 2009) Ý tưởng này đã định hình tư tưởng nghiên cứu TNXHDN và Bowen được coi là “cha đẻ của TNXHDN” (Carroll, 1999, p.291) Khái niệm TNXHDN gắn liền với nhiều giai đoạn phát triển khác nhau (Frederick, 2016).

Giai đoạn 1 (1950 - 1960) đánh dấu sự khởi đầu của Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (TNXHDN), với trọng tâm là hoạt động từ thiện của doanh nghiệp Trong giai đoạn này, các nhà quản lý được khuyến khích hành động tự nguyện và thể hiện lòng bác ái, đóng vai trò như những người được ủy thác công và quản gia xã hội.

Giai đoạn 2 (từ 1960 đến thập niên 1970) đánh dấu sự mở rộng của ý tưởng về Trách nhiệm Xã hội Doanh nghiệp (TNXHDN), yêu cầu doanh nghiệp phải hợp pháp đáp ứng các nhu cầu của xã hội Trong giai đoạn này, các lý thuyết về TNXHDN được phát triển mạnh mẽ, tập trung vào việc khám phá ý nghĩa thực sự của TNXHDN và tầm quan trọng của nó đối với cả kinh doanh lẫn xã hội (Carroll & Shabana).

Giai đoạn 3 (1980-1990) chứng kiến sự phát triển của TNXHDN, khi các doanh nghiệp được yêu cầu thúc đẩy văn hóa đạo đức nhằm hỗ trợ các bên liên quan và cộng đồng thông qua việc thực hiện các hợp đồng xã hội.

Giai đoạn 4 (1990-2000) chứng kiến sự chuyển mình của các doanh nghiệp thành công dân toàn cầu, với trách nhiệm xã hội ngày càng được nhấn mạnh Trong thời kỳ này, xã hội mong đợi các doanh nghiệp toàn cầu nhận thức và khắc phục những tác động tiêu cực mà họ đã gây ra đối với cộng đồng và môi trường tự nhiên.

Giai đoạn 5, bắt đầu từ năm 2000, đánh dấu sự phát triển bền vững trong thiên niên kỷ mới Giai đoạn này không chỉ tập trung vào trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các bên liên quan, mà còn mở rộng ra trách nhiệm của các tổ chức chính phủ, quốc tế, cộng đồng và công dân toàn cầu Trách nhiệm này thể hiện sự cam kết chung của tất cả các bên trong việc xây dựng một thế giới bền vững hơn.

2.1.1.2 Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Khái niệm Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) đã được mở rộng từ định nghĩa của Bowen vào năm 1953 và đã trải qua nhiều biến đổi theo thời gian Theo Keith Davis (1973), TNXHDN không chỉ đơn thuần là việc tuân thủ các yêu cầu pháp lý, kinh tế và công nghệ, mà còn bao gồm sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp đối với các vấn đề xã hội khác.

Carroll (1999) mở rộng khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) bằng cách nhấn mạnh trách nhiệm đáp ứng kỳ vọng của xã hội trên các phương diện kinh tế, pháp lý, đạo đức và thiện nguyện Mô hình "Kim tự tháp của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của ông minh họa rõ ràng các cấp độ trách nhiệm này.

Hình 2 1: Hệ thống phân cấp trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về mặt kinh tế chủ yếu là tạo ra lợi nhuận chấp nhận được cho nhà đầu tư Mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận là ưu tiên hàng đầu, vì nếu không đạt được mục tiêu kinh tế, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại để thực hiện các trách nhiệm khác Do đó, trách nhiệm kinh tế được xem là nền tảng cho các trách nhiệm xã hội khác của doanh nghiệp.

Là sự gắn kết tốt với cộng đồng, Đóng góp vào các quỹ xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống

Trách nhiệm đạo đức Đạo đức là nghĩa vụ phải làm những điều đúng đắn và công bằng, tránh gây hại

Pháp lý là những quy định về sự đúng sai để tạo nên một xã hội thống nhất Các hoạt động phải tuân thủ theo những quy định này

Tạo ra lợi nhuận, là nền tảng của những trách nhiệm khác

Trách nhiệm pháp lý là yếu tố quan trọng trong việc theo đuổi lợi ích kinh tế trong một xã hội pháp quyền Doanh nghiệp không chỉ được kỳ vọng hoạt động vì lợi nhuận mà còn phải tuân thủ các quy định và luật lệ do chính phủ liên bang, tiểu bang và địa phương ban hành.

Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp là cam kết với xã hội, đảm bảo rằng mọi mục tiêu kinh tế đều phải tuân thủ pháp luật và điều chỉnh theo các thay đổi pháp lý Sự liên kết giữa trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm kinh tế là không thể tách rời, tạo thành hai yếu tố cơ bản trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Trách nhiệm đạo đức của doanh nghiệp không chỉ bao gồm việc tuân thủ các chuẩn mực pháp lý mà còn phản ánh những mong đợi của cộng đồng về công bằng và công lý Doanh nghiệp cần tránh gây hại cho các bên liên quan và môi trường hoạt động của mình Khi doanh nghiệp vượt qua các tiêu chuẩn tối thiểu và tạo ra lợi ích xã hội, trách nhiệm xã hội của họ sẽ được nâng cao Mặc dù trách nhiệm đạo đức là tự nguyện, nhưng xã hội lại đặt ra những kỳ vọng lớn lao về điều này, khiến nó trở thành trung tâm của trách nhiệm xã hội.

Trách nhiệm thiện nguyện, hay trách nhiệm tùy tâm, đề cập đến các hành động của doanh nghiệp vượt qua mong đợi của xã hội Khác với trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm thiện nguyện hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của doanh nghiệp nhằm mang lại lợi ích lớn hơn cho cộng đồng và nâng cao tầm ảnh hưởng của mình Do tính chất tự nguyện này, doanh nghiệp không bị xem xét tiêu cực nếu không thực hiện trách nhiệm này, miễn là họ đáp ứng đủ các chuẩn mực xã hội.

Khái niệm TNXHDN, được đưa ra bởi Nhóm Phát triển Kinh tế Tư nhân của Ngân hàng Thế giới vào năm 2003, đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi.

TNXHDN thể hiện cam kết của doanh nghiệp trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững Điều này được thực hiện thông qua các hoạt động nâng cao chất lượng đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời mang lại lợi ích cho cộng đồng và xã hội Sự phát triển này không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà còn góp phần vào sự tiến bộ chung của xã hội.

Thiết kế nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng phương pháp thiết kế nghiên cứu theo cách tiếp cận của Saunders và các cộng sự (2011) Quy trình thiết kế nghiên cứu được minh họa rõ ràng trong hình ảnh kèm theo.

Hình 3 1: Quy trình thiết kế nghiên cứu

Nguồn:Saunders và cộng sự (2011)

Hệ nhận thức: Thực chứng

Theo Saunders và cộng sự (2011), chỉ có dữ liệu quan sát được mới đảm bảo tính đáng tin cậy trong nghiên cứu Trường phái này nhấn mạnh quy trình nghiên cứu bắt đầu từ việc phát triển giả thuyết, sau đó tiến hành kiểm định và xác nhận giả thuyết đã đề ra.

Phương pháp tiếp cận: Suy diễn

Quy trình suy diễn, theo Nguyễn Đình Thọ (2011), bắt đầu từ các lý thuyết khoa học hiện có, được gọi là lý thuyết nền, nhằm xây dựng giả thuyết cho câu hỏi nghiên cứu Sau đó, dữ liệu thu thập được sẽ được sử dụng để kiểm định các giả thuyết đã đề ra Nghiên cứu của tác giả hoàn toàn phù hợp với phương pháp tiếp cận này.

Phương pháp nghiên cứu Chiến lược nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: Hỗn hợp

Phương pháp hỗn hợp kết hợp giữa hai phương pháp định tính và định lượng, trong đó phương pháp định lượng đóng vai trò chủ yếu, dựa trên hệ nhận thức thực chứng.

Chiến lược nghiên cứu: Nghiên cứu lưu trữ

Tác giả đã sử dụng dữ liệu từ các chỉ tiêu có sẵn trên báo cáo tài chính, bao gồm tổng sản, tổng nợ, thu nhập ròng và số cổ phiếu đang lưu hành Đối với chỉ tiêu chỉ số CBTTTNXH, tác giả tự tổng hợp từ báo cáo tài chính năm, báo cáo phát triển bền vững và báo cáo tình hình quản trị của doanh nghiệp.

Giả thuyết và mô hình nghiên cứu

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhân tố quản trị công ty và công bố thông tin tài chính xã hội (CBTTTTXH) đã được thực hiện, nhưng kết quả chưa thống nhất, cho thấy bối cảnh nghiên cứu có ảnh hưởng đến tác động của quản trị công ty Việt Nam hiện chưa có bộ quy tắc quản trị cho các công ty niêm yết, dẫn đến việc ảnh hưởng của quản trị công ty đến CBTTTNXH trong nền kinh tế mới nổi vẫn cần được làm rõ Tác giả sẽ phát triển các giả thuyết để thiết kế mô hình nghiên cứu nhằm khám phá mối quan hệ này.

3.2.1.1 Sở hữu quản lý và CBTTTNXH:

Lý thuyết người đại diện chỉ ra rằng các nhà quản lý cấp cao thường sử dụng quyền lực để phân bổ nguồn lực nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân, thay vì tối ưu hóa lợi nhuận cho cổ đông (Jensen và Meckling, 1976) Họ có xu hướng hành động vì lợi ích riêng, dẫn đến việc ít khi thể hiện trách nhiệm xã hội Tuy nhiên, khi nhà quản lý nắm giữ một phần lớn vốn chủ sở hữu, khả năng cao họ sẽ đưa ra quyết định nhằm tối đa hóa giá trị cổ đông (Denis, Denis, & Sarin, 1997; McConnell & Servaes, 1990) Điều này tạo động lực cho họ tham gia vào các hoạt động cộng đồng và công bố thông tin xã hội nếu điều đó làm tăng giá trị doanh nghiệp Mặc dù vậy, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối tương quan âm giữa sở hữu quản lý và mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội (Chau & Gray, 2010; Eng & Mak, 2003; Khan, Muttakin, & Siddiqui).

Theo Oh và các cộng sự (2011), nhà quản lý doanh nghiệp ở Châu Á phải đối mặt với ít áp lực thể chế về các vấn đề xã hội Để thực hiện công bố thông tin về trách nhiệm xã hội (CBTTTNXH), nhà quản lý cần tích hợp các chiến lược trách nhiệm xã hội vào cả chiến lược ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp (Werther Jr & Chandler, 2010) Vì vậy, họ có xu hướng ưu tiên các chiến lược ngắn hạn nhằm gia tăng lợi nhuận nhanh chóng, từ đó nhận được các khoản bồi thường quản lý hấp dẫn.

Khan và cộng sự (2013) chỉ ra rằng doanh nghiệp có cấu trúc tập trung, với các thành viên quen thuộc hoặc trong gia đình, thường có mức độ tham gia hoạt động xã hội thấp Mặc dù vậy, việc công bố thông tin về trách nhiệm xã hội (CBTTTNXH) có thể ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai (Werther Jr & Chandler).

Năm 2010, các nhà quản lý có thể do dự trong việc đầu tư vào những hoạt động này vì họ lo ngại rằng chi phí đầu tư có thể vượt quá lợi ích tiềm năng mà những hoạt động này mang lại.

2013) Do đó, thông tin TNXHDN ít được công bố hơn ở các doanh nghiệp mà quyền kiểm soát tập trung trong tay một hay một vài nhà quản lý

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng sở hữu của nhà quản lý có mối tương quan âm với mức độ công bố thông tin tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp (Eng & Mak, 2003; Khan et al., 2013; Mohd Ghazali, 2007; Oh, Chang, & Martynov, 2011).

Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp tư nhân mới thành lập thường do cá nhân, gia đình hoặc nhóm cổ đông nhỏ kiểm soát Mặc dù một số doanh nghiệp này đã phát triển mạnh mẽ, nhưng cấu trúc sở hữu vẫn không thay đổi Điều này dẫn đến khả năng cao rằng các nhà quản lý có thể tìm kiếm lợi nhuận cho bản thân và các đồng sáng lập bằng cách giảm bớt đầu tư cho xã hội, thay vì tập trung vào việc tăng giá trị doanh nghiệp bền vững trong dài hạn.

Vì vậy, giả thuyết được đề xuất như sau:

Giả thuyết H 1 : Khi các nhân tố khác không thay đổi, có mối tương quan âm giữa tỷ lệ sở hữu quản lý và CBTTTNXH

3.2.1.2 Sở hữu nhà nước và CBTTTNXH:

Doanh nghiệp nhà nước thường nhạy cảm về mặt chính trị do sự chú ý từ công chúng và việc sở hữu của nhà nước đại diện cho lợi ích chung Theo lý thuyết hợp pháp, các doanh nghiệp này có xu hướng tham gia vào các hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội và công bố thông tin xã hội để hợp pháp hóa sự tồn tại của mình Ở Việt Nam, từ những năm 1990, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, nhưng nhà nước vẫn nắm giữ phần lớn cổ phần và kiểm soát thông qua các thành viên HĐQT Mặc dù hoạt động giống như các doanh nghiệp tư nhân, nhưng họ cần có tầm nhìn xa hơn lợi nhuận thuần túy và chú trọng đến lợi ích quốc gia do áp lực từ công chúng và các quy định pháp lý.

Giả thuyết H 2 : Khi các nhân tố khác không thay đổi, có mối tương quan dương giữa tỷ lệ sở hữu nhà nước và CBTTTNXH

3.2.1.3 Sở hữu nước ngoài và CBTTTNXH:

Cấu trúc sở hữu công ty có thể tạo ra lỗ hổng hợp pháp trong doanh nghiệp, đặc biệt khi cổ đông nước ngoài có yêu cầu cao về thông tin công bố Sự tách biệt giữa người quản lý và chủ sở hữu dẫn đến nhu cầu minh bạch thông tin tăng lên, nhất là khi cổ đông nước ngoài nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu lớn Các nhà đầu tư nước ngoài thường có những đánh giá khác nhau về rủi ro thị trường, do đó, họ mong muốn doanh nghiệp công bố thêm thông tin, bao gồm cả thông tin về xã hội và môi trường, để hỗ trợ quyết định đầu tư của mình.

Nhiều học giả cũng đã phát hiện ra rằng sở hữu nước ngoài có mối tương quan dương với CBTTTTX (Haniffa & Cooke, 2005; Khan et al., 2013; Oh et al., 2011)

Từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987, Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, hiện tại, tình hình đã có sự chuyển biến mạnh mẽ với những kỷ lục về đầu tư nước ngoài Sự hiện diện của cổ đông nước ngoài trong cơ cấu sở hữu doanh nghiệp Việt Nam ngày càng trở nên phổ biến, tạo động lực cho các doanh nghiệp chú trọng đến trách nhiệm xã hội và công bố thông tin liên quan đến vấn đề này.

Do đó, tương tự các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H 3 : Khi các nhân tố khác không thay đổi, có mối tương quan dương giữa sở hữu nước ngoài và CBTTTNXH

3.2.1.4 Thành viên độc lập HĐQT và CBTTTNXH:

Sự có mặt của các thành viên độc lập trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) là một yếu tố quan trọng trong quản trị doanh nghiệp, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động Theo Petra (2005), các thành viên bên ngoài độc lập sẽ tăng cường vai trò của HĐQT thông qua việc giám sát hoạt động của ban quản lý, đồng thời bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư.

Mặc dù có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa tỷ lệ thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị (HĐQT) và công bố thông tin tài chính xã hội (CBTTTNXH), nhưng bằng chứng thực nghiệm vẫn còn chưa rõ ràng Một số nghiên cứu, như của Cheng & Courtenay (2006) và Harjoto & Jo (2011), cho thấy có sự tương quan đáng kể giữa hai yếu tố này Tuy nhiên, các nghiên cứu khác, như của Eng & Mak (2003), lại chỉ ra rằng việc tăng số lượng thành viên độc lập trong HĐQT có thể dẫn đến giảm mức độ CBTTTNXH.

Tại Việt Nam, các quy định về quản trị công ty nhấn mạnh vai trò và tiêu chuẩn của thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị (HĐQT) Ví dụ, Nghị định đã đưa ra các hướng dẫn cụ thể liên quan đến trách nhiệm và tiêu chí cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý doanh nghiệp.

Theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP do Bộ Tài chính ban hành, các công ty đại chúng phải đảm bảo rằng ít nhất 1/3 tổng số thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) là thành viên độc lập Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của các thành viên độc lập trong việc đưa ra các quyết định doanh nghiệp Do đó, để xác định ảnh hưởng của yếu tố này đối với việc công bố thông tin tài chính và xã hội, tác giả đề xuất một giả thuyết nghiên cứu.

Giả thuyết H 4 : Khi các nhân tố khác không thay đổi, có mối tương quan dương giữa tính độc lập của HĐQT và CBTTTNXH

3.2.1.5 Vai trò kiêm nhiệm (CEO và chủ tịch HĐQT) và CBTTTNXH:

Haniffa và Cooke (2005) đưa ra hai quan điểm về việc tách biệt các vị trí quản lý Quan điểm đầu tiên ủng hộ việc phân chia rõ ràng các vai trò để đảm bảo kiểm soát và cân bằng trong quản lý, trong khi quan điểm thứ hai cho rằng sự tách biệt này không cần thiết, vì nhiều công ty vẫn hoạt động hiệu quả với vai trò kiêm nhiệm Tuy nhiên, khi một người nắm giữ cả hai vị trí, lợi ích của các bên liên quan, bao gồm cả lợi ích xã hội, có thể bị bỏ qua Điều này ảnh hưởng đến quyết định thực hiện các hành vi trách nhiệm xã hội và công bố thông tin Các hoạt động trách nhiệm xã hội thường mang tính tự nguyện và phụ thuộc vào nhận thức của người điều hành, dẫn đến khả năng chúng chỉ được thực hiện như một cách hợp thức hóa sự tồn tại của doanh nghiệp, như lý thuyết hợp pháp đã nêu.

Thang đo

3.3.1 Biến phụ thuộc Để đo lường biến phụ thuộc, có thể sử dụng chỉ số công bố hoặc phương pháp phân tích nội dung (Williams, 1998) Hackston và Milne (1996) nhận thấy rằng việc sử dụng chỉ số công bố hoặc phân tích nội dung không ảnh hưởng đến kết quả hồi quy Trong nghiên cứu này, nhằm hạn chế các vấn đề liên quan đến phân tích nội dung như đếm số từ hoặc câu, xử lý hình ảnh và biểu đồ, tác giả sử dụng chỉ số công bố để đo lường mức độ CBTTTNXH của doanh nghiệp Cách đo lường này cũng phù

H 6 (+) hợp với các nghiên cứu trước (Barako et al., 2006; Khan et al., 2013; Majeed, Aziz,

Trước khi xác định chỉ số CBTTTTXH (CSRDI) cho từng doanh nghiệp, tác giả đã thiết lập một bảng điểm với các chỉ tiêu cụ thể được phân loại thành các nhóm Các nhóm và chỉ tiêu này được kế thừa từ nghiên cứu trước đây và được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam Bảng điểm đã được thử nghiệm trên hai mươi công ty để đảm bảo các chỉ tiêu đặc trưng cho từng nhóm được liệt kê đầy đủ Cuối cùng, bảng điểm bao gồm 20 chỉ tiêu, được sắp xếp vào 5 nhóm chính: hoạt động cộng đồng, môi trường, nhân sự, thông tin sản phẩm và dịch vụ, cùng thông tin khác tạo ra giá trị gia tăng.

Chỉ số CBTTTTXH được xác định thông qua việc xử lý các chỉ tiêu trong bảng điểm bằng thủ tục nhị phân, trong đó mỗi chỉ tiêu nhận giá trị 1 nếu được công bố trong báo cáo của doanh nghiệp và giá trị 0 nếu không được công bố Trước khi ghi nhận giá trị cho các chỉ tiêu, toàn bộ báo cáo thường niên của doanh nghiệp đã được đọc kỹ để đảm bảo đánh giá mức độ tương quan một cách khách quan (Cooke, 1992).

Số điểm CBTTTTXH mà doanh nghiệp đạt được được tính bằng tổng điểm của các chỉ tiêu trong bảng điểm Chỉ số CBTTTTXH (CSRDIj) của từng doanh nghiệp được xác định theo cách này.

CSRDIj : chỉ số CBTTTNXH, 0 ≤ CSRDIj ≤ 1 nj : Số chỉ tiêu kỳ vọng cho công ty thứ j, nj ≤ 20, Xij = 1 nếu mục thứ i được công bố

= 0 nếu mực thứ i không được công bố

3.3.2 Biến độc lập và biến kiểm soát

Các biến chủ đạo trong mô hình (3.1) được đo lường bằng thang đo kế thừa từ các nghiên cứu trước Cụ thể như sau:

MOWN là tỷ lệ cổ phiếu đang lưu hành mà các thành viên trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) điều hành và CEO nắm giữ so với tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty.

MOWN = 𝐶ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 𝑐ủ𝑎 thành viên HĐQT điều hành và CEO

GOVOWN là chỉ số thể hiện tỷ lệ cổ phiếu của công ty mà nhà nước sở hữu so với tổng số cổ phiếu đang lưu hành.

GOVOWN = 𝐶ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 sở hữu bởi nhà nước

FOROWN là khái niệm chỉ tỷ lệ cổ phiếu mà cổ đông nước ngoài nắm giữ trên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty Tỷ lệ này được sử dụng để đánh giá mức độ sở hữu nước ngoài trong doanh nghiệp.

FOROWN = 𝐶ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 sở hữu bởi cổ đông nước ngoài

BIND : Thành viên độc lập HĐQT (Biến giải thích) Được đo lường bằng tỷ lệ số thành viên độc lập HĐQT trên tổng số thành viên của HĐQT

BIND = Số thành viên độc lập HĐQT

Tổng số thành viên HĐQT

CEODU : Vai trò kiêm nhiệm giữa CEO và chủ tịch HĐQT (Biến giải thích)

Là biến nhị phân, nhận giá trị bằng 1 nếu có thành viên kiêm nhiệm vị trí CEO với chủ tịch HĐQT, và nhận giá trị 0 nếu ngược lại

AUDCOM : Số lượng thành viên trong ủy ban kiểm toán (Biến giải thích) Được đo lường bằng tổng số thành viên trong ủy ban kiểm toán

AUDCOM = Tổng số thành viên trong ủy ban kiểm toán

FSIZE : Quy mô doanh nghiệp (Biến kiểm soát) Được đo lường bằng Logarit tự nhiên của tổng tài sản

FSIZE = Lg (Tổng tài sản)

ROA : Tỷ lệ sinh lời trên tài sản Được đo lường bằng thu nhập ròng trên tổng tài sản

LEV : Đòn cân nợ Được đo lường bằng tỷ lệ nợ (vay ngắn hạn và dài hạn) trên tổng tài sản

Bảng 3 1: Bảng tổng hợp các biến

Mã biến Tên biến Cách thức đo lường

Dấu kì vọng của hệ số hồi quy BIẾN PHỤ THUỘC

Nếu trong BCTN của công ty công bố một mục trong bảng danh mục TNXH (bên dưới) thì nhận 1 điểm và nhận 0 nếu không công bố

MOWN Sở hữu quản lý

Số cổ phiếu sở hữu bởi thành viên HĐQT điều hành và CEO trên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty

GOVOWN Sở hữu nhà nước

Số cổ phiếu sở hữu bởi nhà nước trên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty +

FOROWN Sở hữu nước ngoài

Số cổ phiếu sở hữu bởi cổ đông nước ngoài trên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty

BIND Thành viên độc lập HĐQT

Số thành viên độc lập HĐQT trên tổng số thành viên HĐQT +

Vai trò kiêm nhiệm (CEO và chủ tịch HĐQT)

Là biến nhị phân, nhận giá trị bằng 1 nếu có kiêm nhiệm và giá trị 0 nếu ngược lại +

AUDCOM Ủy ban kiểm toán

Số lượng thành viên trong ủy ban kiểm toán +

FSIZE Quy mô doanh nghiệp Logarit tổng tài sản +

ROA Tỷ lệ sinh lời trên tài sản Thu nhập ròng trên tổng tài sản +

LEV Đòn cân nợ Tổng nợ (vay ngắn hạn và dài hạn) trên tổng tài sản +

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Dữ liệu nghiên cứu và cách thức thu thập dữ liệu

3.4.1 Xác định mẫu nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào 50 công ty niêm yết ngẫu nhiên tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) trong giai đoạn 2015-2017 Mẫu nghiên cứu không bao gồm các định chế tài chính trung gian như ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm và công ty quản lý quỹ do sự khác biệt trong đặc thù hoạt động và chế độ kế toán của các loại hình doanh nghiệp này (Trần Thị Giang Tân & Trương Thùy Dương, 2016).

Một số doanh nghiệp sử dụng phương tiện truyền thông để chứng minh trách nhiệm công bố thông tin (CBTTTNXH), nhưng nghiên cứu này chỉ tập trung vào báo cáo thường niên vì đây là tài liệu đáng tin cậy, không chỉ là những con số đơn thuần Báo cáo thường niên không chỉ cung cấp dữ liệu mà còn kết nối mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư Hơn nữa, đây là công cụ hiệu quả cho các bên liên quan để tiếp cận dữ liệu chất lượng, mô tả tư duy quản lý trong một giai đoạn cụ thể và dễ dàng cho mục đích nghiên cứu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 16/07/2022, 09:48

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Cấu trúc của NS-2 bao gồm các thành phần được chỉ ra trên Hình 2, chức năng của chúng được mô tả như sau: - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
u trúc của NS-2 bao gồm các thành phần được chỉ ra trên Hình 2, chức năng của chúng được mô tả như sau: (Trang 15)
Bảng 1. 1: Bảng tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTTTNXH - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Bảng 1. 1: Bảng tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTTTNXH (Trang 20)
Hình 2. 1: Hệ thống phân cấp trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Hình 2. 1: Hệ thống phân cấp trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Trang 29)
Hình 2. 2: Hệ thống QTCT - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Hình 2. 2: Hệ thống QTCT (Trang 37)
Hình 3. 1: Quy trình thiết kế nghiên cứu - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Hình 3. 1: Quy trình thiết kế nghiên cứu (Trang 43)
Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu được trình bày như sau: - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
h ình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu được trình bày như sau: (Trang 51)
Bảng 3. 1: Bảng tổng hợp các biến - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Bảng 3. 1: Bảng tổng hợp các biến (Trang 55)
Bảng 4. 1: Thống kê mô tả của các biến - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Bảng 4. 1: Thống kê mô tả của các biến (Trang 59)
Bảng 4. 2: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Bảng 4. 2: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến (Trang 61)
Bảng 4. 3: Kiểm định sự khác biệt - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
Bảng 4. 3: Kiểm định sự khác biệt (Trang 64)
Tác giả tiến hành chạy mơ hình hồi quy để lần lượt xem xét tác động của các biến sở hữu quản lý, sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngồi, thành viên độc lập HĐQT, vai trị kiêm nhiệm CEO và chủ tịch HĐQT, ủy ban kiểm toán đến mức độ CBTTTNXH - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
c giả tiến hành chạy mơ hình hồi quy để lần lượt xem xét tác động của các biến sở hữu quản lý, sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngồi, thành viên độc lập HĐQT, vai trị kiêm nhiệm CEO và chủ tịch HĐQT, ủy ban kiểm toán đến mức độ CBTTTNXH (Trang 65)
BẢNG DANH MỤC TNXH - (LUẬN văn THẠC sĩ) ảnh hưởng của nhân tố quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội – bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (HOSE)
BẢNG DANH MỤC TNXH (Trang 84)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN