MỤC LỤC DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT A MỞ ĐẦU 1 B NỘI DUNG 1 I Lý luận chung về đặt cọc tài sản 1 1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của đặt cọc theo pháp luật dân sự Việt Nam 1 a Thời kỳ phong kiến 1 b Thời kỳ Pháp thuộc 2 c Thời kỳ từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến Bộ luật Dân sự 1995 3 d Thời kỳ từ sau Bộ luật dân sự năm 1995 đến nay 4 2 Khái niệm đặt cọc 6 3 Đặc trưng cơ bản của đặt cọc 7 4 Ý nghĩa của biện pháp đặt cọc 8 II Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đặt cọc 10 1.
NỘI DUNG
Lý luận chung về đặt cọc tài sản
1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của đặt cọc theo pháp luật dân sự Việt Nam a Thời kỳ phong kiến
Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã được ghi nhận từ những Bộ luật đầu tiên, đặc biệt là Bộ luật Hồng Đức vào thế kỷ 15.
XV và Bộ luật Gia Long thế kỷ XIX quy định về việc cầm cố ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân Cụ thể, Điều 384 của Bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê đã ghi nhận biện pháp điển mại, cho phép người dân sử dụng ruộng đất của mình làm tài sản thế chấp.
Nếu chủ ruộng muốn chuộc lại đất cầm nhưng người cầm không đồng ý hoặc ép buộc phải chuộc, sẽ bị phạt 80 trượng Tương tự, nếu chủ ruộng cố gắng đòi chuộc sau thời hạn quy định, cũng sẽ bị phạt 80 trượng mà không được phép chuộc Kỳ hạn chuộc ruộng mùa là ngày 15 tháng 3, còn ruộng chiêm có thời hạn riêng.
Nếu trong thời hạn quy định, người vay đã đem tiền đến chuộc và được quan xử cho phép chuộc, nhưng chủ cầm cố vẫn cố tình từ chối, thì sẽ bị phạt 80 trượng và buộc phải cho chuộc, đồng thời phải hoàn trả lãi cho những ngày trì hoãn Tuy nhiên, nếu quá thời hạn 30 năm mà xin chuộc thì sẽ không được phép Nếu người bán trái lý vẫn kêu lên quan để đòi chuộc, sẽ bị xử phạt 50 roi và bị biếm 1 tư.
Bộ luật Gia Long triều Nguyễn quy định một số biện pháp bảo đảm, nhưng không kế thừa và phát triển nhiều từ Bộ luật Hồng Đức Pháp luật phong kiến Việt Nam có ghi nhận biện pháp bảo đảm, tuy nhiên các quy định còn rời rạc, tồn tại nhiều hạn chế và chưa công nhận biện pháp đặt cọc như một phương thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, đặc biệt trong thời kỳ Pháp thuộc.
Sự xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và pháp luật Việt Nam Luật pháp Pháp, đặc biệt trong lĩnh vực dân sự, đã được du nhập vào nước ta Trong thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam được chia thành ba kỳ.
Bắc Kỳ và Trung Kỳ là vùng đất thuộc chế độ bảo hộ, nơi mà các quan hệ dân sự được điều chỉnh bởi Bộ Dân luật Bắc Kỳ ban hành năm 1931 Bộ luật này quy định các quy tắc pháp lý liên quan đến các giao dịch và quyền lợi của người dân tại hai khu vực này.
Bộ dân luật Trung Kỳ chỉ mang tính tham khảo, trong khi Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ 1936 ghi nhận các biện pháp bảo đảm như cầm cố động sản, cầm cố bất động sản và bảo lãnh, dựa trên quy định của Bộ luật dân sự Napoleong của Pháp Tại Nam Kỳ, quy định về các biện pháp bảo đảm được phân tán trong Bộ dân luật giản yếu 1883 nhưng không được thực thi Các biện pháp bảo đảm vẫn tiếp tục được áp dụng theo các luật cổ như cầm cố động sản và cầm cố bất động sản.
Nam Kỳ được điều chỉnh bởi Bộ Dân luật Trung Kỳ (1936), trong khi các quan hệ dân sự tại Nam Kỳ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng tuân theo Bộ dân luật Pháp và Bộ dân luật giản yếu năm 1883.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam chủ yếu được quy định trong các Bộ dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ, đặc biệt là trong chương “Các hợp đồng bảo đảm” Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm bảo lãnh, điển mại, cầm cố động sản, cầm cố bất động sản và thế chấp Tuy nhiên, các Bộ dân luật này chưa ghi nhận biện pháp đặt cọc như một phương thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Thời kỳ từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến Bộ luật Dân sự 1995, những quy định này đã có sự thay đổi và phát triển.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng Chính phủ phải tập trung vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chưa thể ban hành văn bản pháp luật cụ thể Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 09/SL cho phép tạm giữ lại các luật lệ đã ban hành ở ba miền Bắc, Trung, Nam cho đến khi có bộ luật thống nhất, miễn là không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa Do đó, ba bộ luật: Bộ dân luật Nam Kỳ giản yếu 1883, Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ 1936 tiếp tục được thi hành cho đến khi bị hủy bỏ bởi Chỉ thị 772 của Tòa án Tối cao vào năm 1959.
Từ năm 1960 đến 1989, Việt Nam áp dụng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, dẫn đến sự thay đổi trong các quan hệ dân sự Sự hạn chế trong giao lưu dân sự đã cản trở sự phát triển của các mối quan hệ này, khiến cho các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự không được chú trọng Kết quả là, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm cả biện pháp đặt cọc, không được đề cập đến.
Ngày 29/4/1991, PLHĐDS đã ghi nhận các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và đặt cọc, trong đó đặt cọc được công nhận là một biện pháp bảo đảm quan trọng Trước đây, đặt cọc thường chỉ được thỏa thuận bằng miệng trong các giao dịch mà không có văn bản chính thức, vì vậy việc quy định pháp luật về đặt cọc là cần thiết PLHĐDS đã xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, cho phép các bên thỏa thuận về việc xử lý tài sản bảo đảm, phù hợp với lợi ích của họ Mặc dù PLHĐDS đã quy định chi tiết hơn về các biện pháp bảo đảm so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, nhưng hiệu quả áp dụng vẫn chưa cao do các quy định còn hạn chế và chưa thực tiễn Điều này dẫn đến sự cần thiết phải có các quy định cụ thể và đầy đủ hơn Sự ra đời của BLDS 1995 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định về biện pháp bảo đảm, với bốn biện pháp chính được quy định chi tiết trong 45 điều luật, cùng với các nghị định và thông tư liên quan.
Vào ngày 14/06/2005, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 đã được Quốc hội thông qua, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam BLDS 2005 kế thừa có chọn lọc và phát triển các quy định từ BLDS 1995, nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển kinh tế đất nước Sự ra đời của BLDS 2005 phản ánh thực tiễn cho thấy một số quy định trong BLDS 1995 không còn phù hợp Đặc biệt, các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được chú trọng và điều chỉnh để phù hợp hơn với tình hình mới.
Bộ luật Dân sự 2005 đã có những sửa đổi đáng kể, quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp Khác với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 áp dụng chung cho các quan hệ dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động mà không phân chia thành các lĩnh vực riêng biệt Đặc biệt, Bộ luật này đã loại bỏ biện pháp phạt vi phạm được quy định trong Bộ luật Dân sự 1995 Mặc dù có sự thay đổi trong nhiều quy định, nhưng điều khoản về biện pháp đặt cọc vẫn giữ nguyên bản chất mà không có sự sửa đổi quan trọng nào.
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đặt cọc
1 Chủ thể của đặt cọc
Chủ thể của một quan hệ pháp luật bao gồm những người tham gia và phải đáp ứng các điều kiện theo Điều 117 BLDS 2015, cụ thể là có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch Để tham gia vào giao dịch đặt cọc, các bên cũng cần đảm bảo rằng họ hoàn toàn tự nguyện và đáp ứng các yêu cầu này.
Việc đặt cọc là một thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập hoặc thực hiện hợp đồng, trong đó một bên giao tài sản cho bên kia để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng Quan hệ đặt cọc bao gồm hai bên chủ thể: bên giao tài sản và bên nhận tài sản.
Bên đặt cọc là bên đã chuyển giao cho bên nhận một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị nhằm đảm bảo việc ký kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.
Bên nhận đặt cọc là bên tiếp nhận tài sản từ bên đặt cọc, nhằm đảm bảo việc ký kết hợp đồng hoặc đảm bảo thực hiện các điều khoản trong hợp đồng.
Theo Khoản 2, Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản đặt cọc sẽ được hoàn trả cho bên đặt cọc nếu hợp đồng được thực hiện Nếu bên đặt cọc từ chối thực hiện hợp đồng, tài sản đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc Ngược lại, nếu bên nhận đặt cọc từ chối thực hiện hợp đồng, họ phải hoàn trả tài sản đặt cọc cùng với một khoản tiền tương đương giá trị tài sản, trừ khi có thỏa thuận khác.
Theo quy định pháp luật, bên không thực hiện đúng mục đích đặt cọc sẽ phải chịu hậu quả pháp lý tương ứng Do đó, việc xác định rõ mục đích của từng quan hệ đặt cọc là rất quan trọng Nếu đặt cọc chỉ nhằm bảo đảm cho việc ký kết hợp đồng, bên không ký kết sẽ phải chịu hậu quả, nhưng nếu hợp đồng đã được ký kết thì bên đó không phải gánh chịu hậu quả dù không thực hiện hợp đồng Ngược lại, nếu mục đích của đặt cọc vừa để bảo đảm việc ký kết, vừa để bảo đảm việc thực hiện hợp đồng, thì bên không thực hiện hợp đồng sẽ phải chịu hậu quả pháp lý dù hợp đồng đã được ký kết.
Các bên trong hợp đồng đặt cọc có thể thỏa thuận về mục đích của việc đặt cọc theo ba trường hợp: chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng, chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng, hoặc vừa bảo đảm cho việc giao kết vừa bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng.
Nếu văn bản đặt cọc không chỉ rõ mục đích, thì mục đích của việc đặt cọc sẽ được quy định theo luật định.
Khi các bên thiết lập đặt cọc sau khi hợp đồng đã được ký kết, mục đích của việc đặt cọc này là để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng một cách hiệu quả.
Khi các bên thỏa thuận đặt cọc trước khi ký kết hợp đồng, mục đích chính của việc đặt cọc là nhằm đảm bảo việc ký kết hợp đồng đó.
2 Đối tượng của đặt cọc
Trong quan hệ đặt cọc, hành vi của các bên tác động vào tài sản cụ thể, được quy định tại Khoản 1 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2015 Đối tượng của đặt cọc bao gồm "một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác", tức là những tài sản có giá trị mà một bên giao cho bên kia Tài sản đặt cọc chỉ giới hạn trong tiền, kim khí quý, đá quý và các tài sản có giá trị khác, không bao gồm quyền tài sản hay bất động sản Các tài sản này phải thuộc sở hữu của bên đặt cọc hoặc có sự đồng ý của chủ sở hữu nếu thuộc sở hữu của người khác Ngoài ra, tài sản đặt cọc cũng phải là những tài sản có thể lưu thông dân sự và có thể định giá, trong khi các vật cấm hoặc hạn chế lưu thông không thể là đối tượng của đặt cọc.
Theo Điều 4 của Thông tư liên tịch số 17/2013, việc đặt tiền để đảm bảo được hướng dẫn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.
Tiền đặt để bảo đảm trong vụ án hình sự là tiền mặt bằng Việt Nam đồng, bao gồm: a) Tiền hợp pháp thuộc sở hữu của bị can, bị cáo; b) Tiền hợp pháp thuộc sở hữu của người đại diện hợp pháp cho bị can, bị cáo, bao gồm cả người chưa thành niên và người có vấn đề về tâm thần.
2 Không được đặt tiền thuộc một trong các trường hợp sau đây để bảo đảm: a) Tiền đang có tranh chấp; b) Tiền đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật; c) Tiền có nguồn gốc bất hợp pháp”
Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005, tiền đặt cọc phải là Việt Nam đồng, không chấp nhận ngoại tệ Do đó, các hợp đồng có đối tượng là ngoại tệ sẽ bị coi là vô hiệu Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy nhiều bản án của Tòa án lại tuyên bố các hợp đồng này không vô hiệu.
Thực tiễn thực hiện và phương hướng góp phần hoàn thiện pháp luật về đặt cọc
Bên nhận ký cược sẽ sở hữu tài sản ký cược nếu tài sản thuê không còn để trả lại, trừ khi có thỏa thuận khác.
4 Xử lý tài sản đặt cọc
Có hai phương thức chính để xử lý tài sản đặt cọc và tài sản bảo đảm: theo thỏa thuận của các bên hoặc thông qua bán đấu giá Nếu các bên đã đạt được thỏa thuận, tài sản sẽ được xử lý theo thỏa thuận đó Ngược lại, nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm pháp luật, tài sản sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nếu hợp đồng được ký kết và thực hiện đúng theo thỏa thuận, tài sản đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào nghĩa vụ thanh toán.
Nếu hợp đồng không được ký kết hoặc thực hiện theo thỏa thuận, trách nhiệm thuộc về bên đặt cọc hoặc bên nhận đặt cọc Cụ thể, nếu bên đặt cọc có lỗi, tài sản đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc Ngược lại, nếu bên nhận đặt cọc có lỗi, họ phải hoàn trả tài sản đặt cọc cùng một khoản tiền tương đương với giá trị của tài sản đó cho bên đặt cọc.
Hậu quả sẽ được áp dụng trừ khi các bên có thỏa thuận khác Hiện tại, pháp luật không quy định tỷ lệ tối đa giữa giá trị tài sản đặt cọc và giá trị hợp đồng, cho phép các bên tự thỏa thuận Thông thường, giá trị tài sản đặt cọc không vượt quá 50% giá trị hợp đồng, nhưng nếu các bên đồng ý với mức đặt cọc cao hơn và thỏa thuận mức phạt lớn hơn quy định của pháp luật, thì vẫn được chấp nhận.
III Thực tiễn thực hiện và phương hướng hoàn thiện pháp luật về đặt cọc
1 Thực tiễn thực hiện biện pháp đặt cọc Đặt cọc được áp dụng nhiều trong các giao dịch dân sự của đời sống nên những tranh chấp dân sự có liên quan đến đặt cọc cũng rất đa dạng Các tranh chấp phát sinh từ đặt cọc trong quá trình giải quyết tại TAND cho chúng ta thấy thực tế của đặt cọc trong đời sống giao lưu dân sự hiện nay Các tranh chấp phát sinh có thể do các chủ thể không tuân thủ các quy định về hình thức, không tuân thủ quy định về đối tượng của đặt cọc…Tranh chấp kéo dài giữa các bên cũng có thể phát sinh từ việc pháp luật chưa có quy định cụ thể, chưa có quy định một cách thống nhất dẫn đến quan điểm của các bên khác nhau Trong nhiều trường hợp, các chủ thể tham gia giao dịch dân sự và có thiết lập đặt cọc như một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, ý chí các bên đều hướng tới việc đặt cọc để đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự nhưng các bên lại không tuân thủ quy định về hình thức của đặt cọc, không lập thành văn bản thể hiện việc đặt cọc, dẫn đến tranh chấp giữa hai bên trong việc xác định đây là tiền đặt cọc hay tiền trả trước (hậu quả pháp lý của việc xác định đây là tiền đặt cọc hay tiền trả trước sẽ khác nhau) Có những trường hợp tranh chấp liên quan đến đặt cọc xảy ra do các bên không hiểu rõ tình trạng pháp lý của tài sản, dẫn đến đặt cọc để mua bán tài sản và sau đó hai bên không thực hiện được hợp đồng và xảy ra tranh chấp Tranh chấp đặt cọc cũng có thể phát sinh do những yếu tố khách quan, sự kiện bất khả kháng mà các bên không dự liệu được tại thời điểm giao kết và thực hiện hợp đồng, đến thời điểm xảy ra các yếu tố này thì các bên không thể thực hiện đúng thỏa thuận dẫn đến tranh chấp…
Khi tranh chấp liên quan đến đặt cọc xảy ra, Tòa án nhân dân các cấp đã thiết lập các hành lang pháp lý quan trọng để giải quyết, bao gồm Bộ luật Dân sự 2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, cùng với Bộ luật Dân sự 2015.
Giải quyết tranh chấp về đặt cọc tại TAND các cấp gặp nhiều khó khăn do các Thẩm phán chưa xem xét toàn diện nội dung vụ án Các quy định pháp luật liên quan còn rải rác trong nhiều văn bản khác nhau, và một số vấn đề pháp lý chưa được quy định cụ thể Điều này yêu cầu phải kết hợp với các quy định về thực hiện hợp đồng giữa các bên, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
2 Phương hướng góp phần hoàn thiện pháp luật về đặt cọc Để biện pháp đặt cọc ngày càng phát huy hiệu quả trong các giao dịch dân sự đồng thời hoàn thiện pháp luật về biện pháp này, có thể đưa ra một số phương hướng hoàn thiện như sau:
Đặt cọc là hành động mà một bên (gọi là bên đặt cọc) chuyển giao một khoản tiền hoặc tài sản cho bên còn lại, nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong một giao dịch.
Bên nhận đặt cọc sẽ nhận một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị như kim khí quý, đá quý trong một thời gian nhất định Mục đích của việc đặt cọc này là để đảm bảo việc ký kết hợp đồng giữa hai bên hoặc để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng đã được ký kết, hoặc cả hai mục đích trên.
Theo Điều 328 BLDS 2015, khái niệm về đặt cọc còn thiếu sót khi không cần liệt kê kim khí quý, đá quý và các tài sản có giá trị khác, vì chúng là tài sản vật chất Mục đích của việc đặt cọc không chỉ nhằm đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự mà còn có thể là cả hai, tuy nhiên, điều luật lại sử dụng từ “hoặc”, dễ dẫn đến hiểu lầm rằng mục đích chỉ giới hạn ở một trong hai.
Thời điểm có hiệu lực của đặt cọc hiện chưa được xác định rõ trong Bộ luật Dân sự và Nghị định 163/2006/NĐ-CP Để cải thiện tình hình, cần sửa đổi Bộ luật Dân sự theo hướng pháp điển hóa và bổ sung các quy định cụ thể về thời điểm có hiệu lực của đặt cọc Việc này sẽ giúp xác định rõ ràng thời điểm có hiệu lực của giao dịch đặt cọc.
Hiện nay, quy định về hình thức đặt cọc chưa hợp lý và không phản ánh đúng vai trò quan trọng của nó trong giao dịch Do đó, cần thiết phải có một điều luật riêng biệt quy định về hình thức của đặt cọc, nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong các giao dịch đặt cọc.
Theo Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2015), việc đặt cọc phải được lập thành văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính Nếu pháp luật yêu cầu việc đặt cọc phải được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép cơ quan có thẩm quyền, các bên phải tuân thủ các quy định này Ngoài ra, cần có quy định rõ ràng về hiệu lực của giao dịch đặt cọc khi không tuân thủ hình thức Theo Điều 358 BLDS, việc đặt cọc bắt buộc phải được lập thành văn bản.