1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)

78 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Thành Phần Hóa Học Và Hoạt Tính Sinh Học Của Cây Quần Đầu Khỉ (Polyalthia Simiarum)
Tác giả Đoàn Thị Hương
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Minh Hằng
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Hóa hữu cơ
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 78
Dung lượng 3,89 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Giới thiệu sơ lược về họ Na (Annonaceae) (0)
    • 1.1.1. Thực vật học của họ Na (10)
    • 1.1.2. Một số nghiên cứu về họ Na (10)
  • 1.2. Giới thiệu về chi Quần đầu (Polyalthia) (17)
    • 1.2.1. Thực vật hoc (17)
    • 1.2.2. Các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học (17)
  • 1.3. Cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum Benth. & Hook. f.) (29)
    • 1.3.1. Thực vật học (29)
    • 1.3.2. Các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học (29)
  • CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23 2.1. Mẫu thực vật (30)
    • 2.2. Phương pháp xử lý và chiết mẫu (30)
    • 2.3. Phương pháp phân tích, phân tách các hỗn hợp và phân lập các hợp chất từ mẫu thực vật………………………………………………………………… 23 2.4. Các phương pháp xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được từ các mẫu thực vật nghiên cứu (30)
    • 2.5. Phương pháp thử hoạt tính sinh học (31)
      • 2.5.1. Phương pháp thử hoạt tính gây độc tế bào (31)
      • 2.5.2. Phương pháp thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định (31)
  • CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM 25 3.1. Tách chiết, phân lập các chất từ lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) (32)
    • 3.1.1. Xử lý mẫu thực vật và chiết xuất (32)
    • 3.1.2. Phân lập chất từ các cặn chiết của lá cây Quần đầu khỉ (33)
    • 3.1.3. Dữ kiện phổ và hằng số vật lý của các hợp chất đã phân lập (36)
    • 3.2. Tách chiết, phân lập các chất từ vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) (37)
      • 3.2.1. Xử lý mẫu thực vật và chiết tách (37)
      • 3.2.2. Dữ kiện phổ và hằng số vật lý của các hợp chất đã phân lập (38)
    • 3.3. Hoạt tính gây độc tế bào và hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định của các chất được phân lập (38)
      • 3.3.1. Đánh giá hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định (38)
      • 3.3.2. Thử hoạt tính gây độc tế bào (39)
      • 4.1.1. Rutin (POS2) (41)
      • 4.1.2. Kaempferol-3-O-rutisoside (POS1) (0)
      • 4.1.3. Indole-3-aldehyde (QDK1) (0)
    • 4.2. Các hợp chất được phân lập từ vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) (0)
      • 4.2.1. Ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid (SP1) (50)
      • 4.2.2. β-Sitosterol (POS5) (51)
      • 4.2.3. β-Sitosterol glucoside (POS6) (53)
    • 4.3. Hoạt tính sinh học của các hợp chất được phân lập (0)
      • 4.3.1. Hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất được phân lập (54)
      • 4.3.2. Hoạt tính sinh học của các hợp chất được phân lập (0)

Nội dung

Giới thiệu sơ lược về họ Na (Annonaceae)

Thực vật học của họ Na

Họ Na (Annonaceae), hay còn gọi là họ Mãng cầu, là họ thực vật lớn nhất trong bộ Mộc lan (Magnoliales) với khoảng 120-130 chi và từ 2.300 đến 2.500 loài, chủ yếu phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Khoảng 900 loài có mặt tại Trung và Nam Mỹ, 450 loài ở châu Phi và một số khác ở châu Á Các loài trong họ này thường là cây thân gỗ, cây bụi hoặc dây leo, nhiều loài được sử dụng trong y học cổ truyền tại Đông Nam Á Một số loài như Polythia longifolia var pendula được trồng làm cây cảnh, trong khi các cây thân gỗ khác thường được dùng làm củi Các loài thuộc chi Annona, như na và mãng cầu xiêm, có quả lớn và ăn được, trong khi Cananga odorata (hoàng lan) được sử dụng để chiết xuất tinh dầu cho sản xuất nước hoa Ngoài ra, vỏ cây, lá và rễ của một số loài trong họ Na còn được sử dụng trong y học dân gian để điều trị nhiều loại bệnh như nhiễm trùng, ho, và tiêu chảy Nghiên cứu dược lý đã chỉ ra rằng một số thành phần hóa học từ lá và vỏ cây có khả năng kháng nấm, kháng khuẩn và tiềm năng trong hóa học trị liệu.

Hầu hết các dạng sống chủ yếu trong họ Na bao gồm cây bụi và cây gỗ nhỏ, ngoại trừ các cây thân cỏ cùng các dạng sống phụ sinh hay ký sinh Nhiều loài thuộc chi Polyathia và các chi khác lại phát triển thành những cây gỗ lớn.

Cây họ Na có những đặc điểm chung như sau: Lá của tất cả các loài đều không có lá kèm, mọc cách, đơn, nguyên, với mép lá nguyên và gân lông chim Hoa thường lưỡng tính, mọc đơn độc hoặc thành cụm ở nách lá, đỉnh cành hoặc trên thân già không lá Đặc điểm này giúp phân biệt các chi trong họ Na Nhị của họ Na có hai kiểu chính: “kiểu Uvarioid” với trung đới dày và dài, và “kiểu Miliusoid” với trung đới mỏng và hẹp Phần lớn các loài có bộ nhụy gồm các lá noãn rời, mỗi lá noãn được chia thành bầu, vòi nhụy và núm nhụy.

Một số nghiên cứu về họ Na

Các loài thực vật họ Na đang thu hút sự chú ý của các nhà khoa học nhờ vào thành phần hóa học phong phú, với nhiều nghiên cứu tập trung vào việc tìm kiếm các chất có khả năng chống ung thư, chống ôxi hóa và chống HIV Sự đa dạng này bao gồm các hợp chất alkaloit, non-alkaloit và acetogenin, nhiều trong số đó đang được đánh giá lâm sàng để điều trị các bệnh như Parkinson, bệnh tim mạch và nhiễm vi rút Đặc biệt, sự hiện diện của acetogenins trong Annonaceae đã mở ra cơ hội phát hiện các chất chống ung thư mới, cho thấy tiềm năng lớn của họ Na trong nghiên cứu và phát triển thuốc trong tương lai.

Nghiên cứu trước đây về họ Na đã mang lại những kết quả giá trị, mở ra nhiều hướng nghiên cứu sâu hơn Một trong những hướng nghiên cứu quan trọng là khám phá các hợp chất alkaloit dạng isoquinoline có khả năng kháng khuẩn và tác dụng kháng viêm.

Đã có 150 chất isoquinoline alkaloit được phân lập và nghiên cứu tác dụng sinh học từ các chi khác nhau thuộc họ Na, bao gồm các hợp chất nổi bật như salsolinol, benzyltetrahydroisoquinoline, bisbenzylisoquinoline, protoberberine và aporphine.

Salsolinol (1) và corydaldine (2) là hai hợp chất isoquinoline đầy triển vọng, được phân lập từ Annona recticulata và Enantia polycarpa Salsolinol (1) ảnh hưởng đáng kể đến sự cân bằng giữa dopamine và acetylcholine bằng cách làm suy yếu cả hệ thống cholinergic và dopaminergic Sự mất cân bằng này có thể là một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh Parkinson Nghiên cứu cho thấy salsolinol không chỉ ức chế các enzym liên quan đến tổng hợp và chuyển hóa dopamine mà còn làm giảm hoạt tính của acetylcholinesterase, dẫn đến sự rối loạn trong cân bằng giữa dopamine và acetylcholine, góp phần vào sự phát triển của bệnh Parkinson.

Benzyltetrahydroisoquinoline chủ yếu được chiết xuất từ các loài thuộc chi Annona và Xylopia, trong đó reticuline là một hợp chất đáng chú ý Nghiên cứu cho thấy reticuline có khả năng làm giảm nhịp tim và huyết áp ở chuột, đồng thời ức chế các cơn co thắt do phenylephrine và KCl gây ra, cũng như đối kháng với co thắt do Ca2+ Reticuline ức chế cơ trơn loại L thông qua cơ chế Ca2+ Những thí nghiệm trên chuột và các nghiên cứu ban đầu cho thấy reticuline có tiềm năng ứng dụng trong phát triển các loại thuốc mới với tính năng bảo vệ tim mạch.

Nhiều nghiên cứu dược lý đã chỉ ra rằng bisbenzylisoquinoline, một hợp chất có nguồn gốc từ isoquinoline, chứa các thành phần hoạt tính sinh học quan trọng, chủ yếu được tìm thấy trong các chi như Crematosperma, Guatteria, Isolona, Phaeanthus, Popowia và Uvaria Hợp chất này có tác dụng đối kháng với Ca2+ trên cơ trơn mạch máu, tế bào nội mô mạch máu và tuyến thượng thận, đồng thời cho thấy khả năng tự hủy, chống oxy hóa và chống viêm Đặc biệt, khả năng chống plasmodial của bisbenzylisoquinoline là một trong những đặc tính quý giá nhất Ngoài ra, tetrahydrobenzylisoquinoline, với cấu trúc bão hòa hoàn toàn tương đương, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất bán tổng hợp sinh hóa.

Protoberberine và aporphine là các dẫn xuất đơn giản nhất của bisbenzylisoquinoline và tetrahydrobenzylisoquinoline Chúng có cấu trúc cơ bản giống nhau và đã được chứng minh có nhiều tính chất dược lý, bao gồm khả năng chống vi khuẩn, chống virus và hoạt động gây độc tế bào Đặc biệt, palmatine và berberine có khả năng ức chế hoạt động enzym sao chép ngược trong ống nghiệm.

Palmatine, berberine, jatrorrhizine, và dihydroberberine có khả năng ức chế sự phát triển của bệnh Babesia gisboni với liều lượng từ 1 đến 100 mg/ml trong môi trường ống nghiệm Ngoài ra, protoberberine cũng cho thấy hiệu quả ức chế sự tăng trưởng của 38 dòng tế bào ung thư ở người.

Aporphine (7) có cấu trúc tương tự như protoberberine và được phân lập từ nhiều chi khác nhau trong họ Na Một trong những hợp chất nổi bật là anonaine (8), được tìm thấy nhiều nhất trong họ Na Các hợp chất như 7-hydroxydehydrothalicsimidine, thalisimidine, norpurpureine, lirinidine, và N-methylasimilobine, được chiết xuất từ lá của Annona purpurea, cho thấy khả năng ức chế đáng kể axit arachidonic, collagen, và yếu tố kích hoạt tiểu cầu gây ra kết tập tiểu cầu Đặc biệt, aporphine, đặc biệt là các hợp chất chứa nhóm 1,2-methylenedioxy, tỏ ra có hiệu lực cao trong việc chống lại các dòng tế bào ung thư.

Anonaine (8) Các flavonoit ở họ Na có hoạt tính chống oxi hóa rất đáng quan tâm Hơn

Trong họ Na, đã có 70 chất flavonoit được phân lập, trong đó taxifolin (dihydroquercetin) là một trong những chất phổ biến nhất Ngoài taxifolin, còn có các flavonoit khác như apigenin-7-O-apiosyl (1→2) glucoside và quercetin.

Taxifolin, một hợp chất phổ biến trong các loài Angiosperms, nổi bật với vai trò là chất chống oxy hóa mạnh mẽ và có tác dụng chống đái tháo đường, chống khối u, cũng như tác nhân chống viêm Chất này không chỉ bảo vệ hiệu quả trước các yếu tố môi trường gây ra bệnh xơ cứng động mạch, tim, gan và phổi, mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe tim mạch, da, chức năng nhận thức và tình trạng viêm, đặc biệt là cho bệnh nhân tiểu đường.

Taxifolin và Apigenin-7-O-apiosyl (1→2) glucoside là hai flavonol quan trọng được chiết xuất từ cây Artabotrys hexapetalus Những flavonoit này có khả năng loại bỏ các dạng oxy hoạt động trong cơ thể, đồng thời cho thấy hiệu quả bảo vệ gan trong các thử nghiệm in vitro.

Quercetin là một flavonol phổ biến có mặt trong nhiều loại trái cây, rau, lá và ngũ cốc, thường được sử dụng trong các sản phẩm bổ sung và thực phẩm Trong họ Na, quercetin được tìm thấy trong lá của Annona senegalensis và đã chứng minh hoạt tính kháng viêm mạnh mẽ bằng cách ức chế sản xuất và giải phóng histamin cùng các quá trình viêm khác Ngoài ra, quercetin còn có tác dụng chống oxy hóa và chống khối u, giúp ngăn ngừa các bệnh như ung thư, viêm tuyến tiền liệt, bệnh tim, đục thủy tinh thể, cũng như các vấn đề hô hấp như viêm phế quản và hen suyễn Nó cũng có đặc tính chống trầm cảm và quercetin 3-rhamnoside có khả năng ức chế virus cúm A bằng cách giảm tổng hợp mRNA Các flavonoid trong họ Na đang được nghiên cứu sâu hơn để khám phá khả năng chống lại các gốc tự do.

Các acetogenin thuộc họ Na có khả năng chống ung thư, chống oxi hóa và chống HIV hiệu quả ngay cả ở nồng độ thấp, giúp giảm thiểu tác dụng phụ Đây là đặc điểm nổi bật của các loài thực vật trong họ Na, với hơn nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng của chúng trong y học.

400 chất acetogenin đã được phân lập từ các loài họ Na, thuộc nhóm chất chuyển hóa thứ cấp với nhiều hoạt tính nổi bật như chống ung thư, gây độc tế bào, diệt ký sinh trùng, diệt côn trùng và ức chế miễn dịch Những chất này được coi là nguồn tiềm năng cho việc phát triển thuốc, ví dụ như các hợp chất acetogenin.

Giới thiệu về chi Quần đầu (Polyalthia)

Thực vật hoc

Chi Polyalthia được gọi là chi Quần đầu hay chi Nhọc thuộc họ Na

(Annonaceae) Vị trí của chi này trong hệ thống phân loại thực vật được tóm tắt như sau [2,1]:

Chi Quần đầu, thuộc họ Na (Annonaceae), gồm khoảng 150 loài, chủ yếu phân bố ở vùng nhiệt đới Châu Phi, Châu Á và miền Bắc Úc, với nhiều loài tập trung tại Đông Nam Á Tại Việt Nam, có 27 loài và phân loài của chi này được phân bố rộng rãi trên toàn quốc.

Cây gỗ thẳng đứng, thường xanh, cao từ 6 đến 25m với tán tròn hoặc hẹp, đường kính khoảng 3m Vỏ cây màu xám đậm, bong ra thành mảng lớn, bên dưới là lớp màu trắng hồng Nhánh non có màu xanh lục với đốm trắng, trong khi nhánh già có màu nâu đỏ Lá cây nhẵn hoặc hơi có lông, đối xứng, không có lá kèm, hình bầu dục thuôn dài 10-15cm, rộng 3-5cm, mềm, nhọn hai đầu, cuống dài 1-2cm Hoa lưỡng tính tập hợp thành cụm ở nách lá, có 6 cánh với hai lớp khác nhau về kích thước và hình dạng Nhị hoa nhiều, bao phấn hình thoi hoặc cầu, lá noãn rời với bầu, vòi nhụy và núm nhụy không có hình dạng xác định Quả có dạng bầu dục và hạt thường là hạt đơn có rãnh.

Cây thuộc chi Polyalthia có tốc độ sinh trưởng nhanh, ưa khí hậu ẩm ướt và đất tơi xốp, thoát nước tốt Khi còn nhỏ, cây cần được che bóng râm Chúng mọc khỏe, dễ trồng và giữ được màu xanh quanh năm.

Các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học

a) Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Hiện nay, trên thế giới đã có gần 20 loài Polyalthia được nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học Trong số đó, Polyalthia longifolia là loài được nghiên cứu nhiều nhất trong chi này.

Nghiên cứu cho thấy chi này có thành phần hóa học đa dạng, bao gồm alkaloit, tecpenoit, flavonoit, acetogenin và nhiều lớp chất khác.

Nghiên cứu về thành phần hóa học của cây Polyalthia longifolia tại Nigeria do Ogunbinu A O và cộng sự thực hiện đã chỉ ra rằng tinh dầu của lá chứa các thành phần chính như (Z)-β-aromadendren (19,7%), caryophyllen oxit (14,4%) và β-caryophyllen (13,0%) Trong khi đó, vỏ cây chứa α-copaen (8,7%), α-muurolol (8,7%), β-selinen (8,6%), viridifloren (8,1%), α-guaien (7,8%), aromadendren (7,4%) và β-cadinen (7,0%).

Noriyuki Hara and colleagues conducted a study on the n-hexane extract of the bark of Polyalthia longifolia, resulting in the identification of 14 clerodane and ent-halimane diterpenes Among the compounds isolated were 16-hydroxycleroda-3,13-dien-16,15-olide (18), 16-hydroxycleroda-3(18),13-dien-16,15-olide (19), and 16-hydroxy-ent-halima-5(10),13-dien-16,15-olide (20) Additionally, the study revealed cleroda-3,13E-dien-15-oic acid (21), cleroda-4(18),13E-dien-15-oic acid (22), and ent-halima-5(10),13E-dien-15-oic acid (23).

The article discusses various compounds related to clerodane and halimane derivatives, specifically focusing on the structures of 10E-dien-15-oic acid, 16-oxocleroda-3,13E-dien-15-oic acid, and several others, including 16-oxo-ent-halima-5(10),13E-dien-15-oic acid and cleroda-4(18),13-dien-16,15-olide These compounds exhibit unique chemical properties and structural variations that contribute to their potential applications in various fields The exploration of these derivatives highlights the significance of clerodane and halimane structures in organic chemistry and their relevance in research.

Năm 2014, nhóm nghiên cứu của Tung-Ho Wu đã phân lập thành công ba chất clerodane ditecpen mới: (4→2)-abeo-cleroda-2,13E-dien-2,14-dioic acid (32), (4→2)-abeo-2,13-diformyl-cleroda-2,13E-dien-14-oic acid (33), và 16(R&S)-methoxycleroda-4(18),13-dien-15,16-olide (34) Ngoài ra, nhóm cũng xác định được năm chất đã biết, bao gồm solidagonal acid (35), 16-hydroxycleroda-4(18),13-dien-15,16-olide (36), 16-hydroxycleroda-3,13-dien-15,16-olide (37), và 16-oxocleroda-3,13-dien-15-oic acid.

(38) và (3β,5β)-16-trihydroxyhalima-13-en-15,16-olide (39) từ quả cây Polyalthia longifolia var pendula

Năm 2007, Xiu-Feng He và cộng sự đã phân lập được các chất (3β,22α)- 3,22-dihydroxytaraxast-20-en-30-al (40), 2-hydroxyonychine (41) và nemoralisin

(42) từ cành nhỏ và lá cây Polyalthia nemoralis [61]

Năm 2008, Zi-Ming Lu và cộng sự đã phân lập được các hợp chất ankaloit polynemoralines A (43), B (44), C (45) và D (46) từ cành và lá cây Polyalthia nemoralis [64]

In 1994, Ma X and colleagues isolated two new clerodane diterpenes, (3β,16α)-dihydroxycleroda-4(18),13(14)Z-dien-15,16-olide and (4β,16α)-dihydroxyclerod-13(14)Z-en-15,16-olide, along with 16α-hydroxycleroda-3,13(14)Z-dien-15,16-olide from the ethyl acetate extract of the bark of Polyalthia barnesii.

In 1996, Connolly and colleagues isolated two novel alkaloids, 7,7’-bisdehydro-O-methylisopiline and 7-dehydronornuciferine-7’-dehydro-O-methylisopiline, along with the bisdehydroaporphine alkaloid urabaine, from the bark of the Polyalthia abullata tree.

Năm 2010, Pumsalid Kanchana và cộng sự đã phân lập được chất 6,8- dihydroxy-7-methoxy-1-methyl-azafluorenone (52) từ cặn chiết etyl axetat của rễ cây Polyalthia cerasoides [52]

Năm 2007, một hợp chất alkaloit dạng dime aporphine là bidebiline E (53) và chất octadeca-9,11,13-triynoic acid (54) cùng với 3 sesquitecpen là α-humulene

(55), caryophyllene oxide (56), and (-)-α-cadinol (57) và 4 isoquinoline alkaloit laudanosine (58), codamine (59), laudanidine (60), and reticuline (61) đã được Kanokmedhakul Somdej và cộng sự phân lập từ rễ cây Polyalthia cerasoides [37]

Năm 2012, hai chấtbenzophenone glucosides là iriflophenone 2-O-β- glucoside (62), iriflophenone 3-C-β-glucoside (63), mộtxanthone C-glucoside là mangiferin (64), và hai chất C-β-glucosides flavonoitlà vitexin (65) và isovitexin

(66) đã được T Kanchanapoom phân lập từ lá và cành cây Polyalthia cerasoides

Hai chất alkaloit 7,8-dihydro-8-oxoprotoberberine là cerasodine (67) và cerasonine (68) đã được M C Gonzalez và cộng sự phân lập từ vỏ thân cây

Năm 1995, M Carmen Gonzalez và cộng sự đã phân lập được polycerasoidin (69) và polycerasoidol (70) từ vỏ thân cây Polyalthia cerasoides

Prenyl benzopyran derivatives, specifically (6E,10E)-isopolycerasoidol (71) and polycerasoidin Me ester (72), have been isolated by M C Gonzalez and colleagues from the methanol extract of the bark of Polyalthia cerasoides.

Ethy acetate extracts from the leaves and small branches of Polyalthia crassa have led to the isolation of four new styryl-lactones, designated as crassalactones A-D, along with seven previously identified compounds, including (+)-3-acetylaltholactone, (+)-altholactone, aristolactam AII, cinnamic acid, (+)-goniofufurone, (+)-goniopypyrone, and (+)-howiinol A.

Năm 2013, Kanokmedhakul S và cộng sự đã phân lập được 4 chất dime aporphinoid là bidebilines A-D (77-80), bis-7,7’-dehydroanonaine (77), 7- dehydroanonaine-7’-dehydro-8’-methoxyanonaine (78), bis-7,7’-dehydro-8,8’- dimethoxyanonaine (79), và bis-7,7’-dehydro-10,10’-dimethoxyanonaine (80) [38]

In 2009, Prachayattikul S and colleagues isolated two azafluorenone alkaloids, onychine and 7-methoxyonychine, along with a mixture of β-sitosterol and stigmasterol from the chloroform extract of the plant's roots.

Năm 2010, Panthana N và cộng sự đã phân lập được 6 polyacetylenic C25 và C27 acetogenins tên là debilisones A-F (83-88) từ dịch chiết metanol [49]

Từ vỏ thân cây Polyalthia lamcilimba, năm 1998, Y P Lue và cộng sự đã phân lập được 2 chất tritecpen 4 vòng 24-methylene là 24-methylenelanosta-

7,9(11)-dien-(3β,15α)-diol (89) và 24-methylenelanosta-8-en-(2β,3β)-21-triol (90)

Năm 1990, trong quá trình nghiên cứu thành phần alkaloit của các loài họ Na tại Malaysia, Lavaut M và các cộng sự đã phân lập thành công các hợp chất như (-)-oliveroline, (-)-N-oxyoliverine, liriodenine và (-)-coclaurine từ loài Polyalthia macropoda.

(91), oxostephanine (92), (-)-discretamine (93), isoursuline (94) và một chất alkaloit mới là (-)-thaipetaline (95) từ cây Polyalthia stenopetala [40]

Năm 1991, Richomme P và cộng sự cũng đã phân lập được một chất labdane ditecpen là (4S,9R,10R) Me 18-carboxy-labda-8,13(E)-diene-15-oate (96) từ vỏ thân cây Polyalthia macropoda [55]

Nghiên cứu trước đây đã phát hiện sự hiện diện của alkaloit trong cây Polyalthia nitidissimal Vào năm 1983, Jossang A và các cộng sự đã phân lập thành công 13 isoquinoline alkaloit, trong đó có 4 chất dime mới, bao gồm N,N’-dimethyllindoldhamine, isodaurisoline, 7-O-methyllindoldhamine và 7’-O-methyllindoldhamine.

(100) từ các bộ phận khác nhau của cây này [7]

Năm chất alkaloit 1,2,3-trimethoxy-10,11-methylenedioxynoraporphine và được gọi là polygospermine (101), noroconovine (102); xylopinine; kikemanine; và một chất 2,3-dimethoxylated tetrahydroprotoberberine mới được phân lập từ vỏ thân cây Polyalthia oligosperma [29]

Thành phần chính của cây Polyalthia oliveri là các hợp chất alkaloit Năm

1977, Hamonniere M và cộng sự đã tìm thấy các aporphine alkaloit là oliveridine

(103), nor-oliveridine (104), oliveroline (105), oliverine (106), pachypodanthine

(107), N-oxy oliveroline (108), N-oxy N-methyl pachypodanthine (109) từ lá và vỏ cây này [32]

In 2014, Kouam S F and colleagues isolated three new indolosesquiterpene alkaloids named 8α-polyveolinone, N-acetyl-8α-polyveolinone, and N-acetyl-polyveoline, along with three known compounds: dehydro-O-methylisopiline, N-methylurabaine, and polycarpol, from the bark of the Polyalthia oliveri tree.

Các nghiên cứu trước đây đã cho biết thành phần chính của cây Polyalthia suaveolens là các hợp chất alkaloit như isopolyalthenol và neopolyalthenol (116), polyavolinamide (117), polyveoline (118) [33]

Research on Polyalthia suaveolens has isolated several alkaloids, including oxostephanine, lanuginosine, liriodenine (3,10,11-trihydroxy-1,2-methylene dioxy noraporphine), and asimilobine (2-hydroxy-1-methoxy noraporphine) from its stem Additionally, compounds such as 1-aza-9,10-dimethoxy-4-methyl-2-oxo-1,2-dihydroanthracene (kalasinamide), N-trans-feruloyltyramine, and N-trans-coumaroyltyramine have also been isolated from the stem of the plant.

[48] Một chất tritecpen C31 khung lanostane là suberosol (123) cũng đã được phân lập từ loài cây này

Cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum Benth & Hook f.)

Thực vật học

Quần đầu khỉ là một loài thực vật có hoa thuộc họ Na (Annonaceae), được mô tả khoa học lần đầu tiên bởi Buch Ham Ex Hook F et Thomson Benth.

1862 với tên gọi Polyalthia simiarum Benth Hook f

Cây gỗ trung bình cao từ 15-20 m, với vỏ cây màu trắng xám và nhánh non có lông mịn Lá cây có phiến bầu dục, dài 15-18 cm và rộng 5-8 cm, không có lông ngoại trừ gân chính, mặt dưới lá có màu nâu đỏ với 15-17 đôi gân bên Cuống lá dài từ 6-8 mm và không có lông Hoa của cây thường mọc thành xim bó từ 2-4 cái ở nhánh già, cánh hoa hẹp và dài tới 4 cm, thường tiếp tục phát triển, với nhiều nhị và lá noãn không lông Quả cây không có lông, có cuống dài, hạt đơn màu xám và nhẵn Thời gian ra hoa từ tháng 3 đến tháng 5 và có quả từ tháng 5 đến tháng 6.

Cây mọc rải rác trong rừng nhiệt đới, đặc biệt tập trung ở Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanmar, cùng với sự hiện diện ở Bhutan, Ấn Độ và Trung Quốc Tại Việt Nam, cây này được tìm thấy chủ yếu ở Đồng Nai, đặc biệt là khu vực Biên Hòa.

Các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học

Theo kinh nghiệm dân gian phần vỏ của cây Quần đầu khỉ thường được sử dụng Ở Ấn Độ, vỏ của cây được dùng làm thuốc trị bò cạp đốt

Nghiên cứu duy nhất trên thế giới về thành phần hóa học của vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) đã phát hiện ra một loại bisnor clerodane diterpenoid mới, 2-oxo-14,15-bisnor-3,11E-kolavadien-13, cùng với ba dẫn xuất clerodane đã biết: acid kolavenic, 16β-hydroxycleroda-3,13(14)Z-dien-15,16-olide và 16-oxocleroda-3,13(14)E-dien-15-oic acid.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23 2.1 Mẫu thực vật

Phương pháp xử lý và chiết mẫu

Vỏ cây được thái nhỏ và lá để nguyên, sau đó phơi riêng trong bóng râm cho đến khi khô, rồi sấy ở nhiệt độ 50 - 55 độ C và nghiền nhỏ Mẫu bột khô được ngâm chiết theo quy trình chung, sử dụng metanol ở nhiệt độ phòng trong 4 lần, mỗi lần 24 giờ Các dịch chiết đã lọc được gộp lại và cất để loại bớt dung môi dưới áp suất giảm, thu được dịch chiết MeOH cô đặc Từ dịch chiết này, các cặn chiết được điều chế bằng cách sử dụng các dung môi có độ phân cực tăng dần thông qua phương pháp chiết phân bố.

Phương pháp phân tích, phân tách các hỗn hợp và phân lập các hợp chất từ mẫu thực vật………………………………………………………………… 23 2.4 Các phương pháp xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được từ các mẫu thực vật nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp sắc ký, bao gồm sắc ký lớp mỏng, để phân tích và tách các cặn chiết từ mẫu thực vật, nhằm phân lập các chất sạch hiệu quả.

(TLC), sắc ký cột thường (CC) và sắc ký rây phân tử (sephadex LH-20)

Sắc ký lớp mỏng là phương pháp hiệu quả để khảo sát thành phần hóa học, thường được thực hiện trên bản mỏng đế nhôm tráng silicagel 60 F 254 của Merck với độ dày 0,25 mm Để triển khai sắc ký, người ta sử dụng một hoặc hỗn hợp các dung môi phổ biến như n-hexan, diclometan, etyl axetat, axeton và metanol.

Sắc ký cột thường với pha tĩnh là silicagel 60, cỡ hạt 0,040-0,063 mm (230-

400 mesh) của Merck, dung môi rửa giải chủ yếu dùng các hệ dung môi như: n-hexan/diclometan, n-hexan/etyl axetat, n-hexan/axeton, diclometan/metanol,

…với tỉ lệ thích hợp

Sắc ký sephadex LH-20 được rửa giải bằng dung môi metanol hoặc hỗn hợp metanol/diclometan (9:1, 8:2, …)

2.4 Các phương pháp xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập đƣợc từ các mẫu thực vật nghiên cứu

Cấu trúc của các hợp chất được xác định thông qua việc kết hợp dữ liệu từ các phương pháp phổ, đặc biệt là phương pháp phổ khối phun bụi điện tử.

Nghiên cứu sử dụng các phương pháp phân tích hiện đại như phổ khối ion hóa hóa học ở áp suất thường (APCI-MS) và các kỹ thuật phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều (1H-NMR, 13C-NMR, DEPT) cũng như hai chiều (HSQC, HMBC, COSY, NOESY) Độ quay cực của các hợp chất được xác định bằng máy Jasco P-2000 của Jasco Mỹ, trong khi điểm nóng chảy được đo bằng máy MEL TEMP 3.0 của Thermo Scientific-Mỹ tại Viện Hóa sinh biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Phương pháp thử hoạt tính sinh học

2.5.1 Phương pháp thử hoạt tính gây độc tế bào

Phương pháp thử độ độc tế bào in vitro được Viện Ung thư Quốc gia Hoa

Kỳ (Viện Ung thư Quốc gia - NCI) xác nhận rằng phép thử độ độc tế bào chuẩn là công cụ quan trọng để sàng lọc và phát hiện các chất có khả năng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt tế bào ung thư trong điều kiện in vitro Phép thử này được thực hiện theo phương pháp tiêu chuẩn.

2.5.2 Phương pháp thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định

Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định được thực hiện trên phiến vi lượng

Nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra 96 giếng theo phương pháp của Vander Bergher và Vlietlinck cùng McKane L & Kandel Các chủng vi sinh vật được kích hoạt và pha loãng đến nồng độ khoảng 0,5 đơn vị Mc Fland Thí nghiệm được thực hiện trong tủ ấm ở nhiệt độ 37°C trong 24 giờ cho vi khuẩn và 30°C trong 48 giờ cho nấm Các mẫu được pha loãng theo nhiều thang nồng độ khác nhau, từ 5 đến 10 thang, nhằm xác định giá trị nồng độ tối thiểu mà tại đó sự phát triển của vi sinh vật bị ức chế gần như hoàn toàn.

THỰC NGHIỆM 25 3.1 Tách chiết, phân lập các chất từ lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum)

Xử lý mẫu thực vật và chiết xuất

Lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) sau khi thu hái được phơi khô trong bóng râm và sấy ở nhiệt độ 50-55°C trong 2 giờ Lá khô (1,54 kg) được nghiền thành bột mịn và ngâm chiết trong MeOH 4 lần, mỗi lần 24 giờ Các dịch chiết MeOH được gộp lại, cất dung môi xuống còn khoảng 1/15 thể tích ban đầu, sau đó pha loãng bằng nước cất và chiết phân bố với n-hexan và etyl axetat Các dịch chiết được làm khô bằng Na2SO4 khan, cất dung môi thu được các cặn chiết tương ứng: n-hexan (PSH; 4,0 g), etyl axetat (PSE; 10,0 g) và metanol (PSM; 13,5 g) Phần bã sau khi ngâm chiết bằng MeOH được ngâm với dung dịch HCl 1,5% trong 24 giờ, lọc lấy phần nước và thêm NaOH 5% đến khi pH đạt 9-10 Sau đó, chiết phần nước có tủa còn lại bằng CH2Cl2 (3 lần, 300 ml/lần) và gộp các dịch chiết CH2Cl2, cất dung môi thu được cặn chiết alkaloit (PSA; 1,3 g).

Hàm lượng các cặn chiết được tính theo công thức:

Hàm lượng cặn chiết thu được (H%) được tính dựa trên khối lượng cặn (mc) và khối lượng dược liệu đem chiết (mdl) Cụ thể, cặn n-hexan cho thấy hàm lượng cặn chiết thu được là một chỉ số quan trọng trong quá trình phân tích.

Dưới đây là quy trình xử lý và chiết xuất các cặn từ lá cây Quần đầu khỉ:

Sơ đồ 3.1 Quá trình chiết xuất lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum)

Ngâm chiết với MeOH (4 lần, 24h/lần)

1 Cất loại MeOH xuống còn 1/15V

2 Pha loãng bằng nước cất

5 Ngâm với dung dịch HCl 1,5% (10 , 24h)

6 Lọc lấy nước, thêm dung dịch NaOH đến pH 9-10

7 Chiết bằng CH 2 Cl 2 , cất loại dung môi

Cặn MeOH (PSM; 13,0 g) Phần bã

1 Chiết phân bố với n-hexan

2 Chiết phân bố với EtOAc

3 Làm khô dịch chiết, cất loại dung môi

Phân lập chất từ các cặn chiết của lá cây Quần đầu khỉ

Phân tách cặn chiết alkaloit (PSA; 1,3 g) được thực hiện trên cột silicagel bằng phương pháp gradient dung môi CH2Cl2/MeOH (0→20% MeOH), tạo ra 5 nhóm phân đoạn A1-A5 Nhóm phân đoạn A3 (30 mg) được tinh chế trên cột Sephadex LH-20, rửa giải bằng dung môi MeOH, thu được 3 phân đoạn A3.1-A3.3 Trong đó, phân đoạn A3.2 (9,8 mg) có chất kết tinh, được rửa bằng axeton và kết tinh lại trong hỗn hợp CH2Cl2/MeOH, thu được chất POS3 (4 mg).

Sơ đồ 3.2 Quá trình phân lập các chất từ cặn alkaloit

Cặn chiết etyl axetat (PSE; 10,0 g) được phân t

Phân đoạn E4 được tinh chế qua sắc ký cột trên silica gel, sử dụng dung môi CH2Cl2/MeOH (9:1) để thu được 5 phân đoạn E4.1 đến E4.5 Sau khi loại bỏ hoàn toàn dung môi từ phân đoạn E4.3, một chất rắn màu vàng được thu nhận, và khi kết tinh trong hỗn hợp n-hexan/CH2Cl2 (1:1), thu được chất QDK1 với khối lượng 9,5 mg.

Sau khi loại bỏ hoàn toàn dung môi từ phân đoạn E5 và E6, thu được chất rắn màu vàng Chất rắn này được rửa bằng axeton, tạo ra chất rắn màu trắng Tiếp theo, chất rắn được kết tinh lại trong hỗn hợp CH2Cl2/MeOH, cho ra chất POS5 với khối lượng 2,2 g.

CC, silica gel, CH 2 Cl 2 /MeOH (0→20% MeOH)

Sephadex LH-20 dung môi MeOH

Sơ đồ 3.3 Quá trình phân lập các chất từ cặn etyl axetat

Cặn MeOH (PSM; 13,0 g) được phân tách trên cột diaion HP-20, rửa cột bằng 100% H2O, H2O/MeOH (1:1) và 100% MeOH, tạo ra ba phân đoạn M1-M3 Phân đoạn M3 (4,0 g) tiếp tục được phân tách trên cột silica gel và rửa giải bằng dung môi CH2Cl2/MeOH/H2O (8:2:0,2), thu được ba nhóm phân đoạn M3.1-M3.3 Sau khi loại bỏ dung môi từ phân đoạn M3.2 và M3.3, hai chất rắn màu vàng được thu nhận Cuối cùng, các chất rắn này được kết tinh trong hỗn hợp MeOH/H2O, lần lượt thu được các chất POS1 (35,0 mg) và POS2 (20,0 mg).

CC, silica gel, CH 2 Cl 2 /MeOH (0→20% MeOH)

Dữ kiện phổ và hằng số vật lý của các hợp chất đã phân lập

Indole-3-carbaldehyde (QDK1): Tinh thể hình kim, không màu, nóng chảy ở 180-181 o C 1 H-NMR (500 MHz, MeOD)  H ppm: 7,25 (1H, dt, J=1,0; 7,0 Hz,

H-5); 7,29 (1H, dt, J=1,0; 7,0 Hz, H-6); 7,49 (1H, d, J=7,5 Hz, H-7); 8,11 (1H, s, H-2); 8,17 (1H, d, J=7,5 Hz, H-4); 9,90 (1H, s, 3-CHO) 13 C-NMR (500 MHz, MeOD)  C ppm: 113,12 (C-7), 120,13 (C-3); 122,38 (C-4); 123,61 (C-5); 124,99 (C-6); 125,72 (C-9); 138,94 (C-8); 139,67 (C-2); 187,40 (-CHO) (xem Bảng 4.3)

1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl-β-carboline (POS3): Tinh thể không màu, nóng chảy ở 186-187 o C 1 H-NMR (500 MHz, CD 3 OD)  H ppm: 2,54 (3H, s, N-CH 3 ); 2,86 (4H, s, 2H-3 và 2H-4); 3,68 (2H, s, H-1); 6,98 (1H, td, J=1,0; 8,0 Hz, H-6); 7,05 (1H, td, J=1,0; 8,0 Hz, H-7); 7,28 (1H, br d, J=8,0 Hz, H-8);

7,40 (1H, br d; J=8,0 Hz, H-5) 13 C-NMR (125 MHz, CD 3 OD) C ppm: 53,19 (C- 1); 54,12 (C-3); 22,19 (C-4); 107,60 (C-4a); 128,27 (C-4b); 118,46 (C-5); 119,70 (C-6); 121,95 (C-7); 111,81 (C-8); 137,99 (C-8a); 132,44 (C-9a); 45,61 (N-CH 3 ) ACPI-MS: 203 [M+H] + (xem Bảng 4.4)

Rutin (POS2) (Quercetin-3-O-rutinoside): Tinh thể hình kim, màu vàng, nóng chảy ở 214-215 o C 1 H-NMR và 13 C-NMR (xem Bảng 4.1)

CC, Diaion HP-20, 100% H 2 O, 50% MeOH, 100% MeOH

Kaempferol-3-O-rutinoside (POS1): Tinh thể hình kim, màu vàng, nóng chảy ở 162-164 o C 1 H-NMR và 13 C-NMR (xem Bảng 4.2).

Tách chiết, phân lập các chất từ vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum)

3.2.1 Xử lý mẫu thực vật và chiết tách

Mẫu vỏ cây Quần đầu khỉ tươi được chế biến bằng cách thái nhỏ, phơi khô và sấy ở nhiệt độ 50-55 độ C trong 2-3 giờ, sau đó xay thành bột với tổng khối lượng 1,8 kg Nguyên liệu bột này được ngâm chiết với methanol bốn lần, mỗi lần 5 lít trong 24 giờ Các dịch chiết sau đó được gộp lại và cất bớt dung môi dưới áp suất giảm cho đến khi còn khoảng 1/15 thể tích ban đầu.

Dịch chiết metanol đã được pha loãng với nước cất theo tỉ lệ 1/1, sau đó tiến hành chiết phân bố lần lượt bằng các dung môi n-hexan và etyl axetat, mỗi dung môi được chiết 3 lần với thể tích 500ml/lần Cuối cùng, gộp dịch chiết từ 3 lần và làm khô bằng Na2SO4 khan.

Cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được các cặn chiết tương ứng là n-hexan

Sơ đồ 3.5.Quá trình chiết xuất vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum)

Bột vỏ cây khô (1,8 kg)

Ngâm chiết với MeOH (4 lần, 24h/lần)

1 Cất loại MeOH xuống còn 1/15V

2 Pha loãng bằng nước cất

1 Chiết phân bố với n-hexan

2 Chiết phân bố với EtOAc

3 Làm khô dịch chiết, cất loại dung môi

Hàm lượng cặn n-hexan, etyl axetat và metanol tương ứng là: 0,42%,

Cặn n-hexan (PVH; 7,5 g) được tách biệt sơ bộ qua phương pháp sắc ký cột sử dụng chất hấp phụ silicagel và hệ dung môi rửa giải gradient n-hexan/axeton (0→100%), cho ra các phân đoạn từ VH1 đến VH5.

Phân đoạn VH1 được tinh chế qua cột silicagel với hệ dung môi rửa giải n-hexan/axeton (100:0, 99:1), thu được ba phân đoạn VH1.1-VH1.3 Phân đoạn VH1.2 được rửa bằng axeton và kết tinh trong dung môi n-hexan/axeton (7:3), tạo ra chất SP1 với khối lượng 0,35 g.

Phân đoạn VH3 được kết tinh trong CH 2 Cl 2 /MeOH (9/1) thu được chất có

CC, silica gel, n-hexan/Axeton (0→100% A)

Sơ đồ 3.6 Quá trình phân lập các chất từ cặn n-hexan

3.2.2 Dữ kiện phổ và hằng số vật lý của các hợp chất đã phân lập

Ent - halima-1(10),13E-dien-15-oic acid (SP1): tinh thể hình kim, không màu Nhiệt độ nóng chảy 112-113 o C [α] D 25 +67.5 (MeOH, c 0,62) 1 H-NMR và

13C-NMR (xem Bảng 4.5) ESI-MS m/z: 305 [M+H] + β -sitosterol (POS5): Tinh thể dạng phiến, màu trắng Nhiệt độ nóng chảy 135-136 o C 1 H-NMR và 13 C-NMR (xem Bảng 4.6)

Sitosterol-3-O-β-glucopyranoside (POS6) : Chất rắn dạng vô định hình, màu trắng Nhiệt độ nóng chảy 273-274 o C.

Hoạt tính gây độc tế bào và hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định của các chất được phân lập

các chất đƣợc phân lập

3.3.1 Đánh giá hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định

Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định được tiến hành để đánh giá hoạt tính kháng sinh của các mẫu thử

Các chủng vi sinh vật kiểm định:

- Vi khuẩn Gr (-): Escherichia coli (ATCC 25922) và Pseudomonas aeruginosa (ATCC 25923)

- Vi khuẩn Gr (+): Bacillus subtilis (ATCC 11774) và Staphylococcus aureus subsp Aureus (ATCC 11632)

- Nấm sợi: Aspergillus niger (439) và Fusarium oxysporum (M42)

- Nấm men: Candida albicans (ATCC 7754) và Saccharomyces cerevisiae

Hoạt tính kháng vi sinh vật được kiểm định nhằm đánh giá hiệu quả kháng sinh của các mẫu chiết, thực hiện trên phiến vi lượng 96 giếng theo phương pháp hiện đại của Vander Bergher và Vlietlinck (1991), cũng như McKane L và Kandel (1996).

Chứng dương tính với Streptomycin cho vi khuẩn Gram dương, tetracyclin cho vi khuẩn Gram âm, và Nystatin hoặc Amphotericin B cho nấm sợi và nấm men Kháng sinh được pha trong DMSO 100% với nồng độ thích hợp.

- Chứng âm tính là vi sinh vật kiểm định không trộn kháng sinh và chất thử

Môi trường nuôi cấy vi sinh vật bao gồm Saboraud Dextrose Broth (SDB-Sigma) để bảo tồn giống nấm men và nấm mốc, cùng với Trypcase Soya Broth (TSB-Sigma) cho vi khuẩn Đối với thí nghiệm, Eugon Broth (Difco, Mỹ) được sử dụng cho vi khuẩn, trong khi Mycophil (Difco, Mỹ) được áp dụng cho nấm.

+ Các chủng kiểm định được hoạt hóa và pha loãng tới nồng đọ 0,5 đơn vị

Mc Fland rồi tiến hành thí nghiệm

+ Các phiến thí nghiệm trong tủ ấm 37 o C/24 giờ cho vi khuẩn và 30 o C/48 giờ đối với nấm sợi và nấm men

Để xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC), các mẫu được pha loãng theo các thang nồng độ giảm dần, với MIC là nồng độ mà vi sinh vật bị ức chế gần như hoàn toàn Cụ thể, mẫu thụ cú có MIC ≤ 200 àg/ml và mẫu tinh cú có MIC ≤ 50 àg/ml cho thấy hoạt tính hiệu quả.

3.3.2 Thử hoạt tính gây độc tế bào a) Phương pháp nuôi cấy tế bào in vitro

Các dòng tế bào ung thư được nuôi cấy trong môi trường DMEM, bao gồm 2 mM L-glutamine, 10 mM HEPES, 1,0 mM sodium pyruvate và 10% fetal bovine serum (FBS) từ GIBCO.

- Tế bào được cấy chuyển sau 3-5 ngày với tỉ lệ (1:3) và nuôi trong tủ ấm

CO 2 ở điều kiện 37 o C, 5% CO 2 b) Phép thử sinh học xác định tính độc tế bào (cytotoxic assay)

Phương pháp thử độ độc tế bào in vitro được Viện Ung thư Quốc gia Hoa

Kỳ (Viện Ung thư Quốc gia - NCI) đã xác nhận rằng đây là một phép thử độ độc tế bào chuẩn, được sử dụng để sàng lọc và phát hiện các chất có khả năng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt tế bào ung thư.

TBUT ở điều kiện in vitro Phép thử này được thực hiện theo phương pháp của

Phép thử xác định hàm lượng protein tổng số trong tế bào được thực hiện dựa vào mật độ quang học (OD) khi protein được nhuộm bằng Sulforhodamine B (SRB) Giá trị OD tỷ lệ thuận với lượng SRB gắn kết với protein, do đó, số lượng tế bào và hàm lượng protein càng cao thì giá trị OD càng lớn Thí nghiệm này được tiến hành trong các điều kiện cụ thể để đảm bảo độ chính xác của kết quả.

- Chất thử (10 l) pha trong DMSO 10% được đưa vào các giếng của khay

96 giếng để có nồng độ sàng lọc là 20 g/ml Chất thử có hoạt tính được xác định

IC 50 nhờ dải nồng độ 20 g/ml; 4 g/ml; 0,8 g/ml; 0,16 g/ml

- Trypsin hóa tế bào thí nghiệm để làm rời tế bào và đếm trong buồng đếm để điều chỉnh mật độ cho phù hợp với thí nghiệm

- Thêm vào các giếng thí nghiệm lượng tế bào phù hợp (trong 190 l môi trường) và để chúng phát triển trong vòng từ 3-5 ngày

Một khay 96 giếng sẽ được sử dụng làm đối chứng ngày 0, trong đó không có chất thử nhưng có TBUT (180 l) Sau 1 giờ, đĩa đối chứng sẽ được cố định tế bào bằng Trichloracetic acid (TCA).

Sau khi phát triển trong tủ ấm CO2, tế bào được cố định vào đáy giếng bằng TCA trong 30 phút Tiếp theo, tế bào được nhuộm bằng SRB trong 1 giờ ở nhiệt độ 37°C Sau khi nhuộm, SRB được đổ bỏ và các giếng thí nghiệm được rửa ba lần bằng 5% axit acetic, sau đó để khô trong không khí ở nhiệt độ phòng.

Cuối cùng, hòa tan lượng SRB đã bám bằng 10 mM unbuffered Tris base và nhuộm các phân tử protein Sau đó, lắc nhẹ trong 10 phút và sử dụng máy ELISA Plate Reader (Bio-Rad) để đọc kết quả hàm lượng màu của SRB qua phổ hấp phụ ở bước sóng 515 nm Khả năng sống sót của tế bào khi có mặt chất thử sẽ được xác định bằng công thức tương ứng.

Các phép thử được thực hiện ba lần để đảm bảo độ chính xác cao Ellipticine (Sigma) được sử dụng làm chất đối chứng dương và được thử nghiệm ở các nồng độ 10 µg/ml, 2 µg/ml, 0,4 µg/ml và 0,08 µg/ml.

DMSO 10% được sử dụng làm đối chứng âm trong các nghiên cứu Giá trị IC 50, biểu thị nồng độ ức chế 50% sự phát triển, sẽ được xác định bằng phần mềm TableCurve Những chất thử có IC 50 < 20 μg/ml (đối với chiết xuất thô hoặc phân đoạn hóa học) hoặc IC 50 ≤ 4 μg/ml (đối với hoạt chất tinh khiết) được coi là có hoạt tính gây độc tế bào, có khả năng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt tế bào.

CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1 Các hợp chất đƣợc phân lập từ lá cây Quần đầu khỉ ( Polyalthia simiarum )

Từ các cặn chiết của lá cây Quần đầu khỉ đã phân lập được 04 hợp chất sau:

Chất POS2 được thu nhận dưới dạng tinh thể màu vàng chanh, đặc trưng cho một flavonoit Phổ NMR của hợp chất này xác nhận rằng đây là một flavon-glycozit.

Phổ 1 H-NMR (Hình 4.1) của POS2 xuất hiện các tín hiệu của 5 proton vòng thơm trong đó có hai proton được xác định ở vị trí meta với nhau [δ 6,23 và 6,42 (1H, d, J=2,0 Hz)] và 3 proton còn lại được xác định thuộc vào một vòng thơm có hệ tương tác ABX [δ 7,69 (1H, d, J=2,0 Hz); 6,89 (1H, d, J=8,5 Hz); 7,64 (1H, dd, J=2,0; 8,5 Hz)] Các dữ kiện phổ trên cho phép dự đoán sự có mặt của cấu trúc khung flavonoit dạng quercetin Sự xuất hiện của các proton anome tại δ 5,12 (1H, d, J=7,5 Hz) và 4,54 (1H, d, J=1,5 Hz) xác định sự tồn tại của hai phân tử đường Ngoài ra, sự xuất hiện các tín hiệu của một nhóm oximetilen tại δ 3,83 (1H, dd, J,0 và 1,0 Hz, H a ) và 3,41 (1H, dd, J,0 và 6,0 Hz, H b ), và một nhóm metyl bậc hai tại δ 1,13 (3H, d, J=6,5 Hz), cùng với giá trị hằng số tương tác của các proton anome tương ứng cho phép dự đoán sự có mặt của đường β-D- glucopyranose và α-L-rhamnopyranose trong phân tử

Phổ 13 C-NMR (Hình 4.2) của POS2 xuất hiện tín hiệu của 27 cacbon trong đó có 15 cacbon thuộc khung flavon và 12 cacbon thuộc vào hai phân tử đường Giá trị độ chuyển dịch hóa học của các cacbon của phân tử đường thứ nhất xuất hiện tại δ 104,71 (C-1”); 75,72 (C-2”); 78,19 (C-3”); 71,40 (C-4”); 77,22 (C-5”); 68,55 (C-6”) khẳng định đây là đường β-D-glucopyranose Các giá trị độ dịch chuyển hóa học của cacbon của đơn vị đường còn lại tại δ 102,41 (C-1”’); 72,10 (C-2”’); 72,25 (C-3”’); 73,94 (C-4”’); 69,70 (C-5”’); 17,86 (C-6”’) xác định đơn vị đường α-L-rhamnopyranose Sự tăng mạnh độ chuyển dịch hóa học của cacbon oximetilen C-6’’ ( 68,55) của đơn vị đường glucose cho phép xác định vị trí liên kết của đường rhamnose tại cacbon này

Các tương tác trên phổ HSQC và HMBC đưa đến nhận định, chất này có thể là rutin

Các hợp chất được phân lập từ vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum)

-CH 3 2.54 (s) 45.61 H(-CH 3 )/ C-1, C-3, C-9a a đo trong CDCl 3 , b 125MHz, c 500MHz

4.2 Các hợp chất đƣợc phân lập từ vỏ cây Quần đầu khỉ ( Polyalthia simiarum )

4.2.1 Ent- halima-1(10),13 E -dien-15-oic acid (SP1)

Chất SP1 được phân lập dưới dạng tinh thể hình kim, không màu, với nhiệt độ nóng chảy từ 112-113 °C Phổ 1H-NMR cho thấy tín hiệu cộng hưởng của một nhóm metyl dạng doublet tại δ 0,82 (3H, d, J= 7.0 Hz) và bốn nhóm metyl dạng singlet tại δ 0,84 (s), 0,89 (s), 0,91 (s) và 2,15 (s) Hai proton olephin xuất hiện tại δ 5,33 (1H, t, J=3,5 Hz) và δ 5,66 (1H, br s) Ngoài ra, tín hiệu của proton thuộc các nhóm metylen và metin cũng được ghi nhận trong vùng δ 1,11-2,05 Phân tích phổ 13C-NMR và DEPT của SP1 cung cấp thêm thông tin về cấu trúc của chất này.

Bài viết mô tả cấu trúc của một hợp chất có 20 cacbon, bao gồm hai nhóm metin dạng olephin tại δ 120,32 và 114,55; hai nhóm metin tại δ 39,16 và 43,51; cùng với sáu nhóm metylen tại các δ 23,12; 33,25; 23,63; 29,10; 37,20 và 36,29 Ngoài ra, còn có năm nhóm metyl tại δ 15,65; 19,46; 22,29; 26,01; 28,23, ba cacbon bậc bốn tại δ 31,44; 141,18 và 164,91, cùng một nhóm cacboxyl tại δ 171,81 Phổ khối lượng APCI-MS cho thấy sự xuất hiện của pic 305 [M+H]+ trong chế độ dương.

SP1 là một hợp chất axit thuộc lớp chất ditecpenoit, có khung ent-halimane và công thức phân tử C20H32O2.

Dựa trên các phân tích, số liệu phổ 1 H-NMR và 13 C-NMR của SP1 đã được so sánh với các giá trị đã công bố của hợp chất ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid Sự tương đồng hoàn toàn giữa các số liệu phổ của hai hợp chất (Bảng 4.5) khẳng định cấu trúc hóa học của SP1 là ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid.

Bảng 4.5 Số liệu phổ NMR của SP1

20 22,29 0,91 (s) 22,3 0,91 (s) a đo trong CDCl 3 , b 125MHz, c 500MHz, *  C , *  H của ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid

Chất POS5 được thu nhận dưới dạng tinh thể phiến màu trắng, với nhiệt độ nóng chảy từ 135-136 °C Phổ 1 H-NMR cho thấy tín hiệu cộng hưởng của một proton olephin tại δ H 5,34 (1H, brd, J=5,0 Hz, H-6) và 6 nhóm metyl, bao gồm 2 nhóm cộng hưởng dạng singlet tại δ H 0,68 (3H, s, H-18) và 1,00 (3H, s, H-19), cùng với 4 nhóm cộng hưởng dạng doublet tại δ H 0,81 (3H, d, J=7,0 Hz, H-27) và 0,83.

Tín hiệu cộng hưởng của một nhóm hydroxymetin được quan sát dưới dạng multiplet tại δ H 3,52 (1H, m, H-3) Bên cạnh đó, các tín hiệu cộng hưởng của proton từ các nhóm metin và metylen khác xuất hiện trong vùng trường cao với giá trị δ H trong khoảng 1,04-2,31 Các phân tích cho thấy các tín hiệu này có các hệ số J khác nhau, cụ thể là J=7,0 Hz cho H-26, J=7,5 Hz cho H-29, và J=6,5 Hz cho H-21.

Bảng 4.6 Số liệu phổ NMR của POS5

29 12,3 11,99 CH 3 0,85 (d, J= 7,5 Hz) a đo trong CDCl 3 , b 125MHz, c 500MHz,  C

Phổ 13 C-NMR của POS5 có tín hiệu cộng hưởng của 29 nguyên tử cacbon bao gồm một liên kết đôi [δ C 121,73 (C-6); 140,78 (C-5)], 6 nhóm metyl [δ C 11,87 (C-18); 11,99 (C-29); 18,79 (C-21); 19,05 (C-27); 19,40 (C-19); 19,82 (C-26)], 8 nhóm metin, 11 nhóm metylen và 2 cacbon bậc bốn Sự có mặt của một liên kết đôi, 2 nhóm metyl bậc 2 và 2 cacbon bậc bốn trong phân tử POS5 cho biết chất này có chứa khung steroit và được nhận định có thể là β-sitosterol

Số liệu phổ 13 C-NMR của POS5 đã được so sánh với các giá trị của β-sitosterol, cho thấy sự phù hợp giữa hai hợp chất và khẳng định cấu trúc của POS5 là β-sitosterol β-sitosterol là sterol phổ biến nhất trong thực vật bậc cao, xuất hiện không chỉ ở nhiều loài thực vật mà còn trong các sinh vật biển.

POS6 được phân lập dưới dạng chất vô định hình màu trắng, có nhiệt độ nóng chảy từ 273-274 °C Phương pháp sắc ký lớp mỏng đã xác định rằng POS6 là sitosterol-3-O-β-D-glucoside khi so sánh với chất chuẩn.

4.3 Hoạt tính sinh học của các hợp chất đƣợc phân lập

Rutin là một hợp chất có khả năng tăng cường bền vững cho hồng cầu, giúp giãn cơ trơn và chống co thắt, đồng thời hoạt động hiệp đồng với vitamin C Chất này có tác dụng làm bền thành mạch, cải thiện độ dẻo dai và đàn hồi cho các mạch máu, đặc biệt là tĩnh mạch và mao mạch nhỏ, từ đó ngăn ngừa các triệu chứng xuất huyết và tai biến mạch như xuất huyết nội tạng và dưới da Rutin còn giúp giảm thiểu tình trạng xuất huyết ở bệnh nhân sốt xuất huyết và ngăn ngừa phình tĩnh mạch hậu môn, gây ra búi trĩ và chảy máu trong các trường hợp trĩ nội, trĩ ngoại Hợp chất này có mặt trong nhiều loại thuốc như Rutin C và rutinsuperC.

Hoạt tính sinh học của các hợp chất được phân lập

Ngoài rutin (POS2) và kaempferol-3-O-rutinoside (POS1) đã được nghiên cứu kỹ lưỡng về hoạt tính sinh học, một số hợp chất khác đã được phân lập nhưng chưa được khảo sát Vì vậy, các hợp chất này đã được đánh giá về khả năng gây độc tế bào và hoạt tính kháng vi sinh vật.

4.3.1 Hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất đƣợc phân lập

Chất SP1 đã được nghiên cứu về khả năng gây độc tế bào trên 7 dòng tế bào ung thư ở người, bao gồm ung thư phổi (Lu-1), ung thư gan (HepG2), ung thư tiền liệt tuyến (LNCap), ung thư vú (MCF7), ung thư buồng trứng (SW626), ung thư đại tràng (SW480) và ung thư biểu mô miệng (KB) Mỗi thí nghiệm được thực hiện lặp lại 3 lần để đảm bảo độ chính xác của kết quả.

Kết quả nghiên cứu cho thấy SP1 có hoạt tính đối với tất cả 7 dòng tế bào ung thư thử nghiệm, tuy nhiên, hoạt tính này không mạnh, với giá trị IC 50 dao động từ 13,93 đến 25,05 àg/ml Trong số 7 dòng tế bào, SP1 thể hiện tác dụng tốt nhất đối với dòng tế bào ung thư buồng trứng SW626.

Bảng 4.7 Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của SP1

SP 1 Ellipticine SP 1 Ellipticine SP 1 Ellipticine SP 1 Ellipticine

SP 1 Ellipticine SP 1 Ellipticine SP1 Ellipticine

Chất đối chứng dương Ellipticine hoạt động ổn định trong thí nghiệm Các kết quả trên là chính xác với r 2

Các chất POS3 và QDK1 cũng được đánh giá hoạt tính gây độc tế bào trên

Nghiên cứu cho thấy chất QDK1 có hoạt tính chống lại tế bào ung thư biểu mô da (KB) mạnh hơn so với tế bào ung thư gan (Hep G2), với giá trị IC 50 lần lượt là 7,3 µg/ml và 31,29 µg/ml Trong khi đó, POS3 thể hiện hoạt tính yếu trên cả hai dòng tế bào ung thư, với IC 50 là 28,87 µg/ml cho tế bào KB và 76,23 µg/ml cho tế bào Hep G2.

Bảng 4.8 Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của POS3 và QDK1

STT Tờn mẫu Giỏ trị IC 50 (àg/ml)

4.3.2 Hoạt tính sinh học của các hợp chất đƣợc phân lập

Các chất QDK1, SP1 và POS3 đã được kiểm tra hoạt tính kháng vi sinh vật trên 04 chủng vi khuẩn, 02 chủng nấm mốc và 02 chủng nấm men Kết quả cho thấy QDK1 có khả năng kháng lại chủng nấm mốc A niger với giá trị MIC là 50 µg/ml, trong khi POS3 thể hiện hoạt tính kháng với chủng vi khuẩn Gram (+) S aureus cũng với giá trị MIC là 50 µg/ml.

