1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tự sự về nông thôn trong mảnh đất lắm người ma của nguyễn khắc trường và “đinh trang mộng” của diêm liên khoa

120 72 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tự Sự Về Nông Thôn Trong Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma Của Nguyễn Khắc Trường Và Đinh Trang Mộng Của Diêm Liên Khoa
Tác giả Đỗ Thị Hạnh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Minh Thương
Trường học Trường Đại Học Hùng Vương
Chuyên ngành Lý Luận Văn Học
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Phú Thọ
Định dạng
Số trang 120
Dung lượng 1,21 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
  • 1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu (8)
  • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (14)
  • 1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (14)
  • 1.5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu (14)
  • 1.6. Đóng góp của luận văn (15)
  • 1.7. Cấu trúc luận văn (15)
  • CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ TỰ SỰ HỌC (17)
    • 1.2. Khái lƣợc về vấn đề nông thôn trong văn học (24)
  • CHƯƠNG 2: BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG (34)
    • 2.1. Nông thôn trong các bi kịch tồn sinh khắc nghiệt (34)
    • 2.2. Nông thôn với vấn đề tha hoá đạo đức (53)
    • 2.3. Nông thôn với vấn đề môi trường sinh thái (69)
    • 2.4. Nông thôn với những hủ tục lạc hậu (77)
    • 3.1. Điểm nhìn trần thuật (87)
    • 3.2. Không gian nghệ thuật (92)
    • 3.3. Bút pháp kì ảo (97)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Nông thôn hiện nay đang đối mặt với những thách thức lớn trong bối cảnh đô thị hóa và toàn cầu hóa, khiến nó trở thành một thực thể văn hóa yếu thế và dễ bị tổn thương Trong "cơn địa chấn" của đất đai, tiền bạc và quyền lực, nông thôn phải "oằn mình" để thích nghi và bảo tồn các giá trị bền vững Đề tài nông thôn không chỉ thu hút nhiều văn nghệ sĩ mà còn phản ánh những khởi sắc và bất ổn trong quá trình hiện đại hóa Người nông dân không còn chỉ đơn thuần sống và làm nông nghiệp, nhiều người phải đối mặt với thất nghiệp ngay trên quê hương của mình, dẫn đến những bi kịch thương tâm và hệ lụy khác Những trăn trở này được thể hiện rõ trong các tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường và Diêm Liên Khoa, qua đó gợi lên những suy tư về số phận người nông dân giữa những biến chuyển phức tạp của đời sống.

Nguyễn Khắc Trường, nhà văn quân đội thuộc quân chủng Phòng không - Không quân, sinh ra và lớn lên tại Đồng Hỷ, Thái Nguyên, từ năm 1965 đã có những đóng góp quan trọng cho văn học quân đội Một trong những tác phẩm nổi bật trong sự nghiệp của ông đã để lại dấu ấn sâu sắc.

"Mảnh đất lắm người nhiều ma" là tác phẩm tiêu biểu thể hiện sâu sắc kiến thức về nông thôn Việt Nam, đã được vinh danh bởi Hội nhà văn Việt Nam Tác giả Nguyễn Khắc Trường với tấm lòng trân quý người nông dân, khắc họa chân thực tình cảnh và số phận của họ Trong tác phẩm, cái ác và cái xấu hiện hữu khắp nơi, nhiều người hành động như những kẻ cuồng tín Sự ấu trĩ trong nhận thức và tầm nhìn hạn hẹp của một số cán bộ có chức quyền đã gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho đời sống nông thôn.

Nguyễn Khắc Trường đã khắc họa bi kịch của hai gia đình tan vỡ và những số phận dang dở, nhưng từ đó, ông truyền tải thông điệp hy vọng về một tương lai tốt đẹp và nhân bản hơn.

Diêm Liên Khoa là một trong những nhà văn đương đại tiêu biểu của Trung Quốc, nổi bật với những tác phẩm như Nhật quang ưu niên, Nàng Kim Liên ở trấn Tây Môn, Đinh Trang mộng và Tứ thư Tác phẩm của ông không chỉ có giá trị đối với Trung Quốc mà còn cho nhân loại Tiểu thuyết là lĩnh vực thành công nhất trong sự nghiệp của ông, với đề tài nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sáng tác Đối với Diêm Liên Khoa, nông thôn là kim chỉ nam trong sáng tác, trong khi đối với độc giả, nó là bản đồ để khám phá những bí ẩn trong tác phẩm của ông Chính vì lý do này, ông đã giành được nhiều giải thưởng văn học danh giá cả trong nước và quốc tế Diêm Liên Khoa trở thành cây bút nổi bật với các tác phẩm miêu tả nỗi đau và sự dũng cảm của người nông dân trong cuộc sống.

Roland Barthes đã từng khẳng định rằng "Lịch sử là một câu chuyện," cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa lịch sử và tự sự Trong thế kỷ XX, tự sự học đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng, đặc biệt tại Việt Nam, nơi các nhà nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết tự sự để phân tích và khám phá các tác phẩm văn học một cách hiệu quả Hơn nữa, tự sự học không chỉ giới hạn trong văn học mà còn mở rộng ra các lĩnh vực phi văn học như điện ảnh và nghệ thuật thị giác Miieke Bal nhấn mạnh rằng mọi đối tượng văn hóa đều có thể được nghiên cứu qua lăng kính tự sự, từ bộ luật đến tranh ảnh.

Tự sự về nông thôn trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường và "Đinh Trang mộng" mang đến cái nhìn sâu sắc về đời sống và văn hóa nông thôn Các tác phẩm này không chỉ phản ánh lịch sử mà còn thể hiện những mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và môi trường sống của họ Qua đó, chúng ta nhận thấy sự đa dạng và phong phú trong trải nghiệm của người dân vùng quê.

Diêm Liên Khoa với mong muốn góp phần lý giải đƣợc thành công của hai tác phẩm.

Tổng quan vấn đề nghiên cứu

1.2.1 Các nghiên cứu về “Mảnh đất ắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường

Cho đến nay, xoay quanh Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn

Khắc Trường đã có nhiều bài viết nghiên cứu, phê bình, nhiều ý kiến thảo luận Tiêu biểu là cuộc thảo luận do báo Văn Nghệ tổ chức ngày 25 - 01 -

1991, sau đó đƣợc tập trung in trên tờ báo Văn Nghệ số 11, ngày 16-03-1991, đã có rất nhiều ý kiến đáng chú ý:

Theo nghiên cứu của Hà Minh Đức, nông thôn mà Nguyễn Khắc Trường đề cập là một không gian sống động, phản ánh chân thực và chủ động, nơi diễn ra nhiều chuyển động, xáo trộn và đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu Tác giả nhấn mạnh rằng nông thôn không chỉ đơn thuần là bối cảnh của các phong trào yêu nước hay cải cách, mà còn là nơi phát sinh từ những nguyên nhân nội tại và những câu chuyện hàng xóm.

Giáo sư Phong Lê đã chỉ ra rằng những vấn đề chìm nổi, bề mặt và bề sâu trong cuộc sống đan xen với nhau, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ Ông nhấn mạnh rằng không chỉ có chất thơ mà còn có bi kịch, cùng với những bi kịch gọi nhau Điều này không chỉ liên quan đến những con người nhân danh khác nhau trong cuộc chiến tiêu diệt lẫn nhau, mà còn phản ánh những dạng "dị dạng" bị đẩy vào những cuộc giao tranh quyết liệt.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã thể hiện sự trân trọng đối với tài năng của Nguyễn Khắc Trường “ à tạo được một không khí riêng cho tác

4 phẩm, một không khí âm dương ẫn lộn, có nhân vật thật khó tách bạch đâu à phần quỷ, đâu à phần người”

Giáo sư Trần Đình Sử bày tỏ sự thích thú và đam mê khi đọc tiểu thuyết này, nhấn mạnh sức lôi cuốn đặc biệt của nó từ đầu đến cuối Ông nhận ra rằng tác phẩm phản ánh một hiện tượng xã hội nghiêm trọng, đó là ý thức dòng họ, gia tộc, đang cản trở sự phát triển của xã hội mới và xã hội công dân ở nông thôn Ngoài ra, ông cũng phát hiện ra rằng tác giả đã khắc họa xuất sắc ý thức dòng họ như một hiện tượng sâu sắc, ngấm ngầm và dai dẳng nhưng có ảnh hưởng lớn.

Tác phẩm đã thu hút sự quan tâm và đánh giá từ nhiều tác giả như Nguyễn Phan Hách, Ngô Thảo, Hồ Phương, Thiếu Mai, với điểm chung là nhận thức về hiện thực đặc biệt, đặc biệt là ý thức dòng họ Điều này tạo ra sức mạnh vô hình, ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa con người, khiến họ khó có thể sống theo mong muốn cá nhân Tại hội thảo, tác giả Nguyễn Khắc Trường, của tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma," đã chia sẻ thông tin giúp độc giả hiểu rõ hơn về quá trình hình thành tác phẩm.

Để tìm hiểu nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xuống cấp và tha hóa đạo đức ở nông thôn, cần xem xét vấn đề dòng họ Dòng họ không chỉ là yếu tố lịch sử mà còn là nền tảng văn hóa, có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển cộng đồng từ những ngày đầu khai thiên lập địa.

Tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma còn nhận đƣợc ý kiến của một số cây bút trên một số bài báo, chuyên luận khác, tiêu biểu nhƣ:

Trong “Đọc mảnh đất lắm người nhiều ma” (Tác phẩm mới, Hà Nội, số

8, tháng 8, 1991) Lê Thành Nghị đã nhận ra vấn đề bao quát của tác phẩm là

Vấn đề nhận dạng bộ mặt tinh thần nông thôn là một chủ đề quan trọng Theo tác giả, bộ mặt nông thôn hiện tại cũng như trong quá khứ được hình thành từ sự chi phối của nhiều yếu tố Sự phát triển và thay đổi của nông thôn không chỉ phản ánh trong các khía cạnh vật chất mà còn trong các giá trị văn hóa và tinh thần, tạo nên bản sắc riêng của mỗi vùng quê.

“khá triệt để về ý thức của các dòng họ” Phải chăng chính điều này đã chi

Tất cả ý nghĩ và hành động của con người, kể cả những người nắm giữ vị trí cao nhất như Bí thư đảng ủy Trịnh Bá Thủ, đều bị ảnh hưởng bởi "trường" ý thức dòng họ.

Tác giả Hồng Diệu trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" (Văn nghệ Quân đội, Hà Nội số 8, tháng 8, 1991) đã thể hiện một phong cách độc đáo trong văn học viết về nông thôn Việt Nam dưới chế độ đổi mới Tác phẩm không chỉ nổi bật với giọng điệu hài hước mà còn ẩn chứa một giọng điệu bi thảm sâu sắc, tạo nên sự đa dạng và chiều sâu cho câu chuyện.

Tác giả Ngọc Anh trong bài viết trên báo Giáo dục và Thời đại ngày 27 tháng 5 năm 1991 đã khẳng định thành công nghệ thuật của Nguyễn Khắc Trường, đặc biệt trong việc dựng truyện, xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ Ngọc Anh nhấn mạnh tính chỉnh thể và kết cấu của tác phẩm, với những sự kiện liên tiếp nhau và các bi kịch kéo theo nhau Dù nhiều sự việc diễn ra phức tạp và mâu thuẫn, tác giả đã sâu sắc nhìn nhận bản chất của chúng, giải quyết một cách thấu đáo như thể "sự việc nó đúng phải xảy ra như thế".

Lê Nguyên Cẩn với Thế giới kỳ ảo trong “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường từ cái nhìn văn hoá (Tạp chí khoa học số 5,

Bài viết năm 2005 của Trường ĐHSP Hà Nội tập trung vào việc phân tích tác phẩm qua lăng kính văn hóa, nhấn mạnh rằng giá trị của tác phẩm không chỉ nằm ở nội dung phản ánh thời kỳ khó khăn của đất nước mà còn ở "thế giới kỳ ảo" được xây dựng với các yếu tố kỳ ảo đặc trưng, như môtíp cái chết và môtíp ma hiện hồn Văn hóa tâm linh được các thế lực trong làng lợi dụng triệt để, và tác giả cũng chỉ ra các biểu hiện đa dạng của văn hóa, bao gồm "văn hóa lịch sử" và "văn hóa ẩm thực".

6 thực”; “Văn hoá cưới xin, tang lễ” Bài viết đã tiếp cận tác phẩm theo hướng văn hoá học đƣa đến những kiến giải độc đáo

1.2.2 Các nghiên cứu về “Đinh Trang mộng” của Diêm Liên Khoa

Diêm Liên Khoa là một trong những nhà văn nổi bật của văn học hiện đại Trung Quốc, với tác phẩm tạo ra nguồn cảm hứng phong phú cho giới học thuật Nhiều nghiên cứu về ông đã được thực hiện, như của Hùng Tu Vũ với "Diêm Liên Khoa và văn học đương đại Trung Quốc", Trương Thụy Kiệt với "Phong Nhã Tụng" đề cập đến thân phận trí thức nông thôn, Thiệu Yên Quân với "Hoang đản hay hoang đường, ộng ngôn hay khinh nhờn?", và Trần Phúc Chí với "Sự hoang đường chân thực" Đặc biệt, năm 2014, Diêm Liên Khoa đã vinh dự nhận giải thưởng văn học, khẳng định vị thế của ông trong nền văn học Trung Quốc.

Kafka đã thu hút sự chú ý đặc biệt từ truyền thông và độc giả Trung Quốc, dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong nghiên cứu về ông Năm 2012 có 141 bài nghiên cứu, năm 2013 có 189 bài, và năm 2014 đã ghi nhận tới 235 bài Diêm Liên Khoa nổi bật với những đề tài sáng tác phong phú và đa dạng thể loại, đặc biệt là trong lĩnh vực truyện và tiểu thuyết.

Trong các nghiên cứu của giới học thuật Trung Quốc về Diêm Liên Khoa, phải kể đến bài nghiên cứu của nhà phê bình văn học Vương Nghiêu:

Văn học sử cá nhân phản ánh sự chuyển mình của lịch sử văn học, và tác phẩm của Diêm Liên Khoa được coi là mắt xích quan trọng trong sự thay đổi trật tự văn học từ thập niên 90 thế kỷ XX đến nay Bài tiểu luận nhấn mạnh các vấn đề như xung đột giữa hiện thực và nội tâm, mối quan hệ giữa chính trị và mỹ học, cũng như siêu thể loại và siêu chủ nghĩa trong sáng tác của ông Mặc dù còn mới mẻ tại Việt Nam, Diêm Liên Khoa đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và độc giả, với nhiều tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản.

Diêm Liên Khoa là một trong những tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm xuất sắc như "Người tình của phu nhân sư trưởng", "Kiên ngạnh như thủy", "Phong nhã tụng", "Nàng Kim Liên ở trấn Tây Môn", "Đinh Trang mộng" và "Tứ thư" Mặc dù số lượng tác phẩm đã được dịch vẫn chưa đầy đủ so với sự nghiệp đồ sộ của ông, điều này không làm giảm đi sự quan tâm của các học giả đối với văn học Trung Quốc và những sáng tác của ông.

Trong bài viết "Diêm Liên Khoa thắp ánh sáng từ bóng tối", Nguyễn Thị Minh Thương nhấn mạnh rằng tác phẩm của Diêm Liên Khoa thường khai thác những khía cạnh tiêu cực của xã hội, nhưng lại mang đến thông điệp tích cực, hướng con người đến ánh sáng và giá trị nhân tính.

Mục tiêu nghiên cứu

Phân tích tự sự về nông thôn trong hai tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Đinh Trang mộng của Diêm Liên

Lí thuyết tự sự học được làm sáng tỏ qua hai hiện tượng văn học tiêu biểu, từ đó khẳng định những đóng góp quan trọng của các nhà văn đối với đề tài nông thôn trong văn học Những tác phẩm này không chỉ phản ánh cuộc sống nông thôn mà còn thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm và những vấn đề xã hội mà người dân nơi đây phải đối mặt.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong bài viết này là sự tự sự về nông thôn, được thể hiện qua hai tác phẩm nổi bật: "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường và "Đinh Trang mộng" của Diêm Liên Khoa.

Đề tài nghiên cứu này tập trung vào việc khảo sát tự sự về nông thôn thông qua hai tác phẩm nổi bật: "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường và "Đinh Trang mộng" của Diêm Liên Khoa Các tác phẩm này không chỉ phản ánh đời sống nông thôn mà còn khám phá sâu sắc tâm tư, tình cảm của con người trong bối cảnh xã hội hiện đại.

Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

Bài viết sẽ phân tích đề tài nông thôn trong hai tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường và Diêm Liên Khoa, dựa trên lí thuyết thi pháp học, tự sự học và văn học so sánh Qua quá trình tìm hiểu và chứng minh, bài viết sẽ làm nổi bật sự độc đáo và mới mẻ của cả hai tác giả trong cách thể hiện đề tài này Đồng thời, việc tham khảo nhiều nguồn tư liệu khác nhau sẽ giúp bài viết thể hiện quan điểm riêng và mới mẻ, dựa trên khảo sát và đối sánh hai tác phẩm.

Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp nghiên cứu tự sự học được áp dụng để khám phá các vấn đề tự sự liên quan đến nông thôn trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Nghiên cứu này giúp làm sáng tỏ những khía cạnh văn hóa, xã hội và tâm lý của nhân vật, đồng thời phản ánh chân thực cuộc sống và những biến đổi trong cộng đồng nông thôn Qua đó, tác phẩm không chỉ là một bức tranh sinh động về nông thôn mà còn là một nghiên cứu sâu sắc về tâm tư, tình cảm của con người trong bối cảnh lịch sử nhất định.

Trong nghiên cứu về "Trường và Đinh Trang" của Diêm Liên Khoa, chúng tôi áp dụng phương pháp tự sự học để phân tích các yếu tố quan trọng như điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, kết cấu, và không gian - thời gian nghệ thuật Những yếu tố này đóng vai trò then chốt trong việc hiểu sâu sắc tác phẩm và thể hiện cách mà tác giả xây dựng câu chuyện.

Phương pháp tiếp cận hệ thống giúp phân tích vấn đề tự sự về nông thôn trong sáng tác của Nguyễn Khắc Trường và Diêm Liên Khoa qua hai tác phẩm nổi bật Cách tiếp cận này cho phép chúng ta nhận diện những đặc điểm chính trong cách thể hiện nông thôn của các tác giả, từ đó làm nổi bật sự liên kết và tương đồng trong nội dung và hình thức sáng tác của họ.

Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng liên tục để làm nổi bật các luận điểm và nhận định trong việc tìm hiểu vấn đề nông thôn qua sáng tác của Nguyễn Khắc Trường và Diêm Liên Khoa.

Phương pháp so sánh giúp chúng tôi khám phá sâu sắc hơn về tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường và Diêm Liên Khoa, đồng thời đối chiếu với các nhà văn khác có cùng mối quan tâm Qua đó, chúng tôi chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong cách tiếp cận và thể hiện vấn đề nông thôn của các tác giả này.

Đóng góp của luận văn

Hệ thống một số phạm trù lý thuyết tự sự học; làm rõ khả năng của lý thuyết này trong nghiên cứu hiện tƣợng cụ thể

Làm sáng tỏ đặc điểm của tự sự về nông thôn trong hai tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường và Diêm Liên Khoa

Bước đầu thực hiện và phát triển hướng nghiên cứu tự sự học hậu kinh điển gắn với các hệ chủ đề nổi bật trong văn học.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính luận văn chúng tôi triển khai thành ba chương:

Chương 1 của bài viết trình bày khái lược về tự sự học và vai trò của vấn đề nông thôn trong văn học Chương 2 tập trung vào việc phân tích bức tranh nông thôn qua hai tác phẩm tiêu biểu: "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường và "Đinh Trang mộng" của Diêm Liên Khoa.

Chương 3: Nghệ thuật tự sự về nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Đinh Trang mộng của Diêm Liên

KHÁI LƯỢC VỀ TỰ SỰ HỌC

Khái lƣợc về vấn đề nông thôn trong văn học

Trong văn học Việt Nam, nhiều tác giả nổi bật đã để lại dấu ấn sâu sắc về đề tài nông thôn qua các giai đoạn lịch sử khác nhau Từ Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bửu Mọc, Hồ Biểu Chánh ở giai đoạn 1900 – 1930 đến Kim Lân, Bùi Hiển, và Nam Cao trong thời kỳ 1930 – 1945, rồi tiếp tục với Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, và Nguyễn Huy Thiệp sau 1975, các nhà văn đã thể hiện khát vọng khám phá và nhận thức lại đời sống văn hóa nông thôn Những tác phẩm này không chỉ phản ánh thực tại xã hội mà còn góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học Việt Nam.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa nông thôn đã trải qua những thay đổi sâu sắc, ảnh hưởng đến nhận thức về không gian văn hóa và hình thành những tâm thế mới cho chủ thể văn hóa Sau năm 1986, tiểu thuyết về nông thôn đã có sự đổi mới mạnh mẽ, từ cảm hứng, đề tài đến thi pháp, tạo nên một cái nhìn sinh động và đầy đủ hơn về thực tại Sự phát triển của các tác phẩm văn học nông thôn không chỉ mang lại không khí sôi động mà còn đánh dấu một giai đoạn thành công trong văn học Đặc biệt, việc chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư là một điểm nhấn quan trọng, phản ánh sự thay đổi trong quan điểm đạo đức và thẩm mỹ Sự đổi mới tư duy nghệ thuật đã dẫn đến những thay đổi trong cách thể hiện và quy tắc văn học, hình thành một diện mạo mới cho văn học nông thôn Quá trình phát triển này cho thấy sự giao thoa giữa các nguyên tắc cũ và mới, tạo ra tính chất lưỡng thể trong tác phẩm Từ năm 1986, tiểu thuyết nông thôn đã đạt được những thành tựu đáng kể, trực tiếp phản ánh các vấn đề thực tiễn trong sản xuất và quản lý kinh tế - xã hội.

Lối tư duy sản xuất cũ đang gặp phải 21 khó khăn, bất cập, đòi hỏi một sự nhận thức lại thực tại trong bối cảnh cuộc sống ngày càng phức tạp Các nhà tiểu thuyết thời kỳ này đã mạnh dạn thể hiện những góc khuất của hiện thực nông thôn, phản ánh những vấn đề xã hội như tham nhũng, trộm cắp và cường hào Qua các tác phẩm, họ xây dựng bức tranh nông thôn xuyên suốt thế kỷ XX, từ Cách mạng tháng 8 đến quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường Tiểu thuyết giai đoạn này không chỉ phản ánh mà còn phản biện xã hội, mổ xẻ những mối quan hệ phức tạp giữa con người với nhau và giữa con người với xã hội Hình ảnh người nông dân được khắc họa sâu sắc trong mối quan hệ giữa “con” và “người”, với những mâu thuẫn gia đình và ý thức hệ, tạo nên những "tiểu vũ trụ" đầy cảm xúc và sắc màu Các nhà văn sau 1986 đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc và đa chiều về hiện thực nông thôn, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học Việt Nam.

Họ nhìn vào tầng sâu, mạch ngầm của đời sống nông thôn và thấu hiểu những

Trong bối cảnh hội nhập và kinh tế thị trường, nông thôn truyền thống vẫn giữ được 22 giá trị tốt đẹp, nhưng cũng bộc lộ những mặt trái trong tính cách của người nông dân Những bất cập này cần được nhận diện và giải quyết để cùng nhau xây dựng một nông thôn mới, mang lại sự phát triển bền vững và hài hòa.

Từ sau 1986, tiểu thuyết Việt Nam chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ với sự xâm lấn của các giá trị mới trong bối cảnh đô thị hóa và toàn cầu hóa Các nhà văn ngày càng tự do thể hiện suy nghĩ và chính kiến mà không bị ràng buộc, dẫn đến sự đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức văn xuôi Chủ đề nông thôn vẫn được khai thác sâu sắc từ nhiều góc độ, và hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn này đều đạt được sự tiến bộ rõ rệt, với những kiệt tác mang tính đột phá.

“thành tựu” như: Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma

Trong sự nghiệp văn học của mình, Lê Lựu đã cho ra đời nhiều tác phẩm nổi bật như "Chuyện àng Cuội" (1991) và "Sóng ở đáy sông" (1994), góp phần mang lại giải thưởng lớn từ Hội nhà văn Tiểu thuyết "Thời xa vắng" đã làm nổi bật hình ảnh người nông dân Giang Minh Sài, khẳng định tài năng của ông Đặc biệt, năm 1991, trong số ba tiểu thuyết đoạt giải, có hai tác phẩm về nông thôn là "Mảnh đất lắm người nhiều ma" và "Bến không chồng," thể hiện sự gắn bó của Lê Lựu với đề tài nông thôn.

Nguyễn Khắc Trường, mặc dù không phải là nhà văn tiên phong trong thế hệ đổi mới như Lê Lựu hay Dương Hướng, vẫn tạo dấu ấn riêng trong việc khai thác đề tài nông thôn Ông không đưa ra những vấn đề quá mới mẻ so với các tác giả đi trước, như mâu thuẫn dòng tộc hay cải cách ruộng đất, nhưng vẫn mang đến một giọng điệu độc đáo cho tác phẩm của mình Tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường góp phần vào dòng chảy chung của những tác phẩm thành công trong đề tài này.

23 vẫn có những khác biệt từ cách khai thác chất liệu hiện thực cho đến các thủ pháp xây dựng tác phẩm

Trong số các tiểu thuyết thành công về nông thôn, "Thời xa vắng" của Lê Lựu nổi bật với nhân vật Giang Minh Sài, được khắc họa qua các mối quan hệ xã hội đa dạng như với nông dân, đồng đội và giới trí thức Tác giả không chỉ miêu tả cuộc sống của một nông dân mà còn khái quát hiện thực rộng lớn hơn của nông thôn Nhiều nhà phê bình nhận định rằng Lê Lựu đã "rút ruột" mình để viết nên tác phẩm này Giang Minh Sài, vượt ra khỏi làng Hạ Vị, đại diện cho hình mẫu thanh niên nông thôn thời bấy giờ, hết lòng phục vụ tổ chức và nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ Tuy nhiên, hôn nhân và tình yêu của nhân vật lại mang những bi kịch lịch sử, thể hiện sự đồng cảm của tác giả, người đã đưa phần đời của mình vào tác phẩm khi tài năng đang ở đỉnh cao.

Nhà văn Dương Hướng, qua tiểu thuyết Bến không chồng, phản ánh những vấn đề phức tạp ở nông thôn miền Bắc như tâm lý tộc họ, gia trưởng và thành kiến đối với phụ nữ không có con Tác phẩm này thể hiện tình trạng xã hội lạc hậu nghiêm trọng Trong khi đó, tiểu thuyết Ác mộng của Ngô Ngọc Bội tập trung vào cuộc cải cách ruộng đất, nêu bật những sai lầm và mặt trái mà trước đây ít được đề cập Những quyết định quản lý thái quá đã gây oan khuất cho nhiều gia đình và số phận con người Tác phẩm tái hiện sự kiện một cách trung thực, không ác ý, nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn về lịch sử.

Hôm nay, hãy bình tĩnh nhìn lại quá khứ trong hành trình hướng tới tương lai, với hy vọng rằng sau những cái giá phải trả đắt đỏ, chúng ta cần tìm cách để không lặp lại những sai lầm tương tự.

Tiểu thuyết "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường khắc họa xung đột xã hội qua cuộc chiến giữa các dòng họ, đặc biệt là giữa họ Vũ Đình và Trịnh Bá Dù chỉ diễn ra trong một không gian hẹp, tác phẩm phản ánh một xã hội thu nhỏ với đầy đủ mối quan hệ phức tạp như yêu thương, thù hận, và sự thật – dối trá Hiện thực nông thôn Việt Nam được thể hiện sinh động qua lăng kính này, cho thấy những mâu thuẫn tư tưởng và lợi ích, khiến con người sẵn sàng gây hại cho nhau Tác giả không ngần ngại chỉ ra những mặt trái của cuộc sống nông thôn, những khía cạnh mà xã hội thường lờ đi Qua đó, đời sống nông thôn được xây dựng sắc sảo và sống động, đồng thời mang tính khái quát cao, tạo nên bước đột phá cho tác phẩm, dù đề tài không mới.

Mảnh đất lắm người nhiều ma thành một trong những tác phẩm viết về nông thôn gây đƣợc sự chú ý nhất vào thời điểm ấy

Văn học Trung Quốc là một phần quan trọng trong nền văn hóa châu Á và thế giới, với sự phong phú về thể loại và đa dạng về hình thức thể hiện Qua lịch sử và xã hội phát triển, nhiều tác giả Trung Quốc đã khẳng định vị thế của mình trên văn đàn toàn cầu Việc nghiên cứu và tìm hiểu văn học Trung Quốc không chỉ mang lại niềm đam mê mà còn giúp độc giả thưởng thức những giá trị sâu sắc trong nội dung và chủ đề của các tác phẩm.

Văn học Trung Quốc từ những năm 1960 đã phát triển mạnh mẽ, tạo ra bản sắc riêng biệt qua quá trình sàng lọc thời gian Sự kết hợp giữa nội lực hùng hậu và mở cửa kinh tế thị trường đã giúp văn học nghệ thuật Trung Quốc cởi trói, vươn ra thế giới Trong ba thập kỷ qua, tiểu thuyết Trung Quốc đã chiếm vị trí độc tôn, trong khi thơ ca, tản văn, kịch dần bị đẩy ra ngoại biên Đề tài nông thôn trở thành một trong những mảng lớn được chú ý, phản ánh chân thực cuộc sống và đấu tranh giai cấp ở nông thôn Các tác phẩm nổi bật miêu tả sự biến đổi trong cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp và mối quan hệ giữa các tầng lớp nông dân Tác giả không chỉ đơn giản hóa mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ mà còn khắc họa sâu sắc các mối quan hệ xã hội và tình hình nông thôn, mang đậm màu sắc văn hóa và phong cảnh độc đáo của địa phương.

Trong thời kỳ này, việc "theo sát phong trào" không chỉ phản ánh tinh thần của thời đại mà còn dẫn đến sự xuất hiện của những công thức và khái niệm hóa không thể tránh khỏi.

Trong thời kỳ cải cách mở cửa, đề tài nông thôn vẫn giữ vị trí quan trọng trong văn học, đặc biệt từ năm 1976, khi tiểu thuyết nông thôn phát triển với những nội dung phong phú Các tác phẩm không chỉ ca ngợi sự đổi mới mà còn phê phán những hiện tượng giả tạo và ý thức văn hóa phong kiến tồn tại ở nông thôn Đồng thời, tiểu thuyết thời kỳ này cũng đề cập đến tính bảo thủ, thói quen nô lệ và tinh thần chiến thắng của nông dân Nhân vật nông dân mới bắt đầu chú trọng đến lợi ích cá nhân và giá trị sinh mệnh, với tính cách phong phú và đa dạng hơn trước Một điểm mới trong văn học là sự biến chất của các anh hùng thời đại và người cải cách thành thế lực tàn ác, phản ánh sự thoát ly khỏi tư tưởng tả khuynh và tiếp cận hiện thực một cách tỉnh táo hơn.

BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG

Nông thôn trong các bi kịch tồn sinh khắc nghiệt

2.1.1 Bi kịch tồn sinh khắc nghiệt trong Mảnh đất lắm người nhiều ma Với khát khao muốn viết tiểu thuyết, viết trung thực, viết hết sức và viết với nghệ thuật đích thực, Nguyễn Khắc Trường đã rất thành công khi sáng tạo đƣợc thiên tiểu thuyết Mảnh đất ắm người nhiều ma Mở đầu tác phẩm ngót bốn trăm trang in này là câu: “Không dè cái đói giáp hạt này lại đủ móng vuốt nhảy xổ vào cả cái xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã” [42; 5] Cuối tác phẩm có ghi: “Những ngày giáp hạt năm 1988” [42; 385] Vậy là, thực hiện cuộc đi thực tế năm 1988, Nguyễn Khắc Trường cũng đã viết xong thiên tiểu thuyết vào những ngày giáp hạt năm đó Nhà văn đã thành công khi viết về những sự đời chất chứa trong lòng và những ấn tƣợng sâu xa từ thực tế đời sống xã hội dội mạnh vào trực giác, tạo dựng nên một làng quê xứ Bắc nửa sau thế kỷ XX Có thể mạnh dạn nhận định rằng, xóm Giếng Chùa của Nguyễn Khắc Trường là xã hội Việt Nam thu nhỏ, ở đó có thật nhiều tình yêu, nỗi khổ nhục, biết bao cuộc mưu sinh cực nhọc và những cái chết… Mảnh đất ắm người nhiều ma tác động mạnh vào tâm can, trí não người đọc, nhất là người đọc quan tâm đến đề tài nông thôn và nông dân Mà ở Việt Nam ta, vào thời điểm những năm tám mươi của thế kỷ XX, có đến hơn tám mươi phần trăm dân số là nông dân hoặc có gốc gác từ nông thôn

Mảnh đất ắm người nhiều ma là một tác phẩm văn chương hiện thực, phản ánh chân thực cuộc sống của các nhân vật đã gắn bó với nhau suốt hơn bốn mươi năm Trong đó, lão Quềnh, một người khỏe mạnh như "một con tê tê dũi đất", đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp, thể hiện sức sống mãnh liệt của con người trong bối cảnh lịch sử đầy biến động.

Vũ Đình Đại, một cựu du kích giờ đây trở thành người làm thuê và chuyên đào hầm, được dân Giếng Chùa gọi là Cụ Cố Con trai ông, Vũ Đình Phúc, từng là Chủ nhiệm hợp tác xã và có vai trò trong Đảng ủy, nhưng lại bị coi là "đại vô phúc" khi trong thời kỳ cải cách ruộng đất, ông bị đội trưởng đội cải cách nhắm đến Để chứng tỏ mình không thuộc giai cấp địa chủ, Phúc tham gia du kích trong kháng chiến chống Pháp Dòng họ Trịnh Bá, với Bí thư Đảng ủy mới là Trịnh Bá Thủ, có mối thù sâu sắc với họ Vũ Đình, bắt nguồn từ những cuộc tranh giành quyền lực trước đây Sự thù hận này càng sâu sắc hơn khi Trịnh Bá Hoành, cha của Thủ, từng phải bán ruộng vườn để tranh giành chức Lý trưởng với Vũ Đình Đại Một sự kiện đáng nhớ là vào năm 1949, Phúc đã chọc thủng mắt ông Hổ trên bức tranh thờ của họ Trịnh Bá, tạo nên mối thù huyết lệ giữa hai dòng họ, đặc biệt là với tình cảm của Trịnh Bá Hàm đối với Vũ Đình Phúc, do cô Son, người phụ nữ đẹp nổi tiếng, đã từng yêu Phúc trước khi trở thành vợ của Hàm.

Cuộc tranh chấp giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình đã kéo dài suốt nửa thế kỷ, ngày càng sâu sắc hơn theo thời gian Hai họ này luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong xóm Giếng Chùa, với sự thay đổi quyền lực giữa họ Vũ Đình và họ Trịnh Bá trong việc lãnh đạo Đảng ủy Sự cạnh tranh này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống chính trị mà còn tác động mạnh mẽ đến hoạt động nông nghiệp, chăn nuôi, và cuộc sống hàng ngày của người dân trong làng, khiến họ phải lo toan cho cuộc sống trong những mái nhà nghèo khó.

Xóm Giếng Chùa, nổi tiếng với sự giàu có và sang trọng, lại gây bất ngờ khi người dân nơi đây sa vào vòng xoáy mê muội, thậm chí đào mả của nhau Tình trạng này không phân biệt giới tính hay độ tuổi, từ đàn ông, phụ nữ đến người già và thanh niên, tất cả đều bị cuốn vào sự u mê Các lãnh đạo như Chi ủy, Chủ tịch và Chủ nhiệm cũng không thoát khỏi ảnh hưởng tiêu cực này.

Nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường phản ánh bi kịch tồn sinh khắc nghiệt với những khó khăn vật chất và tinh thần Sự ích kỷ trong cuộc sống hàng ngày dẫn đến xung đột kéo dài, từ những cuộc đối đầu căng thẳng đến những âm thầm lén lút, với nhiều thủ đoạn tinh vi như bịa đặt và vu khống Nhân vật trong tác phẩm vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của những bi kịch, sống trong một xã hội cũ kỹ đã tha hoá, nhưng vẫn hiện hữu và tác động mạnh mẽ đến đời sống nông thôn ngày nay.

Nguyễn Khắc Trường đã khắc họa cuộc sống khắc nghiệt của người dân trong những ngày Giáp hạt đói khát, khi mà cuộc sống thôn quê bị đảo lộn bởi nạn đói Cái đói, cái khát như một ác thần gõ cửa từng nhà, khiến họ phải sáng chế ra những món ăn tạm bợ như cháo độn rau tập tàng hay bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng để cho gà Hình ảnh bà Đồ Ngật, người từng quen ăn ngon, giờ phải chấp nhận thực phẩm giản dị, phản ánh sự khốn cùng của con người khi phải đối mặt với nỗi thiếu thốn Cái đói không chỉ làm lung lạc ý trí mà còn khiến con người trở nên nhỏ nhen, tầm thường, như hình ảnh ông Quản Ngư, người nổi tiếng với trí lớn gan to, nhưng giờ đây cũng phải chịu khuất phục trước hoàn cảnh.

Quềnh, một người đàn ông thật thà và tốt bụng, đã phải chịu đựng nỗi khổ từ cái đói, đến mức phải ăn cháo cám và làm bánh hấp từ cám để lấp đầy cái bụng trống rỗng Hậu quả là cả ông và cô con gái út gần mười tuổi đều bị kiết lị, phải khổ sở “lấy que” để đi ngoài Để có sức lực cùng đám trai làng đi đào huyệt, Quềnh đã phải ăn cả khoai lang, nhưng chỉ sau khi húp nồi canh nhộn nhạo từ củ và lá, cái đói vẫn không nguôi ngoai, thậm chí còn tăng thêm.

Cái chết thê thảm của lão Quềnh, do no quá độ sau khi ăn uống thỏa thích và làm việc nặng, phản ánh rõ ràng nỗi khổ của cái đói Lão đã cùng Ích tiêu thụ rượu và thịt, rồi ngay sau đó, không ngừng gánh vác công việc nặng nhọc, dẫn đến việc vỡ dạ dày Tương tự, mẹ con chị Bé cũng phải sống trong lều của lão Quềnh vì đói khát, phải rời bỏ nơi mà họ từng sống, nơi mà đói nghèo đã khiến họ phải dùng thuốc sâu trong nồi cháo Cuộc sống trong những ngày Giáp hạt đã làm héo hắt những người nông dân lương thiện, khiến họ mất đi nhân hình và nhân tính.

Cái cười lúc đói không phát ra âm thanh, khiến khuôn mặt héo quắt, tạo nên cảm giác xót xa Sự khổ cực này sẽ khiến dân làng mê mẩn với những hạt keo vật giáp, mang lại niềm vui và hy vọng cho họ.

Trong bối cảnh đói kém, hình ảnh nồi niêu trống rỗng và những khuôn mặt gầy gò, hốc hác hiện lên rõ nét, phản ánh sự khốn cùng của con người Tuy nhiên, giữa cái đói, ta cũng cảm nhận được sức sống mãnh liệt và tinh thần kiên cường của họ Nỗi ám ảnh về cảnh nghèo đói trong tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường gợi nhớ đến hình ảnh của những nhân vật như chị Dậu và cái Tí trong "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố.

Trong truyện ngắn "Lão Hạc" của Nam Cao, nhân vật Tố và Lão Hạc hiện lên với những nỗi khổ sở, méo mó, phản ánh sự đánh mất nhân hình và nhân tính Họ dường như bị quỷ dữ chiếm đoạt mà không nhận ra, tạo nên một bức tranh bi thảm về cuộc sống và tâm hồn con người.

Các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường không chỉ đối mặt với cái đói và khó khăn trong cuộc sống mà còn phải gánh chịu nỗi đau khổ và tuyệt vọng trong đời sống tinh thần Họ đều mang trong mình bi kịch, từ dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình đến gia đình ông Hàm - bà Son, gia đình Trung tá Chỉnh, và bi kịch tình yêu giữa Tùng và Đào Tất cả đều chịu đựng đau khổ, bị cuốn theo hoàn cảnh khắc nghiệt Bi kịch mà tác giả muốn truyền tải chính là nỗi đau của con người bị xã hội ruồng bỏ, cự tuyệt quyền sống, thậm chí ngay cả khi chết cũng không được đối xử tôn trọng Một ví dụ điển hình là nhân vật Quềnh, một bi kịch đầy nước mắt Quềnh, từ một cậu bé trẻ khỏe với ngoại hình thô vụng, đã không nhận được may mắn trong cuộc đời Ngay từ nhỏ, cậu đã phải chịu đựng nhiều nỗi đau, bắt đầu từ việc bị ma nữ trêu chọc cho đến những cơn ốm đau triền miên.

Quềnh lớn lên trong sự lạc lõng, luôn nhớ quên, và kết quả là không thể tìm thấy vợ Dù làm thuê làm mướn, cống hiến sức lực cho người khác, nhưng hắn vẫn không có nơi nương thân hay mái ấm hạnh phúc Cuối đời, Quềnh không nhận được chút an ủi nào từ cuộc sống.

Cái chết của Quềnh, do ăn quá no rồi lao động ngay, để lại nỗi ám ảnh và day dứt cho người đọc về những giá trị thiêng liêng dành cho người đã khuất Lão phải chấp nhận thêm một nỗi vất vả để có thể nằm trong bộ áo quan, thể hiện sự bình đẳng với những người khác đã ra đi Điều này đồng nghĩa với việc lão phải hy sinh một lần nữa để bảo vệ danh dự cho những người còn lại.

Nông thôn với vấn đề tha hoá đạo đức

2.2.1 Vấn đề tha hoá đạo đức trong Mảnh đất lắm người nhiều ma

Sự tha hoá đạo đức và lối sống ở nông thôn được thể hiện rõ trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường Hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình cảm và tính cách con người, nơi môi trường tốt đẹp nuôi dưỡng lương thiện, còn môi trường xấu khiến con người dễ đánh mất bản thân Mối quan hệ gia đình và tình nghĩa hàng xóm giờ đây bị thay thế bởi những ham muốn vật chất, dẫn đến sự ích kỷ và mất nhân tính Nhân vật Quàng, mặc dù là em trai của Quềnh, đã lợi dụng sự ngờ nghệch của anh để chiếm đoạt tài sản, cắt đứt tình nghĩa mà không thương xót Hành động táng tận lương tâm của Quàng khi chôn cất anh mình một cách hời hợt chỉ bằng một bó chiếu phản ánh sự tha hóa và tàn nhẫn của con người trong bối cảnh xã hội đầy bất công.

Cuộc sống nghèo khó đã khiến con người đánh mất nhân hình và nhân tính của mình, dẫn đến những hành động bất lương chỉ vì miếng ăn Thó, trong hoàn cảnh đó, đã trở thành công cụ cho những kẻ quyền lực và giàu có, sẵn sàng thực hiện những việc trái lương tâm Đây chính là bi kịch của con người khi bản chất lương thiện bị che lấp bởi cái đói nghèo, khiến họ dễ dàng đánh đổi tất cả chỉ để sinh tồn.

Chị Bé là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ tha phương cầu thực, với dáng vẻ cao gầy, hốc hác nhưng nhanh nhẹn Chị đến từ một nơi mà người ta đã từng bỏ thuốc độc vào nồi cháo để cùng nhau chết, thể hiện sự khốn cùng và bi thương trong cuộc sống.

Chị đã từng cảm thấy căm phẫn và muốn trả thù nhà chủ, nhưng cuối cùng chỉ còn lại nỗi uất hận khi bế đứa con bỏ đi, và đứa bé không may ốm yếu rồi qua đời Mọi nỗ lực của chị để giành lấy sự sống cho con như cánh diều trước gió đều không thành công Qua các nhân vật như bà Đồ Ngật, ông Quản Ngư, thằng Thó, và chị Bé, ta nhận thấy môi trường sống ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống, tính cách và tình cảm con người Chỉ một nạn đói trong những năm Giáp hạt cũng đủ khiến người ta từ bỏ tình cảm thiêng liêng để theo đuổi lợi ích cá nhân, đánh mất tình thương và trách nhiệm của chính mình.

Sự tha hóa của con người xuất phát từ lòng ích kỷ và vụ lợi, dẫn đến việc đánh mất bản thân và các mối quan hệ tốt đẹp Trong những năm đầu đổi mới, nông thôn đã có những chuyển biến tích cực, nhưng cũng đối mặt với cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các bè phái vì quyền lực và đất đai Những thủ đoạn không từ bất kỳ ai, kể cả việc dồn người thân vào chỗ chết, đã được sử dụng để tranh giành quyền lợi, với sự lợi dụng danh nghĩa các tổ chức Đoàn, Đảng Vấn đề “hôn nhân vạn cố chi thù” cùng những cuộc tranh chấp ruộng đất, chức tước diễn ra gay gắt, điển hình như các nhân vật Trịnh Bá Thủ, Trịnh Bá Hàm và Vũ Đình Phúc Tuy nhiên, mối hận thù giữa ông Vũ Đình Đại và ông Phúc sau hơn ba mươi năm đã được hóa giải.

Ông coi cha con nhà Trịnh Bá là kẻ thù lớn nhất, mang trong lòng nỗi hận thù cho đến khi qua đời Trước khi ra đi, ông đã tin tưởng giao trọng trách này cho Vũ Đình Phúc.

Trịnh Bá Hoành trước khi qua đời đã gửi gắm nỗi uất hận về món nợ gia đình chưa được đòi, nhắc nhở con trai Trịnh Bá Hàm phải nhớ đến điều đó Để trả thù cho cha, Hàm quyết định thực hiện một hành động tàn nhẫn, thể hiện sự mất nhân tính khi lên kế hoạch yểm bùa cả gia đình kẻ thù Sự thù hận được thể hiện rõ qua lời khấn độc địa, mong muốn tuyệt tự ba đời và sự đau khổ của người phụ nữ trong đêm động phòng, mang đậm mùi vị địa ngục Để bảo vệ danh dự dòng họ, Hàm đã đẩy bà Son vào con đường tội lỗi, thậm chí dẫn đến cái chết của bà.

Trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma", Nguyễn Khắc Trường khắc họa thành công nhân vật Thủ, một người có ngoại hình cao ráo, trắng trẻo, nhưng thực chất lại là kẻ thâm độc và mưu mô Thủ có quyền lực và lòng nhiệt huyết với dân, nhưng lại âm thầm tính toán để không phải trực tiếp ra tay trừng phạt Phúc, mà chỉ muốn đóng vai trò quan sát trong cuộc đấu tranh Để bảo vệ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Thủ không ngần ngại đánh đổi tình thân, lừa dối chị dâu Son để đạt được mục đích cá nhân, cho thấy sự xảo quyệt và tàn nhẫn của nhân vật này.

Trong câu chuyện, Thủ và Cao đã lên kế hoạch lừa bắt bà Son nhằm vu oan cho Phúc Cao đã hành động theo chỉ đạo của Thủ, khi vác bà Son xuống cánh đồng trũng và giả vờ như đang vật lộn với bà Thủ đã bịt miệng mình và hét lên như một người vô tình chứng kiến sự việc, tạo ra một màn kịch nhằm che giấu sự thật Cuối cùng, cả hai đã nhanh chóng rời khỏi hiện trường.

2.2.2 Vấn đề tha hoá đạo đức trong Đinh Trang mộng

Tương tự như trong "Mảnh đất ắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường, Đinh Trang mộng phản ánh sự tha hoá đạo đức và lối sống ở nông thôn, nhưng nhấn mạnh hơn vào sự tha hoá trước tiền tài Trong tác phẩm của Diêm Liên Khoa, đồng tiền và quyền lực trở thành những thế lực tối cao mà con người vừa sợ hãi vừa khao khát Điều này không chỉ là phép thử cho nhân tính mà còn là ẩn dụ cho dục vọng chung của con người Sự hiện diện của đồng tiền và quyền lực không chỉ làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo mà còn làm rạn nứt mối quan hệ giữa những người có cùng huyết thống, đẩy họ vào vòng xoáy tranh giành quyền lợi Theo nguyên lý “tảng băng trôi” của E Hemingway, sự tuyệt mạng của con người trong Đinh Trang mộng chỉ là phần nổi, trong khi phần chìm, chiếm đến bảy phần mười, là một thực tại ghê rợn hơn về vực thẳm của nhân tính Trung Hoa.

Biểu hiện đầu tiên của sự tha hóa nhân tính là hoạt động buôn bán máu của Đinh Huy, con trai thầy giáo Đinh Thủy Dương Từ một nông dân bình thường, Đinh Huy khao khát làm giàu và nắm quyền lực bằng mọi giá Mỗi bước thăng tiến của anh ta đều gắn liền với sự mất mát và đau khổ của người dân Đinh Trang, dẫn đến sự oán hận và bi kịch, như cái chết của đứa con trai Tiểu Cường, cho thấy sự tàn nhẫn vượt lên cả tình cha con.

Trong bối cảnh xóm giềng, mối quan hệ giữa bằng hữu có thể trở nên căng thẳng khi có sự ghen tị và đố kị Đinh Huy, một nhân vật gây tranh cãi, bị chỉ trích vì sự thành công của mình, khiến người khác cảm thấy bất bình Những lời chửi bới và cáo buộc về việc đầu độc gia súc, thậm chí là con cái của nhau, phản ánh sự thù hằn và mâu thuẫn sâu sắc trong cộng đồng.

Sự giàu có và quyền lực thường đi đôi với tội lỗi và điều ác, như trường hợp của Đinh Huy, người đã xây dựng một đế chế máu bất hợp pháp bằng cách thu mua máu tư nhân với giá cao, thu hút nhiều người bán Ban đầu chỉ quản lý máu của người dân trong làng, nhưng sau đó, Đinh Huy đã mở rộng hoạt động, vi phạm các nguyên tắc y tế và nhân đạo Hành động của anh ta, như sử dụng lại bơm kim tiêm và rửa túi máu đã qua sử dụng, đã góp phần làm gia tăng sự lây lan của bệnh AIDS Trong khi trạm máu chính phủ kiểm tra kỹ lưỡng, thì trạm của Đinh Huy lại không bị kiểm soát, cho phép anh ta thu mua máu một cách vô hạn định, tạo ra lợi nhuận khổng lồ mà không quan tâm đến sự an toàn của người bán.

Đinh Huy, bằng mánh khóe và sự khôn khéo, đã trở thành đầu nậu máu lớn nhất thôn, lợi dụng cả những người thân thiết để thu lợi từ việc bán máu Anh ta áp dụng những thủ đoạn gian thương để tăng số lượng máu thu mua, như việc làm đầy túi máu từ 500cc lên đến 700cc bằng cách vỗ vào túi Hơn nữa, anh ta còn rửa bao máu ở ao nhằm "tiết kiệm" chi phí, với lợi nhuận lên đến 600 đồng mỗi tháng từ việc bán máu Tuy nhiên, những gì anh ta "tiết kiệm" thực chất lại là đạo đức và tình người, và anh ta đã quên đi cái chết thương tâm của con trai mình, như một lời cảnh tỉnh cho việc bán máu hại người.

Bà nội tôi đã mất cách đây ba tháng sau một tai nạn khủng khiếp khi bà dẫm phải một chậu máu loại A trong nhà Cảnh tượng máu chảy khiến bà hoảng sợ và ngã xuống, dẫn đến chứng tim đập mạnh và cuối cùng là cái chết Sự ra đi của bà để lại nỗi đau trong lòng gia đình, khiến bố và chú hứa sẽ không lấy và bán máu nữa Tuy nhiên, chỉ sau ba tháng, bố lại dẫn chú đi lấy máu để bán.

Nông thôn với vấn đề môi trường sinh thái

2.3.1 Vấn đề môi trường sinh thái trong Mảnh đất lắm người nhiều ma Nông thôn với vấn đề môi trường sinh thái tuy không phải là vấn đề đƣợc đặt ra rõ nét trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, nhƣng đến với tác phẩm, ấn tượng của người đọc là bức tranh thiên nhiên nông thôn tuyệt đẹp

Xóm Giếng Chùa, nơi được miêu tả với vẻ đẹp cổ kính và rêu phong, nổi bật với sự sang trọng và giàu có của toàn xã Đây là địa danh cuối cùng của vùng trung du, nằm ở phía bắc, nơi thiên nhiên và môi trường sinh thái hòa quyện, tạo nên bức tranh sống động và quyến rũ.

Làng Chùa nằm giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp với sông ngòi, đồi sim và ruộng lúa Vẫn còn dấu tích của những cổng làng cổ xưa như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam, cùng những phiến đất nung dày và chắc chắn Con đường chính giữa làng dài một cây số, được lát gạch vồ từ Hương Canh - Vĩnh Phúc, vẫn giữ được độ bền vững theo thời gian Người dân nơi đây ví Giếng Chùa như cái nhân của chiếc bánh, thể hiện sự gắn bó với quê hương Những hình ảnh thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường như mảnh trăng khuyết bơi trong sương mù hay mặt ao tím thẫm hoa bèo khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng.

Cách miêu tả ngọt ngào và bay bổng về núi Ông Bụt gợi nhớ đến phong trào lãng mạn, với hình ảnh rừng núi rậm rạp và những loài động vật hoang dã như hổ, báo, và rắn đầu vuông Nhân vật Hàm thể hiện sự hoài niệm sâu sắc về vùng đất này, tạo nên một bức tranh sống động và đầy cảm xúc về thiên nhiên và ký ức.

Khu rừng già bí hiểm mang đến nhiều bất ngờ cho người đọc, từ hình ảnh hổ báo, hươu nai đến vượn trắng, tạo nên một không gian sống động và huyền bí Ông Hàm nhớ về con suối dưới chân ông Bụt, nguồn sống của gia đình, với hình ảnh tôm cá dễ dàng đánh bắt như ao nhà Thiên nhiên không chỉ gắn liền với cuộc sống mà còn là nơi hò hẹn, nơi những cây xoan, cây nhãn, bạch đàn tạo nên khung cảnh lãng mạn Đường tình yêu của Đào và Tùng cũng hòa quyện với thiên nhiên, khi những cánh đồng lúa vàng rực rỡ báo hiệu mùa thu hoạch bội thu.

Cánh Đồng Chùa, theo miêu tả của Nguyễn Khắc Trường, là biểu tượng kiêu hãnh của làng, nằm ở cửa ngõ phía nam Với diện tích chỉ hơn 20 mẫu Bắc Bộ, đồng này chứa đựng những thửa ruộng cổ xưa và là nơi duy nhất có nguồn tài nguyên thượng đẳng Đồng Chùa không chỉ mang lại màu mỡ cho đất đai, cho phép cày cấy hai vụ trong năm, mà còn là niềm tự hào và danh tiếng của người dân nơi đây Việc nhượng lại đồng ở Đồng Chùa, dù có giá trị cao hơn nhiều nơi khác, được coi là bán đi cả máu và mồ hôi của mình Như nhân vật Hàm đã nói, "Thửa ruộng này là cái túi cái bao của cả Đồng Chùa Lộc cả đồng tụ hết vào đây."

Đối với người nông dân, đất đai là tài sản quý giá, và chỉ khi đất đai thuận lợi, thì cuộc sống mới bền vững Trung tá Chỉnh mô tả vẻ đẹp của Đồng Chùa, nơi trải dài và yên bình, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân nơi đây với từng "tấc đất" Hình ảnh Đồng Chùa, với ánh nắng hòa quyện cùng sương chiều, không chỉ là một khung cảnh đẹp mà còn phản ánh tâm hồn và tình yêu quê hương của người dân xóm Chùa.

Việc tranh đấu để giữ đất, đặc biệt trong bối cảnh đói kém, là điều dễ hiểu và thể hiện sức sống mãnh liệt của người nông dân Nguyễn Khắc Trường khéo léo miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, nơi gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân Giếng Chùa, từ lao động hàng ngày đến tình yêu đôi lứa Thiên nhiên không chỉ là bối cảnh mà còn là nguồn cảm hứng, nuôi dưỡng tâm hồn và khát vọng của con người nơi đây.

2.3.2 Vấn đề môi trường sinh thái trong Đinh Trang mộng

Khác với tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường, "Đinh Trang mộng" của Diêm Liên Khoa tập trung vào vấn đề nông thôn và sự hủy hoại nghiêm trọng của môi trường sinh thái Trong bối cảnh làng quê bị bao trùm bởi sắc đỏ của máu, tất cả sinh vật dần trở nên dị thường, phản ánh sự gia tăng nguy hiểm từ một trạm máu từng bị lãng quên.

Trong thôn, mười mấy trạm máu mọc lên khắp nơi, từ bệnh viện huyện, xã đến các trạm của Hội chữ thập đỏ, tạo nên không khí ngập tràn mùi máu tanh tưởi Mỗi góc nhỏ đều có ống truyền máu treo lủng lẳng, bình máu đỏ như trái nho, và mặt đất đầy máu nhỏ giọt, bắn tung tóe Chó trong thôn thường xuyên ngửi mùi máu, trong khi cây cối và hoa màu cũng bị nhuộm đỏ bởi không khí ngột ngạt này Cảnh tượng rùng rợn nhất là ao máu, nơi lòng tham của con người đã biến nước trong thành nước máu đen, khiến cái ao xanh trở nên đáng sợ với mùi tanh nồng nặc lan tỏa khắp nơi Ánh trăng chiếu rọi làm nổi bật màu đỏ của máu, như một đám mây trước cơn mưa, tạo nên một khung cảnh ám ảnh và kinh dị.

Chiếc ao trong xanh đã biến thành ao máu, nơi tiếng ếch kêu không còn du dương mà trở nên chát chúa, với bụng trắng chuyển sang đỏ thẫm, to gấp rưỡi bình thường Mùi tanh tưởi từ ao nước lan tỏa như một đám mây, bao trùm thôn xóm và đồng ruộng Nhà văn Diêm Liên Khoa sử dụng phép so sánh để miêu tả sự dị thường của máu, với màu đỏ biểu trưng cho khô hạn, đau đớn và chết chóc Môi trường sinh thái đã hoàn toàn bị biến đổi, trở nên trì đọng và chết chóc do những hành động tàn hại của con người Việc bán máu thô lậu đã làm môi sinh biến đổi, tạo ra những hiện tượng đột biến, quái dị và ám ảnh.

Môi trường trong thôn Đinh Trang đã bị tàn phá nghiêm trọng khi người dân đua nhau chặt cây để làm quan tài Đinh Thủy Dương mộng thấy cảnh tượng này, và thực tế không khác gì giấc mơ khi cây cối lần lượt bị đốn hạ Ông trở về thôn trong sự ngập ngừng, nhưng hình ảnh u ám của đêm tối và âm thanh cưa cây vang vọng khiến ông không thể chối bỏ sự thật Để có gỗ làm quan tài cho người chết, mọi cây cối trong thôn đều bị chặt, dẫn đến cảnh tượng hoang tàn, không còn gia súc hay bóng dáng con người Thôn Trang giờ đây trở nên ảm đạm, phản ánh sự tàn phá nghiêm trọng từ góc độ sinh thái.

Con người đã tự cho mình quyền huỷ diệt môi sinh, khiến cây cối phải phục tùng nhu cầu cá nhân Âm thanh chặt cây vang lên như một điểm nhấn tàn khốc, khiến Đinh Trang mất đi màu xanh của thiên nhiên Mặt trời mùa xuân vẫn chiếu sáng nhưng không còn ấm áp, mà khô nóng, báo hiệu cho trận đại hạn sắp đến Hành động tàn nhẫn này tựa như việc người dân Đinh đang bóp chết “lá phổi xanh” của chính mình, dẫn đến thảm họa hạn hán Chỉ sau một đêm, cánh đồng tiểu mạch chuyển từ xanh tươi sang khô cằn, vàng úa Việc chặt cây không chỉ hủy hoại môi trường mà còn hủy hoại tương lai của Đinh Trang, trở thành nguyên nhân của sự chết chóc Những ngày nóng bức và lạnh giá là thời điểm dễ dẫn đến cái chết cho người bệnh và người già Trong giấc mơ, Đinh Thủy Dương thấy mặt trời đỏ rực chiếu xuống, khiến đất đai nứt nẻ, đồng ruộng chết khô, và tất cả các dòng sông đều cạn kiệt, cảnh tượng khô cằn và hoang tàn hiện ra khắp nơi.

Thôn trang đã mất đi màu xanh tươi mát, trở nên trơ trụi với ruộng đồng khô cằn, cỏ cũng đã chết, tạo nên một khung cảnh trắng xóa mênh mông Sau sáu tháng, tức một trăm tám mươi ngày, Bình Nguyên trải qua một trận hạn hán nghiêm trọng, một hiện tượng hiếm gặp trong một trăm năm qua.

Vì hạn hán, hoa màu và cỏ cây đều chết hết” … “Cây to thì bị chặt rồi, cây

Trong bối cảnh hạn hán tàn khốc, cây cối và sinh vật trong làng Đinh Trang đều chết khô, ao hồ cạn kiệt, và những tiếng ve sầu đã ngừng vang lên Con người ở đây không chỉ đánh đổi mạng sống để có được tài sản, mà còn hy sinh cả tương lai của thế hệ sau bằng cách hủy hoại giáo dục và thiên nhiên Trường học buộc phải đóng cửa để nhường chỗ cho người bệnh, học sinh phải nghỉ học, và toàn bộ bàn ghế, bảng đen đều bị biến thành quan tài Không chỉ vậy, cây cối trong làng cũng bị chặt hạ để phục vụ cho việc an táng, cho thấy sự tàn phá nghiêm trọng của thiên nhiên và nhân văn trong cộng đồng.

Nông thôn với những hủ tục lạc hậu

2.4.1 Hủ tục lạc hậu trong Mảnh đất lắm người nhiều ma

Trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường, người đọc cảm nhận rõ nét về những tín ngưỡng dân gian phong phú Tác phẩm nổi bật với các chi tiết thể hiện văn hóa tín ngưỡng địa phương, đặc biệt là những thủ tục lạc hậu liên quan đến đám tang và quật mộ Đám tang của ông Đại không chỉ ngập tràn âm thanh của trống kèn và tiếng khóc, mà còn vang vọng lời kêu van đầy thống thiết của trưởng phường, tạo nên một bức tranh sống động về tín ngưỡng và phong tục tập quán nơi đây.

Ông Hàm đã đi xa, để lại những lời nhắn nhủ cho thế gian, thể hiện nỗi nhớ và sự trân trọng đối với ông Hành động của ông không chỉ là để trả nợ mà còn là biểu hiện của niềm tin vào một tôn giáo nào đó, cho thấy sự kết nối với tín ngưỡng dân gian Ông tin tưởng vào thuật âm trị dương và sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để thực hiện kế hoạch của mình Việc lựa chọn người thực hiện và các bước đã được định sẵn cho thấy tầm quan trọng của những quyết định này trong cuộc sống của ông.

73 mả, lật sấp thi thể họ Vũ Đình xuống, để đưa quả báo này tới chốn dương gian, bắt họ Vũ phải chịu” [42; 95]

Nguyễn Khắc Trường mô tả “Xóm Giếng Chùa” là nơi giàu có nhất xã, nhưng ông nhấn mạnh rằng điều đó đi kèm với những nỗi khổ đau của cuộc sống Tâm lý thần linh và những câu chuyện ma quái đã khiến con người sống xa rời thực tế, như khi vợ Phúc tin rằng con ma mình gặp là thật Chi tiết Thó hoảng hốt khi thấy người phụ nữ sống trong túp lều của lão Quềnh cho thấy sự ám ảnh này lan rộng trong cộng đồng Bà Đồ Ngật, dù đã sống lâu, vẫn bị chi phối bởi tâm lý mê tín, chạy trốn khi nhìn thấy chị Bé Những phong tục lạc hậu tiếp tục ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, khiến con người trở nên mệt mỏi và mất sức sống Câu chuyện về bà Son “nhập xác” chị Bé và lời “trấn an” của bà Cả và ông Hàm gợi lên câu hỏi về lòng tin và sự lừa dối giữa người sống và người chết, khi chị Bé lợi dụng mê tín để đánh lừa mọi người, kể cả Thủ, một người thông minh.

Chị Bé đã có cơ hội thay đổi cuộc đời nhờ những chi tiết kỳ ảo trong tác phẩm Tuy nhiên, khi khép lại từng trang sách, độc giả vẫn phải đối diện với câu hỏi lớn về cuộc sống Nếu tư tưởng không được cải cách, con người sẽ mãi chìm đắm trong những thủ tục lạc hậu, phục vụ cho lợi ích cá nhân của những kẻ quyền lực.

Bức tranh làng quê với phong hóa tang ma phản ánh những hủ tục lạc hậu mà Nguyễn Khắc Trường muốn phê phán Trong tiểu thuyết, mỗi đám tang không chỉ đơn thuần là nỗi buồn mà còn là những toan tính, lợi dụng Ông Phúc, với tư cách người chủ trì tang lễ, khẳng định: “Họ nhà ta là họ lớn trong làng, nên phải làm tang cho cụ Cố thật đàng hoàng, không nề hà tốn kém.” Ông chỉ đạo việc chuẩn bị từ áo quan đến đội kèn, thể hiện sự trọng thể hóa lễ tang Tiếng khóc của người thân tuy có vẻ chân thành nhưng lại bị dập tắt ngay khi có lệnh từ ông Phúc, cho thấy sự giả dối trong cách thể hiện nỗi buồn Sự chuẩn bị tỉ mỉ cho lễ tang không chỉ để tưởng nhớ người đã khuất mà còn để khẳng định vị thế của gia đình trong cộng đồng.

Nơi “long trọng” chỉ là chốn để những kẻ đói lợi dụng tìm kiếm thức ăn, điều này thật mỉa mai khi tục lệ cầu hồn diễn ra với “một chiếc thuyền bằng chiếc diều sáo của trẻ con” nhằm “đưa linh hồn người khuất về nơi chín suối” Tác giả đã miêu tả một cách chua cay về việc trưởng phường bát âm càng thêm nhiều bài cầu lâm ly.

Trong tác phẩm, sự khác biệt giữa cái chết của lão Quềnh và cụ cố được thể hiện rõ nét qua cách thức tổ chức tang lễ Trong khi cụ cố có một đám tang trang trọng, lão Quềnh lại ra đi cô đơn và thô thiển, bị vỡ dạ dày vì ăn no và làm việc nặng Chiếc quan tài của Vũ Đình Đại được mô tả sang trọng và nặng nề, trong khi lão Quềnh chỉ được chôn cất sơ sài Hủ tục cấm chôn người chết bất đắc kỳ tử trong nhà khiến cho lão không thể yên nghỉ Đám tang của người đàn bà, mặc dù được coi là đẹp đẽ, thực chất lại đơn giản và nhanh chóng, phản ánh sự chuyển mình của xã hội Hình ảnh cô Thống Biệu và những hủ tục lạc hậu trong tác phẩm gửi gắm thông điệp về sự phân biệt giới tính và quan niệm về ma quỷ Không gian ma mị trong tác phẩm không chỉ thể hiện sự lẫn lộn giữa thực và ảo, mà còn làm nổi bật chiều sâu văn hóa phong tục trong văn chương của tác giả.

Trong văn hóa Việt Nam, yếu tố tâm linh và truyền thuyết về ma quái đã ăn sâu vào đời sống, được truyền miệng qua các thế hệ từ ông bà, cha mẹ Những câu chuyện về mèo nhảy qua xác chết và việc dựng mồ đứng dậy mang sức ám ảnh đặc biệt Các tác giả nổi bật như Lý Tế Xuyên, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã khắc họa sâu sắc những yếu tố kỳ bí trong tác phẩm của họ Thời kỳ đầu của văn chương hiện đại cũng ghi nhận sự xuất hiện của nhiều tác giả viết về đề tài ma mị và mồ mả, thể hiện sự quan tâm đến những khía cạnh tâm linh trong văn hóa dân tộc.

Mảnh đất ắm người nhiều ma đã khéo léo sử dụng yếu tố ma mị và mồ mả để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm Nhà văn đã chịu ảnh hưởng từ kho tàng văn học truyền kỳ và những câu chuyện kể ít thành văn, dù có thể đậm nét hay nhạt nhòa, vẫn luôn ám ảnh con người và bám riết vào đời sống qua các thế hệ.

2.4.2 Hủ tục lạc hậu trong Đinh Trang mộng

Ma chay là một nghi lễ quan trọng ở Trung Quốc, nơi cái chết được xem trọng như sự sống Với vị trí địa lý ở lưu vực sông Hoàng Hà, văn hóa nông nghiệp cổ đại đã hình thành, trong đó Đất được coi là trung tâm của vũ trụ Người Trung Quốc cổ đại tin rằng con người sống dựa vào đất để phát triển và khi chết sẽ trở về với đất, tạo nên sự tuần hoàn Thổ táng đã trở thành một nghi thức không thể thiếu trong vòng đời con người Trong nghi lễ này, danh dự gia đình được thể hiện, và việc an táng cùng chiếc áo quan được coi là rất quan trọng, bất kể hoàn cảnh sống có khó khăn đến đâu.

Trong xã hội hiện nay, quan tài trở thành tài sản quý giá nhất đối với những người sắp lìa đời, khiến họ và gia đình sẵn sàng chấp nhận mọi chi phí để có được một chiếc quan tài như ý Điều này đã tạo ra một cơ hội kinh doanh béo bở cho Đinh Huy, người đã lợi dụng tình trạng khốn cùng của người nghèo để ép họ mua quan tài, tiếp tục “bóc lột” họ ngay cả khi họ đã gần đất xa trời Người dân, trong nỗi lo lắng, tìm mọi cách để sở hữu quan tài, dẫn đến cảnh tượng khắp nơi tràn ngập quan tài và những lời ca ngợi Chính phủ Tại thôn Cổ Hà, bí thư được Đinh Huy bán cho một chiếc quan tài giá rẻ, gây xúc động cho người dân Quan tài trở thành hàng hóa quý giá, giá trị quy đổi cho nhiều thứ trong cuộc sống, từ bát canh đến thuốc lá Thậm chí, quan tài còn được dùng làm điều kiện trong các cuộc hôn nhân và ly hôn, phản ánh một cách rõ nét sự khốn cùng của nông dân và nông thôn Trung Quốc.

Tục kết minh hôn, hay còn gọi là đám cưới ma, là một phong tục đặc trưng của người Trung Quốc Trong khi hôn nhân thông thường kết nối những người còn sống để phát triển giống nòi, thì minh hôn lại tạo ra mối liên kết giữa những người đã khuất.

Đinh Huy đã lợi dụng sự mê tín của người dân để đầu tư vào một hình thức kinh doanh kỳ quái mang tên môi giới âm hôn, hay còn gọi là minh hôn, một tập tục của người Trung Quốc Anh ta không chỉ quản lý việc phát quan tài mà còn tổ chức những đám cưới cho những người đã mất, thu phí lên tới hai trăm đồng cho mỗi đôi phối Sự hoạt động của Đinh Huy đã gây ra nhiều rắc rối cho cuộc sống của những người sống cũng như những người đã khuất, khi mà nhiều gia đình đã mất đi người thân vì bệnh nhiệt và bị anh ta lợi dụng Những cuộc hôn nhân âm này không chỉ làm xáo trộn sự bình yên của người sống mà còn ảnh hưởng đến những người đã chết, khiến cho nhiều gia đình phải đối mặt với những tình huống khó xử và mất mát.

Hà, Đinh Huy đã tổ chức lễ kết minh hôn cho con trai mình với con gái của một người có chức quyền tại thành phố Tiểu Cường được chuyển vào một chiếc quan tài “vàng thượng hạng gỗ hạnh khắc hoa”, được điêu khắc với hình ảnh những thắng cảnh nổi tiếng nhất từ Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, cùng các thắng cảnh khác ở các thành phố lớn của đất nước.

79 ngoài mà không ai gọi tên được nó ở đâu” [32; 323] Đám cưới ấy to đến nỗi

Đinh Trang đã trải qua nhiều năm không tổ chức lễ mừng nào rộn ràng như vậy, với tiếng pháo nổ không ngừng và ánh lửa sáng rực trên bầu trời Người dân nơi đây cảm thấy hạnh phúc khi có một hôn lễ cõi âm long trọng, thậm chí còn hơn cả việc cưới vợ khi còn sống Dù minh hôn vẫn tồn tại đến nay, nhưng nó đã trở thành một hủ tục do những biến tướng trong xã hội Đám cưới ma thực chất phản ánh sự thay đổi nhận thức về thời gian từ thời kỳ tiền hiện đại đến hiện đại, đồng thời nhấn mạnh sự biến đổi của xã hội Trung Quốc.

Điểm nhìn trần thuật

Theo "Từ điển thuật ngữ văn học", điểm nhìn nghệ thuật là vị trí từ đó người trần thuật quan sát và mô tả sự vật trong tác phẩm, và không thể có nghệ thuật nếu thiếu điểm nhìn Điểm nhìn thể hiện sự chú ý và đặc điểm của chủ thể, đồng thời mang lại cho người thưởng thức cái nhìn mới về cuộc sống Trong mối quan hệ giữa tác giả, câu chuyện, người kể chuyện và độc giả, điểm nhìn trần thuật đóng vai trò quyết định đến thành công hay thất bại của một tác phẩm tự sự.

“Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn”

3.1.1 Điểm nhìn trần thuật trong Mảnh đất lắm người nhiều ma

Nguyễn Khắc Trường trong tác phẩm "Mảnh đất đắm người nhiều ma" sử dụng điểm nhìn bên ngoài từ ngôi thứ ba, tạo ra một phương thức trần thuật khách quan giúp nhân vật bộc lộ cảm xúc một cách tối ưu Người kể chuyện với vị trí "kẻ biết tuốt" mang lại độ tin cậy cho độc giả về tính khách quan của câu chuyện Nhờ vào điểm nhìn này, nội dung câu chuyện, đặc biệt là cuộc đời của nhân vật lão Quềnh, được thể hiện rõ nét và đa diện Lão Quềnh, trong quá khứ, đã sống trong những giai thoại liên quan đến ma quái, khiến cuộc sống của ông trở nên "ngơ ngơ ngẩn ngẩn", mà chính bản thân ông cũng không thể phân biệt được đâu là thật.

Lão Quềnh sống với hai cái tên, biểu trưng cho một số phận bất hạnh, khiến người khác dễ dàng đùa bỡn ông Trong khi đó, Thó, một kẻ khốn cùng, vì đói nghèo đã trở thành tên trộm, lén lút đánh cắp rượu trong đám tang Cuộc sống vất vả đã khiến Thó bán rẻ lương tâm, nhưng người đọc vẫn cảm thấy thương xót cho số phận của anh Tám lé, một thợ húi đầu, tưởng rằng đã thoát khỏi cảnh nghèo khổ sau khi trở nên giàu có, nhưng cũng không thoát khỏi số phận bi thảm như Quềnh và Thó Khao khát thay đổi số phận của Tám lé bị dập tắt bởi sự chèn ép của xã hội, nhắc nhở rằng dù có giàu có, anh vẫn chỉ là kẻ thấp hèn trong mắt người khác.

Trước những khó khăn và áp lực, nhân vật Tám Lé không thể thoát khỏi số phận bi thảm của mình và chấp nhận sống trong sự chà đạp Tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" nổi bật với những số phận đa dạng và những kiếp người lầm than Với lợi thế của người kể chuyện ngôi thứ ba, tác phẩm khắc họa sâu sắc cuộc đời và số phận của các nhân vật.

Bài viết khám phá số phận của những người phụ nữ trong bối cảnh xã hội khắc nghiệt, đặc biệt là nhân vật Bà Son, người phải chịu đựng nỗi đau và sự cam chịu trong cuộc sống Dù có vẻ ngoài xinh đẹp và khát vọng vươn lên, bà đã phải chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu và kết thúc bi thảm bằng cái chết Sự kiện này không chỉ là dấu chấm hết cho cuộc đời đau khổ của bà mà còn là biểu tượng cho sự kết thúc của kiếp nô lệ và sự cam chịu Bên cạnh đó, nhân vật Đào, một cô gái trẻ đẹp và đầy ước mơ, cũng không thoát khỏi sự chi phối của mối thù hằn gia đình, khi tình yêu của cô với Tùng bị ngăn cản bởi những toan tính và mâu thuẫn Liệu Đào có đủ sức mạnh để vượt qua thử thách này và tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình?

Ngôi kể thứ ba trong tác phẩm 85 vật Đào của Nguyễn Khắc Trường đã giúp tác giả miêu tả cuộc sống của nhân vật chị Bé một cách sâu sắc và đầy đủ Chị Bé là một người phụ nữ có thân hình chắc khỏe, nhưng bên ngoài lại sống âm thầm và cúi mặt xuống chăm chú vào công việc của mình Tuy nhiên, đời sống nội tâm của chị Bé lại vô cùng mạnh mẽ và rực cháy khao khát thay đổi số phận Tác giả đã miêu tả cuộc sống của chị Bé thông qua điểm nhìn bên ngoài, và qua đó, người đọc có thể thấy được sức sống quật khởi và mãnh liệt của nhân vật này Chị Bé đã tìm mọi cách để được sống một cuộc sống thực sự, thậm chí phải hi sinh cả bản thân mình, và đã trở thành một nhân vật đầy sức hút và thông điệp ý nghĩa trong tác phẩm.

3.1.2 Điểm nhìn trần thuật trong Đinh Trang mộng Điểm nhìn trong sáng tác của Diêm Liên Khoa cũng vô cùng đa dạng, phong phú Các dạng điểm nhìn cơ bản trong tác phẩm của nhà văn đƣợc khảo sát chủ yếu là điểm nhìn ngôi thứ nhất Điểm nhìn trần thuật ngôi thứ nhất xƣng “tôi” nhƣng nhà văn đã mở rộng và di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật Mọi sự quan sát, cảm nhận, đánh giá của nhân vật khác đều tập trung ở việc nhân vật tự cảm nhận nên sự phát triển của xung đột, tình tiết trở nên ngẫu nhiên và có mục đích mang lại tính xác thực cho câu chuyện

Diêm Liên Khoa đã mang đến một góc nhìn độc đáo trong tự sự, đó là "tự sự phi lý" hay "tự sự của người chết", khác biệt hoàn toàn so với cách kể truyền thống.

Trong tác phẩm "Đinh Trang," góc nhìn được triển khai từ nhân vật Tiểu Cường, một linh hồn trẻ em chết oan, kể lại bi kịch tang thương của thôn Đinh Trang Theo quan niệm văn hóa Trung Quốc, linh hồn này vẫn vất vưởng bên nơi mình đã sinh ra, chứng kiến những thủ đoạn tàn độc của Đinh Huy Nhân vật Tiểu Cường không chỉ nhìn thấy cõi âm dương mà còn thấu hiểu những sự kiện trong thôn, từ lễ cưới âm cho người chết đến những dịch bệnh lây lan, cái chết của người thân và những tranh giành quyền lực Tác giả khéo léo chuyển đổi giữa góc nhìn bên trong của một linh hồn và góc nhìn bên ngoài của người kể chuyện, tạo nên một sự chân thực không thể nhìn thấy Qua đó, độc giả cảm nhận được sự linh hoạt trong cách sử dụng điểm nhìn, từ đó bộc lộ giọng điệu của tác giả, thể hiện sự bi thương và những giấc mơ đầy máu và nước mắt của Đinh Thủy.

Dương đã mở ra những ngõ ngách sâu kín trong mộng mị và tâm hồn con người, thể hiện qua điểm nhìn ngôi thứ nhất, phản ánh ẩn ức về cái chết và bệnh tật của tác giả Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, cùng với văn hóa âm dương hòa hợp của Trung Hoa, đã tạo nên phong cách độc đáo của Diêm Liên Khoa và Nguyễn Khắc Trường Sự khác biệt trong việc sử dụng điểm nhìn này góp phần làm phong phú thêm nền văn học.

Không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật văn hóa nông thôn là nơi phản ánh những hiện tượng văn hóa đa dạng, gắn liền với lối sống và ứng xử của con người, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, bắt nguồn từ nền nông nghiệp lúa nước Cấu trúc không gian nông thôn hiện lên với hai xu hướng: một mặt, nó thể hiện vẻ đẹp truyền thống bền vững, mang lại cảm giác bình yên và hoài niệm, tạo nên mong mỏi “tìm nguồn” và “trở về”, đặc biệt khi so sánh với đô thị; mặt khác, không gian này cũng phản ánh sự lộn xộn, chật chội và tính bảo thủ của con người, cho thấy những mặt trái cần được chú ý trong bối cảnh phát triển hiện đại.

Không gian văn hóa nông thôn được mã hóa thành các tác phẩm nghệ thuật, thể hiện qua những hình ảnh mô phỏng như đình làng, cổng làng, cây đa, phiên chợ và con đường Tuy nhiên, việc hiểu và giải thích những hình ảnh này không chỉ đơn thuần là sao chép hay phản ánh nguyên bản bằng thị giác, mà còn cần phải kết hợp với các yếu tố khác để tạo nên một sự nhận thức sâu sắc hơn.

Không gian văn hóa nông thôn không chỉ là nơi lưu giữ các biểu tượng văn hóa mà còn phản ánh những nếp nghĩ và ứng xử văn hóa qua các thế hệ Việc tìm hiểu không gian này đồng nghĩa với việc giải mã những giá trị văn hóa đã được truyền lại từ đời này sang đời khác Trong bối cảnh Đổi mới, các tác giả tiểu thuyết đã khéo léo chuyển đổi các mảng không gian và chủ thể, tạo ra những mô hình không gian đặc trưng để làm nổi bật xung đột và mâu thuẫn trong văn hóa nông thôn Điều này giúp lộ diện những khía cạnh cần được đối thoại và xem xét một cách nghiêm túc.

3.2.1 Không gian nghệ thuật trong Mảnh đất lắm người nhiều ma

Trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của Nguyễn Khắc Trường, không gian nghệ thuật được xây dựng tại nông thôn ven sông Công, Thái Nguyên, với bối cảnh chính là làng Giếng Chùa Tại đây, hai dòng họ Vũ Đình và Trịnh Bá liên tục đấu đá để tranh giành đất đai và quyền lực Lịch sử của cuộc xung đột này bắt nguồn từ việc trưởng họ Vũ, ông Đại, đã đánh bại trưởng họ Trịnh, ông Hoành, dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ Trịnh Mâu thuẫn giữa hai dòng họ này vẫn tiếp tục âm ỉ, với họ Trịnh luôn nghi ngờ và tìm cách phục thù.

Mối thù giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh Bá bắt nguồn từ việc Vũ đã bôi đen và rạch nát mặt hổ thờ của họ, gây ra sự căm tức kéo dài qua các thế hệ Tình hình càng trở nên căng thẳng hơn khi đến đời ông Vũ Đình Phúc và ông Trịnh Bá Hàm, do bà Son, vợ ông Hàm, có liên quan đến gia đình họ Vũ trước khi về làm dâu nhà họ Trịnh.

Bá đã có mối quan hệ với ông Phúc, trong khi cô Son hết lòng yêu thương và dành trọn cuộc đời mình cho ông, mặc dù biết rằng ông đã có vợ là bà Dần Do Phúc không dám thừa nhận tình cảm, cô Son đã bị gia đình ép gả cho Hàm.

Mối quan hệ giữa hai dòng họ Hàm và Phúc trở nên căng thẳng do mâu thuẫn quyền lực, khi ông Thủ, em trai ông Hàm, nắm giữ vị trí bí thư xã, trong khi gia đình ông Phúc mất quyền lực Giữa bối cảnh này, tình yêu giữa Tùng, con trai bà Sang họ Vũ Đình, và Đào, con gái ông Hàm, nảy nở nhưng phải giấu kín vì lo sợ gia đình không chấp nhận Sau khi ông Đại qua đời, ông Hàm thực hiện theo lời dặn của cha, nhưng bị Tùng phát hiện và báo cho dòng họ, dẫn đến việc ông Hàm bị giam giữ Đào, khi biết Tùng đã tố cáo cha mình, quyết định chấm dứt mối quan hệ mặc dù Tùng vẫn còn yêu Để bảo vệ sự nghiệp, ông Thủ bày kế hãm hại ông Phúc, khiến ông phải rút đơn kiện và ông Hàm được thả Tuy nhiên, ông Thủ và Cao tiếp tục thao túng tình hình, buộc bà Son viết đơn tố cáo ông Phúc Cuối cùng, bà Son, trong cơn uất ức, đã tự tử và người cứu bà lại chính là ông Phúc.

Tại xã, cuộc chiến chia đất ruộng diễn ra quyết liệt giữa các phe phái, ai nấy đều cố gắng giành giật những mảnh đất màu mỡ Chính vì lý do này, mảnh đất trở nên nổi tiếng với nhiều câu chuyện ly kỳ, điển hình là mảnh đất của cô Thống.

Biểu đã nhấn mạnh rằng không nên coi thường tình hình đất đai hiện tại, vì vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp tồn tại Ông nhắc lại cuộc họp gần đây để đòi chia ruộng khoán, so sánh với những cuộc chọi gà, chọi trâu trong quá khứ, khi không ai muốn nhường nhịn Tình trạng tranh chấp đất đai diễn ra ngay cả giữa những người trong cùng gia đình, cho thấy sự khốc liệt trong việc giành giật quyền lợi, đặc biệt ở xứ Đông Chùa, nơi mà mọi người đều có nhu cầu chiếm đoạt đất đai.

Hỏi bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai cũng tranh thửa tốt

Vợ chồng thách nhau giữa làng, mâu thuẫn giữa các bà đòi ruộng cũ khiến không khí trở nên căng thẳng Ngày xưa, người ta chỉ sợ người chết, nhưng hôm nay, khi tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, cảm giác như xung quanh toàn là ma Những người thân không còn nhận ra nhau, và tác phẩm kết thúc khi những mâu thuẫn dần hạ nhiệt Tuy nhiên, những bóng đen hắc ám bắt đầu lộ diện, dạy cho Tùng một bài học đắt giá về việc đấu tranh sửa chữa sai lầm trong nội bộ Đảng viên Không gian nghệ thuật trong tác phẩm, dù chỉ xoay quanh xóm Giếng Chùa, lại gợi ra một bức tranh rộng lớn hơn, phản ánh thực trạng của bất kỳ làng xã nào, như một xã hội thu nhỏ với những điều tốt đẹp và xấu xa đan xen.

3.2.2 Không gian nghệ thuật trong Đinh Trang mộng

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm "Đinh Trang mộng" của Diêm Liên Khoa mang đậm chất hiện thực, phản ánh sâu sắc con người và cuộc sống Tác giả đã chọn một vùng nông thôn hẻo lánh làm bối cảnh, nơi người nông dân từ nghèo khó đã nhanh chóng giàu lên nhờ vào việc bán máu phi pháp Tuy nhiên, điều này dẫn đến hệ quả nghiêm trọng khi bệnh AIDS lan tràn, khiến cuộc sống của họ bị đảo lộn và rơi vào bi kịch Sự giàu sang trở thành một giấc mơ phù du, nhường chỗ cho thảm kịch diệt vong.

Trong tác phẩm "Đinh Trang mộng," nhà văn thể hiện sự trăn trở về đạo đức, giáo dục, tư tưởng và lối sống ở vùng nông thôn Với bút pháp hiện thực và nghệ thuật phê phán, tác phẩm miêu tả tỉ mỉ những mưu mô, ham muốn bản năng, và mâu thuẫn trong đời sống nông thôn Không gian nghệ thuật trong tác phẩm gắn liền với từng mùa trong năm; mùa xuân mang lại chút an ủi nhưng mùa hè và đông lại thể hiện sự tàn lụi của thiên nhiên Đặc biệt, không gian mùa đông tại trường tiểu học được miêu tả như "không gian chết," nơi mà sự mệt mỏi của lòng người và "bóng ma" bệnh dịch tạo nên bầu không khí nặng nề, tĩnh lặng đến mức có thể nghe thấy tiếng chuyển động của mây.

Trong tác phẩm "Đinh Trang mộng", Diêm Liên Khoa khắc họa không gian nghệ thuật tuyệt đẹp của thôn Đinh vào mùa xuân, nơi đây nằm ở cuối con đường từ Đông Kinh đến huyện Vy Thôn Đinh Trang đang dần thay đổi, từ hình dáng chữ thập (+) thành chữ thổ với sự xuất hiện của những con phố mới Tác giả nhiều lần miêu tả khung cảnh bình yên, tràn đầy ánh sáng và sức sống của hoa cỏ đồng nội, đặc biệt là vào mùa xuân, biểu trưng cho sự hồi sinh và sự sống, đối lập với cảnh đông tàn đầy bệnh tật và tang thương.

Mùa xuân tại thôn Đinh Trang mang đến ánh sáng và sắc màu, xua tan nỗi đau bệnh tật Cảnh vật nơi đây được bao phủ bởi màu xanh của tiểu mạch và cỏ hoang, tạo nên một bức tranh sống động với hoa đỏ, hoa trắng, hoa tím, hoa vàng rực rỡ Những bông hoa như những mảnh vải hoa in lỗi, hòa quyện trong màu xanh tươi mát Cây cối trên bình nguyên không còn cô độc, lá xanh rung rinh như đang ca hát, thể hiện khát khao hi vọng của người dân nơi đây.

“Khắp đất khắp trời đều à màu xanh

Cây cối một màu xanh

Thôn xóm một màu xanh

Trời đất cũng một màu xanh.” [32; 181]

Người đọc sẽ khám phá một thế giới xanh tươi trên mảnh đất từng chết chóc, nơi sức sống đang trỗi dậy mạnh mẽ trong từng ngõ ngách của cuộc sống Màu xanh của sắc xuân lan tỏa khắp nơi, tựa như thiên nhiên đang khoe sắc rực rỡ Cảm xúc hạnh phúc, sung sướng của những người trở về sau thời gian chống chọi với bệnh tật và cái chết cũng hòa quyện vào không gian, tạo nên một bức tranh thơ mộng và trữ tình Không gian trong trẻo, bình yên mang đến những gam màu sáng, biểu tượng cho niềm hi vọng hướng về ánh sáng và nghị lực vượt qua khó khăn, hướng tới sự sống, ánh sáng và tương lai tươi sáng.

Bút pháp kì ảo

3.3.1 Bút pháp kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma Ở phương diện nghệ thuật, bút pháp kì ảo được thể hiện trước hết ở nhân vật Nhân vật kì ảo là loại nhân vật đƣợc xây dựng bằng bút pháp hƣ ảo, có nhiều đặc điểm lạ kì, dị dạng Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma,

Nguyễn Khắc Trường khéo léo xây dựng hình ảnh những nhân vật kì ảo, đặc biệt là những con ma nữ trong mối tình với lão Quềnh thời niên thiếu Hình tượng này không chỉ mang tính chất huyền bí mà còn phản ánh sâu sắc những cảm xúc và kỷ niệm trong quá khứ của nhân vật.

Trong tác phẩm, Bé trải qua một mối tình kỳ lạ với ông Hàm, bên cạnh hình ảnh ám ảnh của đứa con và cái chết khủng khiếp Những nhân vật ma quái như cô Thống Biệu, ông Hàm, vợ Phúc, và thằng Đãi đều mang những đặc điểm dị dạng, tạo nên sự liên kết chặt chẽ với cốt truyện và chủ đề của tác phẩm.

Nó đóng vai trò như một hướng dẫn viên, dẫn dắt độc giả khám phá những khía cạnh khác nhau của cuộc sống Nhân vật ma quái trong tiểu thuyết được kể lại qua giai thoại về cậu cả Quềnh, một câu chuyện đầy kịch tính nhưng cũng bi thảm, vẫn được những người dân ở đất Giếng Chùa ghi nhớ Trong độ tuổi thanh niên, với "mặt mũi thô vụng, thật thà", cậu không hiểu vì sao mà mỗi đêm lại lén lút rời khỏi nhà để hẹn hò dưới gốc si.

Nhân vật ma nữ trong tác phẩm được miêu tả với hình ảnh lấp lóa, tóc dài buông xõa, tạo nên vẻ huyền ảo khiến khuôn mặt trở nên mờ mịt Cô gái chỉ là một cái bóng trắng, luôn lẩn khuất bên cạnh cậu cả Quềnh, từ trái sang phải, và dần hiện ra với vẻ đẹp như tiên sa Khi bị phát hiện bởi cha, cậu cả Quềnh rơi vào tình trạng ốm yếu, bị ma ám, và phải nhờ thầy cúng trong suốt bảy ngày Sự xuất hiện của bầy đom đóm chết quanh gốc si mang ý nghĩa tượng trưng cho sự hy sinh và đau khổ Qua hình tượng ma nữ, Nguyễn Khắc Trường không chỉ tạo ra không khí huyền bí mà còn phản ánh số phận éo le của nhân vật chính, đồng thời thể hiện những mảnh ghép của cuộc sống con người và xã hội thực tại.

Nhân vật lão Quềnh và cô thống Biệu là hai hình ảnh đặc trưng trong thế giới kỳ ảo, gắn liền với ma – loại cư dân của thế giới bên kia Lão Quềnh, với vẻ ngoài thô tục và chân thật, đã yêu một con ma, trong khi cô thống Biệu, một thầy bói với dáng vẻ yếu đuối và giọng nói lảnh lót, lại có khả năng giao tiếp với ma, nhìn thấy chúng trong những tình huống bình thường Thế giới kỳ ảo này còn được làm phong phú bởi những mối tình bất thường, như tình yêu giữa cậu cả Quềnh và con ma dưới gốc si, nơi bầy đom đóm tạo nên khung cảnh huyền ảo Tình yêu của ông giáo Phúc và cô Son, mặc dù bị ngăn cản bởi những ràng buộc xã hội, thể hiện sự đam mê mãnh liệt và những khát khao không thể thành hiện thực Cuối cùng, cô Thống Biệu, với cái tên lạ và tuổi gần 90, vẫn giữ được dáng vẻ mảnh mai, cho thấy rằng mỗi nghề nghiệp đều có những đặc trưng riêng của nó.

Cô Thống có dáng vẻ mảnh mai và đi đứng yếu ớt, với giọng nói nhẹ nhàng và không có râu ria Cô cũng có sở thích ăn uống giống như phụ nữ, đặc biệt là không thích ớt và tỏi.

95 ưa của chua”, bộ mặt “nhỏ như mặt chim”, nước da “mai mái”, đi đứng

Cô Thống Biệu, một nhân vật độc đáo trong tiểu thuyết "Mảnh đất ắm người nhiều ma", không chỉ giỏi trong việc âm mà còn tài giỏi trong việc dương Sự khác biệt của cô khiến cô trở thành thầy cúng duy nhất ở xóm Giếng Chùa, nhưng cuối cùng phải từ bỏ nghề vì không thể trị được ma dương Cô là người duy nhất tiên đoán được sự hỗn loạn sắp diễn ra trong làng quê nhỏ bé, dẫn đến việc cô phải thoát tục vì bất lực Sự xuất hiện của cô tạo ra bầu không khí ma quái, phản ánh tiếng nói của vô thức và làm nổi bật chủ đề chính của câu chuyện Các nhân vật kỳ ảo trong tác phẩm không chỉ tạo nên chiều sâu triết lý mà còn mang lại sức sống lâu bền cho tác phẩm.

Tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường không chỉ xoay quanh cuộc xung đột giữa hai thế lực chính trong xóm Giếng Chùa mà còn khai thác yếu tố ma quái, tạo nên một cấu trúc độc đáo kết nối các nhân vật Mở đầu tác phẩm, tác giả khắc họa nỗi đói trong ngày giáp hạt và hồi ức của Quềnh về việc gặp ma cách đây nhiều năm Tiếp theo là cảnh đám tang cụ Cố, nơi Quềnh trở về và chứng kiến những hiện tượng ma quái ngay trong chính ngôi nhà của mình, với sự xuất hiện của một người phụ nữ khốn khổ và xác đứa con bốn tuổi.

Con mèo xù lông nhảy qua đầu chõng, tạo nên một cảnh tượng kinh hoàng khi cái bọc chăn im lìm bỗng dưng động đậy Đứa bé bốn tuổi, con của người đàn bà đã chết từ lúc chập tối, bị luồng sóng điện từ mắt con mèo hoang đánh thức Người đàn bà và lão Quềnh kêu lên kinh hãi khi thi hài nhỏm dậy, gạt cả cái vỏ chăn xuống đất Cái xác không hồn dở đứng dở ngồi ở một tư thế chênh vênh, chới với.

Nguyễn Khắc Trường sở hữu nhiều tác phẩm viết về ma đom đóm và sự tích bùa mê với phong cách nhuần nhuyễn và cuốn hút Ông đặc biệt chú trọng vào việc miêu tả tô tem dòng họ Trịnh Bá, thể hiện hình ảnh ông Hổ gác trong quá khứ của gia tộc Khi viết về cái chết của con chim cuốc, ngòi bút của ông thể hiện sự tinh tế, sâu sắc và trữ tình.

Trong xóm Giếng Chùa, có những câu chuyện ma mị và mồ mả khiến người dân không thể quên, như câu chuyện về những con chim cuốc chết vì tình, thể hiện nỗi buồn và sự hi sinh Chuyện lão Quềnh phải chôn hai lần gây cảm thương, trong khi Trịnh Bá Hàm trong đêm tối thực hiện nghi lễ đào mộ với lòng hận thù tột độ, thể hiện sự tàn bạo đến mất nhân tính Bên cạnh đó, chuyện tình u uất của bà Son với cậu giáo Phúc cũng nổi bật, phản ánh nỗi đau và sự chờ đợi trong suốt cuộc đời bà, tất cả hòa quyện trong không gian ma mị của xóm Giếng Chùa.

Bà đã trầm mình tự vẫn tại nơi dòng nước cong, nơi "vai cày của suối Ông Bụt tiếp giáp với sông Cầu", gợi nhớ về cuộc gặp gỡ với Vũ Đình Phúc trong quá khứ Cái kết cục bi thảm của bà như một sự dẫn dắt của ma quỷ, thể hiện sự đau khổ và những bí ẩn trong cuộc đời của một nhà văn tài năng.

Môtip cái chết và ma hiện hồn là yếu tố kỳ ảo đặc trưng trong tác phẩm, thể hiện bút pháp quan trọng của tiểu thuyết hiện đại Đọc tác phẩm, người đọc cảm nhận được sự rờn rợn và thảm thương khi chứng kiến cuộc sống nghèo đói của con người Làng Giếng Chùa không giống như làng Đông Xá hay làng Vũ Đại, mà là không gian rộng lớn với những yếu tố kỳ ảo và câu chuyện li kì Đồi ông Bụt, với rừng rậm um tùm và nhiều điều huyền bí, đã ám ảnh dân cư nơi đây Bức tranh đồng quê hiện lên với nét ghê gợn, phản ánh xung đột tiềm ẩn trong đời sống nông thôn Việt Nam Từ vườn nhãn tối tăm nơi Đào và Tùng hò hẹn đến không gian phơi lúa, tác phẩm khắc họa rõ nét những bi kịch cụ thể trong cuộc sống nông thôn.

Trong không gian nông thôn đầy hỗn loạn của Đồng Chùa, những cuộc ẩu đả giữa cô Cành và bà Dần phản ánh bi kịch đời sống nơi đây, nơi mà lẽ ra phải yên bình nhưng lại tràn ngập tiếng khóc và cái chết Sự hiện diện của không gian “trần thế” bất ổn như một yếu tố kích thích cho “địa ngục” và “bóng tối” xâm chiếm Đồi ông Bụt, với những câu chuyện dân gian và bi kịch đau thương, trở thành một không gian tâm linh quan trọng của người dân Giếng Chùa Tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật điện ảnh để miêu tả bóng tối, tạo nên một không gian bí ẩn nơi anh Quềnh, một nhân vật kỳ lạ, xuất hiện Quỳnh, chàng trai trẻ tuổi, đã biến thành Lão Quềnh sau khi trải qua những sự kiện kỳ quái, mang theo hai cái tên trong cuộc đời và hai lần chôn cất Cái chết của lão, được mô tả đầy ám ảnh, khiến người đọc cảm nhận được nỗi buồn và sự tàn nhẫn của cuộc sống, khi mà lão chỉ được chôn tạm bợ trên một chiếc chiếu rách.

Ngày đăng: 07/07/2022, 21:59

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w