TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số khái niệm
Theo Luật đất đai năm 2003, "đất nông nghiệp" được định nghĩa là tổng thể các loại đất có đặc tính sử dụng tương tự, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp Đất nông nghiệp bao gồm các loại đất phục vụ cho trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng và nghiên cứu thí nghiệm trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp.
- Đất trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm;
- Đất rừng sản xuất; rừng phòng hộ, rừng đặc dụng;
- Đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối;
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ
Nông nghiệp đô thị là ngành sản xuất, chế biến và buôn bán thực phẩm, chất đốt với tính cơ giới hóa cao, diễn ra trên các vùng đất và mặt nước xen kẽ trong đô thị và vùng ngoại ô Theo cách hiểu truyền thống, nông nghiệp đô thị được định nghĩa là hoạt động nông nghiệp ở các khu vực cận thành phố hoặc trong quá trình đô thị hóa, thường được gọi là nông nghiệp tiền đô thị hoặc nông nghiệp ven đô.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, thể hiện qua sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ Ở cấp độ vi mô, công nghiệp hoá biểu hiện qua việc chuyển đổi lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và hiện nay là lao động dựa vào công nghệ thông tin Một chỉ báo rõ ràng của công nghiệp hoá là sự thay đổi tỷ lệ lao động theo ngành, với tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp ngày càng tăng và tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp giảm dần.
Một chỉ báo quan trọng trong nền kinh tế là sự xuất hiện liên tục của các ngành nghề công nghiệp mới Bên cạnh đó, sự gia tăng tỉ trọng sản lượng công nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội cũng là một dấu hiệu đáng chú ý.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là quá trình chuyển đổi khu vực nông thôn từ nền nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế thị trường phát triển, với hệ thống phân công lao động cao và ứng dụng công nghệ hiện đại, đồng thời hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Quá trình này không chỉ thúc đẩy đô thị hóa mà còn nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân Đô thị hóa là hiện tượng kinh tế - xã hội liên quan đến sự chuyển biến về kinh tế, văn hóa, không gian và môi trường, tạo điều kiện cho sự phân công lao động, chuyển đổi nghề nghiệp và hình thành nghề mới, đồng thời thúc đẩy di cư vào các đô thị, góp phần nâng cao mức sống và thay đổi lối sống cũng như hình thức giao tiếp xã hội.
Khái quát tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam
1.2.1 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Hiện nay, tổng diện tích đất tự nhiên trên thế giới là 148 triệu km², trong đó chỉ có 12,6% là đất tốt cho sản xuất nông nghiệp Đáng chú ý, 40,5% diện tích đất được xếp vào loại quá xấu Diện tích đất trồng trọt chỉ chiếm khoảng 10% tổng diện tích tự nhiên, cho thấy sự phân bố không đều của đất đai giữa các châu lục và các quốc gia.
Mỹ chiếm 35% sản lượng nông sản toàn cầu, trong khi châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Đại Dương lần lượt chiếm 26%, 13%, 20% và 6% [28] Bước vào thế kỷ XXI, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực giữa những thách thức về dân số và môi trường sinh thái [13] Tuy nhiên, nhu cầu ngày càng tăng của con người đã tạo ra áp lực lớn lên đất nông nghiệp, dẫn đến tình trạng suy thoái và biến chất đất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng nông sản.
Ngày nay, thoái hóa đất và hoang mạc hóa đang trở thành những vấn đề nghiêm trọng mà nhiều quốc gia phải đối mặt, ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực Hơn 40% bề mặt Trái đất là đất khô cằn, trong đó 10-20% đã bị thoái hóa, gây tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp.
Tình trạng thoái hóa đất nông nghiệp đang đe dọa cuộc sống của con người, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và an ninh lương thực cho khoảng 1,5 tỷ người trên thế giới Theo FAO, sự gia tăng thoái hóa đất dẫn đến năng suất giảm, giá lương thực tăng cao, và nguồn dự trữ lương thực thấp, trong khi nhu cầu tiêu dùng gia tăng và thiên tai góp phần vào tình trạng thiếu đói ở các nước đang phát triển Hiện nay, hơn 20% diện tích đất nông nghiệp, 30% đất lâm nghiệp và 10% đất đồng cỏ đang bị ảnh hưởng bởi thoái hóa đất, gây ra xói mòn và giảm năng suất, từ đó đe dọa an ninh lương thực và làm suy giảm đa dạng sinh học.
Việc khai thác và sử dụng đất nông nghiệp không có kế hoạch khoa học đã dẫn đến sự suy giảm diện tích đất canh tác, khiến nhiều vùng trên thế giới trở thành sa mạc không thể canh tác Các hệ sinh thái đất khô cằn rất nhạy cảm với việc khai thác quá mức và sử dụng đất không hợp lý Những yếu tố như nghèo đói, mất ổn định chính trị, phá rừng, chăn thả quá mức và hoạt động tưới tiêu kém hiệu quả đều góp phần vào hiện tượng sa mạc hóa Tại Châu Phi, đặc biệt là khu vực phía nam Sahara, 66% diện tích đất là sa mạc khô cằn, gây ra nhiều nguy cơ cho khoảng 1,2 tỷ người ở hơn 110 quốc gia.
Hàng năm gần 12 triệu ha rừng nhiệt đới bị tàn phá, nhiều nhất ở vùng Châu
Mỹ Latinh và Châu Á đang đối mặt với tình trạng mất rừng nghiêm trọng, với Brazil mất 1,7 triệu ha, Ấn Độ 1,5 triệu ha, Indonesia 900.000 ha và Thái Lan gần 400.000 ha mỗi năm Sự suy thoái đất rừng đã ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp, đặc biệt tại các quốc gia đông dân như Trung Quốc và Ấn Độ Tại Campuchia và Lào, nạn phá rừng để làm củi, trồng nương rẫy và xuất khẩu gỗ đã dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên rừng phong phú.
Việc tàn phá rừng không chỉ dẫn đến sự hủy diệt của nhiều loài động vật và thực vật, mà còn làm giảm tính đa dạng sinh học tự nhiên Sự mất cân bằng sinh thái này đã gây ra tình trạng hoang mạc hóa trên hàng triệu hecta đất.
Việc chuyển đổi đất nông nghiệp không bền vững gây ra vòng luẩn quẩn nghiêm trọng, dẫn đến suy thoái đất, mất đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu Suy thoái đất làm giảm dinh dưỡng, phá vỡ cân bằng chu trình nước và đe dọa an ninh lương thực, trong khi tỷ lệ nghèo đói gia tăng do áp lực từ dân số tăng và nhu cầu sản phẩm nông nghiệp ngày càng cao Rõ ràng, cách tiếp cận quản lý đất đai hiện tại đã không còn hiệu quả.
1.2.2 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp tại Việt Nam
Diện tích đất tự nhiên của Việt Nam là 33.121,2 nghìn ha (theo số liệu năm 2005), trong đó 24.822 nghìn ha là đất nông nghiệp, 3.335 nghìn ha là đất phi nông nghiệp và 5.016 nghìn ha là đất chưa sử dụng Mặc dù đứng thứ 58 thế giới về tổng diện tích đất, nhưng do dân số đông, bình quân đất nông nghiệp của nước ta thuộc loại thấp, nằm trong số 40 quốc gia có diện tích đất đai theo đầu người thấp nhất (1/1/2007) Đặc biệt, hơn hai phần ba diện tích đất là đồi núi dốc, trong khi gần một phần ba còn lại là đồng bằng.
Theo Luật Đất đai Việt Nam năm 2003, tổng diện tích đất tự nhiên được phân thành ba nhóm chính: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng.
Nhóm đất nông nghiệp bao gồm nhiều loại, như đất sản xuất nông nghiệp (gồm đất trồng cây hàng năm và cây lâu năm), đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, và các loại đất nông nghiệp khác.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam đạt 9.415.568 ha, chiếm 37,93% tổng diện tích đất nông nghiệp Trong khi đó, diện tích đất lâm nghiệp lên tới 14.677.409 ha, chiếm 59,13% tổng diện tích đất nông nghiệp Đất nuôi trồng thủy sản có diện tích 700.061 ha, tương đương 2,82% tổng diện tích đất nông nghiệp, và còn lại 29.522 ha là đất làm muối cùng các loại đất nông nghiệp khác.
Tây Nguyên là vùng có diện tích đất sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước, với 4.060,4 nghìn ha, trong khi Tây Bắc có diện tích nhỏ nhất chỉ 501,6 nghìn ha Tỉnh Gia Lai dẫn đầu về diện tích đất nông nghiệp, đạt 49,5 nghìn ha.
Đất sản xuất nông nghiệp chủ yếu được sử dụng cho việc trồng cây hàng năm và cây lâu năm Tính đến ngày 1/1/2007, diện tích đất trồng cây hàng năm đạt 13.495,2 nghìn ha, trong đó đất trồng cây lương thực có hạt chiếm 10.862,7 nghìn ha với sản lượng 39.976,6 nghìn tấn, và cây công nghiệp hàng năm là 8.270,2 nghìn ha Diện tích đất trồng cây lâu năm là 2.632,5 nghìn ha, với diện tích cây ăn quả là 1.796,6 nghìn ha.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam chỉ đạt khoảng 0,11 ha, thuộc loại thấp Cụ thể, tại đồng bằng sông Hồng, diện tích này chỉ đạt 0,04 ha/người, trong khi tại đồng bằng sông Cửu Long, con số này cao hơn, khoảng 0,15 ha/người.
Một số đặc điểm của CNH – ĐTH ở Việt Nam hiện nay
Quá trình công nghiệp hóa (CNH) tại Việt Nam bắt đầu từ những năm 1960 và đã diễn ra nhanh chóng sau đổi mới, đặc biệt khi nền kinh tế phát triển Đến tháng 7 năm 2007, dân cư đô thị chiếm 28% tổng dân số cả nước với khoảng 700 trung tâm đô thị, cùng với 150 khu công nghiệp được thành lập trên diện tích 32,3 ngàn ha Việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị, cũng như phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đóng vai trò quan trọng trong CNH, góp phần đáng kể vào sự phát triển nông nghiệp và nông thôn Những cải cách này tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, và mở ra cơ hội ứng dụng công nghệ mới, hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao, từ đó nâng cao sản lượng hàng hóa và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đồng thời, chúng cũng giúp chuyển đổi nền nông nghiệp truyền thống sang hướng sản xuất hàng hóa mạnh mẽ và cạnh tranh hơn trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
Trong thời gian gần đây, chuyển đổi cơ cấu kinh tế tại Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ, với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng lên, trong khi tỷ trọng nông nghiệp giảm Cụ thể, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,1% trong những năm trước đây.
1990 xuống còn 20,6% năm 2008, tỷ trọng công nghiệp tăng từ 22,7% lên 41,6% và tỷ trọng dịch vụ tương đối ổn định từ 38,6% đến 38,7% trong cùng thời kỳ này[16]
Từ năm 2000 đến 2008, quá trình công nghiệp hóa (CNH) đã dẫn đến sự biến đổi rõ rệt trong cơ cấu lao động, với sự gia tăng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, trong khi lao động trong nông - lâm nghiệp giảm đáng kể Xu hướng CNH - ĐTH mạnh mẽ đã yêu cầu một diện tích đất lớn để phát triển khu công nghiệp, đô thị và làng nghề, dẫn đến việc chuyển đổi nhiều đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp Kết quả là, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, kéo theo sự giảm dần số lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tính đến giữa năm 2008, cả nước có gần 200 khu công nghiệp trải rộng trên 52 tỉnh, thành phố, với hơn 6.000 dự án đầu tư trong và ngoài nước, thu hút hơn 1 triệu lao động Đáng chú ý, phần lớn diện tích của các khu công nghiệp và khu chế xuất là đất nông nghiệp, và lực lượng lao động chủ yếu được bổ sung từ nông dân.
Trong những năm qua, hệ thống đô thị Việt Nam đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ, với hơn 700 điểm cư dân đô thị vào cuối năm 2007, tăng hơn 40% so với năm 1995 Ngoài việc nâng cấp các đô thị có bề dày lịch sử, sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu đô thị mới tập trung đã tạo ra những nét mới cho nông thôn, đặc biệt là hệ thống các thị trấn và thị tứ đang mở rộng.
Quá trình đô thị hóa dẫn đến tỉ lệ dân cư thành thị tăng liên tục từ 20% năm
Từ năm 1990 đến 2009, tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam đã tăng gần 30%, trong khi dân cư nông thôn giảm từ 80% xuống hơn 70% Vùng Đông Nam Bộ có mức đô thị hóa cao nhất với 57,1%, tiếp theo là Đồng bằng Sông Hồng với 29,2% Hiện tại, Việt Nam có 5 thành phố lớn trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ, cùng với hàng chục thành phố thuộc tỉnh, cho thấy xu hướng đô thị hóa và công nghiệp hóa đang gia tăng nhanh chóng Sự đô thị hóa này dẫn đến sự tập trung dân cư tại các thành phố, làm giảm diện tích đất ở bình quân đầu người Mặc dù thành phố chật chội, đông đúc, nhưng vẫn là điểm thu hút trí thức đến sinh sống và làm việc Theo tổng kiểm kê đất đai từ 2001 - 2005, cả nước có 598.428 ha đất ở, chiếm 18,51% tổng diện tích đất phi nông nghiệp và tăng 155.250 ha so với năm 2000.
Theo Vụ Đăng ký Thống kê đất đai (Bộ Tài nguyên & Môi trường), diện tích đất ở bình quân đầu người của cả nước hiện nay là 71,99 m²/người Các vùng có sự chênh lệch rõ rệt, trong đó vùng Tây Bắc đạt 127 m²/người, vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ đều đạt 91 m²/người, vùng Đông Bắc 85 m²/người, vùng Tây Nguyên 87 m²/người, Đồng Bằng Bắc Bộ 64 m²/người, Đồng bằng sông Cửu Long 62 m²/người và Đông Nam Bộ chỉ đạt 45 m²/người Đặc biệt, diện tích đất ở tại nông thôn bình quân là 59,1 m²/người, trong khi tại đô thị chỉ đạt 12 m²/người.
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - ĐTH) tại Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ, giúp đất nước tiến gần hơn đến các quốc gia phát triển Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà quá trình này mang lại, nó cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và làm biến động chất lượng cũng như diện tích đất nông nghiệp.
Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình CNH - ĐTH đến đất nông nghiệp
1.4.1.1 Nghiên cứu ảnh hưởng của CNH – ĐTH đến số lượng đất nông nghiệp
Kinh nghiệm từ các nước châu Á cho thấy rằng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tỷ lệ mất đất canh tác từ 0,2% đến 2% mỗi năm Cụ thể, trong thập niên 1980 - 1990, Trung Quốc ghi nhận tỷ lệ mất đất là 0,5%/năm, Hàn Quốc 1,4%/năm, Đài Loan 2%/năm và Nhật Bản 1,6%/năm Diện tích đất canh tác bị mất chủ yếu là đất lúa, điều này đã đe dọa đến an ninh lương thực Để nâng cao sản lượng, nhiều quốc gia đã tăng cường sử dụng phân bón hóa học với liều lượng cao, dẫn đến ô nhiễm môi trường đất.
Trong những năm 1990, Trung Quốc trải qua giai đoạn đầu của quá trình cải cách và mở cửa, dẫn đến tốc độ đô thị hóa nhanh chóng Tuy nhiên, sự phát triển này cũng khiến diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, với ước tính hàng năm mất mát một lượng lớn đất canh tác.
Để đối phó với tình trạng dân số Trung Quốc dự kiến đạt 1,4 tỷ người vào năm 2010, chính phủ đã phát triển các mô hình xí nghiệp hương trấn, tương tự như doanh nghiệp tư nhân, nhằm chuyển giao công nghệ sinh học trong nông nghiệp Những xí nghiệp này tập trung vào lai tạo giống lúa, cây trồng và vật nuôi, cũng như cải tiến hệ thống thủy lợi, cơ giới hóa và hóa học hóa nông nghiệp Mục tiêu là tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao phục vụ cho nhu cầu đô thị và xuất khẩu, đặc biệt tại các vùng nông nghiệp ven đô.
Nhật Bản đã trải qua một quá trình công nghiệp hóa bắt đầu từ sự phát triển nông nghiệp kéo dài Với diện tích đất canh tác trung bình chỉ khoảng 0,8 ha cho mỗi hộ nông dân và dân số đông, đất nông nghiệp của Nhật Bản đã giảm trung bình 1% mỗi năm trong giai đoạn 1979 - 1999, từ 5,4 triệu ha xuống còn 4,9 triệu ha Để hỗ trợ thu nhập cho nông dân do mất đất, chính phủ Nhật Bản đã triển khai các chính sách phát triển nông nghiệp nhằm củng cố sản xuất trong nước và xuất khẩu nông sản Họ tập trung vào việc sản xuất các loại nông sản có giá trị kinh tế cao, sử dụng ít đất và lao động, đồng thời thực hiện nông nghiệp sinh thái để tăng thu nhập cho nông dân Cải cách trong sản xuất lúa gạo đã được thực hiện theo hướng hình thành các trang trại quy mô lớn, ứng dụng khoa học hiện đại để giảm chi phí sản xuất và áp dụng hệ thống cơ khí nhỏ phù hợp với canh tác lúa và hộ nông dân quy mô nhỏ Ngoài ra, việc tổ chức các mạng lưới xí nghiệp công nghiệp ở nông thôn cũng giúp tận dụng nguồn lao động dư thừa.
Hàn Quốc có tổng diện tích đất canh tác là 2,1 triệu ha, nhưng quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã khiến diện tích đất nông nghiệp giảm khoảng 1,4% mỗi năm, tương đương 28,8 nghìn ha/năm, để phục vụ cho phát triển công nghiệp, du lịch và các hoạt động ngoài nông nghiệp Để đối phó với tình trạng đất canh tác hạn chế và chi phí lao động cao, từ đầu những năm 1990, nông nghiệp Hàn Quốc đã chuyển sang mô hình nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng các thành tựu của công nghệ sinh học, hóa học và điện tử.
Đài Loan có diện tích đất canh tác rất hạn chế, chỉ khoảng 851,5 nghìn ha, với 72% hộ nông dân sở hữu dưới 1 ha đất Sự công nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn đến việc mất khoảng 17,03 nghìn ha đất canh tác mỗi năm Do diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp và lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp giảm, nông nghiệp chủ yếu được thực hiện theo quy mô sản xuất nhỏ, mang tính chất gia đình, với các biện pháp thâm canh và cơ giới hóa Ngoài ra, diện tích đất trồng lúa cũng giảm để chuyển sang trồng rau, quả nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
1.4.1.2 Nghiên cứu về ảnh hưởng của công nghiệp hóa đến chất lượng đất
Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong một thập kỷ từ
Từ năm 1970 đến 1980, quá trình công nghiệp hóa đã dẫn đến việc lấy đi những vùng đất thấp màu mỡ, khiến sản xuất lương thực phải chuyển lên các vùng đất cao, gây ra tình trạng xói mòn đất nghiêm trọng Hàng năm, nước Mỹ mất khoảng 3 tỷ tấn đất mặt màu mỡ, buộc chính phủ phải chi 2 tỷ USD để khắc phục tình trạng xói mòn trên 16 triệu ha đất canh tác Mặc dù việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón đã tăng năng suất nông nghiệp, nhưng cũng gây ô nhiễm đất và nguồn nước, thiệt hại cho nông nghiệp Mỹ lên tới 1,2 tỷ USD/năm Tình trạng đô thị hóa và công nghiệp hóa cũng đang gây suy thoái môi trường đất nông nghiệp ở Trung Quốc, với diện tích rừng giảm xuống chỉ còn 16,6% Hiện tượng xói mòn, sa mạc hóa và ô nhiễm đất ngày càng gia tăng, với 38% diện tích đất bị xâm thực và khoảng 2.460 km² đất bị sa mạc hóa mỗi năm.
Lắng đọng axít chủ yếu xảy ra ở những khu vực có mức độ công nghiệp hóa cao, đặc biệt là tại các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan và Hàn Quốc, nơi phát thải SO2 và NO2 đáng kể Quá trình axit hóa đất và nước mặt dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của Al3+ và Mn2+, gây độc hại cho cây trồng, đặc biệt là các loại cây họ đậu và cây ngũ cốc, vốn rất nhạy cảm với nồng độ kim loại này.
Al 3+ trong đất Một nghiên cứu năm 1990 đã đánh giá thiệt hại do lắng đọng axit đối với sản xuất nông nghiệp ở châu Âu khoảng 30 tỷ USD/năm
1.4.2.1 Nghiên cứu về phát triển công nghiệp, đô thị và phát triển nông nghiệp, nông thôn Ở Việt Nam, quá trình CNH được thực hiện từ những năm 1960, kể từ sau đổi mới, nền kinh tế càng phát triển thì quá trình CNH - ĐTH diễn ra càng nhanh Đến 2008 số dân cư đô thị đã chiếm tới 28% tổng dân cư toàn quốc với khoảng
700 trung tâm đô thị lớn nhỏ Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 7 năm
Năm 2007, cả nước đã thành lập 150 khu công nghiệp với tổng diện tích đất tự nhiên là 32,3 ngàn ha Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, đồng thời có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp và nông thôn Quá trình này tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất và hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao Điều này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi nền nông nghiệp truyền thống và phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng hàng hóa có sức cạnh tranh cao trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
1.4.2.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến số lượng, chất lượng đất và sản xuất nông nghiệp
Theo quy hoạch sử dụng đất của BTNMT, diện tích đất nông nghiệp dự kiến tăng từ 8.973.783 ha vào năm 2000 lên 9.363.063 ha vào năm 2010 Tuy nhiên, dân số Việt Nam sẽ tăng từ 77,6 triệu lên khoảng 86,5 triệu người, dẫn đến diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm từ 0,113 ha xuống 0,108 ha trong cùng thời gian Điều này có nghĩa là mỗi người sẽ giảm khoảng 50m² đất nông nghiệp trong 10 năm, tương đương 5m² mỗi năm PGS.TS Lê Thái Bạt từ Hội Khoa học đất Việt Nam cảnh báo rằng con số này rất đáng lo ngại, nhất là khi khoảng 75% dân số nước ta vẫn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp.
Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, diện tích đất trồng lúa của Việt Nam là 4.165.277 ha, trong đó 60% tập trung ở 24 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Bắc bộ Tuy nhiên, nghiên cứu của Viện Nghiên cứu định canh cho thấy từ năm 2000 đến 2006, diện tích đất trồng lúa đã giảm 318.400 ha do sự mở rộng của các khu công nghiệp và khu đô thị mới.
Cách đây 10 năm, Vĩnh Phúc, Hải Dương và Hưng Yên là ba tỉnh miền Bắc nổi bật với diện tích đất nông nghiệp lớn và đồng bãi phì nhiêu, được xem là tỉnh “thuần nông” Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp hóa và đô thị hóa, cùng với quy hoạch các khu công nghiệp và thu hút đầu tư, đã giúp các tỉnh này đạt thu nhập lên đến 1000 tỷ/năm, mặc dù diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hẹp đáng kể.
Trong 10 năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã thu hồi hơn 4.000 ha đất nông nghiệp để phục vụ 650 dự án xây dựng khu công nghiệp và đô thị Tại Hưng Yên, năm 2007, 500 ha đất lúa đã bị thu hồi để xây dựng 4 khu công nghiệp ở các vùng chuyên canh Tỉnh Bắc Ninh ghi nhận sự giảm diện tích đất nông nghiệp từ hơn 49.000 ha năm 2000 xuống còn hơn 42.000 ha vào đầu năm 2008, trong đó năm 2005 có hơn 2.500 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến 9% hộ dân mất 80-100% đất sản xuất và 20% hộ dân mất 50-80% đất canh tác.
Theo Quy hoạch và Kế hoạch phát triển đất các KCN tập trung ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ do BTNMT lập đầu năm 2007 Trong giai đoạn 5 năm (2006
Từ năm 2010, nhiều tỉnh đã mở rộng quỹ đất cho các khu công nghiệp, cụ thể như Hà Tây tăng từ 2.243 ha lên 17.000 ha, Bắc Ninh từ 1.062 ha lên 7.000 ha, Hưng Yên từ 102 ha lên 4.080 ha, và Hải Dương từ 975 ha lên 6.000 ha Sự mở rộng này dẫn đến việc mất đi một lượng tương ứng đất nông nghiệp, gây ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên đất canh tác.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn
Sóc Sơn là huyện ngoại thành Thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô
Hà Nội 40 km về phía Bắc, có tổng diện tích tự nhiên 30.651,30 ha, bao gồm 26 đơn vị hành chính: 25 xã và 01 thị trấn Có vị trí địa lý:
- Phía Bắc giáp huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên;
- Phía Nam giáp huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội;
- Phía Đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh;
- Phía Tây giáp huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
Huyện có vị trí cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội: cửa ngõ phía Bắc theo Quốc lộ
Vị trí địa lý của khu vực này rất thuận lợi, nằm ở cửa ngõ phía Tây theo Quốc lộ 2 và cửa ngõ phía Đông theo Quốc lộ 18 Hệ thống giao thông đối ngoại phát triển, đặc biệt là gần cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cùng với các trục quốc lộ quan trọng như Hà Nội - Thái Nguyên và Bắc Ninh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và giao thương.
Hà Nội - Việt Trì, vì vậy có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh nền kinh tế - xã hội
Sóc Sơn là vùng bán sơn địa với ba loại địa hình chính: vùng đồi gò, vùng chuyển tiếp và vùng đồng bằng ven sông Vùng đồi gò của Sóc Sơn bao gồm hệ thống núi thấp và đồi gò, kéo dài về phía đông của dãy núi Tam Đảo, với độ cao trung bình từ 200-300m so với mực nước biển Đỉnh núi cao nhất là núi Hàm Lợn (485m), tiếp theo là Cánh Tay (332m) và núi đền Sóc (308m) Điểm thấp nhất của vùng này là 20m, và địa hình có độ dốc trung bình từ 20-25 độ, phân chia mạnh mẽ với sườn dốc và lưu vực ngắn.
Theo kết quả điều tra phục vụ điều chỉnh quy hoạch rừng Sóc Sơn đối với khoảng 5.830 ha đất đồi gò cho thấy:
Theo phân loại độ cao, đất đồi gò ở Sóc Sơn chủ yếu tập trung ở độ cao dưới 200 m với khoảng 1.100 ha ở độ cao từ 100-200 m và 3.560 ha ở độ cao dưới 100 m Ở độ cao từ 200-300 m có khoảng 670 ha, trong khi diện tích đất ở độ cao trên 300 m là khoảng 500 ha.
Theo phân cấp độ dốc, khu vực có độ dốc dưới 7° chiếm 2.030 ha, từ 8-15° là 1.310 ha, từ 16-25° là 1.360 ha, từ 26-35° là 770 ha, và trên 35° là 360 ha Vùng chuyển tiếp kéo dài từ phía Bắc đến giữa huyện Sóc Sơn, với diện tích khoảng 9.300 ha, chủ yếu là ruộng bậc thang, có độ cao trung bình từ 20 - 40 m Đồng bằng ven sông bao quanh huyện từ phía Đông Bắc, Đông đến Đông Nam, trải qua 12 xã với diện tích khoảng 88.510 ha Địa hình khu vực này khá bằng phẳng, độ cao trung bình từ 10 - 20 m, trong đó khoảng 1.000 ha đất thường xuyên bị ngập úng.
Theo nghiên cứu của Viện Nông hoá Thổ Nhưỡng cho Quy hoạch sử dụng đất huyện Sóc Sơn, UBND Thành phố Hà Nội đã phê duyệt vào năm 2010, tài nguyên đất của huyện được chia thành 03 nhóm chính Trong đó, đất phù sa chiếm ưu thế, với diện tích khoảng 5.061 ha, phân bố rộng rãi trên địa bàn huyện, đặc biệt tập trung nhiều ở các xã phía Nam.
Đất phù sa bồi hàng năm tại khu vực ngoài đê sông Cầu, thuộc các xã phía đông huyện như Tân Hưng, Việt Long, Đức Hoà, Xuân Thu và Kim Lũ, thường có tính chua (Pb.c) và tổng diện tích lên tới 385 ha.
Đất phù sa có tổng diện tích 419 ha, chủ yếu nằm ở khu vực cao ven đê và trong đê của các xã phía Đông, với đặc điểm là ít được bồi và có tính kiềm yếu.
Đất phù sa không bị bồi lấp và có gley yếu (Pb) có tổng diện tích 664 ha, hoàn toàn nằm trong đê và thuộc khu vực các cánh đồng với hệ thống tưới tiêu ổn định.
- Đất phù sa không được bồi có gley trung bình hoặc mạnh (Ps), với tổng diện tích 542 ha, chủ yếu ở các xã vùng trũng phía Đông Nam huyện
- Đất phù sa không được bồi không gley hoặc gley yếu thường chua (Pc), với tổng diện tích 680 ha
Đất phù sa không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng gley mạnh và úng nước trong mùa hè, phân bố tại các xã như Đông Xuân, Kim Lũ, và Bắc Phú, với tổng diện tích lên tới 990 ha.
- Đất phù sa ngòi suối (Py), đây là loại đất chỉ có ở ven các suối đầu nguồn của Sóc Sơn, với tổng diện tích 172 ha
Đất phù sa không được bồi dưới có sản phẩm feralitic (Pf) với tổng diện tích 1.209 ha, là đặc trưng của các khu vực tiếp giáp giữa đồng bằng và vùng đồi gò Loại đất này được hình thành từ quá trình bồi lắng phù sa của các con sông, và đã trải qua sự phân hoá theo thời gian và không gian.
Các vùng đất phù sa thường có địa hình tương đối bằng phẳng, với thành phần cơ giới đất từ thịt trung bình đến thịt nặng Chúng sở hữu thành phần dinh dưỡng tốt và hàm lượng mùn đạt yêu cầu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc canh tác.
2 - 3%, đạm 0,15 - 0,20% Nhóm đất này thích hợp với nhiều loại cây trồng b/ Đất bạc màu bao gồm 2 loại:
Đất bạc màu phát triển trên phù sa cũ có sản phẩm feralitic (Ba) là loại đất phổ biến nhất tại huyện, với tổng diện tích lên đến 10.655 ha, chiếm 1/3 tổng diện tích tự nhiên của khu vực Loại đất này chủ yếu phân bố ở các xã vùng đồi gò như Minh Trí, Minh Phú, Nam Sơn, Bắc Sơn, Phù Linh, Hồng Kỳ và Quang Tiến.
Đất dốc tụ xen đồi núi bạc màu không có sản phẩm feralitic (D) là loại đất đặc trưng chỉ có tại Sóc Sơn, phân bố xen kẽ trong các thung lũng hẹp với tổng diện tích lên tới 1.846 ha.
Các loại đất bạc màu thường có hàm lượng mùn và chất dinh dưỡng thấp, chủ yếu phân bố ở vùng đồi núi thấp và ruộng bậc thang với lớp đất canh tác mỏng Nhóm đất feralitic là đặc trưng của khu vực đồi gò Sóc Sơn, bao gồm 5 loại đất khác nhau.
- Đất feralitic trên núi (Fe), với tổng diện tích 1091 ha, chỉ có ở các xã vùng đồi cao như Bắc Sơn, Nam Sơn, Minh Trí, Minh Phú
Đất feralitic vàng đỏ hoặc vàng hình thành trên nền đá sa thạch quăczit, cuội kết và dăm kết (Fs), chiếm diện tích rộng lớn lên tới 5845 ha, tương đương hơn 50% tổng diện tích của vùng đồi gò.
- Đất feralitic vàng hoặc đỏ vàng phát triển trên phiến thạch sét aglit, silic, hoặc gnai xen lẫn fecmatit (Fa), với tổng diện tích 376 ha
- Đất feralitic nâu vàng phát triển trên phù sa cổ (Fp), có diện tích 879 ha