Bảng 4.9 Kết quả thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định

Nồng độ mẫu (àg/ml)

Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC àg/ml)

Vi khuẩn Gr(-) Vi khuẩn Gr(+) Nấm mốc Nấm men

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Từ lá cây Quần đầu khỉ, các nhà nghiên cứu đã phân lập và xác định được cấu trúc của bốn hợp chất quan trọng, bao gồm rutin (POS2), kaempferol-3-O-rutinoside (POS1), indole-3-carbaldehyde (QDK1) và 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl-β-carboline (POS3).

- Từ vỏ cây đã phân lập và xác định được cấu trúc của 03 hợp chất là Ent- halima-1(10),13E-dien-15-oic acid (SP1), β-sitosterol (POS5) và sitosterol-3-O-β-

Nghiên cứu đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của chất SP1 trên 7 dòng tế bào ung thư người, bao gồm Lu-1, HepG2, LNCap, MCF7, SW626, SW480 và KB Kết quả cho thấy SP1 có khả năng gây độc đối với tất cả 7 dòng tế bào ung thư với giá trị IC 50 dao động từ 13,93 đến 25,05 µg/ml, trong đó hoạt tính mạnh nhất được ghi nhận ở dòng tế bào ung thư buồng trứng SW626.

- Đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của chất POS3 và QDK1 trên các dòng tế bào KB, Hep G2

Các chất QDK1, SP1, POS1 và POS3 không cho thấy hoạt tính trên hầu hết các vi sinh vật kiểm định Tuy nhiên, QDK1 có khả năng kháng chủng nấm mốc A niger với giá trị MIC là 50 µg/ml, trong khi POS3 thể hiện hoạt tính kháng chủng vi khuẩn Gram dương S aureus cũng với giá trị MIC là 50 µg/ml.

- Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về thành phần hóa học của các cặn chiết còn lại.

Nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào của chất SP1 đang được tiến hành sâu hơn, đồng thời cũng khám phá thêm các hoạt tính sinh học khác của SP1 và các chất đã được phân lập.

CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1 Đoàn Thị Hương, Cao Thị Huệ, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Minh Hằng,

“Một số hợp chất được phân lập từ lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum Benth.&Hook.f.) ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 52(5A), 330-335 (2014).

1 Nguyễn Tiến Bân (2000), Thực vật chí Việt Nam-Tập 1 Họ Na, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội

2 Võ Văn Chi (2004), Từ điển thực vật thông dụng-Tập 2, NXB Khoa học và

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Chung, Lê Thị Thùy, Nguyễn Hoa Du, Trần Đình Thắng và Đỗ Ngọc Đài (2009) về thành phần hóa học của tinh dầu lá cây Huyền diệp (Polyalthia longifolia var pendula Hort.) tại Nghệ An đã được trình bày trong Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 3 do Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện KH&CN Việt Nam tổ chức.

4 Phạm Hoàng Hộ (2003), Cây cỏ Việt Nam-Quyển 1, NXB Trẻ, Hà Nội

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hùng (2011) về họ Na (Annonaceae) tập trung vào hóa học và hoạt tính sinh học của các loài Desmos rostrata, Goniothalamus tamirensis và Fissistigma villosissimum Tài liệu này được xuất bản trong quyển 1 bởi NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ tại Hà Nội.

6 A Jossang, M Leboeuf, A Cavé, M Damak, and C Riche (1977), Planta Med., 32, pp 249

7 A Jossang, M Leboeuf, P Cabalion, A Cave (1983), “Alkaloids from Annonaceae XLV: Alkaloids of Polyalthia nitidissima”, Planta Medica,

8 A Lannuzel, PP Michel, G.U Hoglinger, P Champy, A Jousset, F Media,

A Lombes, F Darios, C Gleye, A Laurens, R Hocquemiller, E.C Hirsch, and M Ruberg (2003), Neuroscience, 121, pp 287-289

9 A Monks, D Scudiero, P Skehan, R Shoemake, K Paull, D Vistica, C Hose, J Langley, P Cronise, H Campbell, J Mayo, M Boyd (1991),

“Feasibility of a high-flux anticancer drug screen using a diverse panel of cultured human tumor cell lines”, Journal of National Cancer Institute,

10 A R de Arias, A Inchausti, M Ascurrat, N Fleitas, E Rodriguez, and A

11 A Suedee, I.O Mondranondra, A Kijjoa, M Pinto, N Nazareth, M.S.J

Nascimento, A.M.S Silva, and W Herz (2007), Pharm Biol., 45, pp 575-

12 A Touché, J.F Desconclois, H Jacquemin, Y Lelièvre, and P Forgacs

13 A Villar, M Mares, J.L Rios, E Canton, and M Gobernado (1987),

14 Ab Ghani, Nurunajah, Ahmat, Norizan, Ismail, Nor Hadiani, Zakaria, Ishak

(2011), “Flavonoid constituents from the stem bark of Polyalthia cauliflora var cauliflora”, Australian Journal of Basic and Applied Sciences, 5(8), pp 154-158

15 Assem El-Shazly and Michael Wink (2003), “Tetrahydroisoquinoline and β- carboline alkaloids from Haloxylon articulatum (Cav.) Bunge (Chenopodiaceae)”, Z Naturforsch., 58c, pp 477- 480

16 By Hao, Xiao-Jiang, Yang, Xiao-Sheng, Zhang, Zheng, Shang, Li-Jian

(1995), “Clerodane diterpenes from Polyalthia cheliensis“, Phytochemistry, 39(2), pp 447-8

17 C.C Liaw, F.R Chang, S.L Chen, C.C Wu, K.H Lee, and Y.C Wu (2005),

18 C.Y Kwan and F.I Achike (2002), Acta Pharmacol Sin., 23, pp 1057-1060

19 Connolly, D Joseph, Haque, Enamul, A.A Kadir (1996), “Two 7,7’- bisdehydroaporphine alkaloids from Polyalthi abullata”, Phytochemistry,

20 D A Scudiero, R H Shoemaker, K D Paull, A Monks, S Tierney, T H

Nofziger, M J Currens, D Seniff, M R Boyd (1988)., “Evaluation of a soluble Tetrazolium/Formazan assay for cell growth and drug sensivity in culture using human and other tumor cell lines”, Cancer Research, 48, pp 4827-4833

21 D Chavez and R Mata (1999), Phytochemistry, 50, pp 823

22 D.A Shoskes, S.I Zeitlin, A Shahed, and J Rajfer (1999), Urology, 54, pp

The study conducted by Dai do N, Thang TD, and Ogunwande IA in 2014 investigates the chemical composition of essential oils extracted from the leaves and stem barks of three Vietnamese species: Polyalthia harmandii, Polyalthia jucunda, and Polyalthia thorelii The findings contribute valuable insights into the natural products derived from these species, highlighting their potential applications in various industries.

24 F Chang, J Wei, C Teng, and Y Wu (1998), Phytochemistry, 49, pp 2015-

25 F.Q Alali, X.X Liu, and J.L McLaughlin (1999), “Annonaceous

Acetogenins: Recent progress”, Journal of Natural Products, 62, pp 504-

26 Firouz Matloubi Moghaddam, Mahdi Moridi Farimani, Sabah Salahvarzi, and Gholamreza Amin (2007), “Chemical Constituents of Dichloromethane Extract of Cultivated Satureja khuzistanica”, Evid Based Complement Alternat Med., 4(1), pp 95-98

27 Gonzalez, M Carmen, Sentandreu, Miguel Angel, Rao, K Sundar, Zafra-

Polo, M Carmen, Cortes, Diego (1996), “Prenylated benzopyran derivatives from two Polyalthia species”, Phytochemistry, 43(6), pp 1361-

28 Gonzalez, M Carmen, Zafra-Polo, M Carmen, M Blazquez, Amparo,

Serrano, Angel, Cortes, Diego (1997), “Cerasodine and Cerasonine: New

Oxoprotoberberine Alkaloids from Polyalthia cerasoides”, Journal of Natural Products, 60(2), pp 108-110

29 H Guinaudeau, A Ramahatra, M Leboeue, A Cave (1978), “Annonaceae alkaloids XXII Alkaloids from Polyalthia oligosperma (Danguy) Diels and Polyalthia emarginata Diels”, Plantes Medicinales et Phytotherapie,

30 H Haraguchi, Y Mochida, S Sakai, H Masuda, and Y Tamura (1996),

31 H J Choi, J H Song, K.S Park, and D.H Kwon (2009), Eur J Pharm

32 Hamonniere, Michele, M Leboeuf, Michel, A Cave, Andre (1977),

“Alkaloids from Annonaceae Part 15 Aporphine alkaloids and terpenoid compounds from Polyalthia oliveri”, Phytochemistry (Elsevier), 16(7), pp

33 Hocquemiller, Reynald, Dubois, Genevieve, M Leboeuf, Michel, A Cave,

Andre, Kunesch, Nicole, Riche, Claude, Chiaroni, Angele (1981),

“Alkaloids of the Annonaceae Part XXXI Polyveoline, a new indolosesquiterpene isolated from Polyalthia suaveolens, Annonaceae”,

34 J.Q Gu, S Ikuyama, P Wei, B Fan, J Oyama, T Inoguchi, and J

Nishimura (2008), Am J Physiol Endocrinol Meta.b, 295, pp 390-394

35 K Iwasa, M Moriyasu, T Yamori, T Turuo, D.U Lee, and W Eiegrebe

36 Kanchanapoom, Tripetch, Sommit, Jarunee, Kasai, Ryoji, Otsuka, Hideaki,

Yamasaki, Kazuo (2002), “Chemical constituents of Thai medicinal plant, Polyalthia cerasoides”, Natural Medicines, 56(6), pp 268-271

37 Kanokmedhakul, Somdej, Kanokmedhakul, Kwanjai, Lekphrom, Ratsami

(2007), “Bioactive Constituents of the Roots of Polyalthia cerasoides”,

Journal of Natural Products, 70(9), pp 1536-1538

38 Kanokmedhakul, Somdej, Kanokmedhakul, Kwanjai, Yodbuddee,

Daungrudee, Phonkerd, Nutchanat (2003), “New Antimalarial Bis- dehydroaporphine Alkaloids from Polyalthia debilis”, Journal of Natural Products, 66(5), pp 616-619

Pezzuto, A D Kinghorn (1991), “Cytotoxic and antimalarial constituents of the roots of Eurycoma longifolia”, J Nat Prod., 54(5), pp 1360-1367

