Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất, đặc biệt là việc chia sẻ quyền sử dụng đất của hộ gia đình, đã có nhiều nghiên cứu đáng chú ý Những công trình này tập trung phân tích các khía cạnh pháp lý và thực tiễn liên quan đến quyền sử dụng đất, nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả cho các vấn đề tranh chấp.
Luận án Tiến sĩ Luật học mang tên “Hợp đồng chuyển nhượng đất ở theo pháp luật hiện hành của Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thùy Trang thực hiện, đã được bảo vệ thành công tại Đại học Luật Luận án này nghiên cứu sâu về các quy định pháp lý liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng đất ở, góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý hiện hành trong lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam.
Vào năm 2017, tác giả đã tiến hành đánh giá các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng đất ở, từ đó xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của loại hợp đồng này Bài viết cũng xem xét thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng đất ở, chỉ ra những vướng mắc và khó khăn trong quá trình thực hiện, đồng thời đề xuất các kiến nghị nhằm tháo gỡ những vấn đề này.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Lan Phương, với tiêu đề “Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, qua thực tiễn giải quyết tại Tòa án trên địa bàn tỉnh Quảng Bình”, đã được bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích và đánh giá quy trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, đồng thời cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình.
Năm 2017, luận văn đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, thông qua việc phân tích thực tiễn xét xử tại Tòa án Nhân dân trong tỉnh.
Tại Quảng Bình, tác giả đã phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về quyền cuả người sử dụng đất ở Việt
Nam” của tác giả Phạm Hương Thảo, bảo vệ tại Đại học quốc Gia Hà Nội, Khoa
Luật năm 2015 đã quy định về chế độ sở hữu đất đai và quyền của người sử dụng đất, đồng thời nêu rõ các căn cứ xác lập quyền sử dụng đất Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn tồn tại nhiều bất cập Bài viết này phân tích các vấn đề này và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất.
Luận văn Thạc sỹ Luật học nghiên cứu “Thực trạng thi hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” của tác giả đã phân tích những vấn đề hiện tại trong việc thực hiện pháp luật liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật và đề xuất các giải pháp cải thiện quy trình cấp giấy chứng nhận, góp phần nâng cao quyền lợi của người dân và đảm bảo tính minh bạch trong quản lý đất đai.
Ngô Thúy Hằng, một bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, đã hoàn thành luận văn vào năm 2015, nghiên cứu về các quy định pháp luật liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Luận văn không chỉ phân tích thực trạng áp dụng các quy định này tại quận Đống Đa, Hà Nội, mà còn đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhóm tác giả Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Vĩnh Diện đã công bố bài viết “So sánh, đối chiếu giữa nội dung Luật Đất đai năm 2013 và Luật Đất đai năm 2003 về giải quyết tranh chấp đất đai” trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 24 năm 2015, nhằm phân tích sự khác biệt và tương đồng trong quy định của hai bộ luật này liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Luật Đất đai năm 2013 đã có những tiến bộ rõ rệt so với Luật Đất đai năm 2003 trong việc giải quyết tranh chấp đất đai Cụ thể, luật mới quy định rõ ràng hơn về quy trình hòa giải tranh chấp đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan Bên cạnh đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng được xác định một cách khoa học và chặt chẽ hơn, giúp nâng cao hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai.
Bài viết của tác giả Nguyễn Hải An, “Những khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình - Nguyên nhân và giải pháp”, được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 và 3 năm 2015, đề cập đến những thách thức trong việc xử lý tranh chấp đất đai của hộ gia đình, đồng thời nêu rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phù hợp để cải thiện tình hình này.
Bài viết này đề cập đến những khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình và đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc này.
Bài viết của tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải mang tên “Giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo tố tụng dân sự ở nước ta hiện nay” đề cập đến những vấn đề pháp lý liên quan đến quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất trong bối cảnh tố tụng dân sự tại Việt Nam Tác giả phân tích các quy định hiện hành và thực tiễn giải quyết tranh chấp, nhằm nâng cao nhận thức và hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.
Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử đề cập đến quy định giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự, bao gồm trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết Bài viết cũng nêu rõ những điểm mới trong việc giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2013.
Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm” nhằm mục đích phân tích quy định pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp đất đai, và đề xuất giải pháp cải thiện hệ thống pháp lý để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo tố tụng dân sự ở nước ta hiện nay là một vấn đề quan trọng, liên quan đến nhiều khía cạnh pháp lý Quy trình này thường đòi hỏi sự can thiệp của cơ quan nhà nước để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan Việc hiểu rõ các quy định pháp luật và các bước tiến hành là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình trong các vụ tranh chấp.
2 https://baophapluat.vn/dieu-tra-bd/xac-dinh-ho-gia-dinh-su-dung-dat-so-ho-khau-hay-quan-he-huyet-thong-
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình
Bài viết này làm rõ và phân tích các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về chia tài sản chung, cụ thể là quyền sử dụng đất của hộ gia đình Đồng thời, nó cũng xem xét những khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm Từ đó, bài viết đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết hợp lý các tranh chấp tại tòa án nhân dân.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này tập trung vào các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến việc chia tài sản chung, cụ thể là quyền sử dụng đất của hộ gia đình Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét thực tiễn giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về chia tài sản chung, đặc biệt là quyền sử dụng đất của hộ gia đình Tuy nhiên, để thực hiện khảo sát thực tiễn, luận văn chỉ xem xét việc áp dụng các quy định này thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
Luận văn này nghiên cứu từ thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực pháp luật, cụ thể là từ ngày 1/7/2014 cho đến hiện tại, thông qua việc thu thập thông tin, dữ liệu, tình huống và các vụ việc liên quan.
Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể của Luận văn, đề tài áp dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp lịch sử, phân tích-tổng hợp, dự báo và đánh giá tác động Các phương pháp này được sử dụng một cách cụ thể để đảm bảo tính hiệu quả và độ chính xác trong quá trình nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng trong chương 1 của luận văn nhằm làm rõ các quy định pháp luật liên quan đến việc chia tài sản chung, đặc biệt là quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Phương pháp phân tích tình huống và bản án được áp dụng trong phần 2.1 của chương 2 để khảo sát thực tiễn về việc áp dụng pháp luật liên quan đến chia tài sản chung, đặc biệt là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, đồng thời phân tích các vướng mắc chưa được giải quyết trong quá trình này.
Phương pháp dự báo và đánh giá tác động được áp dụng trong phần 2.2 của chương 2 nhằm đưa ra các kiến nghị cải thiện pháp luật liên quan đến việc chia tài sản chung, đặc biệt là quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Kết cấu của Luận văn
Luận văn này bao gồm phần nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục Nội dung chính được chia thành 2 chương, tập trung vào định hướng ứng dụng.
Chương 1: Khái quát pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm gặp nhiều khó khăn Để khắc phục những vấn đề này, cần có các giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện quy trình xử lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
1.1.1 Khái niệm về tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia đình
1.1.1.1 Khái niệm tài sản thuộc sở hữu chung
Một trong những điểm khác biệt lớn nhất giữa con người và động vật là khả năng sở hữu tài sản Quyền sở hữu tài sản không chỉ là một mối quan tâm cơ bản mà còn là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội Ham muốn sở hữu đã dẫn đến sự chuyển mình từ xã hội mông muội sang nền nông nghiệp, chăn nuôi, và lao động sản xuất để đáp ứng nhu cầu Qua đó, nhu cầu trao đổi và mua bán hình thành, tạo nên thị trường sản xuất kinh doanh và nguồn vốn tư bản ngày càng phát triển Tài sản và quyền sở hữu thực sự đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người.
Theo khoản 1 điều 105 BLDS, tài sản được định nghĩa bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản Trong đó, vật, tiền, giấy tờ có giá là những tài sản hữu hình, có thể cầm nắm và đo đếm, trong khi quyền tài sản chỉ tồn tại khi được pháp luật công nhận Tài sản có thể thuộc sở hữu cá nhân hoặc sở hữu chung khi có từ hai người trở lên cùng sở hữu.
Tài sản chung được chia thành hai loại: tài sản sở hữu chung theo phần và tài sản sở hữu chung hợp nhất Theo Điều 209 Bộ luật Dân sự, sở hữu chung theo phần là hình thức sở hữu trong đó quyền sở hữu của mỗi cá nhân được xác định rõ ràng.
Theo Yuval Noah Harari trong cuốn "Lược sử loài người" (2017), những bản văn đầu tiên trong lịch sử chủ yếu ghi chép các vấn đề kinh tế như thuế, nợ nần và quyền sở hữu tài sản, thay vì những khái niệm triết học hay huyền thoại Pháp luật xác định quyền sở hữu tài sản chung, trong đó mỗi chủ sở hữu có phần quyền cụ thể, ví dụ như 1/3 tài sản Ngoài ra, pháp luật cũng quy định hình thức sở hữu chung hợp nhất, nơi quyền lợi của các chủ sở hữu không được xác định rõ ràng, như tài sản chung của vợ chồng Bên cạnh đó, hình thức sở hữu chung hỗn hợp, theo điều 315 Bộ luật Dân sự, xuất phát từ việc hợp tác góp vốn kinh doanh Cuối cùng, sở hữu chung của cộng đồng được hình thành từ tập quán xã hội, được quy định tại khoản 1 điều 211 BLDS.
Theo điều 217 Bộ luật Dân sự, các chủ sở hữu chung có quyền thỏa thuận về việc quản lý tài sản chung Mỗi chủ sở hữu có quyền khai thác, hưởng lợi từ tài sản tương ứng với phần sở hữu của mình, trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật khác.
Quyền sở hữu chung đối với tài sản có những đặc trưng riêng biệt trong việc định đoạt Cụ thể, theo Điều 218 Bộ luật Dân sự, các chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình, tuy nhiên, các chủ sở hữu khác lại có quyền ưu tiên mua đối với tài sản chung.
Ngoài ra, điều 218 Bộ luật Dân sự cũng quy định:
Trong vòng 03 tháng đối với bất động sản và 01 tháng đối với động sản, nếu các chủ sở hữu chung không mua sau khi nhận thông báo về việc bán và các điều kiện bán, chủ sở hữu có quyền bán cho người khác Thông báo này phải được thực hiện bằng văn bản, và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung phải giống với điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung.
Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà vi phạm quyền ưu tiên mua, các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu trong vòng 03 tháng kể từ ngày phát hiện vi phạm.
Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại
Khi một trong các chủ sở hữu chung của bất động sản từ bỏ quyền sở hữu hoặc khi chủ sở hữu đó qua đời mà không có người thừa kế, phần quyền sở hữu sẽ thuộc về Nhà nước Tuy nhiên, nếu là sở hữu chung của cộng đồng, phần quyền này sẽ được chia cho các chủ sở hữu chung còn lại.
Khi một trong các chủ sở hữu chung của động sản từ bỏ quyền sở hữu hoặc qua đời mà không có người thừa kế, phần quyền sở hữu đó sẽ được chuyển giao cho các chủ sở hữu còn lại.
Khi tất cả các chủ sở hữu đồng ý từ bỏ quyền sở hữu tài sản chung, việc xác lập quyền sở hữu sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 228.
Trong trường hợp sở hữu chung hợp nhất, việc quyết định về tài sản chung cần được các đồng chủ sở hữu thỏa thuận Nếu không đạt được thỏa thuận, các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng, Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình để xử lý.
Theo Điều 220 Bộ luật Dân sự, sở hữu chung đối với tài sản sẽ chấm dứt khi tài sản chung được chia giữa các đồng sở hữu, không còn tài sản chung, hoặc khi một chủ sở hữu trong nhóm đồng sở hữu nhận toàn bộ tài sản Tình huống này thường xảy ra khi các bên chuyển nhượng hoặc tặng cho nhau phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cùng với các trường hợp khác được quy định bởi pháp luật.
1.1.1.2 Khái niệm Quyền sử dụng đất của Hộ gia đình
Việt Nam, với đặc điểm là một quốc gia nông nghiệp, có cộng đồng dân cư gắn bó trong từng làng xã, trong đó hộ gia đình (HGĐ) là đơn vị dân cư cơ bản từ thời phong kiến đến nay Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước đã triển khai chính sách giao đất cho các thành viên trong HGĐ Đất đai, với vai trò là nguồn lực phát triển kinh tế và tài nguyên quý giá của quốc gia, được Nhà nước giao, cho thuê và công nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức và cá nhân.
Theo Luật Đất đai năm 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đại diện cho toàn dân để quản lý và sở hữu thống nhất trên toàn quốc Người sử dụng đất sẽ có quyền sử dụng khi được Nhà nước trao quyền.
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH LÀM CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
1.2.1 Quy định về căn cứ xác lập tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia đình
Với dân số chủ yếu làm nông, quyền sử dụng đất (QSDĐ) thường là tài sản quý giá nhất của hộ gia đình (HGĐ) Do đó, Nhà nước đã nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý về chế độ sở hữu chung đối với QSDĐ của HGĐ để đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Căn cứ xác lập tài sản chung của hộ gia đình (HGĐ) liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ) được phân thành hai loại: một là tài sản được hình thành từ sự đóng góp chung của các thành viên trong HGĐ, và hai là tài sản được xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
1.2.1.1 Tài sản chung là QSDĐ do mọi người đóng góp cùng nhau tạo lập
Phần lớn quyền sử dụng đất nông nghiệp hiện nay được xác lập bởi các thành viên trong hộ gia đình, dựa trên ruộng đất được giao khoán từ các hợp tác xã và nông trường trong giai đoạn 1980 - 1990 Theo chủ trương “người cày có ruộng”, các hợp tác xã đã phân bổ đất cho các thành viên dựa vào số nhân khẩu trong hộ, không giới hạn về độ tuổi hay giới tính.
Một số diện tích đất 5% được Uỷ ban nhân dân xã quản lý và giao cho các xã viên trong hộ gia đình Khi đất được giao ổn định và lâu dài, người dân sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, từ đó tạo ra sự ổn định trong quyền sử dụng đất của hộ và khuyến khích người dân tăng cường sản xuất nông nghiệp.
Hộ gia đình (HGĐ) được giao đất khi tham gia trực tiếp vào sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối theo hạn mức đất nông nghiệp Họ có quyền thuê đất nông nghiệp, lâm nghiệp và đất cho hoạt động nuôi trồng thủy sản, cũng như sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức được giao Ngoài ra, HGĐ còn được Nhà nước cho thuê đất cho mục đích thương mại, dịch vụ, khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gốm, và các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp HGĐ cũng được giao đất ở để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
1.2.1.2 Tài sản chung là quyền sử dụng đất do xác lập quyền sở hữu theo quy định cuả pháp luật
Theo quy định tại LĐĐ năm 2013, HGĐ có được tài sản là QSDĐ thông qua các căn cứ như:
“Do được Nhà nước công nhận QSDĐ thông qua việc:
Quyền sở hữu được xác lập thông qua bản án và quyết định của Tòa án hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
+ Do thanh lý, hoà giải nhà ở gắn liền đất ở;
Hộ gia đình (HGĐ) có quyền sở hữu tài sản nếu đã chiếm hữu một cách ngay tình, liên tục và công khai trong thời gian 30 năm, mặc dù không có căn cứ pháp luật Quyền sở hữu này sẽ được công nhận kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu tài sản.
Được áp dụng theo bản án hoặc quyết định của Tòa án Nhân dân, quyết định thi hành án từ cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, cũng như quyết định giải quyết tranh chấp và khiếu nại liên quan đến đất đai từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thực hiện.
HGĐ có được tài sản là QSDĐ thông qua các giao dịch dân sự như: hợp đồng
HGĐ được thừa kế QSDĐ; hoặc Tài sản hết thời hiệu thừa kế và chuyển sang tài sản thuộc sở hữu chung của các thành viên trong HGĐ.”
1.2.2 Quy định về căn cứ để xác định các thành viên có quyền sử dụng đất của hộ gia đình
Tranh chấp về đất đai liên quan đến hộ gia đình (HGĐ) chủ yếu xoay quanh việc xác định ai là thành viên của HGĐ Tư cách thành viên HGĐ được quy định tại khoản 3 điều 29 Luật Đất đai năm 2013, với các tiêu chí cụ thể để xác định.
1.2.2.1 Theo quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng
Các thành viên trong hộ gia đình (HGĐ) bao gồm những người có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, được xác định theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Quan hệ hôn nhân được định nghĩa theo Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội và Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, cũng như cách áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
Nam nữ đã xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn nên được khuyến khích thực hiện việc đăng ký Trong trường hợp một bên qua đời trước khi đăng ký, người còn lại có quyền lợi hợp pháp được bảo vệ.
Theo Khoản 3 Điều 29 của Luật Đất đai năm 2013, hộ gia đình sử dụng đất bao gồm những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định pháp luật, đang sống chung và có quyền sử dụng đất, được hưởng di sản thừa kế Những cặp đôi sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến 01/01/2001 có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian từ 01/01/2001 đến 01/01/2003, với thời gian gia hạn đến 01/08/2004 theo chỉ thị của Bộ Tư pháp Trong thời gian này, nếu có yêu cầu ly hôn, sẽ được giải quyết, và nếu một bên qua đời, bên còn lại sẽ được chia di sản thừa kế Tuy nhiên, sau ngày 01/08/2004, nếu họ không đăng ký kết hôn, pháp luật sẽ không công nhận mối quan hệ vợ chồng.
Kể từ ngày 01/01/2001, pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng giữa nam nữ sống chung như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt Theo Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quan hệ hôn nhân chỉ được xác định giữa vợ và chồng sau khi đã thực hiện thủ tục kết hôn hợp pháp.