1. Trang chủ
  2. » Tài Chính - Ngân Hàng

Giáo trình Thị trường chứng khoán (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Cao đẳng) - Trường CĐ Nghề Việt Đức Hà Tĩnh

54 14 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thị Trường Chứng Khoán
Trường học Trường Cao Đẳng Nghề Việt - Đức Hà Tĩnh
Chuyên ngành Kế toán doanh nghiệp
Thể loại giáo trình
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Tĩnh
Định dạng
Số trang 54
Dung lượng 1 MB

Cấu trúc

  • 1. Thị trường chứng khoán (0)
    • 1.1. Khái niệm về chứng khoán (2)
    • 1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán (3)
    • 1.3. Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán (4)
    • 1.4. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán (7)
    • 1.5. Cơ cấu thị trường chứng khoán (8)
    • 1.6. Quá trình hình thành phát triển thị trường chứng khoán (8)
  • 2. Bản chất và đặc điểm của thị trường chứng khoán (0)
    • 2.1. Bản chất (9)
    • 2.2. Đặc điểm (9)
  • 3. Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán (10)
    • 3.1. Chức năng của thị trường chứng khoán (10)
    • 3.2. Vai trò của thị trường chứng khoán (10)
  • 4. Mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán với tài chính doanh nghiệp (0)
    • 4.1. Mối quan hệ (12)
    • 4.2. Điều kiện gia nhập thị trường chứng khoán (12)
  • CHƯƠNG II: HÀNG HÓA VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (14)
    • 1. Hàng hoá của thị trường chứng khoán (0)
      • 1.1. Các loại chứng khoán (15)
    • 2. Phân loại thị trường chứng khoán (0)
      • 2.1. Căn cứ vào quá trình lưu thông chứng khoán (22)
      • 2.2. Căn cứ vào loại hàng hoá (22)
      • 2.3. Căn cứ trên phương diện pháp lý (23)
      • 2.4. Căn cứ vào phương thức giao dịch (23)
  • CHƯƠNG III: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN SƠ CẤP VÀ GIÁ CẢ CHỨNG KHOÁN (25)
    • 1. Khái niệm và chức năng thị trường chứng khoán sơ cấp (0)
      • 1.1. Khái niệm (25)
      • 1.2. Chức năng (25)
    • 2. Phát hành chứng khoán (0)
      • 2.1. Các tổ chức được phát hành chứng khoán (25)
      • 2.2. Mục đích phát hành chứng khoán (25)
      • 2.3. Điều kiện và phương thức phát hành chứng khoán (26)
    • 3. Giá cả chứng khoán (0)
      • 3.1. Giá trị thời gian của tiền (27)
      • 3.2. Giá chứng khoán (28)
      • 3.3. Định giá chứng khoán (28)
  • CHƯƠNG IV: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THỨ CẤP (29)
    • 1. Khái quát thị trường chứng khoán thứ cấp (0)
      • 1.1. Khái niệm và chức năng thị trường chứng khoán thứ cấp (30)
      • 1.2. Địa điểm giao dịch (30)
    • 2. Sở giao dịch chứng khoán (0)
      • 2.1. Khái niệm về sở giao dịch chứng khoán (30)
      • 2.2. Tổ chức sở giao dịch chứng khoán (30)
      • 2.3. Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán (39)
    • 3. Thị trường chứng khoán phi tập trung – Giao dịch qua quầy (OTC) (0)
      • 3.1. Khái niệm thị trường OTC (41)
      • 3.2. Đặc điểm hoạt động (41)
  • CHƯƠNG V: HỆ THỐNG THÔNG TIN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (49)
    • 1. Giới thiệu về hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán (50)
    • 2. Các nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán (51)

Nội dung

Giáo trình Thị trường chứng khoán cung cấp cho người học những kiến thức như: Bản chất và vai trò của thị trường chứng khoán; hàng hóa và phân loại thị trường chứng khoán; thị trường chứng khoán sơ cấp và giá cả chứng khoán; thị trường chứng khoán thứ cấp;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Thị trường chứng khoán

Khái niệm về chứng khoán

Chứng khoán là các giấy tờ có giá trị và có thể chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư Chúng xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện liên quan đến thu nhập và tài sản trong một khoảng thời gian nhất định.

Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản:

Tính thanh khoản của tài sản, hay còn gọi là tính lỏng, đề cập đến khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt Mức độ thanh khoản phụ thuộc vào thời gian, chi phí chuyển đổi và rủi ro giảm giá trị tài sản trong quá trình này Chứng khoán thường có tính thanh khoản cao hơn so với các loại tài sản khác, với khả năng chuyển nhượng tốt trên thị trường Tuy nhiên, mức độ thanh khoản có thể khác nhau giữa các loại chứng khoán.

Chứng khoán là tài sản tài chính chịu tác động lớn từ rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và không có hệ thống Rủi ro có hệ thống ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường, chịu tác động từ các yếu tố kinh tế như lạm phát và thay đổi lãi suất, trong khi rủi ro không hệ thống chỉ ảnh hưởng đến một tài sản hoặc nhóm nhỏ tài sản, thường liên quan đến điều kiện của nhà phát hành Các nhà đầu tư cần đánh giá các rủi ro này để đưa ra quyết định hợp lý trong việc lựa chọn, nắm giữ hoặc bán chứng khoán, phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro; họ sẽ không chấp nhận rủi ro cao hơn nếu không kỳ vọng vào lợi tức cao hơn.

Tính sinh lợi của chứng khoán là yếu tố quan trọng mà nhà đầu tư mong đợi, với mục tiêu nhận được thu nhập lớn hơn trong tương lai Thu nhập này đến từ lợi tức hàng năm và sự tăng giá của chứng khoán trên thị trường Mối quan hệ giữa khả năng sinh lợi và rủi ro của tài sản rất chặt chẽ, thể hiện qua nguyên lý rằng mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.

Hình thức của chứng khoán Hình thức của các loại chứng khoán có thu nhập

Chứng khoán thường bao gồm phần bìa và phần bên trong, với bìa ghi rõ quyền đòi nợ hoặc quyền tham gia góp vốn Số tiền ghi trên chứng khoán được gọi là mệnh giá Đối với giấy tờ có giá với lãi suất cố định, bên trong có phiếu ghi lợi tức (Coupon) thể hiện rõ lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng Trong khi đó, giấy tờ có giá mang lại cổ tức (cổ phiếu) chỉ ghi phần thu nhập mà không xác định số tiền cụ thể, đảm bảo cho người sở hữu quyền yêu cầu thu nhập từ kết quả kinh doanh của công ty, được phân phối theo nghị quyết của đại hội cổ đông Ngoài phiếu ghi lợi tức, còn có phiếu ghi phần thu nhập bổ sung để xác nhận phần đóng góp lũy kế.

Khái niệm thị trường chứng khoán

Hiện nay, thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào các biến động lớn trong nền kinh tế toàn cầu, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và nỗ lực của Chính phủ các nước trong việc nâng cao vai trò của thị trường này trong đời sống kinh tế Các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đã góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.

Chính phủ các nước đã thực hiện cải cách thuế mạnh mẽ nhằm thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư, với việc giảm thuế đối với thu nhập từ đầu tư cổ phiếu, khuyến khích doanh nghiệp tăng vốn chủ sở hữu Tại Hàn Quốc, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu đã giảm từ 500% vào đầu những năm 80 xuống 250% vào cuối những năm 90 Đồng thời, chính phủ Anh và Mỹ đã khuyến khích sáp nhập doanh nghiệp để nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả Sự gia tăng số lượng công ty cổ phần mới cũng được ghi nhận ở nhiều quốc gia Bên cạnh các chính sách phát triển, các chính phủ cũng tăng cường quản lý nhà nước đối với thị trường, với sự ra đời của các cơ quan như Uỷ ban chứng khoán Anh vào năm 1968.

Uỷ ban các nghiệp vụ chứng khoán Pháp được thành lập vào năm 1967, trong khi Uỷ ban chứng khoán Thái Lan ra đời năm 1992 Hệ thống văn bản pháp luật đã được cải tiến nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và ngăn chặn các hành vi phi đạo đức trong lĩnh vực chứng khoán.

Một loạt công cụ tài chính mới đã được phát triển để đáp ứng nhu cầu của nhà phát hành và nhà đầu tư, được hình thành từ việc kết hợp các công cụ hiện có nhằm tận dụng lợi thế pháp lý và kết hợp giữa vốn chủ sở hữu với vốn vay Điều này giúp doanh nghiệp huy động vốn với chi phí thấp hơn và dễ dàng thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, đồng thời tạo ra nhiều lựa chọn cho nhà đầu tư Ngoài ra, các công cụ phòng vệ như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và các công cụ dẫn suất mới cũng xuất hiện, giúp giảm rủi ro cho nhà đầu tư và tăng tính thanh khoản của tài sản, từ đó giảm chi phí cho nhà phát hành.

Vào thứ ba, các quốc gia đã thiết lập các thị trường giao dịch qua quầy với yêu cầu niêm yết linh hoạt hơn, tạo điều kiện cho các công ty mới và doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thị trường Điều này không chỉ mở ra cơ hội huy động vốn cho doanh nghiệp mà còn gia tăng khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư cho các nhà đầu tư chứng khoán.

Thị trường chứng khoán đã trải qua sự đổi mới mạnh mẽ về kỹ thuật, với việc tin học hóa triệt để và cải cách trong giao dịch, lưu ký, thanh toán, cũng như giảm chi phí trung gian và thời gian giao dịch Sự cải cách "Big Bang" năm 1986 tại thị trường chứng khoán London là một minh chứng rõ ràng cho sự phát triển này Nhờ vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật, thị trường chứng khoán hiện nay không chỉ phát triển mạnh mẽ mà còn có mức độ quốc tế hóa ngày càng cao.

Sự thống nhất Châu Âu đã hợp nhất hàng loạt các thị trường chứng khoán, tạo cơ hội mới cho việc phát triển thị trường

Thứ năm, thành lập thị trường các công cụ dẫn suất (Derivatives

Markets) Năm 1986, Pháp thành lập thị trường MATIF (Marché à Terme

International de France) và đến năm 1987, thành lập thêm thị trường MONEP

Thị trường Chứng khoán Négociables de Paris được thành lập nhằm hỗ trợ các tổ chức kinh tế và nhà đầu tư trong việc phòng ngừa rủi ro từ biến động giá cổ phiếu, lãi suất và tỷ giá hối đoái Đồng thời, các thị trường này cũng giúp tăng cường vốn khả dụng trên thị trường giao ngay thông qua hoạt động kinh doanh chênh lệch giá Những thị trường này đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa thị trường tài chính Pháp, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh với trung tâm tài chính London.

Sau khủng hoảng tài chính năm 1987, sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán đã được đẩy mạnh, đặc biệt là tại Sở giao dịch chứng khoán London Các thành viên lớn không đủ vốn để cạnh tranh với các nhà kinh doanh chứng khoán của Mỹ và Nhật Bản, buộc các nhà quản lý vốn bảo thủ của Anh phải nới lỏng điều kiện cho phép ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác tham gia vào thị trường Sự thay đổi này đã góp phần làm tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán.

Thứ bảy, sự hiện đại hoá thị trường vay nợ của Chính phủ tạo điều kiện cho

Nhà nước cần tối ưu hóa việc huy động nguồn tài chính trên thị trường với chi phí thấp, nhằm giảm thiểu nguy cơ lạm dụng phát hành để tài trợ ngân sách và hỗ trợ thực hiện chính sách tiền tệ Những cải cách này đã giúp thị trường chứng khoán trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng, đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế hiện đại.

Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán

* Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK

Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) cho thấy rằng, ban đầu, TTCK xuất hiện một cách tự phát với sự ra đời của cổ phiếu và trái phiếu mà chưa có sự quản lý Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và đảm bảo hoạt động của thị trường diễn ra thông suốt, ổn định và an toàn, các nhà kinh doanh chứng khoán cùng các quốc gia đã nhận thấy sự cần thiết phải thành lập cơ quan quản lý và giám sát Do đó, cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán đã được hình thành.

Cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán được tổ chức theo nhiều mô hình khác nhau, bao gồm các tổ chức tự quản, cơ quan trực thuộc Chính phủ, hoặc sự kết hợp giữa hai hình thức này Mục tiêu chung của các cơ quan này là bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, lành mạnh và phát triển bền vững.

Cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán (TTCK) có thể có nhiều tên gọi khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia, với chức năng chính là quản lý và giám sát hoạt động của TTCK Tại Trung Quốc, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã đảm nhiệm vai trò này ngay từ đầu, đồng thời phối hợp với Hội đồng để thực hiện các chức năng quản lý cần thiết.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, nhưng do không thuộc cùng một tổ chức độc lập, việc quản lý thị trường gặp khó khăn, dẫn đến hiệu quả kém.

Ngày 29/12/1998, Luật chứng khoán Trung Quốc được thông qua, tập trung việc giám sát và quản lý thị trường chứng khoán vào Uỷ ban giám quản chứng khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc Tại Anh, cơ quan quản lý thị trường chứng khoán là Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB - Securities Investment Board), được công nhận theo đạo luật về các dịch vụ tài chính.

Tại Mỹ, Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán (SEC - Securities anh

Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) là cơ quan liên bang có trách nhiệm quản lý thị trường chứng khoán, yêu cầu tất cả các tổ chức trong ngành này phải đăng ký, báo cáo và tuân thủ sự giám sát của Ủy ban Tại Nhật Bản, vào năm 1992, Ủy ban Giám sát Chứng khoán và Giao dịch (ESC) được thành lập nhằm tăng cường quản lý và giám sát hoạt động trên thị trường chứng khoán.

Commission) được thành lập, năm 1998 đã đổi tên thành Financial Supervision Agency

FSA có nhiệm vụ chính là điều tra và xử lý các giao dịch gian lận trên thị trường chứng khoán, đồng thời thực hiện các chức năng quản lý thị trường chứng khoán một cách tổng thể.

Tổng cục chứng khoán thuộc Bộ Tài chính Nhật Bản đảm nhiệm

Tại Hàn Quốc, quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán được thực hiện bởi Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch Chứng khoán (SEC) cùng với Uỷ ban Giám sát Chứng khoán (SSB), trong đó SSB đã được đổi tên thành Uỷ ban Tài chính từ năm 1998.

Ủy ban Giám sát Chứng khoán, trực thuộc Bộ Kinh tế - Tài chính, là cơ quan thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán Ban giám sát này đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và điều tiết hoạt động giao dịch chứng khoán.

Dựa trên những kinh nghiệm học tập từ các quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, Việt Nam đang áp dụng những phương pháp sáng tạo để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của mình.

Việt Nam đã thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trước khi ra đời thị trường chứng khoán, theo Nghị định số 75 CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ Uỷ ban này là cơ quan thuộc Chính phủ, có nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán tại Việt Nam.

* Sở giao dịch chứng khoán

Sở giao dịch chứng khoán vận hành thị trường chứng khoán (TTCK) thông qua tổ chức bộ máy và hệ thống quy định, văn bản pháp luật, đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật và Uỷ ban chứng khoán.

* Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán

Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và các thành viên khác trong ngành, được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi cho các thành viên và nhà đầu tư trên thị trường.

Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự quản, thực hiện một số chức năng chính như sau:

- Đào tạo, nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán

- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán

- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành

- Giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên

- Tiêu chuẩn hóa các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán

- Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán

* Các tổ chức hỗ trợ

Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán được thành lập nhằm khuyến khích sự mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán Chúng thực hiện các hoạt động như cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng Tuy nhiên, đặc điểm của các tổ chức này có thể khác nhau giữa các quốc gia, và một số quốc gia không cho phép thành lập các loại hình tổ chức này.

* Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm

Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá khả năng thanh toán gốc và lãi đúng hạn của tổ chức phát hành (TCPH) Họ cũng đánh giá tiềm lực tài chính của TCPH dựa trên các cam kết liên quan đến một đợt phát hành cụ thể.

Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán bao gồm ba nhóm chính: các chủ thể phát hành, các nhà đầu tư và các tổ chức liên quan đến chứng khoán.

Chủ thể phát hành là những người cung cấp chứng khoán trên thị trường, bao gồm Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức như quỹ đầu tư và tổ chức tài chính trung gian.

- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng khoán:

Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu địa phương; Trái phiếu công trình; Tín phiếu kho bạc

- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty

Các tổ chức tài chính phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu và chứng chỉ hưởng thụ nhằm mục đích huy động vốn, đồng thời phù hợp với các quy định pháp luật và đặc thù hoạt động của mình.

Chủ thể đầu tư gồm những cá nhân hoặc tổ chức có vốn, tham gia vào hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận Nhà đầu tư được phân chia thành hai loại chính: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức.

- Các nhà đầ u t ư cá nhân

Nhà đầu tư cá nhân, bao gồm các cá nhân và hộ gia đình, là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời tham gia vào thị trường chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận Tuy nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro; kỳ vọng lợi nhuận cao đòi hỏi mức độ chấp nhận rủi ro lớn hơn Do đó, các nhà đầu tư cá nhân cần lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với khả năng tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của mình.

- Các nhà đầ u t ư có t ổ ch ứ c

Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư chuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn, bao gồm ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội Đầu tư qua các tổ chức này mang lại lợi ích như khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm và chuyên môn.

* T ổ ch ứ c l ư u ký và thanh toán bù tr ừ ch ứ ng khoán

Tổ chức lưu ký chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc bảo quản chứng khoán và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho giao dịch chứng khoán Các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán đáp ứng đủ yêu cầu của Uỷ ban chứng khoán sẽ cung cấp dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ này.

Cơ cấu thị trường chứng khoán

V ị trí c ủ a TTCK trong th ị trườ ng tài chính

Thị trường chứng khoán là một phần quan trọng trong thị trường tài chính, đóng vai trò trung tâm trong việc huy động vốn và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính Vị trí của thị trường chứng khoán trong tổng thể thị trường tài chính thể hiện sự liên kết chặt chẽ với các loại hình đầu tư khác, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ

Thị trường chứng khoán đóng vai trò trung tâm trong hệ thống tài chính, nơi diễn ra các hoạt động phát hành và giao dịch công cụ Nợ cùng với công cụ Vốn, bao gồm các tài sản sở hữu.

Quá trình hình thành phát triển thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại và là một phần quan trọng của thị trường tài chính Nó cho phép đo lường và dự đoán sự phát triển kinh tế thông qua các diễn biến giao dịch Tại đây, các chủ thể tham gia thực hiện mua bán và trao đổi chứng khoán, hàng hóa và dịch vụ tài chính theo những quy tắc đã được ấn định.

Hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán đã xuất hiện từ thế kỷ 15 tại các thành phố thương mại phương Tây, nơi các thương gia thường tụ tập tại quán cà phê để thương lượng mua bán hàng hóa Hoạt động này chủ yếu diễn ra bằng lời nói, không có sự hiện diện của hàng hóa hay giấy tờ Đến cuối thế kỷ 15, "khu chợ riêng" đã trở thành một thị trường hoạt động thường xuyên với các quy ước xác định cho các cuộc thương lượng, và những quy ước này dần trở thành các quy tắc bắt buộc đối với các thành viên tham gia.

Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình

Vanber nằm ở thành phố Bruges, Vương quốc Bỉ, với bảng hiệu đặc trưng vẽ ba túi da và chữ Bourse Ba túi da này biểu trưng cho ba nội dung chính của thị trường.

Thị trường hàng hoá, thị trường ngoại tệ và thị trường chứng khoán đều có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Từ "Bourse" có nghĩa là "mậu dịch thị trường" hay "nơi buôn bán chứng khoán" Vào năm 1547, thị trường ở Bruges đã sụp đổ do cửa biển Evin bị cát biển lấp, nhưng trước đó, vào năm 1531, thị trường này đã được chuyển tới cảng Anvers (Bỉ) và nhanh chóng phát triển.

Vào thế kỷ 18, một thị trường đã được thành lập tại London, Vương quốc Anh, sau đó lan rộng ra Pháp, Đức, Ý, một số nước Bắc Âu và Mỹ Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường này đã không thể đáp ứng nhu cầu của ba loại giao dịch khác nhau.

Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại

Bản chất và đặc điểm của thị trường chứng khoán

Bản chất

Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán:

Thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn thực chất là hai khía cạnh của cùng một khái niệm, đó là thị trường tư bản Trong khi thị trường vốn thể hiện các mối quan hệ nội tại của việc mua bán chứng khoán, thì TTCK lại là hình thức giao dịch cụ thể của vốn Do đó, hai thị trường này không thể tách rời mà phải thống nhất, cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.

Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế, thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn là hai khái niệm khác nhau TTCK chủ yếu giao dịch các công cụ tài chính trung và dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty Trong khi đó, các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không nằm trong phạm vi hoạt động của TTCK.

Thị trường chứng khoán thường được hiểu là nơi giao dịch cổ phiếu, nơi các nhà đầu tư mua bán các cổ phần do các công ty phát hành nhằm huy động vốn.

Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu

Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định.

Đặc điểm

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán và trao đổi các loại chứng khoán, bao gồm giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ Chứng khoán cho phép chủ sở hữu yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành, cũng như quyền sở hữu Các quyền yêu cầu này khác nhau tùy thuộc vào tính chất sở hữu của từng loại chứng khoán.

Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp

(Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch

(Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over - The Counter

Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future

Các giao dịch mua bán chứng khoán trong thị trường tài chính không chỉ thay đổi quyền sở hữu mà còn phản ánh quá trình chuyển đổi tư bản từ hình thức sở hữu sang hình thức kinh doanh.

Thị trường chứng khoán khác biệt với các thị trường hàng hóa thông thường vì nó đại diện cho quyền sở hữu tư bản, một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị và giá trị sử dụng Đặc điểm nổi bật của thị trường chứng khoán là thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư, trong đó giá cả chứng khoán phản ánh thông tin về chi phí vốn và giá trị đầu tư Thị trường chứng khoán được coi là hình thức phát triển cao hơn của sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán

Chức năng của thị trường chứng khoán

Thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn dồi dào cho doanh nghiệp, giúp họ thu hút đầu tư lớn hơn Ngoài việc tạo cơ hội cho doanh nghiệp, thị trường tài chính còn thúc đẩy đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Vai trò của thị trường chứng khoán

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức như Liên minh Châu Âu yêu cầu các quốc gia phát triển kinh tế nhanh chóng và hiệu quả Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu.

Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các công cụ thanh khoản cao, giúp tích tụ và phân phối vốn, đồng thời điều chỉnh thời hạn vốn phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế Tại Hàn Quốc, thị trường này đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế trong hơn ba mươi năm, đặc biệt là đến cuối thập kỷ 90 Với tổng giá trị huy động lên tới 160 tỷ đô la Mỹ, thị trường chứng khoán Hàn Quốc hiện đứng thứ 13 trên thế giới, góp phần đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân 9% mỗi năm, và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995 vượt qua 10.000 đô la Mỹ.

Yếu tố thông tin và cạnh tranh trên thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn hiệu quả Thị trường tài chính là nơi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ mới và nhạy bén với sự thay đổi của môi trường Trên thị trường chứng khoán, thông tin được cập nhật liên tục, giúp các nhà đầu tư phân tích và định giá chứng khoán một cách chính xác Chỉ những công ty có hiệu quả bền vững mới có khả năng thu hút vốn với chi phí thấp.

Thị trường chứng khoán thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả trong lĩnh vực tài chính, buộc các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính phải chú trọng đến hoạt động của mình, từ đó giúp giảm thiểu chi phí tài chính.

Huy động vốn trên thị trường chứng khoán giúp tăng vốn tự có cho các công ty, đồng thời giảm thiểu chi phí vay mượn và sự kiểm soát từ ngân hàng thương mại Thị trường chứng khoán không chỉ thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài Những yếu tố này góp phần đảm bảo phân bổ hiệu quả nguồn lực cả trong nước và quốc tế.

Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc tái phân phối công bằng hơn, buộc các tập đoàn gia đình phát hành chứng khoán công khai, từ đó giảm bớt sự tập trung quyền lực kinh tế Sự phát triển của tầng lớp trung lưu và tăng cường giám sát xã hội đã giúp nhiều quốc gia tiến gần hơn đến một xã hội công bằng và dân chủ Việc giải tỏa quyền lực kinh tế không chỉ tạo điều kiện cho cạnh tranh công bằng mà còn thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.

Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp, đặc biệt khi quy mô doanh nghiệp ngày càng lớn và môi trường kinh doanh trở nên phức tạp Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu về quản lý chuyên trách mà còn thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, giúp tiết kiệm vốn và chất xám Hơn nữa, cơ chế thông tin hoàn hảo của thị trường chứng khoán giúp giám sát chặt chẽ, giảm thiểu tác động tiêu cực trong quản lý và tạo điều kiện cho sự hài hòa lợi ích giữa chủ sở hữu, nhà quản lý và người lao động.

Việc quốc tế hóa thị trường chứng khoán mang lại hiệu quả rõ rệt, bao gồm việc tăng tính thanh khoản và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu Mở cửa thị trường giúp các công ty huy động vốn với chi phí thấp hơn, thu hút nhiều nguồn đầu tư từ nước ngoài, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước, như trường hợp của Hàn Quốc.

Singapore, Thái Lan và Malaysia là những ví dụ điển hình về việc khai thác cơ hội từ thị trường chứng khoán Tuy nhiên, cần lưu ý đến những tác động tiêu cực như tăng cung tiền quá mức, áp lực lạm phát, chảy máu vốn và sự thâu tóm của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán vào thứ năm mang lại cơ hội cho Chính phủ huy động nguồn tài chính mà không gây áp lực lạm phát, đồng thời cung cấp các công cụ cần thiết cho việc quản lý kinh tế hiệu quả.

Mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán với tài chính doanh nghiệp

Mối quan hệ

Công ty niêm yết có khả năng huy động vốn dễ dàng hơn thông qua phát hành chứng khoán, giúp thu hút nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp Sự tín nhiệm từ công chúng đối với công ty niêm yết thường cao hơn so với công ty không niêm yết, do đó, việc trở thành công ty niêm yết mang lại lợi thế trong việc huy động vốn và giảm thiểu chi phí huy động.

Niêm yết công ty không chỉ nâng cao hình ảnh thương hiệu mà còn tạo sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư, chủ nợ, nhà cung cấp, khách hàng và nhân viên Điều này giúp công ty niêm yết thu hút nhiều hơn sự quan tâm từ các nhà đầu tư, từ đó củng cố vị thế và tăng cường tiềm năng phát triển.

Điều kiện gia nhập thị trường chứng khoán

Các công ty muốn phát hành chứng khoán ra công chúng cần đáp ứng hai nhóm điều kiện: chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính Các chỉ tiêu định lượng bao gồm các tiêu chí cụ thể về tài chính và hiệu suất hoạt động của công ty.

Công ty cần có một quy mô vốn nhất định, với mức vốn quy định khác nhau tùy theo từng quốc gia Điều này bao gồm quy định về vốn điều lệ tối thiểu ban đầu và tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông, cũng như số lượng cổ đông ngoài công ty.

Để đảm bảo tính liên tục trong hoạt động kinh doanh, công ty cần hoạt động hiệu quả trong nhiều năm liên tiếp trước khi xin phép phát hành cổ phiếu ra công chúng.

+ Tổng giá trị của đợt phát hành phải đạt quy mô nhất định

+ Một tỷ lệ nhất định của đợt phát hành phải được bán cho một số lượng quy định công chúng đầu tư

Các thành viên sáng lập của công ty cần cam kết giữ một tỷ lệ vốn cổ phần nhất định trong một khoảng thời gian quy định, điều này nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững cho công ty.

Các nhà quản lý công ty, bao gồm thành viên Ban giám đốc điều hành và Hội đồng quản trị, cần phải sở hữu trình độ và kinh nghiệm quản lý vững vàng để đảm bảo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

+ Cơ cấu tổ chức của công ty phải hợp lý và phải vì lợi ích của các nhà đầu tư

Các báo cáo tài chính, bản cáo bạch và tài liệu thông tin cần đảm bảo độ tin cậy tối đa và phải được kiểm toán bởi các tổ chức uy tín.

+ Công ty phải có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành

+ Công ty phải được một hoặc một số các tổ chức bảo lãnh phát hành đứng ra cam kết bảo lãnh cho đợt phát hành

Tại Việt Nam, theo Nghị định số 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 11/07/1998 và Thông tư số 01/1998/TT-UBCK của Uỷ ban Chứng khoán

Nhà nước ban hành ngày 13/10/1998, các tiêu chuẩn cơ bản để một công ty phát hành cổ phiếu ra công chúng được quy định như sau:

+ Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam;

+ Hoạt động có lãi trong hai năm liên tục gần nhất;

+ Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh;

+ Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu từ đợt phát hành cổ phiếu;

Tối thiểu 20% vốn cổ phần của TCPH phải được chuyển nhượng cho hơn 100 nhà đầu tư ngoài TCPH Nếu vốn cổ phần của TCPH đạt từ 100 tỷ đồng trở lên, tỷ lệ tối thiểu này sẽ giảm xuống còn 15%.

Cổ đông sáng lập cần giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của công ty cổ phần (TCPH) và duy trì tỷ lệ này trong ít nhất ba năm kể từ ngày hoàn tất phát hành.

+ Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành

HÀNG HÓA VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Phân loại thị trường chứng khoán

Cổ đông có quyền mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty phát hành với tỷ lệ và thời hạn ưu đãi tương tự như các cổ đông thực thụ Loại trái khoán này đi kèm với một "chứng chỉ quyền mua" riêng biệt, tách rời khỏi khoản vay.

"chứng chỉ quyền mua" được tách ra sau khi phát hành chứng khoán sau một thời gian và được lưu thông độc lập trên thị trường

Trái phiếu có thu nhập bổ sung là một loại chứng khoán cung cấp lợi tức cố định cho người sở hữu, đồng thời cho phép họ nhận thêm thu nhập dựa vào sự tăng trưởng của cổ tức mà các cổ đông nhận được.

2 Phân loại thị trường chứng khoán

2.1 Căn cứ vào quá trình lưu thông chứng khoán

Cấu trúc của thị trường chứng khoán (TTCK) có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu Thông thường, có ba cách phân loại cơ bản: phân loại theo hàng hóa, theo hình thức tổ chức của thị trường và theo quá trình luân chuyển vốn Các phân tích sau đây sẽ làm rõ từng cách phân loại này.

2.2 Căn cứ vào loại hàng hoá

Thị trường chứng khoán có thể được phân loại thành ba loại chính dựa trên các loại hàng hóa giao dịch, bao gồm thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn suất.

Thị trường trái phiếu là nơi giao dịch các trái phiếu, một loại công cụ nợ cho phép nhà phát hành vay vốn với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi Người cho vay không chịu trách nhiệm về cách sử dụng vốn của người vay, và nhà phát hành phải hoàn trả cho trái chủ theo các điều khoản đã thỏa thuận Trái phiếu thường có thời hạn xác định, bao gồm các loại trung hạn và dài hạn.

Thị trường cổ phiếu là nơi giao dịch các giấy tờ xác nhận cổ phần của cổ đông, những người sở hữu công ty và chịu trách nhiệm về phần đóng góp của mình Cổ đông có quyền yêu cầu lợi nhuận sau thuế và tài sản của công ty khi được bán Đặc biệt, cổ phiếu không có thời gian đáo hạn xác định.

Thị trường các công cụ dẫn suất (Derivative Markets) là nơi diễn ra giao dịch các chứng khoán phái sinh như hợp đồng tương lai (Future Contracts) và hợp đồng quyền chọn (Options) Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính, cung cấp các công cụ phòng vệ hiệu quả và đồng thời là lựa chọn lý tưởng cho các nhà đầu tư muốn đầu cơ.

2.3 Căn cứ trên phương diện pháp lý

Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai cách sau:

Sở giao dịch chứng khoán là nơi tập trung người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới) để thực hiện giao dịch chứng khoán tại một địa điểm nhất định Đây được xem là thị trường tập trung, nơi diễn ra các giao dịch của các công ty lớn một cách hiệu quả Sở giao dịch chứng khoán được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia và phải tuân thủ Luật Chứng khoán và quy định của thị trường chứng khoán Một số ví dụ tiêu biểu về thị trường chứng khoán tập trung bao gồm Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn (London Stock Exchange).

Mỹ (American Stock Exchange), Sở giao dịch chứng khoán Pari (Paris Stock

Thị trường giao dịch qua quầy (OTC) khác với thị trường tập trung, là nơi hoạt động của các nhà buôn và những người tạo thị trường (Market Makers) Các nhà buôn nắm giữ danh mục chứng khoán và sẵn sàng mua bán với nhau cũng như với các nhà đầu tư dựa trên giá cả đã thỏa thuận Thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức, mà giao dịch diễn ra qua điện thoại hoặc mạng máy tính rộng lớn Khối lượng giao dịch tại thị trường OTC thường lớn hơn nhiều so với thị trường Sở giao dịch.

Ngoài hai loại thị trường chính, còn có thị trường thứ ba dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC Thị trường chứng khoán cũng được phân loại thành thị trường mở, thị trường đàm phán và thị trường giao ngay.

Thị trường chứng khoán được chia thành hai loại chính: thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets) Sự phân loại này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò và chức năng của từng loại thị trường trong việc phân tích và đầu tư.

2.4 Căn cứ vào phương thức giao dịch

Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

Thị trường sơ cấp, hay còn gọi là thị trường cấp 1, là nơi phát hành và giao dịch các chứng khoán lần đầu tiên với giá phát hành Hoạt động mua bán trên thị trường này giúp tăng vốn cho nhà phát hành, bao gồm cả Chính phủ và doanh nghiệp Chính phủ sử dụng nguồn thu từ phát hành chứng khoán để tài trợ cho các dự án đầu tư và chi tiêu công, trong khi các doanh nghiệp huy động vốn nhằm hỗ trợ cho các dự án phát triển của họ.

Thị trường thứ cấp, hay còn gọi là thị trường cấp 2, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán và trao đổi chứng khoán đã phát hành, nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận, chuyển nhượng vốn đầu tư và di chuyển tài sản xã hội.

Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên các giác độ sau:

Thị trường thứ cấp tăng cường tính lỏng cho các chứng khoán đã phát hành, từ đó nâng cao sự hấp dẫn của chúng và giảm rủi ro cho nhà đầu tư Điều này giúp nhà đầu tư dễ dàng hơn trong việc lựa chọn và điều chỉnh danh mục đầu tư, đồng thời giảm chi phí huy động và sử dụng vốn cho các nhà phát hành Tính lỏng cao của tài sản cũng tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp.

Tăng tính lỏng cho các chứng khoán giúp chuyển đổi vốn từ ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn, đồng thời tối ưu hóa phân phối vốn Sự di chuyển vốn đầu tư trong nền kinh tế diễn ra qua cơ chế "bàn tay vô hình", xác định giá chứng khoán và hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp.

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN SƠ CẤP VÀ GIÁ CẢ CHỨNG KHOÁN

Phát hành chứng khoán

1 Khái niệm và chức năng thị trường chứng khoán sơ cấp

Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên

Trong thị trường sơ cấp, giá chứng khoán được xác định là giá phát hành, và việc mua bán chứng khoán tại đây giúp tăng vốn cho nhà phát hành Qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu công, trong khi các doanh nghiệp cũng huy động vốn từ thị trường để hỗ trợ cho các dự án đầu tư của mình.

2.1 Các tổ chức được phát hành chứng khoán

Chủ thể phát hành là những người cung cấp chứng khoán và hàng hóa trên thị trường chứng khoán, bao gồm Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức khác như quỹ đầu tư và tổ chức tài chính trung gian.

- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng khoán:

Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu địa phương; Trái phiếu công trình; Tín phiếu kho bạc

- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty

Các tổ chức tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu và chứng chỉ hưởng thụ, nhằm mục đích huy động vốn và phù hợp với các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của họ.

2.2 Mục đích phát hành chứng khoán

Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa Sở Giao dịch Chứng khoán và tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết nhằm quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức phát hành trong việc công bố thông tin, đảm bảo tính trung thực, công khai và công bằng.

Để đảm bảo thị trường hoạt động ổn định và củng cố lòng tin của công chúng vào thị trường chứng khoán, việc lựa chọn các chứng khoán chất lượng cao cho giao dịch là rất quan trọng.

- Cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về các tổ chức phát hành

Việc niêm yết công khai giúp xác định giá chứng khoán một cách công bằng trên thị trường đấu giá, nhờ vào sự tương tác hiệu quả giữa cung và cầu.

Trong các thị trường chứng khoán mới nổi, các công ty niêm yết thường được hưởng các chính sách ưu đãi thuế, bao gồm miễn và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm nhất định.

Nhà đầu tư mua chứng khoán niêm yết sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi thuế, bao gồm miễn và giảm thuế thu nhập đối với cổ tức, lãi từ chứng khoán, cũng như chênh lệch giá mua bán chứng khoán (lãi vốn) từ các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán.

2.3 Điều kiện và phương thức phát hành chứng khoán

Các phương thức phát hành được phân chia theo các tiêu thức khác nhau

* Phân loại theo đợt phát hành

Theo tiêu thức này, người ta phân chia phương thức phát hành thành phát hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo

Phát hành chứng khoán lần đầu là quá trình mà một tổ chức thực hiện việc phát hành chứng khoán lần đầu tiên, sau khi đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).

Việc phát hành các đợt tiếp theo là một hoạt động quan trọng nhằm tăng cường vốn cho tổ chức phát hành Điều này có nghĩa là tổ chức sẽ phát hành thêm chứng khoán đã có trên thị trường thứ cấp, giúp thu hút thêm nguồn lực tài chính và cải thiện khả năng hoạt động.

* Phân loại theo đối tượng mua bán chứng khoán

Theo đối tượng mua bán chứng khoán, phương thức phát hành được chia thành hai loại: phát hành riêng lẻ, tức là phát hành nội bộ, và phát hành ra công chúng, hay còn gọi là chào bán công khai Phát hành riêng lẻ thường hướng đến một nhóm nhà đầu tư cụ thể, giúp các công ty huy động vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Phát hành riêng lẻ là hình thức phát hành chứng khoán được thực hiện cho một nhóm người nhất định, thường là các nhà đầu tư tổ chức Hình thức này đi kèm với các điều kiện hạn chế và yêu cầu khối lượng phát hành phải đạt một mức tối thiểu nhất định.

Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của

Luật công ty Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp

Luật pháp của các quốc gia quy định rõ ràng về hình thức phát hành riêng lẻ Tại Mỹ, việc phát hành riêng lẻ không được quảng cáo qua các phương tiện truyền thông đại chúng hoặc tổ chức hội thảo rộng rãi Đặc biệt, nếu các nhà đầu tư tham gia không phải là chuyên nghiệp, số lượng người tham gia tối đa không được vượt quá 35 và phải chỉ định một đại diện để thực hiện giao dịch.

Lan, tổng số tiền huy động qua phát hành riêng lẻ không được quá 20 triệu Bath và cho dưới 35 người

Các doanh nghiệp thường lựa chọn phát hành riêng lẻ bởi một số nguyên nhân sau:

- Công ty không đủ tiêu chuẩn để phát hành ra công chúng;

- Số lượng vốn cần huy động nhỏ, mục đích chọn phát hành riêng lẻ để giảm chi phí

- Công ty phát hành cổ phiếu nhằm mục đích duy trì các mối quan hệ trong kinh

Giá cả chứng khoán

phát hành cho các đối tác

- Phát hành cho cán bộ công nhân viên chức của công ty b Phát hành ch ứ ng khoán ra công chúng

Hình thức phát hành chứng khoán này cho phép phát hành rộng rãi ra công chúng, hướng đến một số lượng lớn nhà đầu tư, trong đó cần đảm bảo tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ Đồng thời, tổng khối lượng phát hành cũng phải tuân thủ các tỷ lệ quy định.

Việc phát hành chứng khoán ra công chúng cần phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt, bao gồm cả việc được cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận Sau khi được phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán nếu đáp ứng được các yêu cầu về niêm yết chứng khoán Tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng cũng phải tuân thủ chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Việc phát hành ra công chúng được phân biệt thành hai hình thức: phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng

- Trường hợp phát hành cổ phiếu ra công chúng, việc phát hành được thực hiện theo một trong hai phương thức sau:

Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) là quá trình mà cổ phiếu của một công ty được bán lần đầu tiên cho công chúng đầu tư Nếu mục đích của việc bán cổ phần là để tăng vốn, thì đó được gọi là IPO sơ cấp Ngược lại, khi cổ phần được bán từ số cổ phần hiện có, đây được xem là IPO thứ cấp.

+ Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty cho rộng rãi các công chúng đầu tư

Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng, việc phát hành được thực hiện bằng một phương thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp

3.1 Giá trị thời gian của tiền

Là khoản tiền mà nhà đầu tư thu được tính theo lãi suất gộp đối với khoản đầu tư ban đầu

Một nhà đầu tư có 100 đô la và nếu anh ta gửi số tiền này vào ngân hàng với lãi suất gộp 6% mỗi năm, thì sau 5 năm, số tiền trong tài khoản của anh sẽ tăng lên đáng kể Cụ thể, vào cuối năm thứ năm, số tiền anh ta có sẽ là khoảng 133,82 đô la.

Trong đó: FV là khoản tiền trong tương lai

PV Là khoản tiền ở hiện tại r : là lãi suất t là số thời đoạn tích lũy

Phát hành với giá cố định:

Chứng khoán được bán cho nhà đầu tư theo giá cố định

Phát hành theo phương pháp đấu giá:

Nhà phát hành bảo lãnh ấn định giá tối thiểu và tổ chức bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá dựa trên các giá đặt mua

3.3 Định giá chứng khoán a) Định giá trái phiếu:

Trong đó: P là giá trái phiếu hiện tại

C là cổ tức trả hàng năm kd Là lãi suất kì vọng

Hãy định giá trái phiếu có thời hạn 3 năm, mệnh giá là $1000 và trái suất hàng năm là

6%? Giả định lãi suất yêu cầu đối với trái phiếu là 5.6%/năm b) Định giá cổ phiếu

Cổ phiếu là chứng khoán thể hiện quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người nắm giữ đối với tài sản, được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ.

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THỨ CẤP

Sở giao dịch chứng khoán

1.1 Khái niệm và chức năng thị trường chứng khoán thứ cấp

Thị trường thứ cấp, hay còn gọi là thị trường cấp 2, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán và trao đổi chứng khoán đã được phát hành Mục tiêu chính của thị trường này là tạo ra lợi nhuận, đồng thời giúp di chuyển vốn đầu tư và tài sản xã hội một cách hiệu quả.

Sở giao dịch chứng khoán

Thị trường chứng khoán phi tập trung

2 Sở giao dịch chứng khoán

2.1 Khái niệm về sở giao dịch chứng khoán

Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) từ xưa đến nay được hiểu là một địa điểm tổ chức giao dịch chứng khoán, nơi các thành viên thực hiện giao dịch theo quy định về phương thức, thời gian và địa điểm cụ thể Các thành viên giao dịch bao gồm các nhà môi giới nhận hoa hồng hoặc tự kinh doanh chứng khoán, tham gia giao dịch trực tiếp trên sàn hoặc qua hệ thống giao dịch điện toán hóa.

Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch

Securities traded on the stock exchange typically belong to well-established companies with a strong reputation, having successfully navigated market challenges These securities meet the listing standards, which include both qualitative and quantitative criteria set by the stock exchange Transactions can occur either on the trading floor or through computer systems.

Lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán gắn liền với sự ra đời và phát triển của SGDCK, từ buổi sơ khai ban đầu hoạt động của

Sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, bắt đầu từ phương thức giao dịch thủ công truyền thống với bảng đen và phấn trắng Sau đó, sự xuất hiện của máy tính đã giúp chuyển đổi sang hình thức bán thủ công Hiện nay, hầu hết các thị trường chứng khoán mới nổi đã hoàn toàn điện toán hóa SGDCK, loại bỏ hoàn toàn khái niệm sàn giao dịch truyền thống.

2.2 Tổ chức sở giao dịch chứng khoán

Thị trường chứng khoán toàn cầu có sự hình thành đa dạng, với các quốc gia phát triển theo các mô hình khác nhau, bao gồm cả mô hình cổ điển và mô hình mới nổi.

Các Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) có nhiều hình thức sở hữu khác nhau, bao gồm cổ phần, thành viên và nhà nước Tuy nhiên, tất cả các SGDCK đều có cấu trúc tổ chức tương đồng, với Đại hội đồng cổ đông là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu này.

Thành niêm giao giám N.Cứu KT C.N văn

Viên yết dịch sát P.T KiểmT TH phòng

Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan quản lý cao nhất trong tổ chức, bao gồm các thành viên đại diện cho những người có liên quan đến thị trường chứng khoán Thành viên HĐQT không chỉ có đại diện từ công ty chứng khoán mà còn bao gồm các đại diện không phải là thành viên như tổ chức niêm yết, chuyên gia trong ngành, nhà kinh doanh, chuyên gia luật và đại diện từ Chính phủ.

Các đại diện của công ty chứng khoán thành viên đóng vai trò quan trọng trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) Họ mang đến nhiều kinh nghiệm và kiến thức quý giá trong việc điều hành thị trường chứng khoán.

Quyết định của Hội đồng quản trị (HĐQT) có tác động sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của các thành viên Do đó, các đại diện của các thành viên cần được khuyến khích bày tỏ ý kiến của mình trong các cuộc họp HĐQT để đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong quản lý.

Để đảm bảo tính khách quan và giảm hoài nghi đối với các quyết định của Hội đồng quản trị (HĐQT), bên cạnh các thành viên HĐQT là các công ty chứng khoán, cần có sự tham gia của những người bên ngoài Điều này sẽ khuyến khích mối quan hệ giữa Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) và các bên liên quan như công ty niêm yết và các tổ chức dịch vụ chuyên môn Trên cơ sở đó, HĐQT có thể đưa ra những quyết sách phù hợp cho cả thành viên bên trong và bên ngoài, đồng thời phản ánh tính thực tiễn của thị trường Đối với các SGDCK do Chính phủ thành lập, cần có ít nhất một đại diện của Chính phủ trong HĐQT để thực hiện các chính sách của Chính phủ đối với hoạt động của SGDCK.

SGDCK và duy trì các mối quan hệ hài hoà và liên kết giữa các cơ quan quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán

Số lượng thành viên HĐQT của từng SGDCK khác nhau Tuy nhiên, các

SGDCK đã phát triển thường có thành viên HĐQT nhiều hơn số thành viên của

Các sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) tại các thị trường mới nổi thường có sự phát triển mạnh mẽ nhờ vào việc HĐQT của họ có nhiều thành viên là đại diện từ các công ty chứng khoán thành viên Điều này giúp tăng cường sự kết nối và hợp tác trong ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường.

Số lượng công ty chứng khoán tại Hàn Quốc rất lớn, tương ứng với nhiều thành viên đại diện cho công chúng và các tổ chức đầu tư khác Hội đồng quản trị của Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc (KSE) gồm 11 thành viên, bao gồm 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch, 04 Uỷ viên là giám đốc điều hành, 03 Uỷ viên đại diện cho công chúng và 02 Uỷ viên từ các công ty thành viên Đặc biệt, hơn một nửa số thành viên HĐQT của KSE là các giám đốc điều hành của Sở Giao dịch.

Hội đồng quản trị của SGDCK NewYork có 25 thành viên: trong đó có 01 chủ tịch,

Bài viết đề cập đến việc có 12 thành viên đại diện cho công chúng và 12 thành viên đại diện cho các công ty chứng khoán thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán Các thành viên đại diện cho công chúng bao gồm các công ty niêm yết, học giả và các đại diện khác từ cộng đồng.

Hội đồng quản trị của Sở Giao dịch Chứng khoán Tokyo (TSE) bao gồm 27 thành viên, trong đó có 6 thành viên đại diện cho công chúng, 6 giám đốc điều hành, 1 tổng giám đốc điều hành và 14 thành viên đại diện cho các công ty chứng khoán thành viên của TSE.

Hội đồng quản trị của Sở Giao dịch Chứng khoán Hồng Kông (SGDCK Hồng Kông) bao gồm 31 thành viên, trong đó có đại diện từ các công ty chứng khoán, các thành viên môi giới độc lập, Tổng giám đốc điều hành SGDCK và Tổng giám đốc điều hành Trung tâm thanh toán bù trừ - lưu ký chứng khoán Hồng Kông.

Bầu chọn thành viên HĐQT

Thị trường chứng khoán phi tập trung – Giao dịch qua quầy (OTC)

Xây dựng và công nghệ cao là những lĩnh vực đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi ro, do đó tiêu chuẩn niêm yết thường cao hơn Ngược lại, các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm và công ty chứng khoán không xem xét tiêu chuẩn nợ trên vốn mà chỉ tập trung vào lợi nhuận trên vốn cổ phần, phản ánh đặc thù của hoạt động tài chính.

3 Thị trường chứng khoán phi tập trung – Giao dịch qua quầy (OTC)

3.1 Khái niệm thị trường OTC

Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là loại thị trường chứng khoán đầu tiên trong lịch sử Tên gọi OTC (Over The Counter) có nghĩa là "Thị trường qua quầy", phản ánh cách thức giao dịch trực tiếp tại các quầy của ngân hàng hoặc công ty chứng khoán, mà không cần qua trung gian môi giới để đấu giá tập trung.

Thị trường OTC, hay thị trường phi tập trung, là một mạng lưới các nhà môi giới và nhà đầu tư thực hiện giao dịch trực tiếp mà không cần qua một trung tâm giao dịch nào Các giao dịch trên thị trường này diễn ra tại các quầy của ngân hàng và công ty chứng khoán Điểm khác biệt chính của thị trường OTC so với thị trường chứng khoán tập trung là cơ chế xác lập giá chủ yếu dựa vào thương lượng và thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, trong khi hình thức đấu lệnh chỉ được áp dụng hạn chế và thường chỉ cho các lệnh nhỏ.

Thời kỳ ban đầu của thị trường, việc thương lượng giá theo thoả thuận trực tiếp -

Với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc thương lượng hiện nay không chỉ giới hạn trong các cuộc gặp mặt trực tiếp mà còn có thể thực hiện qua điện thoại và các hệ thống mạng máy tính điện tử diện rộng.

Thị trường OTC là một thị trường thứ cấp quan trọng, giúp điều hoà và lưu thông nguồn vốn, đồng thời chuyển hoá nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn để phục vụ cho việc đầu tư và phát triển kinh tế.

Thị trường OTC đã trải qua một quá trình phát triển từ hình thức tự do, không có tổ chức, đến một thị trường có tổ chức với sự quản lý của Nhà nước hoặc các tổ chức tự quản Quá trình này cũng chứng kiến sự chuyển mình từ giao dịch truyền thống, thủ công sang giao dịch điện tử hiện đại Hiện tại, thị trường OTC được xem là một thị trường chứng khoán bậc cao với mức độ tự động hóa cao.

Thị trường OTC ở mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng, phản ánh điều kiện và đặc thù của từng nơi Tuy nhiên, hầu hết các hệ thống thị trường OTC trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa trên mô hình NASDAQ của Mỹ Do đó, có thể tổng hợp một số đặc điểm chung của thị trường OTC ở các nước như sau:

Thị trường OTC được tổ chức theo hình thức phi tập trung, không có địa điểm giao dịch tập trung giữa bên mua và bán Giao dịch diễn ra tại các ngân hàng, công ty chứng khoán và các địa điểm thuận tiện cho người tham gia.

Chứng khoán trên thị trường OTC được phân thành hai loại, trong đó loại chiếm ưu thế chủ yếu là các chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên Sở giao dịch nhưng vẫn đáp ứng các tiêu chí về tính thanh khoản và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường.

Thị trường OTC chủ yếu bao gồm các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, cũng như các công ty công nghệ cao có tiềm năng phát triển Ngoài ra, còn có các loại chứng khoán đã được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Điều này cho thấy rằng chứng khoán niêm yết và giao dịch trên thị trường OTC rất đa dạng, nhưng cũng tiềm ẩn mức độ rủi ro cao hơn so với các chứng khoán niêm yết trên Sở giao dịch.

Cơ chế lập giá trên thị trường OTC chủ yếu dựa vào thương lượng và thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, khác với phương thức đấu giá tập trung tại Sở giao dịch chứng khoán.

Hình thức khớp lệnh trên thị trường OTC chủ yếu áp dụng cho các lệnh nhỏ và ít phổ biến, với giá chứng khoán được hình thành thông qua thương lượng riêng biệt giữa các nhà kinh doanh Điều này dẫn đến sự tồn tại nhiều mức giá khác nhau cho cùng một chứng khoán tại một thời điểm Tuy nhiên, sự tham gia của các nhà tạo thị trường và cơ chế báo giá tập trung qua mạng máy tính điện tử hiện nay đã tạo ra sự cạnh tranh giá mạnh mẽ Kết quả là, khoảng cách chênh lệch giữa các mức giá đã thu hẹp lại, cho phép nhà đầu tư dễ dàng lựa chọn giá tốt nhất từ các báo giá của các nhà tạo lập thị trường.

Thị trường tài chính có sự tham gia và vận hành của các nhà tạo lập thị trường, bao gồm các công ty giao dịch và môi giới Các công ty này hoạt động giao dịch thông qua hai hình thức chính.

Thứ nhất là mua bán chứng khoán cho chính mình, bằng nguồn vốn của công ty - đó là hoạt động giao dịch

Thứ hai là làm môi giới đại lý chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng - đó là hoạtđộng môi giới

Khác với Sở giao dịch chứng khoán, nơi chỉ có các chuyên gia chứng khoán tạo ra thị trường cho mỗi loại chứng khoán, thị trường OTC có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường (Market Makers) bên cạnh các nhà môi giới và tự doanh Nhiệm vụ chính của các nhà tạo lập thị trường là tạo tính thanh khoản cho thị trường bằng cách nắm giữ chứng khoán để sẵn sàng mua bán với khách hàng Để hình thành thị trường cho một loại chứng khoán, các công ty giao dịch sẽ đưa ra giá mua cao nhất và giá bán thấp nhất, từ đó tạo ra mức giá yết và hưởng chênh lệch giá Hệ thống các nhà tạo lập thị trường là động lực cho sự phát triển của thị trường OTC Để tham gia, các công ty môi giới cần đăng ký với các cơ quan quản lý và tuân thủ các tiêu chuẩn về tài chính, kỹ thuật, chuyên môn và đạo đức Thị trường OTC, được gọi là thị trường mạng hay thị trường báo giá điện tử, sử dụng hệ thống mạng máy tính điện tử để kết nối tất cả các đối tượng tham gia, phục vụ cho việc đặt lệnh giao dịch, thương lượng giá và thông báo thông tin liên quan đến giao dịch chứng khoán.

Quản lý thị trường OTC tương tự như quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán tập trung, và được phân chia thành hai cấp độ.

HỆ THỐNG THÔNG TIN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Ngày đăng: 09/07/2022, 13:00

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN