1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại việt nam , luận văn thạc sĩ

85 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tỷ Giá Thực Hiệu Lực Tính Theo Giá Trị Gia Tăng Tại Việt Nam
Tác giả Vũ Lâm Công
Người hướng dẫn PGS.TS. Trần Thị Thùy Linh, GS.TS. Trần Ngọc Thơ
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp.Hcm
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 1,8 MB

Cấu trúc

  • 1. Tổng quan về các nghiên cứu trước đây (11)
  • 2. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu (15)
    • 2.1 Phương pháp nghiên cứu (15)
      • 2.1.1 Tỷ giá hối đoái (15)
      • 2.1.2 Giá trị gia tăng thương mại (22)
      • 2.1.3 Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng (37)
      • 2.1.4 Sự khác nhau giữa giá tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng và tỷ giá thực hiệu lực (40)
    • 2.2 Dữ liệu nghiên cứu (45)
  • 3. Kết quả nghiên cứu (48)
  • 4. Kết luận, hạn chế và hướng nghiên cứu thiếp theo (52)
    • 4.1 Kết luận (52)
    • 4.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo (54)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (55)
  • PHỤ LỤC (57)

Nội dung

Tổng quan về các nghiên cứu trước đây

Gần đây, một số nghiên cứu đã được thực hiện liên quan đến giá trị gia tăng thương mại và tỷ giá thực hiệu lực Những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa hai yếu tố này trong bối cảnh kinh tế hiện nay.

 Các tài liệu tiếng Anh

Hummels-Ishii-Yi (2001) giới thiệu khái niệm chuyên môn hóa chiều dọc, trong đó sản phẩm được sản xuất từ nhiều quốc gia khác nhau, mỗi quốc gia đảm nhận một bước cụ thể trong quy trình sản xuất Đặc biệt, chuyên môn hóa theo chiều dọc tập trung vào hàng hóa nhập khẩu làm đầu vào cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, yêu cầu ít nhất hai quốc gia tham gia và hàng hóa phải được chuyển giao giữa các quốc gia này Tác giả chỉ ra rằng quá trình chuyển giao hàng hóa giữa các quốc gia làm cho đo lường thương mại quốc tế trở nên không chính xác Ví dụ, khi Nhật Bản xuất khẩu phôi thép sang Mexico để gia công trước khi xuất khẩu sang Mỹ, thương mại quốc tế chỉ ghi nhận xuất khẩu từ Mexico sang Mỹ mà không phản ánh đúng giá trị thực của Mexico do đã nhập khẩu phôi thép từ Nhật Bản Dựa trên khái niệm thương mại chiều dọc, các tác giả đã tính toán giá trị đầu vào xuất khẩu trong giá trị hàng xuất khẩu, sử dụng dữ liệu từ bảng đầu vào - đầu ra của OECD và 14 quốc gia, cho thấy tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu trung bình năm 1990 là 0,21, tăng 30% so với 0,165 năm 1970.

Belke và Wang (2005) đã lý luận rằng độ mở thương mại giữa các quốc gia trong cùng một khu vực có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ thương mại quốc tế Họ đề xuất sử dụng giá trị gia tăng thương mại thay cho tổng giá trị thương mại trong đo lường thương mại quốc tế Nghiên cứu chỉ ra rằng khi độ mở cửa thương mại càng lớn, sự kết nối giữa thị trường trong nước và nước ngoài càng chặt chẽ, dẫn đến việc sản phẩm được sản xuất và tiêu dùng cả trong nước lẫn nước ngoài Điều này cho thấy rằng việc đo lường thương mại giữa các nước chỉ dựa vào tổng giá trị sản xuất là không chính xác, vì hàng hóa xuất khẩu thường có nguồn gốc từ đầu vào nhập khẩu Kết quả nghiên cứu cho thấy, với nền kinh tế có độ mở cao, phần đóng góp nội địa cho sản phẩm xuất khẩu sẽ càng nhỏ, từ đó khuyến nghị sử dụng giá trị gia tăng để đo lường thương mại giữa các quốc gia.

Daudin, Rifflart và Schweisguth (2008) đã giới thiệu khái niệm giá trị gia tăng thương mại và phương pháp đo lường của nó, so sánh với thương mại thông thường Khái niệm này dựa trên chuyên môn hóa thương mại theo chiều dọc, cho phép đo lường thương mại ròng trong bối cảnh này Giá trị gia tăng thương mại phản ánh giá trị được tạo ra ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất của từng quốc gia và ngành công nghiệp Tác giả đã sử dụng dữ liệu từ GTAP và dữ liệu đầu vào – đầu ra để thực hiện phân tích này.

Từ năm 1997 đến năm 2001, nghiên cứu đã khảo sát 66 vùng lãnh thổ và 55 lĩnh vực sản xuất, cho thấy vào năm 2001, 26% giá trị thương mại quốc tế là thương mại theo chiều dọc, tăng nhẹ từ 25% vào năm 1997 Kết quả cũng cung cấp thông tin chi tiết về giá trị gia tăng thương mại cho 55 lĩnh vực, trong đó ngành dịch vụ có tỷ trọng giá trị gia tăng thương mại cao hơn nhiều so với tỷ trọng của ngành này trong giá trị thương mại thông thường.

Sébastien Miroudo, Rainer Lanz và Alexandros Ragoussis (2009) đã tiến hành nghiên cứu về dòng thương mại hàng hóa và dịch vụ trung gian giữa các nước OECD, cũng như giữa các nước OECD và các đối tác thương mại lớn Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương tác thương mại trong khu vực OECD và ảnh hưởng của các đối tác thương mại lớn đối với dòng chảy hàng hóa và dịch vụ.

Từ năm 1995 đến 2005, để đo lường thương mại hàng trung gian, có hai phương pháp chính: phân tích dòng thương mại theo mục đích sử dụng sản phẩm và sử dụng dữ liệu đầu vào – đầu ra từ nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất trong nước Nghiên cứu đã áp dụng cả hai phương pháp này, cho thấy thương mại hàng hóa và dịch vụ trung gian chiếm 56% - 73% tổng thương mại thông thường Sự chuyên môn hóa sản xuất giữa các quốc gia đã thúc đẩy thương mại hàng trung gian tăng trưởng hàng năm 6,2% cho hàng hóa và 7% cho dịch vụ trong giai đoạn 1995 – 2006 Đặc biệt, hàng nhập khẩu trung gian nhạy cảm hơn với chi phí thương mại so với hàng hóa và dịch vụ cuối cùng Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hoạt động của các công ty đa quốc gia có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng hàng hóa nước ngoài trong sản xuất, và nếu tỷ lệ nhập khẩu đầu vào sản xuất cao, hiệu quả sản xuất của ngành công nghiệp trong nước sẽ bị giảm sút.

Robert C Johnson và Guillermo Noguera (2012) đã kết hợp dữ liệu đầu vào – đầu ra và trọng số thương mại để xác định sự liên kết sản phẩm giữa các quốc gia, nơi sản phẩm được sản xuất qua nhiều khâu ở các quốc gia khác nhau Họ phân tích sự "lỗi thời" trong đo lường thương mại thông thường, đặc biệt là vấn đề "tính trùng" của hàng hóa trung gian với giá trị gia tăng thương mại Từ những phân tích này, các tác giả đã đề xuất phương pháp tính toán giá trị gia tăng thương mại và trọng số thương mại dựa trên giá trị gia tăng.

Bài viết đề cập đến 69 quốc gia và 18 vùng lãnh thổ, chuyển đổi dữ liệu từ bảng đầu vào - đầu ra thương mại sang dữ liệu giá trị gia tăng thương mại Tỷ lệ giá trị gia tăng trên tổng sản phẩm xuất khẩu được xác định là một chỉ số đo lường cho quy mô của thị phần sản phẩm.

Robert C Johnson và Guillermo Noguera (2012) đã sử dụng dữ liệu thương mại, sản xuất và đầu vào để tính toán giá trị gia tăng trong thương mại cho 42 quốc gia từ năm 1970 đến 2009 Nghiên cứu này mở rộng công thức tính toán của họ để áp dụng cho nhiều năm liên tục Kết quả cho thấy tỷ lệ giá trị gia tăng trên tổng thương mại đã giảm từ 10% đến 15%, với 2/3 sự sụt giảm diễn ra trong hai thập kỷ cuối của thời gian nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

Bài viết bắt đầu bằng việc giới thiệu chỉ số REER và trọng số đo lường sức cạnh tranh giữa các quốc gia trong việc tính toán chỉ số này Tiếp theo, tác giả trình bày về giá trị gia tăng thương mại, bao gồm cách tính toán giá trị gia tăng thương mại từ trường hợp đơn giản với hai quốc gia và hai hàng hóa, sau đó mở rộng ra cho nhiều quốc gia và hàng hóa Việc tính toán giá trị gia tăng thương mại là bước đầu tiên để xác định trọng số giá trị gia tăng song phương, từ đó làm cơ sở cho việc tính toán chỉ số giá trị gia tăng tỷ giá thực hiệu lực – VAREER Bài nghiên cứu cũng cung cấp lý luận và công thức tính toán chỉ số VAREER, đồng thời so sánh sự khác biệt giữa VAREER và REER Cuối cùng, kết quả tính toán chỉ số VAREER cho Việt Nam được trình bày.

Tỷ giá hối đoái là một khái niệm phức tạp, có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau Vấn đề này đã gây ra nhiều tranh luận cả về lý thuyết lẫn thực tiễn Hiện nay, có nhiều loại tỷ giá hối đoái như tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá thực, tỷ giá thực song phương và tỷ giá thực đa phương, mỗi loại có định nghĩa và cách tính toán riêng biệt.

 Tỷ giá hối đoái (hay tỷ giá) danh nghĩa song phương

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương (NER) giữa hai đồng tiền là giá trị của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội tệ, thường được sử dụng trong giao dịch mua bán ngoại tệ NER có thể được niêm yết theo cách trực tiếp (số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ) hoặc gián tiếp (số đơn vị ngoại tệ trên một đơn vị nội tệ) Tỷ giá danh nghĩa của các cặp đồng tiền được xác định dựa trên quan hệ cung cầu, nhưng sự thay đổi của tỷ giá này không nhất thiết phản ánh sự thay đổi trong sức cạnh tranh thương mại quốc tế.

Tỷ giá thực là chỉ số phản ánh tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo lạm phát trong nước và quốc tế, giúp đo lường sức mua của ngoại tệ so với nội tệ Nó cho thấy mối quan hệ tương đối giữa sức mua của một đơn vị ngoại tệ tại nước ngoài và sức mua tương đương của nội tệ trong nước Để hiểu rõ hơn về tỷ giá thực, cần khảo sát trong bối cảnh các đối tác thương mại thông qua cách tính tỷ giá thực song phương và đa phương.

 Tỷ giá thực song phương

Tỷ giá thực song phương (BRER) được xác lập dựa trên mối quan hệ thương mại với một đối tác, so sánh giá cả của một rổ hàng hóa tiêu dùng hoặc sản xuất của nước chủ nhà với giá cả tương ứng ở nước ngoài Giá trị này được ước tính bằng một loại tiền tệ, có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ, nhằm chỉ ra giá trị tương đối giữa hai loại tiền Công thức biểu diễn tỷ giá thực song phương có thể được áp dụng để phân tích mối quan hệ này (Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, 2012).

: là chỉ số giá trong nước tính bằng nội tệ

: là chỉ số giá nước ngoài tính bằng ngoại tệ

NER: là tỷ giá danh nghĩa niêm yết theo cách gián tiếp

Tỷ giá thực song phương là chỉ số phản ánh sự so sánh mức giá hàng hóa giữa trong nước và nước ngoài, với tỷ giá danh nghĩa được niêm yết theo cách gián tiếp Khi tử số là giá hàng hóa trong nước quy đổi sang ngoại tệ, chỉ số RER tăng cho thấy đồng nội tệ được định giá cao, và ngược lại.

Nếu RER > 1, đồng nội tệ được coi là định giá cao, dẫn đến giá cả trung bình trong nước cao hơn so với nước ngoài, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh thương mại so với các đối tác quốc tế.

Nếu RER < 1, nội tệ được coi là định giá thấp, dẫn đến giá cả trung bình trong nước thấp hơn so với quốc tế, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh thương mại tốt hơn so với các đối tác.

Tỷ giá thực song phương chỉ phản ánh sự biến động của đồng ngoại tệ, trong khi mậu dịch quốc tế hiện nay mang tính đa phương với nhiều đối tác thương mại Để đánh giá tính cạnh tranh của hàng hóa nội địa so với các quốc gia khác, tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER) được sử dụng.

 Tỷ giá thực đa phương

Tỷ giá thực đa phương (REER) là chỉ số trung bình có trọng số của các tỷ giá thực song phương giữa một quốc gia và các đối tác thương mại, với trọng số dựa trên tỷ trọng thương mại Việc phân tích REER là cần thiết để đánh giá xem nội tệ có bị định giá cao hay thấp so với các đồng tiền của đối tác thương mại hay không.

Công thức tính REER như sau (Zalleno và Desruelle (1997):

- : là tỷ giá thực hiệu lực của nước i

Tỷ giá thực giữa quốc gia i và quốc gia j được xác định dựa trên chỉ số giá, có thể tính theo chi phí đơn vị lao động (ULC) hoặc theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI).

- : là trọng số cạnh tranh của quốc gia i so với quốc gia j

Nếu RER được tính trên tỷ giá danh nghĩa niêm yết theo cách gián tiếp, thì:

 REER >1, nội tệ được xem là định giá thực cao và ngoại tệ được coi là định giá thực thấp, tác động xấu đến cán cân xuất nhập khẩu

Khi REER nhỏ hơn 1, nội tệ có giá trị thực thấp hơn và ngoại tệ có giá trị thực cao hơn, điều này cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế Việc chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ sẽ giúp mua được nhiều hàng hóa trong nước hơn so với nước ngoài, từ đó kích thích gia tăng xuất khẩu.

 Trường hợp REER = 1, thì sức mua của đồng tiền trong nước và nước ngoài là như nhau, tác động làm cho cán cân xuất nhập khẩu cân bằng

Chỉ số REER được coi là phù hợp hơn so với RER khi so sánh mức độ cạnh tranh về giá giữa một quốc gia và các đối tác thương mại REER đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn tài nguyên sản xuất và điều chỉnh hành vi tiêu dùng trong nền kinh tế Để hiểu rõ hơn về tính chất của chỉ số REER trong việc đo lường cạnh tranh, cần phân tích sâu hơn về trọng số cạnh tranh.

- ∑ : là thị phần của nước j ở thị trường nước k, và : là doanh số của quốc gia l ở thị trường nước k

- ∑ : là tỷ lệ đầu ra của nước i được bán ở thị trường nước k

Công thức (2) cho phép phân tích các thành phần, trong đó ∑ thể hiện mức độ cạnh tranh giữa các nhà sản xuất của quốc gia i và quốc gia j trên thị trường k Mức độ này được tính bằng cách nhân tỷ lệ sản phẩm đầu ra của quốc gia i tại thị trường k.

Thị trường k đóng vai trò quan trọng đối với thị phần của j tại k, ảnh hưởng đến vị thế cạnh tranh của j trong thị trường này Để hiểu rõ hơn, cần xem xét thành phần tổng hợp giữa các nhà sản xuất trong quốc gia i và các nhà sản xuất khác tại thị trường k Cụ thể, tầm quan trọng của thị trường k đối với quốc gia i sẽ được nhân với thị phần của tất cả các nhà sản xuất khác ở k, từ đó giúp xác định mức độ cạnh tranh và ảnh hưởng của từng nhà sản xuất trong bối cảnh toàn cầu.

Trọng số cạnh tranh có thể phân tích thành hai thành phần là trọng số nhập khẩu và trọng số xuất khẩu:

: là trọng số nhập khẩu, bằng với phần nhập khẩu của quốc gia i từ quốc gia j

, là trọng số xuất khẩu, trọng số xuất khẩu này có thể phân tích tương tự trọng số xuất khẩu ở phần trên

Dữ liệu nghiên cứu

Như đã phân tích, chỉ số VAREER có 2 thành phần cơ bản, trọng số giá trị gia tăng song phương và giá (chỉ số giảm phát GDP)

The bilateral trade value-added weights are derived from various sources, including the World Bank, IMF macroeconomic data, and balance of payments statistics, as well as the United Nations Commodity Trade Statistics Database and input-output tables based on national statistical sources.

Dữ liệu input-output được phân tích cho bốn lĩnh vực sản xuất chính: nông nghiệp, sản xuất phi công nghiệp, sản xuất và dịch vụ Việc lựa chọn bốn lĩnh vực này là do dữ liệu có sẵn cho nhiều quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sánh và phân tích.

Ma trận input – output được lấy từ OECD Input-output Database, IDE JETRO Asian input – output Database)

 là một vector tổng sản phẩm (S x 1) (United Nations Commodity Trade Statistics Database)

 : là một vec tơ (S x 1) của cầu nội địa cuối cùng (tương đương với tiêu dùng nội địa cuối cùng) (United Nations Commodity Trade Statistics Database)

 : là một véc tơ (S x 1) của cầu nhập khẩu nội địa cuối cùng (tương đương tiêu dùng nhập khẩu cuối cùng) (United Nations Commodity Trade Statistics Database)

 : là ma trận (S x S) input – output

 : là ma trận (S x S) tổng nhập khẩu input – output

 : là một vector (S x 1) trọng số thương mại cho xuất khẩu từ quốc gia i sang quốc gia j

Trong bài viết này, S đề cập đến các lĩnh vực sản xuất như nông nghiệp, sản xuất phi công nghiệp, và dịch vụ Dữ liệu được chuyển đổi sang đơn vị USD, với tỷ giá dựa trên thông tin từ IMF và OECDStat Định nghĩa về cầu cuối cùng cho hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa bao gồm tiêu dùng tư nhân, chi tiêu của chính phủ và chi tiêu đầu tư, đại diện cho hàng hóa cuối cùng.

Sử dụng ma trận nhập khẩu hàng trung gian và vectơ nhập khẩu hàng cuối cùng để tính toán hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất s được sử dụng bởi lĩnh vực t, đồng thời xác định ma trận trọng số đầu vào – đầu ra Qua đó, có thể tính toán ma trận nhập khẩu tiêu dùng một cách chính xác.

Từ đó tính được: = ], và tính theo công thức

Sử dụng chương trình toán học MATLAB, các trọng số của tất cả các quốc gia được điều chỉnh sao cho tổng trọng số bằng 1 Để thuận tiện cho việc tính toán, tất cả các trọng số được chuyển đổi sang đơn vị USD, dựa trên tỷ giá hối đoái niêm yết của IMF trong thống kê tài chính quốc tế.

 Dữ liệu cần thiết để tính giá (Chỉ số giảm phát GDP):

The GDP deflation index is available and sourced from the IMF World Economic Outlook The Consumer Price Index (CPI) is calculated based on the Real Effective Exchange Rate (REER), which accounts for exchange rate fluctuations, obtained from IMF Economic Indicators.

Kết quả nghiên cứu

Dựa trên phương pháp tính tỷ giá thực hiệu lực với trọng số giá trị gia tăng, chúng ta đã xác định chỉ số tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng (VAREER) cho Việt Nam Chỉ số VAREER này được xây dựng dựa trên trọng số giá trị gia tăng của Việt Nam và 41 quốc gia khác trên toàn cầu.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 3.1: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng của VN từ

Nhận xét về chỉ số VAREER của Việt Nam trong giai đoạn 1996 đến 2009 cho thấy rằng chỉ số này luôn nhỏ hơn 0,3, với giá trị trung bình đạt 0,197 và có mức tăng trung bình hàng năm là 8,42% Chỉ số VAREER có sự tương đồng với chỉ số REER trong xu hướng biến động.

