1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam

278 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tiếp Cận Ý Định Khởi Nghiệp Bằng Mô Hình Thái Độ Khởi Nghiệp Và Vai Trò Điều Tiết Của Nguồn Vốn: Nghiên Cứu Thực Nghiệm Tại Việt Nam
Tác giả Trần Quang Long
Người hướng dẫn PGS.TS. Trần Hà Minh Quân, PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 278
Dung lượng 7,29 MB

Cấu trúc

  • 01_Toan van Luan an

  • 02_Tom tat tieng Anh

  • 03_Tom tat tieng Viet

  • 04_Trang thong tin

Nội dung

GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU

Giới thiệu

Nghiên cứu này nhằm khám phá phương pháp dự báo ý định khởi nghiệp và kiểm tra vai trò điều tiết của các yếu tố như giáo dục và nguồn vốn đối với ý định khởi nghiệp Chương một sẽ trình bày sự cần thiết của nghiên cứu, mục tiêu, phương pháp và phạm vi tiến hành, cùng với ý nghĩa và đóng góp của nghiên cứu.

Sự cần thiết của nghiên cứu

1.2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về khởi nghiệp

Trong lịch sử nghiên cứu lý thuyết, đã có nhiều công trình khám phá các khía cạnh của khởi nghiệp, bao gồm tinh thần khởi nghiệp, ý định khởi nghiệp, hành vi khởi nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khởi nghiệp Điều này đã dẫn đến sự hình thành của nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau trong lĩnh vực khởi nghiệp.

Từ những năm đầu thế kỷ 19, các nhà nghiên cứu như Richard Cantillon, Schumpeter và Ducker đã khám phá khái niệm tinh thần doanh nhân và hành vi khởi nghiệp, đóng góp các nền tảng lý thuyết quan trọng về vai trò của khởi nghiệp trong sức khỏe kinh tế Các tác giả như Dees, Low và Kruger tiếp tục phát triển khái niệm này, trong khi nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đặc điểm nhân khẩu học như giới tính và độ tuổi có thể ảnh hưởng đến xu hướng khởi nghiệp Một trường phái khác tập trung vào tính cách cá nhân của doanh nhân, xác định các đặc điểm như sự tử tế, chấp nhận rủi ro và đổi mới, nhằm xây dựng danh mục đặc điểm dự đoán hiện tượng khởi nghiệp Ngoài ra, trường phái thứ ba cho rằng quyết định khởi nghiệp phụ thuộc vào ý định và thái độ cá nhân, tiếp cận từ góc độ tâm lý học để dự đoán hành vi khởi nghiệp Mặc dù cả ba trường phái đều đóng góp lớn cho khoa học khởi nghiệp, vẫn còn nhiều tranh cãi về việc dự đoán khởi nghiệp, với nhiều nghiên cứu dựa trên “Lý thuyết hành vi dự định” của Ajzen.

Mô hình sự kiện khởi nghiệp của Shapero và Sokol (1982) đã được sử dụng để dự đoán ý định khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp Cả hai mô hình này đều có những ưu điểm nổi bật: thứ nhất, chúng đã được kiểm chứng nhiều lần với kết quả thống kê mạnh mẽ hỗ trợ (Krueger Jr và cộng sự, 2000) Thứ hai, chúng kiểm soát các yếu tố ngoại sinh trong khái niệm thái độ, đảm bảo không ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp (Souitaris và cộng sự, 2007; Tkachev và cộng sự).

Cả hai mô hình TPB và EEM đều gặp phải một số hạn chế Trong mô hình TPB, Ajzen cho rằng thái độ chỉ là một cấu trúc đơn giản, phản ánh qua phản ứng tình cảm riêng lẻ, và hành vi kinh doanh phụ thuộc vào thái độ cá nhân đối với giá trị và lợi ích của khởi nghiệp TPB được xây dựng ban đầu để dự đoán hành vi chung, nhưng khi áp dụng vào nghiên cứu ý định khởi nghiệp, nó không xem xét đầy đủ quá trình ra quyết định nghiêm túc trong lĩnh vực này Hơn nữa, TPB giả định rằng ba thành phần: thái độ về hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi, cùng xác định ý định hành động, nhưng không làm rõ động lực hình thành ý định Ngược lại, mô hình EEM do Shapero và Sokol giới thiệu không được coi là mô hình nghiên cứu ý định ban đầu, mà chỉ nhằm giải thích quá trình dẫn đến việc khởi nghiệp, tập trung vào việc tạo ra doanh nghiệp mới mà không đề cập đến sự phát triển của hành vi khởi nghiệp nói chung.

Mặc dù biến "thiên hướng hành động" trong mô hình các sự kiện khởi nghiệp (EEM) được coi là yếu tố giải thích lý do tại sao một cá nhân có năng lực và hoài bão trở thành người khởi nghiệp, Shapero và Sokol lại không đề cập rõ ràng đến biến này trong mô hình ban đầu của họ.

Mô hình thái độ về khởi nghiệp “Entrepreneurial Attitude Orientation” (EAO) của P Robinson và cộng sự (1991) bao gồm bốn thành phần chính: nhu cầu thành tích, sáng tạo, kiểm soát cá nhân đối với hành vi và lòng tự trọng Nhu cầu thành tích đề cập đến trách nhiệm khởi động doanh nghiệp mới, trong khi sáng tạo liên quan đến việc phát triển ý tưởng và sản phẩm mới Kiểm soát cá nhân phản ánh nhận thức về ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, và lòng tự trọng liên quan đến sự tự tin trong năng lực kinh doanh Mô hình EAO có ưu điểm là chi tiết hơn, tăng cường mối tương quan với hành vi thực tế và giảm biến thiên không giải thích được Ý định hành vi khởi nghiệp được hình thành từ sự kết hợp của ba khía cạnh thái độ: cảm xúc, nhận thức và ý chí hành vi, trong đó nhu cầu thành tích được xem là động lực chính Yếu tố sáng tạo trong mô hình EAO cũng rất quan trọng và liên quan chặt chẽ đến hành vi khởi nghiệp, nhưng không được đề cập trong mô hình TPB và EEM.

Vì thế, mô hình EAO được cho là “được thiết kế dành riêng và phù hợp hơn cho nghiên cứu khởi nghiệp” (Huefner và cộng sự, 1996)

Mô hình EAO của Robinson đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp, tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần làm rõ Các nghiên cứu trước đây cho thấy sự thiếu nhất quán trong kết quả, chẳng hạn như nghiên cứu của Wyk và Boshoff (2004) tại Nam Phi chỉ xác định ba thành phần thay vì bốn như mô hình gốc Nghiên cứu của Norhazlin Ismail (2013) tại Malaysia cũng chỉ ra ba yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp, bỏ qua nhu cầu thành tích Ngược lại, Wassim J Aloulou (2015) tại Saudi Arabia lại khẳng định nhu cầu thành tích và sáng tạo có mối quan hệ rõ nét với ý định khởi nghiệp Điều này chỉ ra sự cần thiết phải kiểm chứng lại mô hình EAO trong các bối cảnh văn hóa khác nhau Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào thực nghiệm mô hình này tại Việt Nam, do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc kiểm tra tác động của thái độ về việc khởi nghiệp đến ý định khởi nghiệp trong bối cảnh Việt Nam.

Một luồng nghiên cứu khác tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp, bao gồm môi trường kinh doanh như thuế, tỷ lệ thất nghiệp, cạnh tranh và mức độ phát triển kinh tế (Leff, 1979) Nguồn vốn con người đóng vai trò quan trọng, bao gồm kinh nghiệm (Cooper và Park, 2008), kiến thức, kỹ năng (Kor và cộng sự, 2007), tầm nhìn và khả năng xử lý công việc (Douglas và Shepherd, 2005) Ngoài ra, việc chấp nhận sự mơ hồ (Koh, 1996) và rủi ro (Gurol và Atsan, 2006) cũng là những yếu tố cần xem xét Gia đình (Matthews và Moser, 1996), giáo dục (Gorman, Hanton và King, 1997; Kolvereid và Matlay, 2012; McMullan và Long, 1987) cùng với nguồn vốn tài chính (Brezak Brkan, 2010; Kovačić, 2011; Maurya) cũng góp phần quan trọng trong quá trình khởi nghiệp.

Giáo dục khởi nghiệp được xem là một sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật, trong đó khoa học cung cấp kiến thức cần thiết để thành lập doanh nghiệp, còn nghệ thuật liên quan đến sự sáng tạo của các doanh nhân Các nhà giáo dục khởi nghiệp đã chỉ ra rằng cần chuyển đổi trọng tâm từ khía cạnh khoa học sang việc giảng dạy nghệ thuật và sáng tạo Mặc dù nhiều khóa học kinh doanh vẫn tập trung vào chiều hướng khoa học, nhưng việc kích hoạt khía cạnh nghệ thuật và sáng tạo trong giáo dục khởi nghiệp là rất quan trọng Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng cần xem xét tác động của giáo dục thông qua mô hình EAO, đặc biệt là yếu tố sáng tạo Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu hiện tại chỉ sử dụng mô hình TPB mà chưa khai thác mô hình EAO, điều này dẫn đến những hạn chế trong việc hiểu rõ ảnh hưởng của giáo dục khởi nghiệp Do đó, nghiên cứu này nhằm làm rõ vai trò của các thuộc tính chương trình giáo dục khởi nghiệp đối với thái độ khởi nghiệp tại Việt Nam thông qua mô hình EAO.

Khởi nghiệp đang trở thành một hiện tượng toàn cầu, dẫn đến sự hình thành của nhiều tổ chức và quỹ đầu tư nhằm phát hiện và nuôi dưỡng các dự án tiềm năng Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ý tưởng khởi nghiệp, nhưng vấn đề tài chính vẫn luôn là một chủ đề nóng trong các chương trình khuyến khích khởi nghiệp Nghiên cứu đã phân loại các nguồn vốn và tìm hiểu các giai đoạn hình thành vốn tương ứng với các giai đoạn khởi nghiệp, nhưng vẫn chưa rõ vai trò của từng loại nguồn vốn trong mối quan hệ giữa thái độ và ý định khởi nghiệp Nếu mô hình EAO chứng minh là phù hợp để đánh giá tác động của thái độ đến ý định khởi nghiệp, câu hỏi đặt ra là liệu nguồn vốn có ảnh hưởng đến mối quan hệ này hay không Tại Việt Nam, nghiên cứu về khởi nghiệp đã phát triển mạnh mẽ từ năm 2010, với các nghiên cứu chỉ ra rằng các đặc điểm cá nhân như "nhiệt tình" và "tư duy cởi mở" có mối quan hệ chặt chẽ với ý định khởi nghiệp Nghiên cứu của Đoàn Thị Thu Trang và Lê Hiếu Học cho thấy ý định khởi nghiệp chịu tác động trực tiếp từ cảm nhận tính khả thi và thái độ, trong khi các yếu tố như kỳ vọng bản thân không tham gia vào việc hình thành ý định này.

Khi phân tích các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên, Phan Anh

Tú và Giang Thị Cẩm Tiên (2015) đã áp dụng mô hình TPB (Ajzen, 1991) và bổ sung các yếu tố giáo dục, nguồn vốn để nghiên cứu ý định khởi nghiệp của sinh viên tại Trường Đại học Cần Thơ Nghiên cứu cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên được sắp xếp theo thứ tự giảm dần về mức độ quan trọng, bao gồm thái độ và tự hiệu quả, giáo dục và cơ hội khởi nghiệp, nguồn vốn, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi Đỗ Thị Hoa Liên (2016) đã kết hợp mô hình TPB và EEM mở rộng (Shapero và Sokol, 1982) để phân tích các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên, tìm ra giáo dục, kinh nghiệm cá nhân, sự ảnh hưởng từ gia đình và bạn bè, tính cách và nguồn vốn Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn dựa vào mô hình TPB và EEM mà chưa hoàn toàn phù hợp, đồng thời chưa xem xét chi tiết các thuộc tính của giáo dục như thời lượng, phương pháp, trình độ học viên và các loại hình nguồn vốn khác nhau trong khởi nghiệp.

1.2.2 Tính cấp thiết của nghiên cứu Tại Việt Nam, khởi nghiệp đang là chủ đề thu hút quan tâm rất nhiều từ cơ quan chính phủ đến các quỹ đầu tư, các trường Đại học, và đặc biệt là tầng lớp thanh niên Theo báo cáo GEM 2017-2018 (Global Entreprenuership Monitor_Chỉ số khởi nghiệp toàn cầu), nhận thức về cơ hội kinh doanh ở Việt Nam năm 2017 đã giảm so với năm 2015 nhưng vẫn cao hơn năm 2013-2014: có 46,4% người trưởng thành ở Việt Nam nhận thức có cơ hội để khởi sự kinh doanh trong năm 2017, xếp thứ 23/54 (năm 2015 là 56,8% xếp thứ 9/60) Tỷ lệ này trung bình ở các nước phát triển dựa trên nguồn lực là 41,5% Tỷ lệ người trưởng thành ở Việt Nam có ý định khởi sự kinh doanh trong vòng 3 năm tới vẫn tiếp tục tăng lên, từ mức 18,2% năm 2014, lên lên 22,3% năm 2015 và đạt 25% năm 2017, xếp thứ 19/54, tuy nhiên vẫn thấp hơn mức trung bình 30,3% ở các nước phát triển dựa trên nguồn lực (GEM, 2017/2018)

Theo tạp chí Echelon, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp, gấp đôi so với cuối năm 2015 Mặc dù quy mô vốn và nhân lực còn nhỏ, nhưng những doanh nghiệp này được kỳ vọng sẽ trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế trong tương lai Do đó, việc dự báo và nghiên cứu các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và chính sách nhằm khuyến khích hoạt động khởi nghiệp.

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, nhiều nhà nghiên cứu đã nỗ lực xác định nguyên nhân của ý định kinh doanh thông qua hàng ngàn nghiên cứu trong nhiều thập kỷ Mặc dù có những đóng góp đáng kể, nhưng vẫn tồn tại nhiều tranh cãi về phương pháp dự báo ý định khởi nghiệp tối ưu Hai mô hình TPB và EEM đã được kiểm chứng trong nhiều bối cảnh, trong khi mô hình EAO, được thiết kế đặc biệt cho nghiên cứu khởi nghiệp, vẫn chưa được củng cố mạnh mẽ Đặc biệt, chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào được thực hiện tại Việt Nam để kiểm tra tính khả thi của mô hình EAO trong việc dự báo ý định khởi nghiệp Vì vậy, việc xác minh giá trị của mô hình thái độ về khởi nghiệp trong bối cảnh Việt Nam và mối quan hệ giữa EAO và EI là rất cần thiết.

Nhà làm chính sách đang nỗ lực khuyến khích tinh thần khởi nghiệp bằng cách không chỉ dự báo mà còn xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ khởi nghiệp của cá nhân Trong đó, giáo dục và nguồn vốn được xem là hai yếu tố thu hút sự chú ý đặc biệt.

Mục tiêu của nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu này gồm bốn mục tiêu cụ thể sau:

- Thứ nhất, điều chỉnh và đánh giá thang đo các khái niệm nghiên cứu trong mô hình EAO và ý định khởi nghiệp EI

- Thứ hai, khám phá và đo lường mối quan hệ giữa các thành phần EAO và EI trong bối cảnh tại Việt Nam

- Thứ ba, khám phá vai trò tác động của các thành phần giáo dục khởi nghiệp đến thái độ về khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp

- Thứ tư, khám phá vai trò điều tiết của nguồn vốn đến mối quan hệ giữa thái độ về khởi nghiệp với ý định khởi nghiệp.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng khảo sát của nghiên cứu này gồm sinh viên, học viên cao học ở các trường Đại học và học viên các chương trình đào tạo khởi nghiệp

- Phạm vi nghiên cứu về địa lý được tiến hành ở ba địa phương là TP Hà Nội,

Theo số liệu thống kê từ năm 2007 đến 2015, TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội và TP Đà Nẵng là ba địa phương dẫn đầu về hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam Tình hình khởi nghiệp tại các thành phố này cho thấy một làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

Không gian làm việc chung

CLB Khởi nghiệp sinh viên

Nguồn: Dữ liệu Startup Ecosystem VietNam, IPP và Startup Commons

Startup Funding 2015 report, Topica Founder Institute Vietnam

- Thời gian tiến hành khảo sát là từ tháng 8/2014 đến tháng 12/2014.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện qua hai giai đoạn: nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức Trong giai đoạn sơ bộ, tác giả áp dụng phương pháp định tính thông qua thảo luận nhóm để điều chỉnh và bổ sung thang đo, đồng thời sử dụng phương pháp định lượng để đánh giá độ tin cậy của thang đo Cuộc khảo sát định lượng sơ bộ được thực hiện với 44 mẫu, và kết quả thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS, sử dụng hệ số Cronbach alpha để kiểm tra độ tin cậy Giai đoạn nghiên cứu sơ bộ diễn ra tại TP Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp định lượng thông qua khảo sát phỏng vấn trực tiếp và Google Docs tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh Dữ liệu thu được sẽ được phân tích bằng phần mềm SPSS, trong đó kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach alpha, và kiểm định tính hội tụ và phân biệt thông qua phân tích EFA Để xác định mối quan hệ giữa các thành phần thái độ về khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp, mô hình hồi quy được sử dụng Đặc biệt, để kiểm tra vai trò điều tiết của nguồn vốn trong mối quan hệ này, phương pháp hồi quy với biến dummy sẽ được áp dụng Cuối cùng, phương pháp so sánh ANOVA và kiểm định hậu ANOVA sẽ được sử dụng để đánh giá vai trò kiểm soát của các yếu tố giáo dục.

Đóng góp của luận án

Đóng góp của luận án được thể hiện trên hai phương diện: lý thuyết và hàm ý thực tiển:

Nghiên cứu này nhằm kiểm định và phát triển thang đo EAO của Robinson và cộng sự (1991) trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, mặc dù thang đo này ban đầu được thiết kế cho nghiên cứu về thái độ khởi nghiệp Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng góp phần củng cố lý thuyết giáo dục khởi nghiệp bằng cách phân tích ảnh hưởng của thái độ đến ý định khởi nghiệp thông qua mô hình EAO Cuối cùng, kết quả nghiên cứu chỉ ra vai trò điều tiết của nguồn vốn trong mối quan hệ giữa thái độ và ý định khởi nghiệp.

Nghiên cứu này cung cấp những gợi ý quan trọng cho các nhà làm chính sách và các đơn vị đào tạo trong việc thiết kế chương trình giáo dục khởi nghiệp, cũng như xây dựng chính sách về nguồn vốn, nhằm thúc đẩy làn sóng khởi nghiệp tại Việt Nam.

Ý nghĩa của nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm bổ sung lý thuyết về ý định khởi nghiệp thông qua việc xem xét thái độ và các yếu tố ảnh hưởng trong bối cảnh kinh tế chuyển đổi của Việt Nam Nó có ý nghĩa thiết thực cho các nhà làm chính sách và quản lý, giúp họ nhận diện động cơ khởi nghiệp cũng như vai trò của giáo dục và nguồn vốn khởi nghiệp Qua đó, nghiên cứu sẽ hỗ trợ tổ chức chương trình một cách hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy ý định khởi nghiệp trong giới trẻ Việt Nam.

Cấu trúc luận án

Cấu trúc của luận án được chia làm 5 Chương, gồm có:

- Chương 1: Giới thiệu về nghiên cứu

- Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu

- Chương 3: Thiết kế nghiên cứu

- Chương 4: Kết quả và thảo luận

- Chương 5: Kết luận và đề xuất hàm ý quản trị

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Giới thiệu chương 2

Bài viết này tập trung vào việc tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu về ý định khởi nghiệp, đồng thời phân tích tác động của giáo dục và nguồn vốn Chương này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về cơ sở lý thuyết cần thiết cho đề án nghiên cứu, từ đó hệ thống hóa các khái niệm liên quan Người viết sẽ phác thảo mô hình nghiên cứu ý định khởi nghiệp dựa trên phương pháp tiếp cận thái độ tại Việt Nam, đồng thời đánh giá vai trò của giáo dục và nguồn vốn trong quá trình này.

Lý thuyết về khởi nghiệp

2.2.1 Các quan điểm về khởi nghiệp

Vào đầu thế kỷ 19, Richard Cantillon định nghĩa người khởi nghiệp là người "sẵn sàng mua ở một mức giá nhất định và bán lại tại một mức giá nào đó." Jean Baptiste Say cho rằng người khởi nghiệp chuyển nguồn lực từ lĩnh vực có năng suất thấp sang lĩnh vực có năng suất cao hơn để đạt kết quả tốt hơn Schumpeter khẳng định rằng người khởi nghiệp là tác nhân của sự thay đổi trong nền kinh tế và sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào hoạt động của họ Ông phân biệt giữa đổi mới và sáng chế, nhấn mạnh rằng khởi nghiệp phải bao gồm việc tạo ra sự đổi mới để thể hiện vai trò của người khởi nghiệp trong quá trình này Cuối cùng, Schumpeter kết luận rằng lý thuyết về tinh thần khởi nghiệp cần dựa trên các hoạt động thực tế của người khởi nghiệp và đề xuất hai học thuyết liên quan đến hành vi và động cơ của khởi nghiệp.

Năm loại hành vi khởi nghiệp khởi nghiệp của Schumpeter:

• Sự ra đời của một hàng hóa mới

• Sự ra đời của một phương pháp sản xuất mới

• Phát triển một thị trường mới

• Nghiên cứu ra một nguồn cung cấp nguyên liệu mới

• Tạo ra một tổ chức mới của một ngành công nghiệp (Scherer, 1999)

Ba động lực chính của một người khởi nghiệp:

• Mong muốn quyền lực và sự tự chủ

• Nhu cầu về sự thành tích

• Niềm hạnh phúc của việc sáng tạo (Swedberg, 2002)

Các nhà nghiên cứu khởi nghiệp đã chuyển sang một quan điểm thực tế hơn, trong đó Peter Drucker đã định nghĩa khái niệm khởi nghiệp bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ hội Ông cho rằng sự khác biệt giữa những người khởi nghiệp và người khác nằm ở khả năng khai thác cơ hội từ những thay đổi trên thị trường: "người khởi nghiệp luôn tìm kiếm các thay đổi, đáp ứng với nó, và khai thác nó như một cơ hội" (Dees và cộng sự, 1998) Niềm tin vào khả năng kiểm soát bản thân trong quá trình khởi nghiệp đã được công nhận trong nghiên cứu, giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về quá trình này.

Khởi nghiệp được định nghĩa bởi Low và MacMillan (1988) là “việc tạo ra một doanh nghiệp mới” Bygrave (1989) nhấn mạnh rằng khởi nghiệp là một quá trình trở thành doanh nhân, không chỉ đơn thuần là kết quả cuối cùng Kruger và cộng sự (2000) cho rằng cá nhân khởi nghiệp có ý định và mục đích rõ ràng, và việc trở thành doanh nhân là kết quả của quá trình ra quyết định Bruyat và Julien (2001) mở rộng khái niệm khởi nghiệp từ việc “bắt đầu một công việc khởi nghiệp riêng” đến thái độ làm việc coi trọng tính tự lực, tiên phong, sáng tạo và dám đối mặt với rủi ro Điều này tạo nên một khái niệm đầy đủ về khởi nghiệp, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố “sáng tạo”, một đặc điểm quan trọng trong nghiên cứu khởi nghiệp đổi mới sáng tạo sau này.

2.2.2 Các phương pháp nghiên cứu về khởi nghiệp

Nhiều nhà nghiên cứu đã dự đoán khả năng khởi nghiệp bằng các phương pháp khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung vào ba phương pháp chính: thứ nhất, dựa vào thông tin nhân khẩu học; thứ hai, xem xét đặc điểm tính cách cá nhân; và thứ ba, đánh giá thái độ của cá nhân đối với khởi nghiệp.

2.2.2.1 Phương pháp tiếp cận dựa trên đặc điểm cá nhân

Theo Donatus A Okhomina (2010), tính cách cá nhân là yếu tố quan trọng để xác định khả năng khởi nghiệp của một người, như được chỉ ra bởi nhiều tác giả trong lĩnh vực tâm lý học (Beugelsdijk, 2007; Gartner, 2001; Lyon, Lumpkin và Dess, 2000; Shane và Venkataraman, 2000; Aldrich và Kenworthy, 1999; Lumpkin và Dess, 1996; Gartner, 1988; Carland và cộng sự, 1984; McClelland, 1961; McClelland và cộng sự, 1953) Các nhà nghiên cứu, như David C McClelland và David Atkinson, đã đóng góp vào việc xây dựng nền tảng để hiểu rõ hơn về các đặc điểm tâm lý của người khởi nghiệp từ những năm 1950 Peter B Robinson và cộng sự (1991) cho biết, nhiều nghiên cứu đã cố gắng xác định các đặc điểm phân biệt người khởi nghiệp với những người khác (Brockhaus, 1975; Brockhaus và Horwitz, 1986; Collins và Moore, 1970; Horaday và Aboud, 1971; Shapero, 1975), trong đó có sự tử tế, nhu cầu thành tích, nhận thức năng lực, chấp nhận rủi ro, đổi mới, phong cách giải quyết vấn đề, tính chấp nhận sự mơ hồ và đề cao giá trị Mặc dù cách tiếp cận này đã đóng góp đáng kể vào nghiên cứu, nhưng cũng bộc lộ một số vấn đề về phương pháp luận và khái niệm (Kilby, 1971; Klinger, 1966).

Các nghiên cứu về tinh thần khởi nghiệp thường sử dụng các phương pháp dựa trên đặc điểm tính cách không được thiết kế chuyên biệt, dẫn đến sự không tương thích và thiếu hiệu quả (Hornaday, 1987; Hornaday và Nunnally, 1987) Điều này làm giảm giá trị ứng dụng và tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này Gartner chỉ ra rằng nghiên cứu dựa trên đặc điểm cá nhân của người khởi nghiệp là một ngõ cụt, không thể thúc đẩy hiểu biết thêm (Gartner, 1988) Hơn nữa, việc xác định các khái niệm trong cách tiếp cận này thiếu sự nhất quán, với nhiều thang đo khác nhau cho cùng một khái niệm và mối tương quan giữa chúng không cao Ví dụ, Yamauchi và Doi (1977) đã phát hiện 11 cấp độ khác nhau để đo lường "Nhu cầu thành tích" trên bốn yếu tố khác nhau Nguyên nhân là do các tác giả sử dụng tên thang đo giống nhau nhưng không rõ ràng, và có nhiều công cụ đo lường các khía cạnh khác nhau của một khái niệm cụ thể (ví dụ Locus of control của Rotter, Paulhus, 1983) Cuối cùng, khởi nghiệp là một lĩnh vực năng động yêu cầu những đặc tính cá nhân đặc biệt.

Việc áp dụng “lý thuyết nhân cách dùng trong việc đo lường xu hướng tâm lý chung” (Abelson, 1982; Epstein, 1984) vào lĩnh vực khởi nghiệp có thể làm giảm giá trị nghiên cứu do sử dụng công cụ đo lường không chính xác hoặc không liên quan đến khái niệm cụ thể.

Phương pháp nghiên cứu khởi nghiệp dựa trên đặc điểm tính cách cá nhân đã gặp phải sự chỉ trích từ một số nhà nghiên cứu, cho rằng nó không thỏa mãn và gây hoài nghi về khả năng giải thích hành vi khởi nghiệp Theo Gartner (1988), Aldrich và Zimmer (1986), cùng với Low và Macmillan (1988), họ kết luận rằng không có đặc điểm tính cách nào có thể được sử dụng để dự đoán liệu một người có trở thành doanh nhân hay không.

2.2.2.2 Phương pháp tiếp cận dựa trên đặc điểm nhân khẩu học Đây là một phương pháp tiếp cận khác để nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp

Xu hướng sử dụng các biến nhân khẩu học để nghiên cứu ý định khởi nghiệp đã trở nên phổ biến trong nhiều thập kỷ Các nhà nghiên cứu đã cố gắng xây dựng danh mục đặc điểm người khởi nghiệp như năm sinh, giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn và thói quen làm việc (Gaddam, 2008) Sự khác biệt trong điều tra các biến nhân khẩu học giữa người khởi nghiệp và không khởi nghiệp đang thu hút sự quan tâm trong nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp (Ramana, Raman và Aryasri, 2009) Tuy nhiên, vẫn còn quá ít nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố nhân khẩu học đến sự thành công trong khởi nghiệp Kristiansen và Indarti (2004) cũng chỉ ra rằng các biến nhân khẩu học như tuổi tác, giới tính và nền tảng cá nhân có ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp, nhưng phương pháp này cũng gặp phải một số vấn đề tranh cãi.

Sự khác biệt giới tính trong hoạt động khởi nghiệp đã được ghi nhận rõ ràng trong nghiên cứu của S.M Farrington (2012) và các tác giả như Reynolds, Bygrave và Autio (2004), cho thấy nam giới có xu hướng khởi nghiệp cao hơn nữ giới (Veciana, Aponte và Urbano, 2005; Zhao, Seibert và Hills, 2005; Matthews và Moser, 1995) Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác (Ahmed et al., 2010; Drost, 2010; Kakkonen, 2010) lại chỉ ra rằng giới tính không có ảnh hưởng đáng kể đến ý định khởi nghiệp, với Ahmed và cộng sự (2010) khẳng định rằng giới tính không thể dự đoán ý định khởi nghiệp.

Nghiên cứu năm 2010 không phát hiện bằng chứng cho thấy giới tính ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp của sinh viên Hơn nữa, các nghiên cứu trước đó cũng chỉ ra rằng sự khác biệt giữa nam và nữ trong lĩnh vực khởi nghiệp là rất nhỏ (Mueller, 2004).

Nghiên cứu của Ahmed và cộng sự (2010) chỉ ra rằng trình độ học vấn có ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên, với sinh viên năm cuối có xu hướng khởi nghiệp cao hơn do kiến thức và kinh nghiệm thực tế tăng lên Ngược lại, Degeorge và Fayolle (2008) cho rằng ý định khởi nghiệp của sinh viên không thay đổi theo năm học, cho thấy rằng năm học không ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp.

Nghiên cứu của Kakkonen (2010) cho thấy sự phát triển thái độ khởi nghiệp giữa các nhóm nghiên cứu học thuật và các năm học không có sự khác biệt đáng kể, mà gần như đồng nhất Mặc dù giáo dục đại học nâng cao nhận thức và kiến thức về khởi nghiệp cho sinh viên, nhưng không hỗ trợ và tăng cường ý định khởi nghiệp Hơn nữa, theo Kakkonen (2010), có bằng chứng cho thấy nhận thức về khởi nghiệp có thể trở nên tiêu cực hơn trong quá trình học tập của sinh viên (S.M Farrington, 2012).

Theo Farrington (2012), yếu tố vùng miền có vai trò quan trọng trong ý định khởi nghiệp, như được chỉ ra bởi các tác giả như Stam (2007), Rocha và Sternberg (2005), và Shane (2003) Cụ thể, nghiên cứu cho thấy sinh viên tại các khu vực đô thị có ý định khởi nghiệp cao hơn so với sinh viên ở nông thôn Fuller-Love và các cộng sự (2006) cũng khẳng định rằng sinh viên tại các thành phố lớn có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người khởi nghiệp thành công hơn so với sinh viên ở thành phố nhỏ, từ đó thúc đẩy ý định khởi nghiệp Shane (2003) nhấn mạnh rằng quyết định khởi nghiệp của những người tiềm năng không diễn ra trong chân không mà chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ môi trường xung quanh.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa sự hiện diện của các hình mẫu trong gia đình và sự xuất hiện của người khởi nghiệp Ariff và cộng sự (2010) cho biết rằng các thành viên trong gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích sinh viên tham gia vào khởi nghiệp Soetanto và cộng sự (2010) xác nhận rằng cha mẹ khởi nghiệp có thể trở thành hình mẫu cho con cái, tạo cơ hội cho chúng tham gia vào khởi nghiệp Shane (2003) chỉ ra rằng con cái của những người khởi nghiệp có xu hướng cao hơn để trở thành người khởi nghiệp Wang và Wong (2004) cũng tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa kinh nghiệm khởi nghiệp của gia đình và sở thích khởi nghiệp của sinh viên Ahmed và cộng sự (2010) nhấn mạnh rằng gia đình có nhiều kinh nghiệm khởi nghiệp thì sinh viên có xu hướng cao hơn về hoạt động khởi nghiệp Tuy nhiên, Kakkonen (2010) cho thấy rằng sự hiện diện của người khởi nghiệp trong gia đình hoặc trong số bạn bè không có ảnh hưởng đáng kể đến ý định khởi nghiệp của sinh viên.

Lý thuyết về ý định khởi nghiệp (Entrepreneurial intention – EI)

2.3.1 Khái niệm về ý định khởi nghiệp

Lý thuyết về ý định, được phát triển từ lý thuyết nhận thức xã hội của Bandura (1986), tập trung vào việc hiểu và dự đoán hành vi con người Ý định được định nghĩa là động lực của một người để thực hiện hành động theo kế hoạch có ý thức (Conner và Armitage, 1998) Trong bối cảnh khởi nghiệp, ý định khởi nghiệp thể hiện mong muốn tạo ra một công việc khởi nghiệp riêng (Crant, 1996) hoặc bắt đầu một doanh nghiệp (Krueger, Reilly, và Carsrud, 2000) Thompson (2009) mô tả ý định khởi nghiệp như sự tự nhận thức của cá nhân về việc lên kế hoạch cho một công việc khởi nghiệp trong tương lai, đồng thời nhấn mạnh sự tiến triển tâm lý trong việc mong muốn tạo ra giá trị mới cho tổ chức.

D Remeikiene và G Startiene, 2013) Như vậy, có thể nói việc dự báo ý định khởi nghiệp bằng cách nghiên cứu thái độ là hoàn toàn phù hợp Do đó, nghiên cứu này sử dụng khái niệm về ý định khởi nghiệp của R D Remeikiene và G Startiene (2013) Ý định khởi nghiệp có thể được đo bằng nhiều cách khác nhau (Warshaw và Davis, 1985): Từ góc độ ý định hành vi ("Tôi có ý định thực hiện hành vi x" ) và từ góc độ tự dự đoán ("Khả năng bạn sẽ thực hiện hành vi x là bao nhiêu") Arimtage và cộng sự (2001) thêm một hướng thứ ba, từ một quan điểm mong muốn (tôi muốn thực hiện hành vi x) Phân tích thống kê cho thấy, các câu hỏi liên quan đến ý định hành vi có một sức mạnh dự đoán cao cho hành vi thực hiện (Armitage và cộng sự,

Năm 2001, các nghiên cứu liên quan đến tự dự đoán đã được thực hiện bởi Sheppard, Hartwick và Warshaw (1988) Linan và Chen đã phát triển một thang đo gồm 6 mục để đánh giá xu hướng ý định khởi nghiệp, sử dụng thang Likert 7 điểm (Linan và Chen, 2009) Bảng câu hỏi gốc, được gọi là “Entrepreneurial Intention Questionnaire” (EIQ), đã được dịch sang tiếng Việt và sau đó dịch ngược lại sang tiếng Anh để đảm bảo tính chính xác ngữ nghĩa Thang đo này đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu, bao gồm các tác giả như Nurdan Ozaralli (2016), Kamariah Ismail và cộng sự (2015), cũng như các nghiên cứu của Liủỏn và Chen (2009), Liủỏn (2008), Liủỏn, Urbano và Guerrero (2010), và Liủỏn và Chen (2006).

2.3.2 Các mô hình nghiên cứu ý định khởi nghiệp

2.3.2.1 Mô hình lý thuyết về hành vi dự định (TPB)

Mô hình lý thuyết về hành vi dự định (Theory of Reasoned Action - TRA) do Fishbein và Ajzen phát triển trong giai đoạn 1975-1980, bao gồm ba thành phần chính: ý định thực hiện hành vi (behavioural intention - BI), kỳ vọng xã hội (subjective norms - SN), và thái độ (attitudes - A) Ý định thực hiện hành vi càng mạnh mẽ khi thái độ tích cực và kỳ vọng xã hội cao, dẫn đến khả năng thực hiện hành vi cũng gia tăng Ý định hành vi đo lường mức độ quyết tâm thực hiện một hành vi cụ thể, trong khi kỳ vọng xã hội phản ánh áp lực từ bạn bè, gia đình hoặc đồng nghiệp Ví dụ, nếu người thân coi việc khởi nghiệp là mạo hiểm, cá nhân sẽ ít có khả năng thực hiện hành vi đó Thái độ liên quan đến những kỳ vọng về kết quả của hành vi TRA có thể được biểu diễn qua một công thức toán học đơn giản.

Ajzen đã mở rộng lý thuyết TRA để phát triển lý thuyết hành vi dự định vào năm 1991 Điểm nổi bật trong lý thuyết này là việc bổ sung yếu tố thứ ba, gọi là nhận thức về sự kiểm soát hành vi, ảnh hưởng đến thái độ và ý định hành động của cá nhân.

Lý thuyết này cho rằng mọi hành động cụ thể đều bắt đầu từ một ý định có ý thức, và ý định này phụ thuộc vào thái độ của cá nhân Thái độ lại bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm sống trước đó, các đặc điểm cá nhân và nhận thức tích lũy từ những trải nghiệm đó.

Lý thuyết về hành vi dự định bao gồm ba thái độ tiền đề của ý định:

Mô hình lý thuyết hành vi dự định (Ajzen, 1991) nhấn mạnh rằng thái độ đối với hành vi phản ánh mức độ tích cực mà một cá nhân có về việc thực hiện hành vi đó, bao gồm mong muốn và kỳ vọng về kết quả đạt được (Krueger Jr và cộng sự, 2000) Kỳ vọng xã hội liên quan đến áp lực từ bạn bè, gia đình và môi trường văn hóa, ảnh hưởng đến quyết định thực hiện hành vi như khởi nghiệp Nhận thức về kiểm soát hành vi, tương tự như khái niệm tự tin (self-efficacy) của Bandura (1986), thể hiện khả năng của cá nhân trong việc thực hiện hành vi cụ thể (Krueger Jr và cộng sự, 2000).

TPB có thể được đơn giản hóa trong một công thức toán học:

2.3.2.2 Mô hình sự kiện khởi nghiệp của Shapero và Sokol (EEM)

Mô hình này cho rằng quán tính ảnh hưởng đến hành vi con người cho đến khi có sự kiện "thay thế" xảy ra, giúp giải phóng các hành vi không mong muốn Một ví dụ điển hình là việc mất việc làm, có thể làm thay đổi nhận thức và khuyến khích mong muốn trở thành người tự làm chủ Shapero và Sokol (1982) phân loại các bước ngoặt trong cuộc sống thành ba loại: Ý định hành vi.

Thái độ đến hành vi

Cảm nhận kiểm soát hành vi

Sự thay đổi trong cuộc sống có thể được chia thành ba loại chính: Thứ nhất, những biến cố tiêu cực như sa thải, bị sỉ nhục, cảm xúc tức giận, buồn chán, bước vào tuổi trung niên hoặc trải qua ly hôn Thứ hai, giai đoạn giao thoa như tốt nghiệp trung học, đại học, hoàn thành nghĩa vụ quân sự hoặc mãn hạn tù/ân xá, đây là thời điểm quan trọng mà sinh viên thường thiếu định hướng nghề nghiệp rõ ràng sau khi ra trường, điều này tạo cơ hội cho các chương trình giáo dục tinh thần khởi nghiệp Cuối cùng, loại thứ ba là những tác động tích cực từ các đối tác, người cố vấn, nhà đầu tư hoặc khách hàng, giúp thúc đẩy sự phát triển cá nhân và nghề nghiệp.

Hành vi của cá nhân phụ thuộc vào niềm tin vào các lựa chọn và thiên hướng hành động Niềm tin này hình thành từ cảm nhận về mong muốn và tính khả thi của hành vi Tuy nhiên, chỉ niềm tin là không đủ; theo Shapero và Sokol (1982), cần có một sự kiện hội tụ để thay đổi cảm nhận và xu hướng hành động Khi sự kiện này kích hoạt quá trình nhận thức, cá nhân có thể hành động nếu độ tin cậy của hành vi cao hơn các lựa chọn khác và nếu họ có thiên hướng hành động đến hành vi đó.

Hình 2.2: Mô hình sự kiện khởi nghiệp Nguồn: Shapero và Sokol (1982)

Cảm nhận mong muốn gắn liền với các giá trị cá nhân, và điều này ảnh hưởng sâu sắc đến cách mà mỗi người nhận thức thế giới xung quanh Sự kết nối giữa mong muốn và giá trị không chỉ định hình hành vi mà còn ảnh hưởng đến quyết định và sự lựa chọn trong cuộc sống hàng ngày Khi giá trị thay đổi, cảm nhận về mong muốn cũng sẽ thay đổi, từ đó tác động đến cách mà cá nhân nhìn nhận và đánh giá các tình huống khác nhau.

Cảm nhận tính khả thi

Thiên hướng hành động và ý định khởi nghiệp được hình thành từ cảm nhận và mong muốn về những điều hấp dẫn Theo Shapero và Sokol (1982), các yếu tố như văn hóa, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, cố vấn và kinh nghiệm làm việc trước đây có ảnh hưởng lớn đến giá trị cá nhân và nhận thức về mong muốn Mong muốn được thừa nhận gắn liền với "kỳ vọng xã hội" trong lý thuyết hành vi dự định (Krueger Jr và cộng sự, 2000) Kinh nghiệm trong quá khứ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những gì được coi là mong muốn và không mong muốn.

Cảm nhận tính khả thi đề cập đến mức độ mà một cá nhân tin tưởng vào khả năng của mình để thực hiện một nhiệm vụ, chẳng hạn như khởi nghiệp Khái niệm này tương đồng với sự tự tin (self-efficacy) theo Bandura, và thường được sử dụng như một chỉ số để đo lường cảm nhận về khả năng thực hiện các mục tiêu (Krueger Jr và cộng sự, 2000).

Thiên hướng hành động (Propensity to act) là xu hướng cá nhân hành động theo quyết định của chính mình (Krueger, 1993) Shapero và Sokol (1982) đã đề xuất khái niệm “tâm điểm kiểm soát” như một thang đo cho thiên hướng hành động, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về thang đo nào là tốt nhất Một số tác giả khác xem thiên hướng hành động là "tư duy tích cực" (learned optimism) (Krueger Jr và cộng sự, 2000) hoặc là thiên hướng chấp nhận rủi ro và sự không chắc chắn (Kermit, 2008) Ba câu hỏi chính của mô hình sự kiện khởi nghiệp là: Ước muốn của bạn có đủ mạnh để thực hiện hành vi này không? Bạn có đang thực hiện những gì bạn thực sự muốn không? Bạn có tin tưởng vào khả năng của mình để thực hiện hành vi này không?

2.3.2.3 Mô hình thái độ về khởi nghiệp (EAO)

Robinson đã xây dựng mô hình thái độ về khởi nghiệp (Entreprenuerial Attitude Orientation – EAO) gồm 4 thang đo thành phần như sau:

Cảm nhận về sự tự trọng trong khởi nghiệp (Self-esteem_SE) có mối liên hệ chặt chẽ với nhận thức về năng lực cá nhân, ảnh hưởng đến quá trình khởi nghiệp của mỗi người (Robinson, Stimpson, Huefner và Hunt, 1991) Sự tự trọng không chỉ giúp nâng cao sự tự tin mà còn quyết định đến khả năng thành công trong các dự án khởi nghiệp.

Các thành phần của mô hình thái độ về khởi nghiệp

2.4.1 Tự trọng (Self_esteem_SE)

Từ "Self_Esteem" trong mô hình EAO khi dịch sang tiếng Việt mang nhiều nghĩa khác nhau Theo tâm lý học, "self-esteem" thể hiện cách chúng ta đánh giá năng lực và giá trị bản thân, cũng như cách chúng ta được nhận thức bởi người khác, thường được gọi là "sự tự trọng" Lịch sử lý thuyết đã đưa ra nhiều định nghĩa về sự tự trọng, trong đó Crandall (1973) định nghĩa nó là "mối liên hệ và tôn trọng bản thân mình dựa trên một số giá trị nhất định".

Niềm tin vào bản thân, được định nghĩa là mức độ thừa nhận hoặc không thừa nhận về năng lực, thành công, ý nghĩa và giá trị của chính mình (Coopersmith, 1981), có ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn của mỗi người Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng niềm tin này không chỉ liên quan đến việc đánh giá giá trị và khả năng cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhiệm vụ trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, bao gồm cả lựa chọn nghề nghiệp (Mariola Laguna, 2013).

Sự tự trọng đóng vai trò quan trọng trong quá trình khởi nghiệp, ảnh hưởng đến niềm tin cá nhân của mỗi người Niềm tin cá nhân thường được hiểu là thái độ tích cực hoặc tiêu cực về bản thân, điều này có thể tác động lớn đến quyết định và hành động của người khởi nghiệp.

Nghiên cứu cho thấy rằng những người có sự tự trọng cao thường quyết đoán trong hành động và kiên trì hơn, hoặc có thể quyết định từ bỏ (Baumeister, Campbell, Krueger, và Vohs, 2003) Nhiều nghiên cứu đã xác nhận tác động của tự trọng đối với quá trình khởi nghiệp và sự tăng trưởng trong lĩnh vực này (Jeffrey E McGee và cộng sự, 2009; Boyd và Vozikis, 1994; Chen và cộng sự, 1998; Baum và cộng sự, 2001; Markman và cộng sự, 2002; Krueger, 2003; Segal và cộng sự, 2005).

Sáng tạo được định nghĩa bởi Zaltman và cộng sự (1973) là "bất kỳ ý tưởng, hành động, hoặc loại vật chất nào được coi là mới được tiếp nhận bởi bộ phận liên quan", và là một quá trình phát sinh, nuôi dưỡng, thực hiện và kết hợp các ý tưởng mới trong tổ chức (Van de Ven và cộng sự, 1989) Nohria và Gulati (1996) mở rộng khái niệm này, cho rằng sự sáng tạo bao gồm các chính sách, cấu trúc, phương pháp, hoặc sản phẩm mới mà quản lý nhận thức được Damanpour và Gopalakrishnan (2001) cũng nhấn mạnh rằng sáng tạo là việc áp dụng ý tưởng hoặc hành vi mới liên quan đến sản phẩm, dịch vụ, thiết bị, hệ thống, chính sách hoặc chương trình trong tổ chức.

Trong những thập kỷ qua, nhiều học giả đã chỉ ra rằng tiền bạc, của cải, quyền lực, danh tiếng và thành tích là những động lực chính thúc đẩy khởi nghiệp Họ cho rằng bên cạnh việc gia tăng tài sản, con người còn khao khát thỏa mãn các nhu cầu khác như an toàn, đam mê, quyền lực, thách thức và hiện thực hóa khả năng của bản thân Điều này cho thấy rằng mỗi cá nhân đều mong muốn đạt được ít nhất một hoặc nhiều mục tiêu trong công việc của họ Các lý thuyết về động cơ thành tích của những người khởi nghiệp và nhà quản lý cũng nhấn mạnh sự xuất hiện của các nhu cầu cơ bản và bậc cao trong các hoạt động của con người.

Murray (1938, 1943) là một trong những nhà tiên phong trong nghiên cứu sáng tạo và thực nghiệm, được cộng đồng khoa học toàn cầu ngưỡng mộ Những nỗ lực của ông trong việc xây dựng lý thuyết về nhu cầu thành tích của các doanh nhân có ý nghĩa quan trọng Dựa trên lý thuyết này, Rahman và cộng sự (2011) đã chỉ ra rằng nhiều học giả và chuyên gia đã tiến hành nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng về nhu cầu thành tích và động cơ, như các nghiên cứu của Sagie và Elizur (1999), Ross và Rausch (2001), Tauer và Harackiewicz (1999), cũng như Wood và Vilkinas (2005).

Vào năm 1965, McClelland đã mở rộng khái niệm động cơ thành tích, đặc biệt tập trung vào tinh thần khởi nghiệp và xu hướng động lực của các doanh nhân, được gọi là "nhu cầu thành tích" (ký hiệu 'n Ach') Lý thuyết này thu hút sự quan tâm từ nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực xã hội và hành vi 'n-Ach' đã được phát triển thêm bởi McClelland và các tác giả khác, và cuối cùng được định nghĩa là "mong muốn làm tốt và đạt được cảm giác thành công nội tâm".

McClelland (1953) giải thích rằng con người sẵn sàng làm việc chăm chỉ và đối mặt với thử thách để đạt được thành công và nổi bật Mục tiêu của họ là theo đuổi thành tựu theo một tiêu chuẩn cao Từ đó, nhu cầu thành tích ảnh hưởng đến thái độ, hành vi và kỳ vọng xã hội trong mô hình của Ajzen Hơn nữa, nhu cầu này còn liên quan chặt chẽ đến nhận thức về ham muốn trong mô hình EEM của Shapero và Sokol.

2.4.4 Kiểm soát bản thân (Personal Control_PC)

Niềm tin kiểm soát bản thân, hay còn gọi là niềm tin kiểm soát (Locus of control), thể hiện mức độ mà cá nhân tin rằng họ có khả năng kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống của mình.

Kiểm soát bản thân, theo lý thuyết niềm tin kiểm soát (Locus of control - LoC) của Rotter (1966), là niềm tin của một cá nhân về khả năng kiểm soát tương lai của mình, ảnh hưởng đến quyết định và hành động trong cuộc sống hàng ngày Niềm tin này được chia thành hai loại: kiểm soát bên trong, nơi cá nhân tin rằng kết quả hành động phụ thuộc vào bản thân, và kiểm soát bên ngoài, nơi họ tin rằng số phận hay yếu tố bên ngoài quyết định cuộc sống của họ Nghiên cứu cho thấy rằng những người có định hướng kiểm soát bên trong thường có nhiều đặc điểm khởi nghiệp hơn, điều này đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu (Brockhaus, 1982; Cromie và O'Donoghue, 1991; Shaver và Scott, 1991; NiitKangas và cộng sự, 1994; Perry, 1990; Kaufman và Welsh, 1995).

Lý thuyết về giáo dục khởi nghiệp

2.5.1 Khái niệm về giáo dục khởi nghiệp

Các chương trình giáo dục khởi nghiệp đã tồn tại từ lâu và trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội (Katz, 2003; Kuratko, 2005) Kuratko cho rằng tinh thần khởi nghiệp có thể được giảng dạy, mặc dù một số người chỉ ra rằng điều này chỉ áp dụng cho một số ngành nghề và tình huống cụ thể (Kuratko, 2003) Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận rằng các lĩnh vực như y học, pháp luật và kỹ thuật đều có thể giảng dạy, và không có bác sĩ, luật sư hay kỹ sư nào đạt được thành công chỉ nhờ tài năng tự nhiên (Fayolle và cộng sự, 2008; Hindel, 2004; Fayolle, 2007).

Giáo dục khởi nghiệp được xem như một sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật, trong đó khoa học cung cấp những kiến thức cần thiết để thành lập doanh nghiệp mới, còn nghệ thuật liên quan đến khía cạnh sáng tạo của người khởi nghiệp Mặc dù nhiều khóa học khởi nghiệp tập trung vào khía cạnh khoa học, nhưng cũng cần nhận thức rằng giáo dục khởi nghiệp có thể kích thích khả năng sáng tạo và nhận thức của người khởi nghiệp, từ đó giúp họ phát triển tốt hơn trong môi trường kinh doanh.

Giáo dục khởi nghiệp được định nghĩa là tổng hợp tất cả các hoạt động nhằm phát triển tư duy khởi nghiệp, thái độ và kỹ năng cần thiết Nó bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như ý tưởng, khởi nghiệp, phát triển và sáng tạo (Fayolle, Gailly, và Lassas-Clerc, 2006b).

2.5.2 Tổng quan các nghiên cứu về giáo dục khởi nghiệp

Theo nghiên cứu của Tae Jun Bae và cộng sự (2014), nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng chỉ những cá nhân sở hữu khả năng và năng lực của những người khởi nghiệp tiềm năng mới có xu hướng khởi nghiệp Họ lập luận rằng kỹ năng giải quyết vấn đề và lãnh đạo trong khởi nghiệp có thể được học và giảng dạy thông qua các chương trình giáo dục và đào tạo (G Gorman, D Hanton và W King, 1997; M Z Solisvick).

P Westhead, L Kolvereid và H Matlay, 2012) Ngoài ra, việc giáo dục khởi nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường nhận thức và kỹ năng của một cá nhân để nuôi dưỡng và phát huy tinh thần khởi nghiệp (Hannon, 2005; Hannon, P.D.,

Nghiên cứu của Reynolds và các cộng sự (1999) chỉ ra rằng việc xây dựng các chương trình giáo dục và đào tạo khởi nghiệp phù hợp có thể tăng cường số lượng người trở thành doanh nhân Họ nhấn mạnh rằng chất lượng giáo dục càng cao sẽ dẫn đến mức độ hoạt động khởi nghiệp càng lớn.

Naimatullah Shah và Bahadur Ali (2013) đã chỉ ra rằng nhiều nghiên cứu trước đó (như của J Kennedy và cộng sự, 2003; Souitaris và cộng sự, 2007; Souitaris, V và cộng sự, 2006; E Izquierdo và M Buelens, 2008; A Coduras và cộng sự, 2008; A Ali và cộng sự, 2011) ủng hộ quan điểm rằng giáo dục tinh thần khởi nghiệp có thể ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp Hơn nữa, thái độ có mối liên hệ chặt chẽ với ý định và là yếu tố dự báo đáng tin cậy cho ý định khởi nghiệp trong tương lai Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu này đã áp dụng lý thuyết hành vi (Theory of Planned Behaviour) để đánh giá thái độ và hành vi của những người khởi nghiệp tiềm năng thông qua các chương trình giáo dục khởi nghiệp.

Trong nghiên cứu của Tae Jun Bae và cộng sự (2014), các loại hình giáo dục tinh thần khởi nghiệp được xác định là đa dạng và phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể trong thái độ Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các chương trình này không chỉ cần thiết cho từng giai đoạn mà còn phải được điều chỉnh theo đối tượng cụ thể, như đã được đề cập trong các công trình của Bridge, O'Neill và Cromie (1998), Gorman, Hanlon và King (1997), cũng như McMullan và Long (1987) Những nghiên cứu trước đó của Jamieson (1984) và Linan cũng đã góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc cá nhân hóa giáo dục khởi nghiệp.

Jamieson (1984) đã đề xuất ba hình thức giáo dục tinh thần khởi nghiệp: giáo dục nhận thức khởi nghiệp, chuẩn bị cho những người khởi nghiệp có khát khao, và đào tạo quản lý cho các nhà khởi nghiệp hiện hữu Linan (2004) đã mở rộng khái niệm này với bốn loại chương trình giáo dục tinh thần khởi nghiệp Đầu tiên là "Giáo dục nhận thức khởi nghiệp", nhằm nâng cao kiến thức và thái độ ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp Thứ hai, "Giáo dục cho khởi nghiệp", hướng đến những người đã có ý tưởng và cần giải quyết các câu hỏi thực tế để trở thành chủ doanh nghiệp Thứ ba, "Giáo dục cho những nhà khởi nghiệp năng động", tập trung vào những người đã khởi nghiệp và muốn thúc đẩy sự năng động sau giai đoạn khởi động.

"Giáo dục nâng cao dành cho Người khởi nghiệp" tập trung vào các chương trình học tập suốt đời, nhằm hỗ trợ những người khởi nghiệp có kinh nghiệm trong việc phát triển kỹ năng và kiến thức cần thiết để thành công (Linan, 2004).

Nghiên cứu hiện tại chỉ ra hai vấn đề chính: Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây thường chỉ so sánh sự khác biệt giữa những người tham gia và không tham gia chương trình đào tạo khởi nghiệp, hoặc chỉ tập trung vào việc xây dựng các chương trình mà không xem xét cấu trúc và đặc điểm của chúng, bao gồm thời lượng, phương pháp đào tạo và đặc điểm người tham gia Thứ hai, mô hình TPB và EEM được sử dụng phổ biến nhưng chưa đủ thuyết phục Rất ít nghiên cứu áp dụng mô hình EAO của Robinson để đánh giá tác động của giáo dục khởi nghiệp đến thái độ khởi nghiệp Do đó, nghiên cứu này sẽ làm rõ vai trò của các thuộc tính chương trình giáo dục khởi nghiệp đối với thái độ khởi nghiệp tại Việt Nam, từ đó cung cấp những gợi ý quan trọng cho các nhà quản lý trong việc xây dựng và tổ chức các chương trình giáo dục khởi nghiệp hiệu quả, góp phần thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong nước.

Lý thuyết về nguồn vốn khởi nghiệp

2.6.1 Các loại hình nguồn vốn khởi nghiệp

Theo quan điểm tài chính doanh nghiệp, nguồn vốn được chia thành hai loại chính: nguồn vốn bên trong và bên ngoài Nguồn vốn bên trong bao gồm tiết kiệm cá nhân và sự hỗ trợ từ gia đình, bạn bè Trong khi đó, nguồn vốn bên ngoài gồm các nguồn như ngân hàng, nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư Kovačić (2011) đã mở rộng phân loại này bằng cách phân biệt các hình thức nguồn vốn, bao gồm nguồn vốn tiết kiệm từ cá nhân và 3F (gia đình, bạn bè và người thân), vốn vay từ ngân hàng, và nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư thiên thần và đầu tư hạt giống.

2.6.1.1 Nguồn vốn vay Đây là một trong những nguồn tài chính chính thức lâu đời nhất đối với nhiều doanh nhân Hầu hết các công ty khởi nghiệp thường tìm cách tránh các khoản vay ngân hàng vì họ e ngại liên quan đến các thủ tục tín dụng phức tạp và chứng minh khả năng tài chính Vì các công ty khởi nghiệp thường được thành lập bởi những người trẻ tuổi, trong nhiều trường hợp không sở hữu tài sản, rất khó để vay ngân hàng Nghiên cứu của Åstebroa và Bernhardt (2003) cho thấy mối tương quan rất cao và tích cực giữa khoản vay ngân hàng và tính bền vững của công ty khởi nghiệp Tuy nhiên, trên thực tế có một mối tương quan ngược chiều giữa việc vay ngân hàng và các doanh nghiệp bền vững Lý do là một số lượng lớn các công ty khởi nghiệp đã nhận được một số hình thức đầu tư khác và đồng thời tồn tại thành công trên thị trường Một nghiên cứu của Brown, Degryse, Hoewer, Penas (2012) trên một bảng dữ liệu rất lớn (9.715 công ty khởi nghiệp trong giai đoạn 2007-2009) cho thấy các công ty khởi nghiệp công nghệ cao khó có thể sử dụng vốn vay ngân hàng và họ khó có được một khoản tiền hơn so các công ty khởi nghiệp trong các ngành công nghiệp khác

Trước khi tìm kiếm nguồn tài chính chính thức từ bên ngoài, các doanh nhân thường bắt đầu bằng việc huy động vốn từ bản thân hoặc từ bạn bè và gia đình Mặc dù tỷ lệ thất bại của các công ty khởi nghiệp trong ba năm đầu là rất cao, nhưng nhiều người vẫn coi đây là nguồn vốn khả thi nhất Điều này cho thấy doanh nhân có niềm tin mạnh mẽ vào ý tưởng của mình, và gia đình cùng bạn bè cũng sẵn lòng chấp nhận rủi ro để đầu tư vào dự án Tuy nhiên, việc đầu tư từ những người thân thiết cũng tiềm ẩn rủi ro, như những bất đồng có thể xảy ra nếu dự án không thành công.

Đầu tư hạt giống, hay còn gọi là đầu tư ban đầu, là hình thức hỗ trợ tài chính cho các công ty khởi nghiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển và mở rộng kinh doanh Các công ty này thường tìm kiếm đầu tư hạt giống từ các nhà đầu tư tư nhân, những người tin tưởng vào tiềm năng thành công của doanh nghiệp (Brezak Brkan, 2010) Nhà đầu tư thiên thần không chỉ cung cấp vốn mà còn chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, tạo ra giá trị thông qua "tài trợ thông minh" với các kỹ năng và mối quan hệ trong ngành Hợp đồng giữa nhà đầu tư và người khởi nghiệp thường quy định rõ giá trị và thời gian đầu tư cũng như chiến lược rút lui (Cvijanović, Marović và Sruk, 2008) Nghiên cứu của Sharpe và cộng sự (2009) cho thấy nhà đầu tư thiên thần đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các công ty khởi nghiệp công nghệ cao, nhờ vào sự hỗ trợ từ chính phủ thông qua các ưu đãi thuế Giurca Vasilescu (2009) nhấn mạnh rằng nhà đầu tư thiên thần là cầu nối thiết yếu giữa quỹ đầu tư và các công ty phát triển, góp phần đảm bảo sự sống còn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

2.6.2 Các nghiên cứu về nguồn vốn khởi nghiệp

Trong hệ thống tài liệu hiện có, nguồn vốn được phân chia thành hai luồng lý thuyết chính Một trong số đó là nghiên cứu của các nhà khoa học, tập trung vào việc phân loại các nguồn vốn trong khởi nghiệp, điển hình như nghiên cứu của Brezak Brkan.

Trường phái nghiên cứu về nguồn vốn khởi nghiệp đã phân loại các loại hình nguồn vốn thành ba nhóm chính: vốn tiết kiệm cá nhân, vốn vay từ ngân hàng, bạn bè, gia đình và nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm Các dự án khởi nghiệp thường huy động vốn từ những nguồn này Nghiên cứu của Klačmer Čalopa và cộng sự (2014) chỉ ra rằng quá trình đầu tư cho một dự án khởi nghiệp trải qua năm giai đoạn, trong khi Maurya (2012) xác định ba giai đoạn phát triển của doanh nghiệp, và Marmer, Hermann, Berman (2011) phát hiện ra sáu giai đoạn của một công ty khởi nghiệp Mỗi giai đoạn tương ứng với khả năng huy động các loại hình nguồn vốn khác nhau.

Trong nghiên cứu về nguồn vốn khởi nghiệp, các chuyên gia như Cvijanovie và Sruk (2008) cùng M Klačmer Čalopa và cộng sự (2014) đã chỉ ra rằng quá trình đầu tư cho dự án khởi nghiệp diễn ra qua 5 giai đoạn: thử nghiệm, khởi nghiệp, mở rộng, tái cấp vốn và bán một phần doanh nghiệp Ở giai đoạn đầu, nguồn vốn thường đến từ tiền tiết kiệm của các sáng lập viên, bạn bè và gia đình, sau đó là các nhà đầu tư thiên thần Khi doanh nghiệp mở rộng, vốn thường được huy động từ các quỹ mạo hiểm và quỹ cho vay, trong khi giai đoạn bán một phần doanh nghiệp thì vốn cổ phần cá nhân trở nên rất quan trọng.

Nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất các mô hình phát triển khác nhau cho doanh nghiệp khởi nghiệp Theo Maurya (2012), có ba giai đoạn phát triển, trong đó giai đoạn cuối “bài toán quy mô” là thời điểm lý tưởng để gây quỹ khi thị trường đã được kiểm chứng tiềm năng tăng trưởng Ngược lại, Marmer, Hermann và Berman (2011) xác định sáu giai đoạn mà mỗi giai đoạn đòi hỏi nguồn vốn khác nhau Škoić (2011) nhấn mạnh rằng một công ty sẽ không còn là doanh nghiệp khởi nghiệp khi bắt đầu có lợi nhuận ổn định và niêm yết công chúng.

Theo Giurca Vasilescu (2009) và M Klačmer Čalopa (2014), có sự bất đối xứng kỳ vọng giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp khởi nghiệp, khi nhà đầu tư tập trung vào việc giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận, trong khi người khởi nghiệp lại tin tưởng vào tính khả thi và phát triển bền vững của dự án mà không ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn Điều này tạo ra khó khăn trong việc huy động vốn, đặc biệt là trong giai đoạn đầu khởi nghiệp, khi các quỹ đầu tư mạo hiểm và ngân hàng thường từ chối tham gia do đánh giá rủi ro quá cao và lợi nhuận thấp Các quỹ mạo hiểm thường ưu tiên doanh nghiệp đã trưởng thành, trong khi số lượng nhà đầu tư thiên thần giảm, họ chỉ tài trợ cho các ý tưởng sáng tạo với tiềm năng tăng trưởng cao Theo nghiên cứu của Marmer, M và cộng sự (2011), hơn 90% công ty khởi nghiệp thất bại, với chỉ 1 trong 12 công ty sống sót và thành công trong việc đưa sản phẩm ra thị trường Điều này làm tăng mối lo ngại về quyết tâm khởi nghiệp của giới trẻ Người khởi nghiệp thường mất cơ hội huy động vốn do ba nguyên nhân chính: thiếu kiến thức tài chính, sợ mất quyền kiểm soát và thiếu khả năng thuyết phục nhà đầu tư.

Hình 2.4: Quá trình phát triển của các dự án khởi nghiệp

Mô hình của Vasilescu chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa mức đầu tư và mức rủi ro theo đánh giá của nhà đầu tư, phản ánh những khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tài chính cho các dự án khởi nghiệp Đồng thời, mô hình cũng làm rõ các nguồn lực tài chính mà các doanh nhân có thể tiếp cận trong từng giai đoạn phát triển của dự án.

Cơ sở hình thành các giả thuyết nghiên cứu

2.7.1 Mối quan hệ giữa sự tự trọng (SE) và EI

Jeffrey E McGee (2009) cho rằng tính tự trọng của cá nhân trong khởi nghiệp được hình thành qua phương pháp tiếp cận nhận thức xã hội, với sự tương tác giữa cá nhân và môi trường, qua đó giải thích các quá trình nhận thức, cảm xúc và động cơ liên quan đến quyết định tham gia khởi nghiệp Ngoài ra, Mitchell và cộng sự (2002) nhấn mạnh rằng tiến trình này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường và thị trường Krueger và cộng sự (2000) chỉ ra rằng tự trọng là yếu tố tiên đoán tốt cho ý định khởi nghiệp, trong khi Markman và cộng sự (2002) khẳng định rằng tự trọng đóng vai trò quyết định cho sự tăng trưởng trong lĩnh vực này.

Tiết kiệm, mượn gia đình,

Nhà đầu tư thiên thần

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Hợp tác phi tài chính

Mức đầu tư doanh mới và thành công cá nhân là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu khởi nghiệp Shane và cộng sự (2003) đã trích dẫn nghiên cứu của Baum (1994), nhấn mạnh rằng tự trọng là yếu tố tiên đoán tốt nhất cho các kết quả khởi nghiệp trong ngành chế tạo gỗ kiến trúc Gần đây, Byrant (2007) đã khám phá vai trò của tự trọng trong việc áp dụng các phương pháp giải quyết vấn đề của các nhà khởi nghiệp, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa tự trọng và khả năng thành công trong khởi nghiệp.

Nghiên cứu năm 2008 đã chỉ ra vai trò quan trọng của tự trọng trong mối quan hệ với sự hài lòng của người khởi nghiệp Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng thuận rằng tự trọng là yếu tố tích cực mà người khởi nghiệp cần có Shane và cộng sự (2003) cho rằng những người khởi nghiệp có tự trọng cao sẽ nỗ lực hơn trong thời gian dài, vượt qua khó khăn và phát triển kế hoạch, chiến lược tốt hơn cho công việc của họ Hơn nữa, lòng tự trọng còn có mối liên hệ chặt chẽ với việc hình thành ý định khởi nghiệp (Krueger và cộng sự).

Tự trọng đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu về tinh thần khởi nghiệp, như được chỉ ra bởi Boyd và Vozikis (1994) Hiểu đúng về tự trọng giúp đánh giá niềm tin của cá nhân về mối quan hệ giữa năng lực bản thân và môi trường bên ngoài Điều này liên quan đến khả năng hành động và ý định hành động, đồng thời thúc đẩy sự thành công cá nhân của các người khởi nghiệp (Markman và cộng sự, 2002) Các nhà khoa học đồng thuận rằng tự trọng là yếu tố thiết yếu trong khoa học hành vi, đặc biệt trong lĩnh vực khởi nghiệp.

Giả thuyết H1: Tự trọng (H1.1 cảm xúc tự trọng; H1.2 nhận thức sự tự trọng; H1.3 Ý chí tự trọng) tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp

2.7.2 Mối quan hệ giữa sự sáng tạo (INN) và EI

Sáng tạo có mối liên hệ chặt chẽ với tinh thần khởi nghiệp, được Schumpeter nhấn mạnh vào năm 1934 khi ông coi các doanh nhân là những tác nhân của sự đổi mới Nhiều nghiên cứu, như của Hsueh và Tu (2004) cũng như Freel và Robson (2004), đã chỉ ra rằng sự sáng tạo thường gắn liền với các doanh nghiệp mới và nhỏ Do đó, sáng tạo được định nghĩa là "mức độ mà một cá nhân sớm áp dụng những ý tưởng mới" (Rogers, 1995).

Nghiên cứu của Stern (2004) cho thấy rằng những người khởi nghiệp sở hữu năng lực trí tuệ vượt trội hơn so với những người không khởi nghiệp trong khả năng tư duy sáng tạo và nhận thức cơ hội Baron (2004) cũng nhấn mạnh rằng các doanh nhân thường thành thạo hơn trong việc xác định mục tiêu và mô hình Hơn nữa, Ames và Runco (2005) chỉ ra rằng những người khởi nghiệp có khả năng tạo ra nhiều ý tưởng độc đáo và khác thường.

Bowen và cộng sự (2010) nhấn mạnh rằng người khởi nghiệp thường kết hợp các khái niệm, lý luận tương tự và xây dựng vấn đề để phát triển ý tưởng mới Sự sáng tạo được xem là yếu tố kích thích quan trọng cho quá trình khởi nghiệp (Hills và cộng sự).

Năng lực sáng tạo mạnh mẽ thúc đẩy cá nhân trở thành những người làm chủ và ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp của họ Trí thông minh sáng tạo, hay khả năng suy nghĩ "out of the box", đóng vai trò quan trọng trong quá trình này Nghiên cứu của Hmieleski và Corbett cho thấy sự ngẫu hứng, một yếu tố liên quan đến sáng tạo, tạo ra sự khác biệt lớn trong ý định khởi nghiệp Hamidi và cộng sự cung cấp thêm bằng chứng rằng năng lực sáng tạo cao có tác động tích cực mạnh mẽ đến ý định khởi nghiệp, đồng thời đề xuất cần tích hợp sự sáng tạo cá nhân vào các mô hình ý định khởi nghiệp.

Giả thuyết H2: Sáng tạo (H2.1 Cảm xúc sáng tạo; H2.2 Nhận thức về sáng tạo; H2.3 Ý chí sáng tạo) tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp

2.7.3 Mối quan hệ giữa kiểm soát bản thân (PC) và EI

Rotter đã đóng góp quan trọng cho nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp thông qua việc giới thiệu mô hình LoC Lý thuyết này đã được áp dụng rộng rãi để đo lường niềm tin kiểm soát của các doanh nhân và quản lý khởi nghiệp, như được chỉ ra bởi Caird (1988).

Nghiên cứu của Nelson (1991) cho thấy các nữ doanh nhân có niềm tin kiểm soát bên trong mạnh mẽ hơn so với phụ nữ nói chung Bonnett và Fumham (1991) phát hiện sự khác biệt rõ rệt trong niềm tin kiểm soát giữa sinh viên khởi nghiệp và nhóm đối chứng Littunen và Hyrsky (2000) chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể về niềm tin kiểm soát giữa các gia đình làm chủ doanh nghiệp và không, mặc dù vẫn có mối tương quan giữa các khía cạnh của niềm tin kiểm soát và áp lực khởi nghiệp Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định rằng cá nhân khởi nghiệp thường có mức kiểm soát bên trong cao hơn (Jennings và Zeithaml).

Nghiên cứu của Andrisan và Nestel (1976) cho thấy kiểm soát bên trong có liên quan đến thành công trong sự nghiệp khởi nghiệp Jennings và Zeithaml (1983) chỉ ra rằng kiểm soát bên trong thường được coi là thông minh và quyết đoán, trong khi kiểm soát bên ngoài lại bị xem là không cân bằng và dễ dẫn đến thất bại Họ cũng nhấn mạnh rằng loại niềm tin kiểm soát phù hợp với một cá nhân khởi nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố bên trong và bên ngoài Schjoedt (2008) lưu ý rằng các báo cáo trước đó về niềm tin kiểm soát trong nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp thường không nhất quán và mâu thuẫn.

Giả thuyết H3 cho rằng kiểm soát bản thân, bao gồm cảm xúc, nhận thức về khả năng và ý chí, có ảnh hưởng tích cực đến ý định khởi nghiệp Việc quản lý cảm xúc giúp cá nhân duy trì động lực và sự kiên trì trong quá trình khởi nghiệp Nhận thức về khả năng kiểm soát bản thân tạo ra sự tự tin và quyết tâm, trong khi ý chí mạnh mẽ giúp vượt qua khó khăn và thách thức Tất cả những yếu tố này kết hợp lại thúc đẩy ý định khởi nghiệp một cách hiệu quả.

2.7.4 Mối quan hệ giữa thành tích (Ach) và EI

Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi khởi nghiệp, theo nghiên cứu của Lee và Chen (2012), những người có động lực thành tích cao thường có xu hướng theo đuổi ước muốn khởi nghiệp của riêng mình Jayeoba, Sholest và Lawal (2013) đã sử dụng phương pháp phân tích nhân tố để xác định mối liên hệ giữa động lực thành tích và khả năng khởi nghiệp, và nghiên cứu của họ cũng xác nhận rằng có một mối tương quan tích cực giữa động lực thành tích và tinh thần khởi nghiệp, như đã được chỉ ra trong nghiên cứu của Ahmed (1985).

Giả thuyết H4: Thành tích (H4.1 Cảm xúc về thành tích; H4.2 nhận thức về thành tích; H4.3 Ý chí thành tích) tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp

Bốn thành phần của mô hình EAO có mối quan hệ khác nhau với ý định khởi nghiệp Việc nghiên cứu mối quan hệ tổng thể giữa chúng trong cùng một thang đo đến ý định khởi nghiệp hiện vẫn còn hạn chế và cần được chú trọng hơn.

2.7.5 Mối quan hệ giữa giáo dục với thái độ và ý định khởi nghiệp

Nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục khởi nghiệp đã chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa giáo dục khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp của sinh viên Các nghiên cứu của Kuttim et al (2014) và Kim-Soon et al (2016) xác nhận rằng việc tham gia vào giáo dục khởi nghiệp thúc đẩy ý định khởi nghiệp trong giới sinh viên.

Mô hình nghiên cứu đề xuất

Dựa trên các lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu đã được đề xuất, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu chính thức cho luận án Mặc dù mô hình thái độ về khởi nghiệp đã được kiểm định ở nhiều quốc gia, nhưng tại Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào xác thực mô hình này Hơn nữa, vai trò của các yếu tố giáo dục và sự tác động điều tiết của nguồn vốn là những khía cạnh hoàn toàn mới mẻ trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại.

Dựa trên lý thuyết nền thái độ về khởi nghiệp của P Robinson và cộng sự

Bài viết đề xuất một mô hình nghiên cứu dựa trên ý tưởng của Linan và Chen (2009), nhằm khám phá mối quan hệ giữa bốn khái niệm thành phần của thái độ khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp Đồng thời, nghiên cứu cũng xem xét vai trò điều tiết của các khái niệm nguồn vốn cùng tác động của các đặc tính giáo dục đối với mối quan hệ này.

Mô hình nghiên cứu chính thức bao gồm mười hai biến độc lập, trong đó có ba biến chính là: (1) SE_AFF, đại diện cho cảm xúc tự trọng; (2) SE_COG, thể hiện nhận thức tự trọng; và (3) SE_BEH, biểu trưng cho ý chí tự trọng.

Cảm xúc sáng tạo (INN_AFF), nhận thức về sáng tạo (INN_COG) và ý chí sáng tạo (INN_BEH) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành ý định khởi nghiệp Bên cạnh đó, cảm xúc kiểm soát bản thân (PC_AFF), nhận thức khả năng kiểm soát bản thân (PC_COG) và ý chí kiểm soát bản thân (PC_BEH) cũng ảnh hưởng đến động lực khởi nghiệp Thêm vào đó, cảm xúc về thành tích (ACH_AFF), nhận thức về thành tích (ACH_COG) và ý chí thành tích (ACH_BEH) là những yếu tố không thể thiếu Các biến điều tiết như nguồn vốn và biến tác động như phương pháp đào tạo, thời lượng đào tạo và trình độ học vấn cũng có tác động đáng kể đến ý định khởi nghiệp.

Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu đề xuất Ý chí

KS BẢN THÂN (PC) Ý chí

GIÁO DỤC 1.Phương pháp đào tạo: H5 2.Thời lượng đào tạo: H6 3.Trình độ học vấn: H7 Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP (EI)

Tác động trực tiếp Tác động điều tiết Kiểm soát

Các giả thuyết nghiên cứu:

Giả thuyết H1: Tự trọng (H1.1 cảm xúc tự trọng; H1.2 nhận thức sự tự trọng; H1.3 Ý chí tự trọng) tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp

Giả thuyết H2: Sáng tạo (H2.1 Cảm xúc sáng tạo; H2.2 Nhận thức về sáng tạo; H2.3 Ý chí sáng tạo) tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp

Giả thuyết H3 cho rằng kiểm soát bản thân, bao gồm cảm xúc, nhận thức và ý chí, có ảnh hưởng tích cực đến ý định khởi nghiệp Cảm xúc kiểm soát bản thân giúp người khởi nghiệp duy trì động lực, trong khi nhận thức kiểm soát bản thân tạo ra sự tự tin và khả năng ra quyết định Cuối cùng, ý chí kiểm soát bản thân đóng vai trò quan trọng trong việc vượt qua khó khăn và đạt được mục tiêu khởi nghiệp.

Giả thuyết H4: Thành tích (H4.1 Cảm xúc về thành tích, H4.2 nhận thức về thành tích; H4.3 Ý chí thành tích) tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp

Giả thuyết H5 đề xuất rằng các phương pháp đào tạo khác nhau ảnh hưởng đến thái độ khởi nghiệp, cụ thể là tự trọng (H5.1), sáng tạo (H5.2), kiểm soát bản thân (H5.3), và thành tích (H5.4), cũng như ý định khởi nghiệp (H5.5).

Giả thuyết H6 cho rằng thời lượng đào tạo có ảnh hưởng khác nhau đến các yếu tố thái độ về khởi nghiệp, bao gồm tự trọng, sáng tạo, kiểm soát bản thân, thành tích và ý định khởi nghiệp.

Giả thuyết H7 cho rằng trình độ học vấn của người học ảnh hưởng đến thái độ về khởi nghiệp, cụ thể là tự trọng (H7.1), sáng tạo (H7.2), kiểm soát bản thân (H7.3), thành tích (H7.4) và định hướng khởi nghiệp (H7.5).

Giả thuyết H8 cho rằng nguồn vốn có vai trò điều tiết trong mối quan hệ giữa các yếu tố thái độ về khởi nghiệp, bao gồm tự trọng, sáng tạo, kiểm soát bản thân và thành tích, với ý định khởi nghiệp.

Tóm tắt chương 2

Trong chương 2, tác giả tổng hợp cơ sở lý thuyết về ý định khởi nghiệp, các mô hình dự báo và yếu tố ảnh hưởng từ các nghiên cứu trước đây Chương này cũng khám phá những khoảng trống lý thuyết trong nghiên cứu ý định khởi nghiệp qua phương pháp tiếp cận thái độ Cuối cùng, tác giả biện luận về việc hình thành các giả thuyết nghiên cứu và đề xuất mô hình nghiên cứu chính thức.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 15/07/2022, 04:31

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.1: Mô hình lý thuyết hành vi dự định (nguồn: Ajzen, 1991)  Thái độ đối với hành vi tương đương với khái niệm thái độ trong TRA và đề  cập đến mức độ mà một người suy nghĩ tích cực về việc thực hiện một hành vi nào - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 2.1 Mô hình lý thuyết hành vi dự định (nguồn: Ajzen, 1991) Thái độ đối với hành vi tương đương với khái niệm thái độ trong TRA và đề cập đến mức độ mà một người suy nghĩ tích cực về việc thực hiện một hành vi nào (Trang 38)
Hình 2.2: Mô hình sự kiện khởi nghiệp  Nguồn: Shapero và Sokol (1982) - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 2.2 Mô hình sự kiện khởi nghiệp Nguồn: Shapero và Sokol (1982) (Trang 39)
Hình 2.3: Mô hình thái độ về khởi nghiệp - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 2.3 Mô hình thái độ về khởi nghiệp (Trang 41)
Hình 2.4: Quá trình phát triển của các dự án khởi nghiệp - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 2.4 Quá trình phát triển của các dự án khởi nghiệp (Trang 53)
Hình 2.5 : Mô hình nghiên cứu đề xuất - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 2.5 Mô hình nghiên cứu đề xuất (Trang 66)
Hình 3.1 : Qui trình nghiên cứu - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 3.1 Qui trình nghiên cứu (Trang 69)
Bảng 3.6: Độ tin cậy thang đo sơ bộ cảm xúc tự trọng - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 3.6 Độ tin cậy thang đo sơ bộ cảm xúc tự trọng (Trang 80)
Bảng 3.11: Độ tin cậy thang đo sơ bộ nhận thức về kiểm soát bản thân - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 3.11 Độ tin cậy thang đo sơ bộ nhận thức về kiểm soát bản thân (Trang 83)
Bảng 4.3: Thống kê theo vị trí địa lý - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 4.3 Thống kê theo vị trí địa lý (Trang 94)
Bảng 4.2: Thống kê mô tả theo độ tuổi - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 4.2 Thống kê mô tả theo độ tuổi (Trang 94)
Bảng 4.4: Thống kê theo trình độ học vấn - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 4.4 Thống kê theo trình độ học vấn (Trang 95)
Bảng 4.19: Kết quả phân tích EFA - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 4.19 Kết quả phân tích EFA (Trang 105)
Hình 4.3: Mô hình nghiên cứu điều chỉnh - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Hình 4.3 Mô hình nghiên cứu điều chỉnh (Trang 109)
Bảng 4.20: Bảng trọng số hồi qui mô hình nghiên cứu - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 4.20 Bảng trọng số hồi qui mô hình nghiên cứu (Trang 112)
Bảng 4.21: So sánh ANOVA phương pháp giảng dạy - (LUẬN văn THẠC sĩ) tiếp cận ý định khởi nghiệp bằng mô hình thái độ khởi nghiệp và vai trò điều tiết của nguồn vốn nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam
Bảng 4.21 So sánh ANOVA phương pháp giảng dạy (Trang 115)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w