MỘT SÓ VẤN ĐÈ PHÁP LÝ TRONG THỤC HIỆN PHÁP LUẬT VÈ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Các hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
1.2.1 Các hình thức thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Đầu tiên, việc tuân thủ pháp luật về thuê đất nông nghiệp (THĐNN) là rất quan trọng Đây là một hình thức thực thi pháp luật, trong đó các cơ quan nhà nước, cá nhân và tổ chức phải kiềm chế các hoạt động bị pháp luật cấm liên quan đến thuê đất nông nghiệp.
Hình thức thu hồi đất trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài (THĐNN) phải tuân thủ các quy định và cấm đoán nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia và công cộng Theo Điều 62 của Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước chỉ được thực hiện THĐNN trong các trường hợp như: thực hiện các dự án quan trọng quốc gia được Quốc hội phê duyệt, các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, và các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đồng ý, tất cả đều yêu cầu thu hồi đất.
Thi hành pháp luật trong lĩnh vực thừa kế là một hình thức thực hiện nghĩa vụ pháp lý, trong đó các chủ thể tham gia vào quan hệ thừa kế phải thực hiện các nghĩa vụ được pháp luật quy định thông qua những hành động tích cực Nói cách khác, thi hành pháp luật về thừa kế là việc các chủ thể chủ động thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Trong hình thức này, các chủ thể thực hiện nghĩa vụ cụ thể liên quan đến tổ chức và tham gia thu hồi đất, thông qua các hành động tích cực theo quy định pháp luật Chẳng hạn, ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan để tổ chức công khai quyết định cưỡng chế thu hồi đất, tham gia vào quá trình cưỡng chế, và phối hợp với tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng Đặc biệt, trong vòng 30 ngày kể từ khi quyết định thu hồi đất có hiệu lực, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường và hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi.
Thứ ba, việc sử dụng pháp luật trong thực hiện quyền về đất đai (THĐNN) là hình thức mà các chủ thể THĐNN chủ động thực hiện quyền của mình theo quy định pháp luật Khác với thi hành pháp luật, ở đây, các chủ thể có quyền quyết định việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình, đồng thời có thể lựa chọn phương thức thực hiện Chẳng hạn, cá nhân và hộ gia đình có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản khi đất đai bị thu hồi, yêu cầu hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, hoặc tìm kiếm việc làm khi Nhà nước thu hồi đất, và yêu cầu chi trả tiền bồi thường đúng thời hạn theo quy định pháp luật.
Áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp (THĐNN) là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền, như UBND các cấp, ra các quyết định dựa trên quy định của pháp luật THĐNN Quy trình này nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực THĐNN, đảm bảo sự tham gia của Nhà nước trong việc quản lý và điều chỉnh các hoạt động liên quan đến đất nông nghiệp.
Trong hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, có 20 mức độ khác nhau với quy trình và thủ tục chặt chẽ Các cơ quan, tổ chức thường xuyên gặp phải nhiều tình huống phức tạp cần giải quyết, vì vậy người áp dụng pháp luật về thực hiện quyền lực nhà nước cần có kiến thức sâu sắc về pháp luật liên quan Hoạt động này không chỉ phức tạp mà còn ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên, do đó cần được thực hiện một cách thận trọng, chính xác và dựa trên các quy định của pháp luật về thực hiện quyền lực nhà nước và pháp luật đất đai.
1.2.2 Nội dung thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
1.2.2.1 Thực hiện pháp luật về xây dựng kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiêm đếm đất nông nghiệp bị thu hồi
THĐNN đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quỹ tài nguyên đất đai, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng và phát triển của đất nước Qua quá trình này, quan hệ pháp luật đất đai của người sử dụng đất nông nghiệp sẽ được chấm dứt.
Theo Điều 66 của Luật Đất đai năm 2013, chỉ các cơ quan có thẩm quyền mới được thực hiện thủ tục thu hồi đất (THĐ) Cụ thể, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh có quyền thu hồi đất đối với các trường hợp như đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích do xã, phường, thị trấn quản lý, đất của tổ chức tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Đối với đất thuộc quyền sở hữu của hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư, UBND cấp huyện sẽ quyết định thu hồi Ngoài việc đảm bảo thẩm quyền, cơ quan thực hiện thu hồi đất cũng cần tuân thủ các điều kiện về thủ tục thu hồi đất nông nghiệp.
Trước khi thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp (THĐNN), cần xây dựng kế hoạch và tiến hành điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm đất nông nghiệp bị thu hồi Theo Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, trách nhiệm này thuộc về cơ quan tài nguyên và môi trường, nhằm đảm bảo quy trình thu hồi đất được thực hiện đúng quy định.
21 trường trình ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt kế hoạch THĐ, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm Kế hoạch phải bao gồm các nội dung:
- Lý do thu hồi đất;
Diện tích và vị trí khu đất thu hồi được xác định dựa trên hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt Trong trường hợp thu hồi đất theo tiến độ thực hiện dự án, cần ghi rõ thời gian và tiến độ thu hồi đất.
- Kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;
- Dự kiến về kế hoạch di chuyển và bố trí tái định cư;
- Giao nhiệm vụ lập, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Theo Điều 67 và Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013, trước khi có quyết định thu hồi đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người có đất bị thu hồi, với thời gian thông báo là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp Nội dung thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi, điều tra, khảo sát, đo đạc và kiểm đếm.
Thông báo thu hồi đất (THĐ) sẽ được gửi đến từng cá nhân có đất bị thu hồi, đồng thời tổ chức họp để phổ biến thông tin đến cộng đồng dân cư trong khu vực Ngoài ra, thông báo cũng sẽ được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã cũng như tại các địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Việc quy định thời gian thông báo thu hồi đất trước khi có quyết định từ cơ quan nhà nước là cần thiết, giúp người sử dụng đất có thời gian chuẩn bị và sắp xếp Đồng thời, Nhà nước cũng thực hiện các bước theo quy định pháp luật liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp.
UBND cấp xã cần hợp tác với tổ chức phụ trách bồi thường và giải phóng mặt bằng để thực hiện kế hoạch thu hồi đất, bao gồm các công việc điều tra, khảo sát, đo đạc và kiểm đếm.
Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
1.3.1 Điều kiện về chính trị- kinh tế- xã hội ♦ • •
Đảng đã xác định rõ quan điểm và đường lối trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai, đặc biệt là chính sách về thuê đất nông nghiệp (THĐNN) Những quan điểm này đóng vai trò định hướng chính trị cho hoạt động lập pháp và quy định pháp luật tại Việt Nam Do đó, việc xây dựng pháp luật đất đai và pháp luật về THĐNN phải tuân thủ các quan điểm này để đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả trong quản lý đất đai.
Chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách và pháp luật đất đai trong công cuộc đổi mới đất nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý xã hội Trong bối cảnh một Đảng cầm quyền, Đảng ban hành các quan điểm và đường lối phát triển, từ đó Nhà nước thể chế hoá những quan điểm này thành các quy định pháp luật Điều này có nghĩa là pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp đã được xây dựng dựa trên các chủ trương của Đảng, cho thấy sự tác động trực tiếp của các quan điểm này đến quá trình hoàn thiện pháp luật đất đai.
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tại Việt Nam quy định rằng đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu Điều này ảnh hưởng đến nội dung các quy định pháp luật về thuê đất nông nghiệp, thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản.
Ở Việt Nam, khi Nhà nước cần sử dụng đất cho mục đích quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia, việc thu hồi đất sẽ được thực hiện kèm theo bồi thường cho người sử dụng đất, thay vì mua đất từ chủ sở hữu như ở các nước có chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.
Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất được xác định dựa trên khung giá đất do Nhà nước quy định tại thời điểm thu hồi, thay vì dựa vào giá đất trên thị trường.
Không phải mọi người bị thu hồi đất đều được bồi thường, mà chỉ những người sử dụng đất đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định mới được nhận bồi thường Hơn nữa, không phải cơ quan nhà nước nào cũng có quyền thu hồi đất; chỉ những cơ quan được pháp luật chỉ định mới có thẩm quyền thực hiện việc này.
Trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung trước đây, đất đai không được công nhận là tài sản và bị cấm mua bán, chuyển nhượng, dẫn đến giá trị thấp và ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường bất động sản.
Trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp (THĐNN) đã có những thay đổi quan trọng, tuy nhiên, vẫn gặp nhiều khó khăn và phức tạp Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất như một loại hàng hóa đặc biệt và thiết lập khung giá đất, dẫn đến việc đất đai ngày càng có giá trị Tuy nhiên, nhiều người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường và tái định cư, gây ra tranh chấp và khiếu kiện, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị Để duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội, Nhà nước đã ban hành các quy định về bồi thường và hỗ trợ, đồng thời thường xuyên rà soát và hoàn thiện pháp luật về THĐNN để đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường.
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi nước ta tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và luật lệ của tổ chức này Các nguyên tắc cơ bản bao gồm bình đẳng và không phân biệt đối xử trong kinh doanh, công khai và minh bạch, cùng với cải cách thủ tục hành chính thông qua cơ chế một cửa Những quy định này áp dụng đồng bộ cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng mặt bằng và áp giá bồi thường Thời gian qua, các nội dung này đã được sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh, tiến dần đến sự hài hòa với pháp luật quốc tế.
Các điều kiện về chính trị và kinh tế xã hội nếu được đảm bảo sẽ có tác động tích cực đến thực thi pháp luật về đầu tư nước ngoài Ngược lại, nếu những điều kiện này không được thực hiện tốt, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay.
13.2 Điêu kiện vê pháp luật
Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thủ tục hành chính về thu hồi đất nông nghiệp (THĐNN) Nó bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và thực hiện THĐNN, như trình tự, thủ tục, cách thức tổ chức và các trường hợp cụ thể của THĐNN.
THĐ được quy định từ trước khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được thiết lập Luật Đất đai qua các thời kỳ đã xác định hoạt động thu hồi đất như một công cụ quản lý nhà nước, nhằm thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của nhà nước đối với đất đai Trong bối cảnh kinh tế thị trường, thu hồi đất còn được coi là một phần của quá trình điều phối đất đai Mặc dù chế định thu hồi đất đã được hoàn thiện theo sự phát triển của pháp luật, nhưng những đổi mới vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội về công bằng và hiệu quả Thậm chí, trong một số trường hợp, THĐNN còn gây ra bất ổn trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội Nguyên nhân chính của những hạn chế này là do các quy định pháp luật chưa đầy đủ.
Mặc dù được quy định và áp dụng từ khá lâu nhưng mãi đến khi Luật Đất đai
Theo Luật Đất đai 2003, thu hồi đất (THĐ) được định nghĩa là quyết định hành chính của Nhà nước nhằm thu lại quyền sử dụng đất (QSDĐ) hoặc đất đã giao cho tổ chức và ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý Luật Đất đai 2013 bổ sung rằng THĐ là hành động của Nhà nước để thu hồi QSDĐ từ người được giao hoặc thu hồi đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.
Mặc dù có sự khác biệt trong định nghĩa của các Luật Đất đai, việc thu hồi đất đều dẫn đến hậu quả pháp lý là chấm dứt quyền sử dụng đất (QSDĐ) của người sử dụng đất (NSDĐ) hoặc quyền quản lý đất đai của các chủ thể được Nhà nước giao đất quản lý.
Với quy định về THĐ của Luật Đất đai đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc
Luật Đất đai năm 2013 được cụ thể hóa thông qua các nghị định của Chính phủ, bao gồm Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 01/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 03 tháng 3 năm 2017 và Nghị định số 06/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 20 tháng 02 năm 2020, nhằm điều chỉnh các quy định liên quan đến bồi thường và hỗ trợ khi thu hồi đất Cuối cùng, Nghị định số 148/2020/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 08 tháng 12 năm 2020, tiếp tục sửa đổi một số quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
THựC TRẠNG THựC HIỆN PHÁP LUẬT VÈ THU HÒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Sơn La có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp
2.1.1 Đặc điếm tự nhiên của tỉnh Sơn La có ảnh hưởng tới việc thực hiện • ♦ o • • • pháp luật thu hồi đất nông nghiệp
Tỉnh Sơn La, nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam, là một vùng núi cao với diện tích tự nhiên 14.055 km², chiếm 4,27% tổng diện tích cả nước Tỉnh này giáp với Yên Bái và Lào Cai ở phía Bắc, Lai Châu ở phía Đông, và Thanh Hóa cùng nước Lào ở phía Nam Sơn La cách thủ đô Hà Nội khoảng 320 km về phía Tây Bắc.
Tỉnh Sơn La có 4 tuyến giao thông chính kết nối với thủ đô Hà Nội, bao gồm Quốc lộ 6, Quốc lộ 37, Quốc lộ 43 và Quốc lộ 279 Ngoài ra, tỉnh còn có sân bay Nà Sản và cảng đường sông Tà Hộc, Vạn Yên, cùng với các con sông lớn như sông Đà và sông Mã, chảy qua địa bàn với chiều dài lần lượt là 150km và 95km Địa hình Sơn La chủ yếu là núi, chiếm hơn 85% diện tích tự nhiên, với hai cao nguyên Mộc Châu và Nà Sản tương đối bằng phẳng Độ cao trung bình của tỉnh từ 600 đến 700 m so với mực nước biển, điểm cao nhất đạt 2.879 m và điểm thấp nhất là 70 m so với mực nước biển.
Tỉnh Sơn La có tổng diện tích đất tự nhiên lên tới 1.405.500 ha Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 13,52% với 190.070 ha, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 23,55% tương đương 331.120 ha, và đất chuyên dùng chiếm 1,53% với 22.327 ha Diện tích đất ở chỉ chiếm 0,39%, tương ứng 5.756 ha, trong khi diện tích đất chưa sử dụng và sông suối chiếm 59,02%, tương đương 856.227 ha.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, tổng diện tích đất trồng cây hàng năm đạt 161.266 ha, chiếm 84,48% tổng diện tích, trong đó lúa 2 vụ chỉ chiếm 0,8% Bên cạnh đó, diện tích đất trồng cây lâu năm là 16.426 ha, tương đương 8,64%.
Diện tích đất trống và đồi núi trọc cần được phủ xanh lên tới 734.018 ha, trong khi đất bằng chưa sử dụng là 380 ha Ngoài ra, còn có 59 ha đất có mặt nước chưa được khai thác, 9.793 ha đất sông suối, 64.376 ha đất núi đá không có cây, và 47.601 ha đất chưa sử dụng khác.
Sơn La, cách Hà Nội khoảng 150km, nằm ở trung tâm vùng Tây Bắc, là nơi sinh sống của 12 dân tộc anh em với nền văn hóa phong phú và đa dạng Tỉnh này không chỉ nổi bật với các giá trị văn hóa đặc sắc mà còn sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, hứa hẹn mang đến nhiều trải nghiệm thú vị cho du khách.
Sơn La sở hữu bốn loại địa hình chính: núi, đồi, đồng bằng và sông hồ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và du lịch Những đặc trưng địa hình này mang lại tiềm năng kinh tế phong phú và hấp dẫn cho vùng đất này.
Sơn La đã tận dụng tiềm năng kinh tế và xã hội để phát triển mạnh mẽ, nhờ vào các chủ trương và chính sách của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Đặc biệt, chính sách về THĐNN được triển khai nhằm tạo đột phá trong phát triển kinh tế, ưu tiên cho các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao Kết quả là, trong những năm gần đây, kinh tế tỉnh Sơn La đã có những chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực.
2.2.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn La có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp
Báo cáo từ tỉnh Sơn La chỉ ra rằng, tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2016-2020 ước đạt 5,46%/năm, với quy mô kinh tế tăng mạnh, GRDP đạt 56.009 tỷ đồng, tăng 1,54 lần Cơ cấu kinh tế cho thấy nông, lâm, thủy sản chiếm 23,6%, trong khi công nghiệp - xây dựng chiếm 30,3% Đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 44,1%, tăng 13,3 triệu đồng so với năm 2015.
Trong nhiệm kỳ 2016-2020, tỉnh Đà đã xác định đúng các khâu đột phá và nhiệm vụ trọng tâm, từ đó đề ra những giải pháp phù hợp và chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt Nhờ vào những nỗ lực này, tình hình phát triển của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực.
Tình hình chính trị-xã hội tại Sơn La ổn định, với sự đoàn kết toàn dân tộc được củng cố Quốc phòng được bảo đảm, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được duy trì Công tác đối ngoại được tăng cường, cùng với việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, và bảo vệ môi trường đã có nhiều tiến bộ Công tác xây dựng Đảng và củng cố hệ thống chính trị được đẩy mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh, toàn diện và bền vững của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
Địa bàn tỉnh Sơn La chủ yếu là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số, với tỷ lệ biết chữ đạt 70,8% nhờ vào việc phổ cập giáo dục tiểu học cho toàn bộ 10 huyện và 201 xã, phường Tuy nhiên, nhận thức của người dân về việc thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng vẫn còn hạn chế, dẫn đến tâm lý đón nhận chưa cao Để thực hiện tốt pháp luật trong lĩnh vực này, đội ngũ cán bộ, công chức cần phải trung thực, tận tâm và có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cùng phẩm chất chính trị, đạo đức tốt.
Nhờ vào những đặc điểm kinh tế và xã hội đang phát triển năng động và bền vững, tỉnh Sơn La tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc thực thi pháp luật về tài nguyên nước Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy nhận thức pháp luật mà còn nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân đối với tài nguyên nước Bên cạnh đó, nền kinh tế ổn định của tỉnh cũng góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến tài nguyên nước.
2.2 Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La và nguyên nhân
Trong 05 năm tổ chức thi hành LĐĐ năm 2013, về cơ bản việc thực hiện các quy định về THPL về THĐNN trên địa bàn tỉnh Sơn La đà và đang thực hiện có kết quả Việc THĐNN được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định và đảm bảo tính công khai, minh bạch Việc bồi thường giải phóng mặt bằng và tổ chức tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi trong thời gian qua đã được các cấp, ngành quan tâm.
Trong quá trình thực hiện, UBND tỉnh đã ban hành các kế hoạch và tổ chức
Từ năm 2016 đến nay, đã tổ chức 25 hội nghị về Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành tại các huyện, thành phố, thu hút hơn 2.000 cán bộ và người dân tham gia Quyết định 1650/QĐ-ƯBND ban hành ngày 5/7/2016 đã quy định rõ 16 bước trong trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, tạo điều kiện thuận lợi cho UBND các huyện trong việc thực hiện công tác bồi thường và giải phóng mặt bằng Tỉnh Sơn La đã ban hành nhiều quyết định cụ thể hóa quy định của Luật Đất đai 2013, bao gồm Quyết định số 15/2014/QĐ-UBND và Quyết định số 43/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ và bảng giá đất giai đoạn 2020-2024 Các sở, ngành cũng đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành 64 văn bản áp dụng các chính sách hỗ trợ đặc thù cho từng dự án.
2.2 ỉ Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tinh Sơn La
Các dự án THĐNN đều thực hiện theo quy trình quy định tại Nghị định số 47/2014/NĐ - CP của Chính Phủ; Quyết định số 1650/QĐ-UBND ngày 05 tháng
Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở địa bàn tỉnh Sơn La và nguyên nhân
nông nghiệp ờ địa bàn tỉnh Sơn La và nguyên nhân
2.3.1 Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Sơn La vẫn còn gặp nhiều hạn chế và yếu kém.
Thử nhất, thực hiện pháp luật về xây dựng kế hoạch THĐ, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm ĐNN bị thu hồi
Công tác quy hoạch và kế hoạch thu hồi đất (THĐ) hiện nay còn mang tính hành chính và áp đặt ý chí của cơ quan lập kế hoạch, thiếu sự quan tâm đến ý kiến của người dân Quy định về việc ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thông báo thu hồi đất ngay sau khi giới thiệu địa điểm đầu tư đã góp phần đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất, nhưng đồng thời cũng thể hiện quyền tự quyết của Nhà nước, khiến việc thu hồi đất trở thành quyết định đơn phương, không xem xét ý kiến của người dân Trong giai đoạn này, khi chủ đầu tư nộp hồ sơ, cơ quan tiếp nhận không tổ chức tham vấn ý kiến của người dân, mặc dù họ là chủ sử dụng đất.
Khi quyết định thu hồi đất, người sử dụng đất cần được tham gia ý kiến, tương tự như trong giai đoạn lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Họ có quyền được bày tở tâm tư, nguyện vọng, đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc phản đối việc thu hồi đất.
Nhiều hộ dân tại phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La đang bức xúc trước việc chính quyền thành phố liên tục ban hành các văn bản thu hồi đất và kiểm đếm để giải phóng mặt bằng cho dự án Khu đô thị số 1 Họ phản đối việc giao đất cho doanh nghiệp xây dựng khu đô thị và tổ chức phân lô, bán nền kết hợp với trung tâm thương mại mà không có sự đồng thuận từ phía người dân.
Theo phản ánh của cư dân, UBND thành phố Sơn La đã ban hành các văn bản thu hồi 9,67 ha đất tại bản Sang và bản Noong La, phường Chiềng Sinh Diện tích này được quy hoạch để phát triển khu đô thị đồng bộ với hạ tầng kỹ thuật, công viên cây xanh và kinh doanh bất động sản Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 262 tỷ đồng, với doanh thu dự kiến đáng kể.
Dự án có tổng vốn đầu tư 45 hơn 381 tỷ đồng, dự kiến nộp vào ngân sách Nhà nước hơn 35 tỷ đồng, ảnh hưởng đến hơn 300 hộ dân, chủ yếu là những người sống nhờ vào đất nông nghiệp và không có công ăn việc làm Mặc dù người dân đồng ý với chủ trương phát triển kinh tế địa phương, nhưng việc thu hồi đất để giao cho doanh nghiệp xây dựng dự án cần được xem xét kỹ lưỡng, dựa trên ý kiến của người dân và thực trạng địa phương, nhằm giảm thiểu khó khăn cho các hộ dân khi mất đất.
Hiện nay, quy định về nội dung thông báo thu hồi đất nông nghiệp còn thiếu sự thống nhất giữa các văn bản luật, gây khó khăn cho các địa phương trong việc thực hiện Cụ thể, theo Điều 67 Luật Đất đai, thông báo thu hồi đất cần bao gồm 05 nội dung của kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc và kiểm đếm Tuy nhiên, Nghị định số 43/2017/NĐ-CP lại chỉ quy định 04 nội dung, dẫn đến sự bất cập trong quá trình triển khai.
Bên cạnh đó, nội dung thông báo về diện tích, vị trí đất thu hồi theo biểu mẫu
Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất, trong đó nêu rõ rằng loại đất đang sử dụng có thể bị thu hồi Quy định này gây khó khăn cho địa phương, đặc biệt khi người sử dụng đất chưa đăng ký, dẫn đến việc thiếu thông tin về loại đất để thông báo Mục đích sử dụng đất chỉ có thể xác định chính xác qua việc kiểm đếm và xét tính pháp lý Sự không nhất quán giữa mục đích sử dụng đất trong thông báo thu hồi và mục đích sử dụng đất để áp giá bồi thường trong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có thể ảnh hưởng tiêu cực đến công tác bồi thường và là nguyên nhân phát sinh khiếu nại.
Hiện nay, quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất tại Ba La không bao gồm bước ghi nhận hiện trạng khu đất tại thời điểm thông báo, dẫn đến nhiều khiếu nại tại Sơn La Nhiều vụ tranh chấp xảy ra giữa người sử dụng đất bị thu hồi và hội đồng bồi thường, đặc biệt liên quan đến tài sản gắn liền với đất như cây trồng và các tài sản không cần khai báo Nguyên nhân chính là do sự thiếu rõ ràng trong việc xác định tài sản trong quá trình thu hồi.
Có 46 trường hợp cố tình tạo lập tài sản nhằm nâng cao giá trị đất và tài sản khi nhà nước thu hồi Điều này không chỉ làm tăng giá trị bồi thường mà còn tạo cơ hội cho những người có chức quyền trong hội đồng đền bù nâng khống số lượng cây trồng, vật nuôi Họ cũng có thể tiếp tay cho người sử dụng đất trong việc tạo dựng tài sản gắn liền với khu đất bị thu hồi.
Việc thu hồi đất phải tuân theo kế hoạch sử dụng đất, nhưng nguồn vốn cho đền bù, giải tỏa và tái định cư lại phụ thuộc vào vốn đầu tư công Nếu không có vốn kịp thời, công tác này sẽ phải lùi sang năm sau Trong khi đó, quy hoạch sử dụng đất theo luật có thời hạn 10 năm, còn kế hoạch sử dụng đất có thời hạn 5 năm Việc không bố trí vốn sẽ dẫn đến tình trạng quy hoạch treo.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về lập, thăm định phương án bồi thường hỗ trợ khi THĐNN
Tiến độ lập hồ sơ và thẩm định phương án bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Sơn La đang diễn ra chậm, không đạt yêu cầu đề ra Nhiều dự án, đặc biệt là các dự án lớn tại huyện Mộc Châu, bị chậm tiến độ do số lượng thửa đất cần thu hồi lớn Việc lập và thẩm định phương án bồi thường tốn nhiều thời gian, cộng với việc chưa có quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, dẫn đến quá trình áp dụng còn lúng túng và thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến tiến độ chung.
Việc lập hồ sơ bồi thường giải phóng mặt bằng của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư cấp huyện hiện còn thiếu sót và không đúng quy định Nhiều trường hợp Ủy ban Nhân dân cấp xã xác định nguồn gốc sử dụng đất chưa đầy đủ, không rõ loại đất và thời hạn sử dụng, dẫn đến việc thẩm định gặp khó khăn Hệ thống bản đồ đo đạc địa chính cũng chưa hoàn thiện, trong khi công tác lập và trích lục bản đồ địa chính của các dự án đầu tư thường gặp sai khác và mất nhiều thời gian để chỉnh sửa.
Quy định về việc lấy ý kiến trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại tỉnh Sơn La hiện đang gặp khó khăn do một số trường hợp chưa rõ ràng Điều này gây trở ngại cho việc thực hiện các quy trình liên quan đến bồi thường và tái định cư, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân Cần có sự điều chỉnh và làm rõ các quy định này để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Điểm a khoản 2 Điều 69 LĐĐ năm 2013 quy định rằng tổ chức thực hiện bồi thường và giải phóng mặt bằng phải lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đồng thời phối hợp với ủy ban nhân dân cấp xã để lấy ý kiến của người dân trong khu vực có đất thu hồi Tuy nhiên, quy định hiện tại chưa xác định rõ các đối tượng tham gia ý kiến, đặc biệt là những người không phải là chủ đất, như người thuê đất nông nghiệp Sự thiếu rõ ràng này có thể dẫn đến sự không thống nhất trong việc xác định đối tượng lấy ý kiến, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân Do đó, cần làm rõ ai là những người dân được lấy ý kiến trong khu vực thu hồi đất và quy định nguyên tắc xác định các đối tượng này.