40 Lavault, Marie, Guinaudeau, Helene, Bruneton, Jean, Sevenet, Thierry, Hadi,

A Hamid (1990), “(-)-Thaipetaline, a tetrahydroprotoberberine from Malaysian Annonaceae”, Phytochemistry, 29(12), pp 3845

41 M C Alley, D A scudiero, A Monks, M L Hursey, M J Czerwinski, D

L Fine, B J Abbott, J G Mayo, R H Shoemaker, M R Boyd (1998).,

“Feasibility of drug screening with panels of human tumor cell lines using a microculture tetrazolium assay” Cancer Research., No 48, pp 589-601

42 M Cuendet, C.P Oteham, R.C Moon, W.J Keller, P.A Peaden, and J.M

43 M Somei, K Noguchi, R Ymagami, Y Kawada, K Yamada, and F

Yamada (2000), “Preparation and a novel rearrangement reaction of 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-β-carboline, and their applications for thetotal synthesis of (±)-coerulescine”, Heterocycles, 53(1), pp 7-10

44 M.A Devia and N.P Das (1993), Cancer Lett., 69, pp 191-193

45 M.A Medeiros, X.P Nunes, J.M Barbosa-Filho, V.S Lemos, J.F.Pinho, D

Roman-Campos, I.A Medeiros, D.A Araújo, and J.S Cruz (2009), Naunyn

46 M.C Zafra-Polo, M.C Gonzales, E Estornell, S Sahpaz, and D Cortes

47 Noriyuki Hara, Hitomi Asaki, Yoshinori Fujimoto, Yogesh Kumar Gupta,

Ashish Kumar Singh and Mahendra Sahai (1995), “Clerodane and ent- halimane diterpenes from polyalthia longifolia”, Phytochemistry, 38(1), pp

48 P Tuchinda, M Pohmakotr, B Munyoo, V Reutrakul, T Santisuk (2000),

“An azaanthracene alkaloid from Polyalthia suberosa”, Phytochemistry,

49 Panthama, Natcha, Kanokmedhakul, Somdej, Kanokmedhakul, Kwanjai

(2010) ,“Polyacetylenes from the Roots of Polyalthi adebilis”, Journal of Natural Products, 73(8), pp 1366-1369

50 Patoomratana Tuchinda, Bamroong Munyoo, Manat Pohmakotr, Pongchan

Thinapong, Samaisukh Sophasan, Thawatchai Santisuk, and Vichai Reutrakul (2006), “Cytotoxic Styryl-Lactones from the Leaves and Twigs of Polyalthia crassa”, Journal Nat Prod., 69, pp 1728-1733

51 Prateek Dixit, Tripti Mishra, Mahesh Pal, T S Rana and D K Upreti

(2014), “Polyalthia longifolia and its pharmacological activities: review”,

International Journal of Scientific and Innovative Research, 2(1), pp 17-

52 Pumsalid, Kanchana, Thaisuchat, Haruthai, Loetchutinat, Chatchanok,

Nuntasaen, Narong, Meepowpan, Puttinan, Pompimon, Wilart (2010), “A new azafluorenone from the roots of Polyalthia cerasoides and its biological activity”, Natural Product Communications, 5(12), pp 1931-1934

53 Q.S Zheng, X.L Sun, B Xu, G Li, and M Song (2005), Biomed Environ

54 R H Shoemaker, D A Scudiero, E A (2002) “Suasville Application of high-throughput, molecular-targeted screening to anticancer drug discovery”, Curr Top Med Chem., 3(2), pp 229-246

55 Richomme, Pascal, Godet, Marie Chantal, Foussard, Francoise, Toupet, Loic,

Sevenet, Thierry, Bruneton, Jean (1991), “A novel leishmanicidal labdane from Polyalthia macropoda”, Planta Medica, 57(6), pp 552

56 S F Kouam, A W Ngouonpe, M Lamshoft, F.M Talontsi, J.O Bauer, C

“Indolosesquiterpene alkaloids from the Cameroonian medicinal plant Polyalthia oliveri (Annonaceae)”, Phytochemistry (Elsevier), 105, pp 52-

57 S Prachayasittikul, P Manam, M Chinworrungsee, C Isarankura-Na-

Ayudhya, S Ruchirawat, V Prachayasittikul (2009), “Bioactive Azafluorenone Alkaloids from Polyalthia debilis (Pierre) Finet & Gagnep”,

58 Selina Kabir, Mohammad S.Rahman, A M Sarwaruddin Chowdhury, C M

Hasan and M A Rashid (2010), “An unusual bisnor-clerodane diterpenoid from Polyalthia simiarum”, Natural product communications, 5(10), pp

59 Valentin, F Benoit-Vical, C Moulis, E Stanislas, M Mallié, I Fouraste, and

J Bastide (1997), Antimicrob Agents Chemother, 41, pp 235-237

60 X Ma, I.S Lee, H.B Chai; K Zaw, N.R Farnsworth, D.D Soejarto, G.A

Cordell, J.M Pezzuto, A.D Kinghorn (1994), “Cytotoxic clerodane diterpenes from Polyalthia barnesii”, Phytochemistry, 37(6), pp 1659-62

61 Xiu-Feng He, Xiao-Ning Wang,Cheng-Qi Fan, Li-She Gan, Sheng Yin, and

Jian-Min Yue (2007), “Chemical constituents of Polyalthia nemoralis”,

62 Y P Lue, Q Mu, H L Zheng and C M Li (1998), “24-methylen e tetracy clic triterpenes from Polyalthia lancilimba”, Phytochemistry, 49(7), pp 2053-2056

63 Y Caia, Q Luob, M Sunc, and H Corkea (2004), Life Sci., 74, pp 2157

64 Zi-Ming Lu, Qing-Jian Zhang, Ruo-Yun Chen and De-Quan Yu (2008),

“ Four new alkaloids from Polyalthia nemoralis (Annonaceae)”, Journal of

Asian Natural Products Research, 10(7), pp 656-664

PHỔ NMR, COSY, HMBC, HSQC, MS

Phụ lục 1-1 Phổ 1 H-NMR của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-2 Phổ 13 C-NMR và DEPT của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-3 Phổ HMBC của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-4 Phổ HSQC của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-5 Phổ MS của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-6 Phổ 1 H-NMR của Kaempferol-3-O-rutinoside

Phụ lục 1-7 Phổ 13 C-NMR của Kaempferol-3-O-rutinoside

Phụ lục 1-8 Phổ ESI-MS negative của Kaempferol-3-O-rutinoside

Phụ lục 1-9 Phổ 1 H-NMR của Indole-3-carbaldehyde

Phụ lục 1-10 Phổ 13 C-NMR của Indole-3-carbaldehyde

Phụ lục 1-11 Phổ COSY của Indole-3-carbaldehyde

Phụ lục 1-12 Phổ HSQC của Indole-3-carbaldehyde

Phụ lục 1-13 Phổ HMBC của Indole-3-carbaldehyde

Phụ lục 1-1 Phổ 1 H-NMR của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-1 Phổ 1 H-NMR của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-1 Phổ 1 H-NMR của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-1 Phổ 1 H-NMR của Rutin (Quercetin-3-O-rutinoside)

Phụ lục 1-14 Phổ 1 H-NMR của 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl-β- carboline

Phụ lục 1-15 Phổ 13 C-NMR của 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl-β- carboline

Phụ lục 1-16 Phổ HMBC của 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl-β-carboline

Phụ lục 1-17 Phổ HSQC của 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl-β-carboline

Phụ lục 1-18 Phổ APCI-MS positive của 1,2,3,4-tetrahydro-9-hydroxy-2-methyl- β-carboline

Phụ lục 1-19 Phổ 13 H-NMR của Ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid

Phụ lục 1-20 Phổ 13 C-NMR và phổ DEPT của

Ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid

Phụ lục 1-21 Phổ APCI-MS positivecủa Ent-halima-1(10),13E-dien-15-oic acid

Phụ lục 1-22 Phổ 1 H-NMR của β-sitosterol

Ngày đăng: 13/07/2022, 17:57

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Sơ đồ 3.1. Quá trình chiết xuất lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Sơ đồ 3.1. Quá trình chiết xuất lá cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) (Trang 33)
Sơ đồ 3.2. Quá trình phân lập các chất từ cặn alkaloit - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Sơ đồ 3.2. Quá trình phân lập các chất từ cặn alkaloit (Trang 34)
Sơ đồ 3.3. Quá trình phân lập các chất từ cặn etyl axetat - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Sơ đồ 3.3. Quá trình phân lập các chất từ cặn etyl axetat (Trang 35)
Sơ đồ 3.4. Quá trình phân lập các chất từ cặn metanol  3.1.3. Dữ kiện phổ và hằng số vật lý của các hợp chất đã phân lập - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Sơ đồ 3.4. Quá trình phân lập các chất từ cặn metanol 3.1.3. Dữ kiện phổ và hằng số vật lý của các hợp chất đã phân lập (Trang 36)
Sơ đồ 3.5. Quá trình chiết xuất vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Sơ đồ 3.5. Quá trình chiết xuất vỏ cây Quần đầu khỉ (Polyalthia simiarum) (Trang 37)
Sơ đồ 3.6. Quá trình phân lập các chất từ cặn n-hexan - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Sơ đồ 3.6. Quá trình phân lập các chất từ cặn n-hexan (Trang 38)
Hình 4.1. Phổ  1 H-NMR của POS2 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Hình 4.1. Phổ 1 H-NMR của POS2 (Trang 42)
Hình 4.2. Phổ  13 C-NMR và phổ DEPT của POS2 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Hình 4.2. Phổ 13 C-NMR và phổ DEPT của POS2 (Trang 43)
Bảng 4.1. Số liệu phổ NMR của POS2 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Bảng 4.1. Số liệu phổ NMR của POS2 (Trang 44)
Hình 4.3. Phổ  1 H-NMR của POS1 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Hình 4.3. Phổ 1 H-NMR của POS1 (Trang 46)
Bảng 4.3. Dữ kiện phổ của hợp chất QDK1 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Bảng 4.3. Dữ kiện phổ của hợp chất QDK1 (Trang 47)
Hình 4.5. Phổ  13 C-NMR của POS3 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Hình 4.5. Phổ 13 C-NMR của POS3 (Trang 48)
Hình 4.4. Phổ  1 H-NMR của POS3 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Hình 4.4. Phổ 1 H-NMR của POS3 (Trang 48)
Hình 4.6. Phổ HMBC của POS3 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây  quần đầu khỉ (polyalthia simiarum)
Hình 4.6. Phổ HMBC của POS3 (Trang 49)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN