1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ

87 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chính Sách Tài Khóa, Chính Sách Tiền Tệ Có Tác Động Đến Tăng Trưởng Kinh Tế? – Nghiên Cứu Trường Hợp Tại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Thúy Diệu
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Huyền
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 1,26 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẰT

  • DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. Lý do chọn đề tài:

    • 2. Mục tiêu nghiên cứu:

    • 3. Phương pháp nghiêu cứu:

    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

    • 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:

    • 6. Kết cấu luận văn

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HAI CHÍNH SÁCH NÀY ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

    • 1.1 Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ

      • 1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ

      • 1.1.2 Mục tiêu CSTT

        • 1.1.2.1 Mục tiêu cuối cùng

        • 1.1.2.2 Mục tiêu trung gian

        • 1.1.2.2 Mục tiêu hoạt động

      • 1.1.3 Các kênh truyền dẫn của CSTT

        • 1.1.3.1 Kênh lãi suất

        • 1.1.3.2 Kênh giá cả tài sản

      • 1.1.4 Các công cụ để thực thi CSTT

    • 1.2 Cơ sở lý luận về chính sách tài khóa (CSTK)

      • 1.2.1 Khái niệm CSTK

      • 1.2.2. Phân loại CSTK

      • 1.2.3. Các công cụ của CSTK

      • 1.2.4. CSTK và tổng cầu xã hội

      • 1.2.5. CSTK – Công cụ quản lý kinh tế vĩ mô

    • 1.3 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa chính CSTT, CSTK và tăng trưởng kinh tế

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (CUNG TIỀN), CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA (CHI TIÊU CHÍNH PHỦ) VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

    • 2.1 Khái quát tình hình tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

    • 2.2 Thực trạng CSTT của Việt Nam

    • 2.3. Thực trạng CSTK của Việt Nam

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

  • CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA CHI TIÊU CHÍNH PHỦ (CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA) VÀ CUNG TIỀN (CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ) ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM

    • 3.1 Mô hình nghiên cứu

    • 3.2. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm

    • 3.3. Kết quả thực nghiệm

      • 3.3.1. Kiểm định nghiệm đơn vị

      • 3.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn – phân tích đồng liên kết

      • 3.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn – Mô hình ECM

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

  • CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

    • 4.1 Kết luận và khuyến nghị về chính sách

    • 4.1.1 Kết luận

    • 4.1.2 Khuyến nghị

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

TỔ NG QUAN LÝ THUY Ế T V Ề CHÍNH SÁCH TI Ề N T Ệ , CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TÁC ĐỘ NG C Ủ A HAI CHÍNH SÁCH NÀY ĐỐ I V ỚI TĂNG TRƯỞ NG KINH T Ế

Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ

1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là một phần quan trọng của chính sách kinh tế - tài chính quốc gia, được thiết lập và thực hiện bởi Ngân hàng trung ương (NHTW) nhằm ổn định tiền tệ và cải thiện sức mua của đồng tiền.

- CSTT là một bộ phận cấu thành chính sách kinh tế tài chính quốc gia

- CSTT là công cụ kinh tế vĩ mô

- NHTW là người đề ra và vận hành CSTT

Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ (CSTT) là ổn định và nâng cao sức mua của đồng tiền trong nước Tại Việt Nam, Ngân hàng Trung ương, hay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là cơ quan chính của Chính phủ, có nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc hoạch định và thực thi CSTT quốc gia, nhằm ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo hoạt động ngân hàng và hệ thống tổ chức tín dụng, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu dài hạn của bất kỳ nền kinh tế nào là ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước Ngân hàng Trung ương (NHTW) cần điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) một cách hiệu quả, kiểm soát khối lượng tiền tệ để tương thích với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa Điều này bao gồm việc cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, cũng như giữa tiền và hàng hóa, nhằm tránh tình trạng thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông.

Trong một quãng thời gian cụ thểnào đó, CSTT có thểđược xác định theo một trong hai hướng:

CSTT mở rộng là chính sách cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư và mở rộng sản xuất, từ đó tạo ra nhiều công ăn việc làm Chính sách này thường được áp dụng để chống lại suy thoái kinh tế.

Công cụ chính sách tiền tệ thắt chặt là quá trình giảm cung tiền trong nền kinh tế để hạn chế đầu tư và ngăn chặn sự phát triển quá nóng Mục tiêu chính của chính sách này là kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế.

Ngân hàng Trung ương (NHTW) tác động đến cung tiền để điều chỉnh lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu của các khu vực trong nền kinh tế, cuối cùng dẫn đến tác động của chính sách tiền tệ (CSTT) lên GDP và lạm phát Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị danh nghĩa của hàng hóa và dịch vụ, tức là mức giá chung, và là yếu tố quyết định mức giá chung trong dài hạn Tuy nhiên, CSTT cũng có ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn CSTT bao gồm các biện pháp và công cụ của NHTW nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế thông qua việc điều tiết cung ứng tiền và tín dụng, kiểm soát dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền trong nền kinh tế.

CSTT hoạt động dựa trên thực trạng kinh tế và tiền tệ tại từng thời điểm, sử dụng nhiều công cụ khác nhau Việc áp dụng các giải pháp chống lạm phát có thể mâu thuẫn với nỗ lực chống suy thoái để thúc đẩy tăng trưởng, do đó, tìm ra điểm dung hòa giữa hai vấn đề này là một thách thức lớn (Lê Văn Tề, 2011).

1.1.2 Mục tiêu CSTT 1.1.2.1 Mục tiêu cuối cùng

Mục tiêu cuối cùng của CSTT là tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và kiểm soát lạm phát (SửĐình Thành và Vũ Thị Minh Hằng, 2008)

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng thực tế hoặc sản lượng thực tế bình quân đầu người theo thời gian, thường được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Khi cung ứng tiền tệ tăng, lãi suất tín dụng giảm, dẫn đến chi phí đầu tư giảm, khuyến khích đầu tư và tăng tổng cầu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Ngược lại, khi cung tiền giảm, lãi suất tăng, đầu tư và chi tiêu giảm, làm giảm tổng cầu và tăng trưởng.

Trong việc thực hiện mục tiêu này, vai trò của ngân hàng rất quan trọng

Ngân hàng, với vai trò là trung tâm tín dụng, hoạt động dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách tiền tệ, nhằm huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội Qua đó, ngân hàng phân phối lại nguồn vốn cho các đơn vị kinh tế, góp phần gia tăng tài nguyên trong nước và thu hút vốn từ nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế.

 Tạo công ăn việc làm

Trong nền kinh tế thị trường, khi lao động được coi là hàng hóa, thất nghiệp trở thành một hiện tượng không thể tránh khỏi Vì vậy, việc tạo ra công ăn việc làm là nhu cầu cấp bách và liên tục mà các quốc gia phải đối mặt.

Việc làm phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tăng trưởng kinh tế; khi nền kinh tế phát triển, việc làm tăng và thất nghiệp giảm, ngược lại khi kinh tế trì trệ, việc làm giảm và thất nghiệp tăng Nhà kinh tế học Arthur Okun đã chỉ ra rằng khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, mức thất nghiệp sẽ tăng 1% Tuy nhiên, nếu tăng trưởng kinh tế đạt được nhờ cải tiến kỹ thuật, số lượng việc làm có thể không tăng hoặc thậm chí giảm.

Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư và mở rộng sản xuất - kinh doanh Đồng thời, NHTW cần tích cực tham gia vào việc chống suy thoái kinh tế, nhằm tạo ra sự tăng trưởng ổn định và bền vững Mục tiêu chính là kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức tự nhiên, từ đó tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.

Hiện tượng lạm phát ngày nay là điều không thể tránh khỏi, và để nền kinh tế phát triển bền vững, cần có một môi trường tiền tệ và giá cả ổn định Do đó, Ngân hàng Trung ương (NHTW) luôn đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát lên hàng đầu trong chính sách tiền tệ Thông thường, lạm phát ở mức vừa phải được xem là mục tiêu mà các NHTW hướng tới trong việc quản lý lạm phát.

Sự phối hợp giữa ba mục tiêu quan trọng: tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và kiểm soát lạm phát, cần được thực hiện một cách linh hoạt và hợp lý Không thể đồng thời đạt được cả ba mục tiêu mà không xảy ra mâu thuẫn, vì vậy cần có sự dung hòa trong chính sách tiền tệ NHTW cần ưu tiên các mục tiêu dựa trên tình hình thực tế và điều kiện cụ thể, đồng thời theo dõi sát sao diễn biến để kịp thời điều chỉnh các giải pháp phù hợp.

1.1.2.2 Mục tiêu trung gian Để biết được các mục tiêu cuối cùng nêu trên có thực hiện được hay không thì NHTW phải chờ một thời gian (thường là một năm – khi kết thúc năm tài chính) Lúc này, nếu kết quả thực hiện không đạt được như mục tiêu đề ra, thì sẽ quá chậm để điều chỉnh Do vậy, bên cạnh các mục tiêu cuối cùng, NHTW còn phải xác định các mục tiêu trung gian của CSTT, nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng Tiêu chuẩn để NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian là: chúng phải có tính định lượng, kiểm soát được và thông qua chúng có thể dự đoán được việc thực hiện các mục tiêu cuối cùng Với những tiêu chuẩn đó, các mục tiêu trung gian của CSTT thường được sử dụng là các khối tiền tệ M1, M2, M3 và lãi suất Tuy nhiên, NHTW không thể chọn đồng thời cả hai chỉ tiêu này làm mục tiêu trung gian

Cơ sở lý luận về chính sách tài khóa

CSTK, hay chính sách tài khóa, là một khái niệm trong kinh tế học liên quan đến các quyết định của Chính phủ về mức chi tiêu công và cách thức huy động nguồn lực tài chính để đảm bảo chi tiêu đó Chính phủ phải đối mặt với nhiều nhiệm vụ đa dạng và có nhiều nguồn tài chính để chi trả, trong đó thu thuế và vay nợ là hai nguồn quan trọng nhất để bù đắp thâm hụt ngân sách CSTK được coi là công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, giúp Chính phủ huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

CSTK là việc sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) để tác động tích cực đến nền kinh tế Khi Chính phủ áp dụng thuế để tăng cường nguồn thu và thực hiện chi tiêu cho các dịch vụ công, những hoạt động này đều liên quan đến CSTK.

1.2.2 Phân loại CSTK Căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế: CSTK tự ổn định và CSTK có sựđiều chỉnh của nhà nước

CSTK tự ổn định là cơ chế tự động điều chỉnh tình hình kinh tế dựa vào sự biến động của nền kinh tế quốc dân, mà không cần sự can thiệp từ Chính phủ.

CSTK cần sự can thiệp của nhà nước để phát huy hiệu quả, vì chính sách này không tự ổn định mà phải dựa vào các yếu tố bên ngoài để có thể điều tiết nền kinh tế một cách hiệu quả.

Căn cứ vào trạng thái của CSTK thông qua việc đánh giá chênh lệch thu và chi ngân sách: CSTK mở rộng và CSTK thắt chặt

CSTK mở rộng xảy ra khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt, tức là thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách Qua việc phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhà nước có thể kích thích tăng trưởng tổng nhu cầu xã hội.

Công cụ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng chủ yếu bao gồm việc giảm thuế và tăng cường chi tiêu ngân sách Khi áp dụng đồng thời hai biện pháp này, chính sách tài khóa mở rộng có thể dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách.

CSTK thắt chặt xảy ra khi ngân sách nhà nước có thặng dư, tức là thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách Qua việc phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính, nhà nước thực hiện hạn chế tăng tổng nhu cầu xã hội.

Công cụ thực hiện chính sách tài khóa (CSTK) thắt chặt chủ yếu bao gồm việc tăng thuế và giảm chi tiêu ngân sách Khi thực hiện đồng thời cả hai biện pháp này, CSTK thắt chặt sẽ góp phần tạo ra thặng dư ngân sách.

1.2.3 Các công cụ của CSTK

Thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ cá nhân và tổ chức cho nhà nước, được quy định bởi pháp luật về mức độ và thời gian, nhằm phục vụ các mục đích công cộng.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, sự thay đổi trong phương thức can thiệp của nhà nước đã làm cho thuế trở thành một công cụ thiết yếu Thuế không chỉ giúp huy động nguồn lực tài chính cho Chính phủ mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Chi tiêu Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của nhà nước để thực hiện các mục tiêu chung của xã hội Nó được chia thành hai loại chính: chi thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư của Chính phủ tập trung vào các ngành nghề và lĩnh vực có hiệu ứng bên ngoài lớn, nhằm kích thích đầu tư từ khu vực tư nhân Do đó, năng lực và phương hướng đầu tư của Chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc điều chỉnh cơ cấu huy động nguồn lực tài chính của xã hội, góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.

Khi chi tiêu của Chính phủ vượt quá thuế thu, Chính phủ cần vay nợ từ cả trong nước và quốc tế để bù đắp thâm hụt ngân sách, dẫn đến việc hình thành nợ chính phủ hay tín dụng nhà nước Tín dụng nhà nước được thực hiện qua nhiều hình thức như công trái, tín phiếu, trái phiếu quốc tế và trái phiếu Chính phủ.

Ban đầu, tín dụng nhà nước chỉ được sử dụng để bù đắp bội chi ngân sách Tuy nhiên, theo sự phát triển của nền kinh tế, tín dụng nhà nước đã trở thành một chính sách tài chính quan trọng, không chỉ điều tiết quan hệ cung cầu tiền tệ mà còn điều chỉnh mối quan hệ tài chính với tiền tệ - tín dụng.

1.2.4 CSTK và tổng cầu xã hội

Trong bối cảnh nền kinh tế mở, Keynes đã áp dụng khái niệm phân tích cung cầu để phân tích tổng cầu xã hội, phân chia thành các yếu tố chi tiêu.

- C: Chi tiêu dùng của dân cư;

- I: Chi đầu tư theo kế hoạch của doanh nghiệp, bao gồm đầu tư tài sản cố định và đầu tư tồn kho

- G: Chi tiêu của Chính phủ

- (X-M): Cán cân thanh toán quốc tế

Các nghiên c ứu về mối quan hệ giữa chính CSTT, CSTK và tăng trưởng kinh

Hiệu quả của các hoạt động liên quan đến chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học Nghiên cứu của Friedman và Meiselman (1963), Ansari (1996), cùng với các tác phẩm của Reynolds (2000, 2001) và Chari cùng các cộng sự đã đóng góp vào cuộc thảo luận này.

(1991, 1998), Schmiti và Uribe (2001a), Shapiro và Watson (1988), Blanchard và Perroti (1996), Christiano và cộng sự (1996), Chari và Kehoe (1998), Kim

Nhiều nghiên cứu, bao gồm các tác phẩm của Chowdhury (1986, 1988), Weeks (1999), Feldstein (2002) và Cadia (1991), đã phân tích tác động của chính sách tài khóa và tiền tệ đối với các nền kinh tế khác nhau Tuy nhiên, các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu vẫn chưa đưa ra được kết luận rõ ràng về ảnh hưởng của những chính sách này đối với tăng trưởng kinh tế.

Theo lý thuyết Keynes, kích thích nhu cầu là phương pháp chủ yếu để ngăn chặn suy thoái kinh tế, trong khi cắt giảm nhu cầu nhằm kiểm soát lạm phát Tuy nhiên, việc thực hiện cả hai mục tiêu này đồng thời là rất khó khăn Đáp lại, Robert Mundell (1971) và Levy (2001) cho rằng nếu muốn kiểm soát lạm phát, nên ủng hộ chính sách tiền tệ; còn nếu mục tiêu là tạo thêm việc làm và gia tăng sản lượng tiềm năng, thì cần ủng hộ chính sách tài khóa Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có những hiệu ứng kinh tế khác nhau, và sự khác biệt này cần được phản ánh trong các mục tiêu của chúng.

Friedman và Meiselman (1963), Ajaye (1974), Elliot (1975), cùng Batten và Hafer (1983) đều ủng hộ chính sách tiền tệ, nhấn mạnh rằng chính sách này có tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng đến chính sách tài khoá, từ đó tác động đến đầu tư và sự phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, Chowdhury (1986); Olaloye và Ikhide (1995) lại ủng hộ chính sách tài khóa, tranh luận rằng những kích thích tài chính quyết định tăng trưởng kinh tế

Nhiều nhà kinh tế học đồng thuận rằng các nhà làm chính sách nên áp dụng sự kết hợp hỗn hợp chính sách Có bốn loại sự kết hợp chính sách có thể thay thế cho nhau, mang lại sự linh hoạt trong việc điều chỉnh và cải thiện hiệu quả kinh tế.

+ Nếu mục đích là đạt được tốc độ phát triển kinh tế thì chính sách mở rộng tài khoá và mở rộng tiền tệnên được thực hiện

Khi nền kinh tế đối mặt với lạm phát sau giai đoạn tăng trưởng, việc áp dụng chính sách thắt chặt tài khóa và thắt chặt tiền tệ là cần thiết Sự thâm hụt ngân sách và việc gia tăng cung tiền ồ ạt đều góp phần vào việc gia tăng lạm phát, do đó, sự kết hợp của các chính sách này sẽ mang lại hiệu quả trong việc kiểm soát tình hình kinh tế.

Chính sách tài khoá thắt chặt kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng, cùng với chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt, đã không mang lại kết quả khả quan hơn trong lịch sử.

Nghiên cứu thực nghiệm tại Mỹ cho thấy rằng các hoạt động tiền tệ có tác động vĩnh viễn đến tăng trưởng kinh tế, trong khi các hoạt động tài khóa không có ảnh hưởng lâu dài (Anderson và Carlson, 1970; Carlson, 1978; Hafer, 1982).

Keran (1970), Dewald và Marchon (1978), cùng với Batten và Hafer (1983) đã nghiên cứu hiệu quả tương đối của hai công cụ trong một số quốc gia phát triển, dựa trên phương trình của St Louis Tuy nhiên, phân tích của họ chỉ tập trung vào các nước có nền kinh tế phát triển và tinh vi như Canada, Pháp, Đức, Nhật Bản và Vương quốc Anh.

Nghiên cứu của Park (1970) và Polak (1957) cho thấy chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn hơn chính sách tài khóa trong việc ổn định kinh tế ở các nước phát triển Nhiều nhà kinh tế học, như Hussain (1982), cũng chỉ ra rằng chính sách tiền tệ có thể tác động mạnh mẽ hơn ở các nước đang phát triển do khối lượng tài sản tài chính hạn chế Sự gia tăng cung tiền không chỉ ảnh hưởng đến các tài sản thay thế mà còn trực tiếp tác động đến thị trường tài sản thực, dẫn đến chi phí tăng Vì vậy, chính sách tiền tệ có thể tạo ra hiệu ứng nhanh chóng và mạnh mẽ hơn tại các nước đang phát triển so với các nước phát triển.

Các nhà kinh tế học ủng hộ lý thuyết Keynes cho rằng chính sách tài khóa hiệu quả hơn chính sách tiền tệ trong việc ổn định kinh tế, nhấn mạnh tầm quan trọng của "thặng dư ngân sách với đầy đủ việc làm" Soligo (1967) cho rằng chính sách tiền tệ thông thường có hiệu quả hạn chế ở các nước đang phát triển Hafer (1982) đã sử dụng kiểm định quan hệ nhân quả Granger để phân tích dữ liệu từ 1960 đến 1980 tại Mỹ, cho thấy mối quan hệ nhân quả từ tiền đến GNP và từ GNP đến chính sách tài khóa, ngụ ý rằng biến số chính sách tiền tệ là ngoại sinh Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng chính sách tài khóa có tác động lớn hơn so với chính sách tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế, trái ngược với quan điểm phổ biến Tuy nhiên, Andersen và Jordan (1968) lại tìm thấy rằng chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh hơn đến tăng trưởng so với chính sách tài khóa.

Một số nghiên cứu cụ thể:

Y Musa và B.K Asare (2012) đã nghiên cứu tác động của chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) đối với tăng trưởng kinh tế ở Nigeria, sử dụng mô hình điều chỉnh sai số (ECM) Kết quả cho thấy cả hai chính sách đều có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, chính sách tiền tệ lại thể hiện tác động mạnh mẽ hơn.

Nghiên cứu chỉ ra rằng các biến cung tiền, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ chiết khấu tối thiểu đại diện cho chính sách tiền tệ (CSTT), trong khi tổng thu và tổng chi của Chính phủ đại diện cho chính sách tài khóa (CSTK) Sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM), các tác giả đã phân tích và kết luận rằng tăng trưởng kinh tế ở Nigeria chủ yếu bị ảnh hưởng bởi cung tiền Họ nhận thấy rằng cung tiền và tỷ lệ chiết khấu tối thiểu có tác động lâu dài đến nền kinh tế, đồng thời khẳng định rằng ảnh hưởng của CSTT đối với tăng trưởng kinh tế lớn hơn so với CSTK.

- Md Habibur Rahman (2005): xem xét tác động của CSTT và CSTK ở Bangladesh thông qua cách tiếp cận mô hình tự hồi quy vecto (VAR)

Trong nghiên cứu này, biến cung tiền thực đại diện cho chính sách tiền tệ (CSTT), biến chi tiêu thực của Chính phủ đại diện cho chính sách tài khóa (CSTK), và tổng sản phẩm quốc dân (GDP) thực đại diện cho tăng trưởng kinh tế Tác giả đã đưa biến lãi suất thực vào mô hình và sử dụng mô hình VAR cùng với hàm phản ứng đẩy (IRF) và phân rã phương sai để phân tích Kết quả cho thấy CSTT có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, trong khi CSTK cũng ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa cao.

Ambreen Fatima và Azhar Iqbal (2003) đã nghiên cứu tác động của hai loại chính sách đến tăng trưởng kinh tế tại năm quốc gia: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ và Pakistan Nghiên cứu này được thực hiện thông qua việc áp dụng mô hình VAR và ECM để phân tích dữ liệu.

THỰ C TR Ạ NG CHÍNH SÁCH TI Ề N T Ệ (CUNG TI Ề N), CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA (CHI TIÊU CHÍNH PH Ủ) VÀ TĂNG TRƯỞ NG

Khái quát tình hình t ăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Trong suốt 25 năm từ 1987 đến 2012, kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng ấn tượng với mức trung bình đạt 7% mỗi năm Năm 1995 ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất là 9,5%, trong khi năm 1987 là năm có mức tăng thấp nhất với 3,6% Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Giai đoạn 1987 – 1995 đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, với sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, đạt đỉnh cao vào năm 1995 Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi nhiều cải cách quan trọng, bao gồm việc ban hành và sửa đổi các bộ luật liên quan đến ngân sách nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, tín dụng và ngân hàng, cùng với việc khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước Những năm đầu của giai đoạn chuyển đổi đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho nền kinh tế.

Trong giai đoạn 1996 – 2000, kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 1997 Mặc dù mức kiểm soát tài khoản vốn cao giúp giảm thiểu tác động, sự suy giảm nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế non trẻ của Việt Nam.

- Giai đoạn 2001 – 2010: Bước vào thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế

Trong giai đoạn 2001-2010, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 và khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008 Dù gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vẫn đạt mức khá, với tổng sản phẩm trong nước tăng trung bình 7,26% Cụ thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 ghi nhận mức tăng 7,51%/năm, trong khi kế hoạch 2006-2010 đạt 7,01%/năm So với giai đoạn 1991-2000, quy mô nền kinh tế đã tăng đáng kể, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân tương đương với 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trước đó.

2000, đây là một thành tựu rất quan trọng

Trong suốt 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ trong khu vực, vượt trội hơn so với các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia và Philippines.

- Giai đoạn 2011 - 2012: do vẫn ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn còn khá thấp

2.2 Thực trạng CSTT của Việt Nam

- Giai đoạ n 1990 – 1999: th ự c hi ệ n CSTT th ắ t ch ặ t

Trong giai đoạn 1990 – 1995, Nghị quyết Đại hội Đảng VII xác định mục tiêu kinh tế là đẩy lùi lạm phát, ổn định và phát triển sản xuất xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, và hình thành các thị trường đồng bộ Đồng thời, việc quản lý tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước tập trung vào kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Bảng 2.1 Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng tín dụng từ năm 1990 - 1998 Đơn vị: %/năm

Nguồn: NHNN, Tổng Cục thống kê

Từ năm 1996 đến 1999, nền kinh tế Việt Nam trải qua nhiều biến động lớn nhất kể từ khi thực hiện đổi mới, chịu ảnh hưởng không chỉ từ các yếu tố trong nước mà còn từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á giữa những năm này.

Năm 1999, tăng trưởng kinh tế giảm mạnh xuống 4,8% so với 5,8% năm 1998 và 8,2% năm 1997 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng nhằm ổn định giá trị VND, tỷ giá và kiểm soát thị trường ngoại hối để giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Mục tiêu là hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt mức 5 - 6%, kiểm soát lạm phát ở mức 5 - 6% và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.

- Giai đoạ n 2000 - 2007: th ự c hi ệ n CSTT m ở r ộ ng

Bảng 2.2Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng tín dụng từ năm 2000 – 2007 Đơn vị: %/năm

Nguồn: NHNN, Tổng Cục thống kê

Năm 2000, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đặt ra mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) nới lỏng thận trọng, nhằm ổn định giá trị đồng tiền và kiểm soát lạm phát ở mức 6%, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ 5,5% đến 6% Do đó, các mục tiêu tiền tệ chủ yếu được xác định, trong đó tăng trưởng tín dụng dự kiến đạt 28-30% và tổng phương tiện thanh toán M2 dự kiến tăng 38%.

Từ năm 2001 thực hiện Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế 2001 - 2010 theo các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng lần thứ

Trong giai đoạn 2001 - 2010, mục tiêu dài hạn của việc thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) được xác định là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, cũng như kích thích đầu tư phát triển.

Nhất quán với mục tiêu dài hạn nêu trên, mục tiêu CSTT trong giai đoạn 2001 -

2005 cũng đã được xác định theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX:

Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) là cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, và kích thích đầu tư phát triển Điều này đảm bảo nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng cao và bền vững trong tương lai.

- Giai đoạ n cu ố i 2007 – 2010: CSTT có lúc th ắ t ch ặ t, lúc m ở r ộ ng

Bảng 2.3 Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng tín dụng từ năm 2008 - 2012 Đơn vị: %/năm

Nguồn: NHNN, Tổng Cục thống kê

Từ cuối năm 2007 đến tháng 5/2008, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với lạm phát gia tăng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhanh chóng áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND dưới 12 tháng lên 11% và điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 8,25% lên 8,75% mỗi năm.

Việc phát hành 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông để chống lạm phát đã dẫn đến tình trạng thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại giảm nghiêm trọng Điều này đã kích thích cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng, khiến lãi suất huy động và cho vay liên tục leo thang Trong khi chính sách tiền tệ (CSTT) thắt chặt, chính sách tài khóa (CSTK) lại nới lỏng, tạo ra áp lực gia tăng cho lạm phát và lãi suất.

Từ tháng 5/2008 đến tháng 9/2008: Chính phủ cùng đồng thời thực thi

CSTT và CSTK đã được thắt chặt, nhưng tín hiệu tiêu cực từ kinh tế vĩ mô trong những tháng đầu năm 2008 vẫn gây áp lực lên nền kinh tế, khiến lạm phát tiếp tục gia tăng Để đối phó với những khó khăn này, lãi suất cơ bản đã được điều chỉnh tăng lên 14% vào tháng.

6/2008 và giữ mức lãi suất đó đến tháng 9/2008, đồng thời áp dụng một số biện pháp điều hành quyết liệt của NHNN nên lạm phát đã được ngăn chặn

Từ đầu quý 4/2008, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ suy giảm nhanh chóng do tác động của khủng hoảng toàn cầu và chính sách tiền tệ thắt chặt quá mức của Ngân hàng Nhà nước Sự gia tăng lãi suất huy động khiến tiền mặt bị rút khỏi lưu thông, trong khi lãi suất cho vay đạt mức kịch trần 21%/năm, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế Để đối phó với tình hình này, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, giảm dần lãi suất cơ bản từ 14%/năm nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế.

Th ực trạng CSTK của Việt Nam

- Giai đoạn 199 1 – 1996: th ực hiện CSTK tương đối thắt chặt

Bảng 2.4: Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN từ năm 1991 - 1996

Nguồn: Ngân hàng Phát triển Châu Á

Trong những năm 1990, Việt Nam đối mặt với lạm phát cao, cụ thể là 67,5% vào năm 1990 và 67,4% vào năm 1991 Để giảm lạm phát, giai đoạn 1991-1996, chính phủ thực hiện chính sách chi tiêu thắt chặt, với tỷ lệ thu ngân sách nhà nước (NSNN) chỉ chiếm 14,3% GDP trong khi chi tiêu lên tới 21,4% GDP giai đoạn 1985-1990, dẫn đến bội chi ngân sách trung bình trên 7% GDP Trong khi đó, giai đoạn 1991-1996, tỷ lệ bội chi NSNN chỉ còn trung bình 2,28% GDP, cho thấy sự khác biệt rõ rệt so với giai đoạn trước đó, khi tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP là 11,3% trong giai đoạn 1976-1980 và 13,4% trong giai đoạn 1981-1985.

- Giai đoạn 1997 – 2007: th ực hiện CSTK mở rộng

Bảng 2.5: Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN từ năm 1997 – 2007

(% GDP) 22.6 20.3 21.2 22.6 24.4 27.7 29.5 29.9 31.3 31.6 Thâm hụt (Thặng dư) NSNN (%

Nguồn: Ngân hàng Phát triển Châu Á, Tổng Cục Thống kê

Trong giai đoạn từ 1997 đến 2007, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trải qua hai giai đoạn chính: suy thoái (1997 - 2001) và phục hồi (2002 - 2007) Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp kích thích kinh tế, bao gồm cải cách thể chế theo cơ chế thị trường, mở cửa thu hút đầu tư, và thúc đẩy thương mại quốc tế Sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính 1997 không thể chỉ giải thích bằng chính sách tài khóa, mà còn nhờ vào các thay đổi cơ bản trong chính sách đầu tư công Tăng trưởng kinh tế từ mức thấp 4,8% vào năm 1999 đã có sự cải thiện đáng kể, nhưng cần có phương pháp định lượng để khẳng định tác động tích cực của chính sách tài khóa đối với ổn định chu kỳ kinh tế.

- Giai đoạn cu ối năm 2007 – 2008: th ực hiện CSTK thắt chặt

Bảng 2.6: Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN từ năm 2007 - 2012

Nguồn: Ngân hàng Phát triển Châu Á, Tổng Cục Thống kê

Cuối năm 2007 và đầu 2008, kinh tế thế giới trải qua nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước Trước tình hình này, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu Ngày 17/4/2008, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/2008/NĐ-CP nhằm thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp về chính sách tiền tệ và tài khóa Cụ thể, Chính phủ yêu cầu kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công, tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách, và cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm 2008.

Nhờ những chính sách tài khóa quyết liệt trên của Chính phủ mà kinh tế

Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực nhờ vào các biện pháp điều hành của Chính phủ, tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đối mặt với nhiều thách thức Chính phủ cần thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn để ngăn chặn sự suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô và hướng tới mức tăng trưởng cao hơn.

- Giai đoạn từ năm 2009 đến 2010: th ực hiện CSTK mở rộng

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức do độ mở cao và tỷ trọng vốn FDI lớn trong tổng đầu tư xã hội Sau khi khủng hoảng xảy ra, thị trường xuất khẩu và đầu tư giảm sút đột ngột, dẫn đến suy giảm kinh tế Quy mô nền kinh tế nhỏ và xuất phát điểm thấp nhưng đã hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, cùng với thiên tai và dịch bệnh liên tiếp trong năm 2008 và 2009, đã khiến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát gia tăng và tỷ lệ thất nghiệp cao Nền kinh tế yếu đi, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng suy kiệt, một số bị phá sản trong khi những doanh nghiệp còn lại liên tục gặp khó khăn.

Chính phủ đã thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng bền vững Một trong những giải pháp chính là chính sách tài khóa mở rộng, bao gồm hai gói kích cầu: gói đầu tiên hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỷ đồng và gói thứ hai với tổng vốn khoảng 8 tỷ USD nhằm thúc đẩy đầu tư và phát triển sản xuất Ngoài ra, chính phủ còn miễn, giảm, giãn, hoãn thời gian nộp một số loại thuế với tổng số khoảng 20.000 tỷ đồng và bảo lãnh 1.110 dự án với tổng mức vốn hơn 8.360 tỷ đồng.

Việc thực hiện linh hoạt và đồng bộ các chính sách tài khóa cùng với các chính sách vĩ mô khác, bao gồm cả chính sách tiền tệ mở rộng của Ngân hàng Trung ương, đã giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,3%, trong khi tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn 6,88% so với 23% năm 2008 Thị trường chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng cũng đã dần phục hồi.

- Giai đoạn từ năm 20 1 1 đến 2012 : th ực hiện CSTK thắt chặt

Năm 2011, trước tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn, đặc biệt là lạm phát gia tăng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ- nhằm kiểm soát và ổn định nền kinh tế.

Vào ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành CP với 6 nhóm giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và giảm nhập siêu Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô chặt chẽ, bao gồm cắt giảm đầu tư công và giảm bội chi ngân sách nhà nước.

 Tóm lại, trong giai đoạn 1987 – 2012, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện cùng lúc CSTT và CSTK có lúc thuận, có lúc trái ngược nhau, cụ thể như sau:

2000 – cuối 2007 Mở rộng Mở rộng

Cuối 2007 – 2008 Thắt chặt => Mở rộng Thắt chặt

2009 – 2010 Mở rộng => Thắt chặt Mở rộng

Chương 2 đã trình bày khái quát thực trạng thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa tại Việt Nam trong thời gian qua Qua đó, thấy được nền kinh tế đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, và việc thực thi chính sách tiền tệ, chính sách tải khóa cũng khác nhau tương ứng với mỗi giai đoạn, có giai đoạn đồng bộ và có giai đoạn chưa đồng bộ Phân tích thực trạng việc thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng khó có thể đưa ra nhận định hai chính sách này có tác động đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hay không Vì vậy, phải sử dụng kết hợp phương pháp định lượng đểcó căn cứđánh giá đầy đủ và chính xác hơn.

NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘ NG C Ủ A CHI TIÊU CHÍNH PH Ủ (CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA) VÀ CUNG TI Ề N (CHÍNH SÁCH

Mô hình nghiên c ứu

Để đánh giá tác động của chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam, tác giả đã xây dựng một mô hình nghiên cứu dựa trên giả định rằng tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng bởi các yếu tố vĩ mô như cung tiền, chi tiêu chính phủ và xuất khẩu Ngân hàng Trung ương (NHTW) thực hiện CSTT thông qua nhiều công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất, thị trường mở, tỷ giá hối đoái và hạn mức tín dụng, nhằm điều chỉnh lượng cung tiền để ảnh hưởng đến các biến số kinh tế vĩ mô Mỗi sự thay đổi trong khối lượng tiền cung ứng đều có tác động sâu sắc đến hoạt động kinh tế thông qua các kênh như tín dụng, tỷ giá, lãi suất và giá cả tài sản Tùy theo điều kiện thực tế của nền kinh tế, NHTW điều chỉnh lượng cung tiền một cách hợp lý để quản lý nền kinh tế hiệu quả, do đó, biến cung tiền được chọn làm đại diện cho CSTT trong mô hình nghiên cứu này.

Chính sách tài khóa (CSTK) của Việt Nam sử dụng chi tiêu của Chính phủ để thể hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô Chi tiêu này nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội Đây là một trong những công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện CSTK hiệu quả.

Thương mại nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự tăng trưởng GDP, vì vậy nhiều nhà kinh tế cho rằng xuất khẩu nên được đưa vào phân tích hiệu quả của chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) Batten và Haffer (1983) lập luận rằng việc bỏ qua các biến xuất khẩu trong mô hình có thể dẫn đến những sai sót nghiêm trọng, đặc biệt khi các biến ngoại sinh liên quan đến chính sách hoặc hoạt động tiền tệ và tài chính bị bỏ sót Tình trạng này càng nghiêm trọng hơn ở các quốc gia có độ mở kinh tế cao.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng, việc đánh giá tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đến tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng Bên cạnh các yếu tố kinh tế vĩ mô như cung tiền và chi tiêu của Chính phủ, cần chú ý đến yếu tố xuất khẩu như một biến đại diện quan trọng trong phân tích này.

Từđó, mô hình nghiên cứu được xác định cụ thểnhư sau:

GDP = f(M2, EXPEND, EX) Trong đó:

GDP: là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế Các biến giải thích:

M2: cung tiền EXPEND: chi tiêu Chính phủ

EX: xuất khẩu Để kiểm định mô hình tác giả sử dụng phương trình hồi quy như sau:

D ữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo dữ liệu từ nhiều báo cáo của các tổ chức uy tín để phân tích và tìm kiếm thông tin cho bài viết của mình.

- GSO: Tổng cục thống kê Việt Nam

- MOF: Bộ Tài chính Việt Nam

- ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á

- IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế

- WB: Ngân hàng thế giới

Bảng 3.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Mô tả chi tiết các biến:

- GDP: đại diện cho tốc độtăng trưởng kinh tếhàng năm (%)

- M2: thay đổi trong cung tiền (money supply) hàng năm (%)

- EXPEND: tổng chi tiêu của Chính phủ (tỷđồng)

 LEXPEND: giá trị logarit của EXPEND

- EX: giá trị xuất khẩu của Việt Nam (triệu USD)

Để đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực nghiệm, tác giả sử dụng giá trị logarit của EX (LEX) và thực hiện theo các bước cụ thể.

Bước đầu tiên trong phân tích chuỗi thời gian là kiểm tra trật tự tích hợp của các biến, điều này rất quan trọng để chọn phương pháp ước lượng tham số phù hợp Nếu các biến có cùng trật tự tích hợp, phương pháp bình phương bé nhất OLS sẽ là lựa chọn tối ưu Ngược lại, nếu các biến không có cùng trật tự, việc sử dụng OLS có thể dẫn đến kết quả không chính xác, do đó cần xem xét các phương pháp khác Để xác định trật tự tích hợp và kiểm tra tính dừng của các chuỗi thời gian, tác giả sử dụng các kiểm định như Augmented Dickey Fuller test (ADF) và Phillips – Perron test.

Theo định nghĩa, chuỗi thời gian được coi là dừng khi giá trị trung bình và phương sai của nó không thay đổi theo thời gian Hơn nữa, hiệp phương sai giữa hai giai đoạn chỉ phụ thuộc vào khoảng cách giữa chúng, mà không phụ thuộc vào thời điểm cụ thể khi hiệp phương sai được tính toán.

Khi một hoặc nhiều biến trong mô hình là không dừng, việc kiểm định giả thuyết và khoảng tin cậy sẽ không đáng tin cậy Nghiên cứu đặc tính của chuỗi không dừng chỉ phù hợp trong giai đoạn khảo sát cụ thể, và kết quả không thể áp dụng cho các giai đoạn khác Hơn nữa, phân tích hồi quy cho chuỗi không dừng có thể dẫn đến hồi quy giả mạo, với hệ số xác định R² cao và thống kê t có ý nghĩa, nhưng thực tế lại không có giá trị.

Có nhiều phương pháp để kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian, bao gồm việc sử dụng đồ thị, hàm tự tương quan, giản đồ tự tương quan và kiểm định nghiệm đơn vị Trong số đó, kiểm định nghiệm đơn vị hiện đang được ưa chuộng nhất.

Tính dừng được thiết lập bằng cách kiểm định nghiệm đơn vịtheo phương pháp Augmented Dickey Fuller test (ADF); phương pháp luận của kiểm định này như sau:

Kiểm định ADF cho nghiệm đơn vị được hình thành theo mô hình hồi quy: Δyt= β0+ δYt+ γ1ΔYt-1+ γ2ΔYt-2 + … + γpΔYt-p + à t (3.2)

Y: biến chuỗi thời gian cần khảo sát Δ: toán hạn sai phân β, δ, γ1 γp: các tham sốước lượng à t : nhiễu trắng Các giả thuyết được diễn đạt như sau:

H 0 : δ = 0 (Yt là chuỗi không dừng)

Một xu thế thời gian có thể được tích hợp vào phương trình (3.2) nếu Yt dao động quanh một quá trình tuyến tính xác định Do đó, phương trình sẽ được điều chỉnh thành: Δyt = β0 + αt + δYt + γ1ΔYt-1 + γ2ΔYt-2 + … + γpΔYt-p + àt.

Với: t: biến xu thế α: tham sốước lượng cho biến tham số

Bước 2: Sử dụng phương pháp phân tích đồng liên kết (cointegration) của Engle – Granger để đo lường mối quan hệ dài hạn giữa các biến Engle và Granger (1987) cho rằng nếu kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian không dừng có thể tạo thành một chuỗi dừng, thì các chuỗi này được coi là đồng liên kết Kết hợp tuyến tính dừng được gọi là phương trình đồng liên kết, phản ánh mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến Nếu phần dư trong mô hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi quy là thực và thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn Khi mô hình là đồng liên kết, sẽ không xảy ra hiện tượng hồi quy giả mạo, và các kiểm định dựa trên tiêu chuẩn t và F vẫn giữ được ý nghĩa.

Có nhiều phương pháp kiểm định mối quan hệ đồng liên kết, bao gồm kiểm định Engle – Granger, kiểm định CRDW và phương pháp VAR của Johansen Trong số đó, kiểm định Engle – Granger được coi là kỹ thuật phổ biến nhất, áp dụng nguyên tắc hợp lý cực đại để xác định sự tồn tại của các vecto đồng tích hợp, đồng thời cho phép các nhà nghiên cứu kiểm định nhiều giả thuyết khác nhau liên quan đến các phần tử trong vecto.

Bước 3: Khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa tăng trưởng kinh tế và các biến tác động trong mô hình Nếu có sự tồn tại của các mối quan hệ dài hạn, mô hình điều chỉnh sai số ECM (Error Correction Model) sẽ được áp dụng.

Theo Granger (1983, 1986), cân bằng dài hạn phản ánh sự tương đương thống kê của đồng tích hợp, tuy nhiên trong ngắn hạn có thể xảy ra mất cân bằng Mất cân bằng này có thể được điều chỉnh thông qua cơ chế hiệu chỉnh sai số (Error Correction Mechanism), giúp đưa hệ thống trở lại trạng thái cân bằng dài hạn Thực tế cho thấy, đồng tích hợp có liên quan đến mô hình hiệu chỉnh sai số động, cho phép xác định mối quan hệ giữa các biến và từ đó, mô hình ECM có thể ước lượng cân bằng dài hạn dựa trên sự biến động ngắn hạn từ dữ liệu thực tế.

Mô hình ECM tổng quát được biểu diễn bởi phương trình Δyt = γ1Δxt + γ2ξ t-1 + ωt, trong đó Δyt được giải thích bởi Δxt và sai số cân bằng ξ t-1 Sai số cân bằng ξ t-1 phản ánh sự điều chỉnh hướng đến cân bằng dài hạn, xảy ra từ các giai đoạn trước Nếu hệ số γ2 có ý nghĩa thống kê, điều này cho thấy tỷ lệ mất cân đối trong y ở thời điểm trước sẽ được điều chỉnh trong thời gian tiếp theo.

K ết quả thực nghiệm

3.3.1 Kiểm định nghiệm đơn vị

Trong nghiên cứu này, tác giả xác định thuộc tính dừng của từng biến riêng lẻ thông qua đồ thị Tiếp theo, tác giả tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị cho từng biến để xác minh thuộc tính dừng, sử dụng phương pháp ADF (Augmented Dickey-Fuller) phổ biến.

Kết quả kiểm định cho thấy, các biến GDP, M2, LEXPEND, LEX là chuỗi thời gian không dừng I(0) và dừng I(1)

Bảng 3.2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi dữ liệu ban đầu

Kết quả (So với mức ý nghĩa 5%)

Không dừng Không dừng Không dừng Không dừng

Nguồn: tác giả tính toán từ Eview 6.0 (Phụ lục 2)

Bảng 3.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vịở sai phân bậc 1

Kết quả (So với mức ý nghĩa 5%) Dừng Dừng Dừng Dừng

Nguồn: tác giả tính toán từ Eview 6.0 (Phụ lục 3)

3.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn – phân tích đồng liên kết

Granger (1983) nhấn mạnh rằng “kiểm định đồng tích hợp là một bước quan trọng để ngăn chặn các tình huống hồi quy không chính xác (giả mạo)”.

Hồi quy đồng liên kết theo phương pháp phân tích phần dư (εt) hai bước của Engle – Granger:

Bước 1: nghiên cứu thiết lập mối tương quan cân bằng trong dài hạn của các biến;

Bước 2: Tiến hành kiểm định tính liên kết của phần dư (εt) thông qua thống kê ADF Nếu kết quả kiểm định chỉ ra rằng phần dư là chuỗi dừng, điều này xác nhận sự tồn tại của mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình đã thực hiện ở bước 1.

Bước 1: Hồi quy phương trình (3.1) với sự hỗ trợ của phần mềm Eview 6.0

Kết quả hồi quy phương trình (1) như sau:

Bước 2: Kiểm định phần dư (εt) εt = GDP t - 6.363 + 0.0013 M2 t - 1.691 LEXPEND t + 1.956 LEX t (3.6)

Thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị phần dư (εt) Kết quả kiểm định như sau:

Bảng 3.4: Kiểm định phần dư (ε t ) của mô hình (3.5)

Kết quả (So với mức ý nghĩa 5%) Dừng

Nguồn: tác giả tính toán từ Eview 6.0 (Phụ lục 5)

Kết quả cho thấy phần dư là một chuỗi dừng, điều này khẳng định rằng các biến trong mô hình (3.1) là đồng liên kết, tức là chúng có mối quan hệ cân bằng dài hạn.

Bảng 3.5: Kiểm định sự phù hợp của mô hình

Kiểm định phân phối chuẩn Jarque – Bera = 0.8646 Prob>α = 0.649

Breusch – Godfrey LM Chi 2 = 0.0786 Prob>α = 0.1152

Kiểm định phương sai thay đổi – Heteroskedasticity Chi 2 = 0.8354 Prob>α = 0.8611

Nguồn: tác giả tính toán từ Eview 6.0 (Phụ lục 6)

Kết quả cho thấy mô hình có phân phối chuẩn, không xảy ra hiện tượng tự tương quan cũng như phương sai thay đổi

Giải thích ý nghĩa của mô hình

Mô hình nghiên cứu cho thấy R² = 0.4148, cho thấy 41,48% sự biến động của tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam được giải thích bởi các yếu tố như cung tiền (chính sách tiền tệ), chi tiêu của Chính phủ (chính sách tài khóa) và xuất khẩu.

Hệ số M2 là -0.0013, cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa cung tiền và tăng trưởng kinh tế, điều này không phù hợp với lý thuyết cho rằng tăng cung tiền dẫn đến giảm lãi suất, khuyến khích đầu tư và tăng trưởng kinh tế Ngược lại, giảm cung tiền làm tăng lãi suất, dẫn đến giảm đầu tư và tăng trưởng Hơn nữa, giá trị prob = 0.7849, lớn hơn α = 5%, cho thấy M2 không có ý nghĩa thống kê trong mô hình ở mức ý nghĩa 5%, tức là M2 không tác động đến GDP ở mức này.

Hệ số LEXPEND là 1.691, cho thấy mối quan hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và tổng chi tiêu của Chính phủ Sự gia tăng quy mô chi tiêu công tổng thể đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Kết quả phân tích cho thấy giá trị prob của LEXPEND là 0.0297, nhỏ hơn mức α = 5% Điều này chứng tỏ rằng LEXPEND có ý nghĩa thống kê trong mô hình, đồng thời cho thấy LEXPEND có tác động đáng kể đến GDP ở mức ý nghĩa 5%.

Hệ số LEX là -1.956, cho thấy có mối quan hệ nghịch giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu Giá trị prob là 0.0195, nhỏ hơn 0.05, chứng tỏ LEX có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.

3.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn – Mô hình ECM

Mô hình ECM cụ thể: ΔGDP =γ1 ΔM2 + γ2 ΔLEXPEND + γ3 ΔLEX + γ4 ξ t-1+ ωt (3.7)

Dựa vào thủ tục hai bước của mô hình hồi quy đồng liên kết của Engle – Granger, chúng ta thực hiện:

Bước 1: chạy mô hình hồi quy của y đối với biến x và thu được sốdư: ξ t = yt – αxt

Bước 2: chạy hồi quy ECM của Δy đối với ξ t-1 và Δx

Kết quả hồi quy của mô hình hiệu chỉnh sai sốECM như sau: ΔGDP = - 0.891 + 0.003ΔM2 + 1.296ΔLEXPEND + 3.330ΔLEX – 0.663 ξ t-1+ ωt (3.8)

Kết quả hồi quy của ECM cho thấy ECM giải thích 57,41% mức độ tăng trưởng kinh tế Hệ số điều chỉnh sai số ECT(1) mang dấu âm, cho thấy các nhân tố ở kỳ này chịu ảnh hưởng bởi những bất cân bằng trong quá khứ Hơn nữa, hệ số ECT(-1) có giá trị -0.663, cho thấy khoảng 66,3% sai biệt giữa giá trị thực tế và giá trị dài hạn của GDP.

(hay giá trị cân bằng của GDP) được loại trừ (hoặc được điều chỉnh) sau mỗi năm.

Bảng 3.6: Kiểm định sự phù hợp của mô hình ECM

Kiểm định phân phối chuẩn

Jarque – Bera 2.0343 Prob>α = 0.362 Có phân phối chuẩn

Kiểm định tự tương quan Breusch – Godfrey

Chi 2 = 0.2440 Prob>α = 0.3127 Không có tự tương quan

Kiểm định phương sai thay đổi – Heteroskedasticity

Chi 2 = 0.9776 Prob>α = 0.9838 Phương sai không đổi

Kiểm định sai dạng mô hình – Ramsey

Chi 2 = 0.2518 Prob>α = 0.3276 Không sai dạng mô hình

Nguồn: tác giả tính toán từ Eview 6.0 (Phụ lục 7)

Mô hình (3.1) và (3.7) được phát triển để đánh giá ảnh hưởng của cung tiền và chi tiêu Chính phủ đến tăng trưởng kinh tế trong cả dài hạn và ngắn hạn Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy cả hai mô hình đều đáng tin cậy với ý nghĩa thống kê rõ ràng.

Kết quả thực nghiệm cho thấy chi tiêu Chính phủ có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, trong khi cung tiền không có tác động tương tự Điều này dẫn đến kết luận rằng chính sách tài khóa đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi chính sách tiền tệ không mang lại hiệu quả tương tự.

KẾ T LU Ậ N VÀ KHUY Ế N NGH Ị

Ngày đăng: 16/07/2022, 09:05

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Các hình thức thu hút ứng cử viên từ bên ngoài: thông qua quảng cáo, thông qua văn phòng dịch vụ lao động, tuyển sinh viên tốt nghiệp từ các trờng  Đại học và một số hình thức khác. - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
c hình thức thu hút ứng cử viên từ bên ngoài: thông qua quảng cáo, thông qua văn phòng dịch vụ lao động, tuyển sinh viên tốt nghiệp từ các trờng Đại học và một số hình thức khác (Trang 15)
Bảng 1.1: Tóm tắt chính sách quản lý cầu của Chính phủ - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 1.1 Tóm tắt chính sách quản lý cầu của Chính phủ (Trang 24)
Bảng 2.2 Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 2.2 Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng (Trang 36)
Bảng 2.3. Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 2.3. Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tốc độ tăng M2 và tăng trưởng (Trang 37)
Bảng 2.4: Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 2.4 Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN (Trang 40)
Bảng 2.5: Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 2.5 Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN (Trang 41)
Bảng 2.6: Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 2.6 Tổng thu NSNN, tổng chi NSNN, thâm hụt/ thặng dư NSNN (Trang 42)
Như đã nêu trên, năm 2011 do tình hình kinh tế vĩ mơ có nhiều dấu hiệu b ất ổn, nhất là tình hình lạm phát, Chính phủđã ban hành Nghị quyết số   11/NQ-CP (ngày 24/02/2011) v ề những giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạ m  phát và c ắt giảm nhập si - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
h ư đã nêu trên, năm 2011 do tình hình kinh tế vĩ mơ có nhiều dấu hiệu b ất ổn, nhất là tình hình lạm phát, Chính phủđã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP (ngày 24/02/2011) v ề những giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạ m phát và c ắt giảm nhập si (Trang 44)
3.2. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
3.2. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thực nghiệm (Trang 48)
Bảng 3.2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi dữ liệu ban đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.2 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi dữ liệu ban đầu (Trang 53)
Bảng 3.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ở sai phân bậc 1 - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.3 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ở sai phân bậc 1 (Trang 53)
Bảng 3.4: Kiểm định phần dư (εt) của mơ hình (3.5) - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.4 Kiểm định phần dư (εt) của mơ hình (3.5) (Trang 55)
Kết quả hồi quy của mô hình hiệu chỉnh sai số ECM như sau: - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
t quả hồi quy của mô hình hiệu chỉnh sai số ECM như sau: (Trang 57)
Kiểm định sai dạng mô hình - (LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế   nghiên cứu trường hợp tại việt nam , luận văn thạc sĩ
i ểm định sai dạng mô hình (Trang 87)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w