Chỉ số VAREER-VN cho thấy sức cạnh tranh của Việt Nam qua tỷ giá niêm yết gián tiếp Trong các năm nghiên cứu, chỉ số VAREER của Việt Nam luôn nhỏ hơn 1, cho thấy đồng tiền đang bị định giá thấp Tuy nhiên, xu hướng tăng của chỉ số VAREER cho thấy sức cạnh tranh của Việt Nam đang có dấu hiệu giảm dần.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 3.2: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng, tỷ giá thực hiệu lực của VN từ 1996 – 2009

Trong trường hợp so sánh chỉ số VAREER với chỉ số REER, ta thấy chỉ số VAREER vẫn lớn hơn chỉ số REER (bảng 3.2)

Biểu đồ - REER, VAREER và sự khác nhau giữa

REERVAREERVAREER trừ REER

Chỉ số REER trung bình trong cả giai đoạn chỉ là 0,06 Chỉ số REER trong năm 2003 và năm 2004 thậm chí còn mang chỉ số âm (- 0,03 (năm

Kết quả cho thấy chỉ số REER của Việt Nam trong giai đoạn 2003-2004 lần lượt là 0,06 và -0,043, thấp hơn đáng kể so với chỉ số VAREER là 0,197 Điều này cho thấy nếu tính theo chỉ số REER, sức cạnh tranh của Việt Nam còn bị đánh giá cao hơn nhiều so với chỉ số VAREER.

Chúng ta sẽ phân tích thành phần của trọng số và so sánh trọng số VAREER với trọng số theo REER, nhằm làm rõ sự khác biệt giữa chỉ số VAREER và REER.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 3.3: Trọng số giá trị gia tăng và trọng số thương mại của VN từ

Nhận xét: Trong giai đoạn nghiên cứu, 1996 – 2009 thì trọng số giá trị gia tăng theo VAREER luôn thấp hơn trọng số theo REER (bảng 3.3) Xu

Trọng số theo REER và VAREER

Trọng số theo REER và VAREER cho thấy sự gia tăng dần về khoảng chênh lệch giữa hai chỉ số này Cụ thể, năm 1996, chênh lệch chỉ là 0,0104 đơn vị, nhưng đến năm 2009, con số này đã tăng lên 0,0605 đơn vị.

Nguyên nhân chỉ số VAREER thấp hơn REER chủ yếu do đầu vào trung gian lớn trong sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam Ví dụ, ngành dệt may mặc dù có kim ngạch xuất khẩu cao nhưng lại phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu Điều này dẫn đến việc cán cân thương mại bị méo mó và trọng số thương mại song phương không còn chính xác, khiến trọng số giá trị gia tăng thấp hơn trọng số song phương khi tính toán.

Ngày đăng: 15/07/2022, 20:42

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.1 Thương mại thông thường - (LUẬN văn THẠC sĩ) tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Hình 2.1 Thương mại thông thường (Trang 23)
Hình 2.2 Thương mại theo chiều dọc và giá trị gia tăng thương mại - (LUẬN văn THẠC sĩ) tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Hình 2.2 Thương mại theo chiều dọc và giá trị gia tăng thương mại (Trang 24)
Bảng 3.1: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng của VN từ - (LUẬN văn THẠC sĩ) tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.1 Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng của VN từ (Trang 48)
Bảng 3.2: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng, tỷ giá thực hiệu - (LUẬN văn THẠC sĩ) tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.2 Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng, tỷ giá thực hiệu (Trang 49)
Bảng 3.3: Trọng số giá trị gia tăng và trọng số thương mại của VN từ - (LUẬN văn THẠC sĩ) tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại việt nam , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.3 Trọng số giá trị gia tăng và trọng số thương mại của VN từ (Trang 50)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w