Luật thương mại quốc tế Hoạt động thương mại quốc tế là một hoạt động vô cùng rộng và phức tạp do nó có liên quan đến những quy định của pháp luật, liên quan chính sách về phát triển ki
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Khái niệm về Luật thương mại quốc tế
1.1.1 Khái niệm thương mại Ở Việt Nam năm 1997, với sự xuất hiện của Luật thương mại 1997 thì khái niệm thương mại cũng xuất hiện Tuy nhiên, khái niệm thương mại lúc bấy giờ được hiểu như là một phần của luật kinh doanh vì hoạt động thương mại được hiểu với nghĩa hẹp là mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ 2 Đến khi nước ta hội nhập WTO 3 thì khái niệm luật thương mại được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lời Theo đó, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác 4 ” Khái niệm này gần như tương đồng với quan điểm của quốc tế về thương mại, theo UNCITRAl 5 thì thương mại “là một hoạt động nảy sinh từ tất cả các mối quan hệ mang bản chất thương mại, dù cho nó có mang bản chất hợpđồng hay không” 6
Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại diễn ra vượt ra ngoài biên giới quốc gia, bao gồm việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên toàn cầu Để xác định một hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài hay không, cần dựa vào ba dấu hiệu chính: các bên tham gia trong quan hệ thương mại có quốc tịch khác nhau, sự kiện liên quan đến quan hệ thương mại diễn ra ở nước ngoài, và đối tượng của quan hệ thương mại (hàng hóa, dịch vụ) đến từ nước ngoài.
1.1.3 Luật thương mại quốc tế
Hoạt động thương mại quốc tế rất đa dạng và phức tạp, vì nó liên quan đến các quy định pháp luật và chính sách phát triển kinh tế.
3 World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới)
4 Điề u 3 Lu ật Thương mạ i 2005
5 United Nations Commission On International Law (Ủy ban của liên hợp quốc về luật quốc tế)
6 Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL năm 1985
7 Trần Thanh Bình, Trần Văn Thanh, Giáo trình lu ật thương mạ i qu ố c t ế , NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2005, tr 6
Hoạt động thương mại quốc tế không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của từng quốc gia mà còn tác động đến sự phát triển chung của khu vực và toàn cầu Điều này cho thấy rằng, thương mại quốc tế phải tuân thủ không chỉ hệ thống pháp luật của quốc gia mà còn của các quốc gia khác, cũng như các tập quán và điều ước quốc tế Vì vậy, luật thương mại quốc tế có thể được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật từ nhiều nguồn khác nhau, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động thương mại quốc tế.
Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật thương mại quốc tế
1.2.1 Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh của luật thương mại quốc tế chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế Tuy nhiên, xuất phát từ sự đa dạng của các chủ thể trong thương mại quốc tế mà ta có thể chia thành hai loại quan hệ thương mại quốc tế mà Luật thương mại quốc tế điều chỉnh, cụ thể như sau:
Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, quan hệ giữa các cá nhân và thể nhân thường phát sinh từ các hoạt động thương mại cụ thể thông qua hợp đồng Những quan hệ này chủ yếu thuộc lĩnh vực tư, được thiết lập trong quá trình ký kết và thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế.
Trong hoạt động thương mại quốc tế, ngoài sự tham gia của cá nhân và thể nhân, còn có sự tham gia của các quốc gia Các hoạt động của các quốc gia này được phân chia thành hai loại chính.
Các quốc gia, với tư cách là chủ thể của luật quốc tế, thiết lập các vấn đề liên quan đến chính sách thương mại toàn cầu Những vấn đề này thuộc lĩnh vực công và bao gồm các chính sách thương mại của các quốc gia cũng như các khu vực kinh tế trên thế giới Tuy nhiên, trong khuôn khổ của môn học này, quốc gia không phải là đối tượng nghiên cứu chính.
Các quốc gia đóng vai trò là bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tham gia vào các hoạt động thương mại với các chủ thể khác Trong bối cảnh này, quốc gia có thể là bên trong các hợp đồng mua sắm chính phủ và đấu thầu, được thiết lập qua các thỏa thuận hợp pháp Do đó, quốc gia trở thành một chủ thể của luật thương mại quốc tế, bao gồm cả các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ.
8 Trần Thanh Bình, Trần Văn Thanh, Giáo trình lu ật thương mạ i qu ố c t ế, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2005, tr 12
9 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lu ật thương mạ i qu ố c, NXB Công An nhân dân, Hà Nội, 2012, tr 551
8 chính phủ đều có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế với tư cách là một chủ thể trực tiếp 10
Tương ứng với các loại quan hệ luật thương mại quốc tế sẽ có các phương pháp điều chỉnh cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với các quan hệ thuộc lĩnh vực tư thì có hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu đó là:
Phương pháp thực chất là việc sử dụng các quy phạm pháp luật cụ thể để điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế Những quy phạm này xác định rõ quyền, nghĩa vụ và biện pháp chế tài đối với các chủ thể liên quan Khi có quy phạm thực chất, các bên và cơ quan có thẩm quyền có thể dễ dàng xác định vấn đề mà họ quan tâm mà không cần qua khâu trung gian Trong thực tiễn, việc điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thường dựa vào các quy phạm thực chất thống nhất, được hình thành thông qua các quốc gia ký kết các điều ước quốc tế hoặc chấp nhận và áp dụng tập quán quốc tế.
Công ước Pari 1883 bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, Công ước Becnơ 1886 bảo vệ quyền tác giả, Công ước Lahaye 1955 quy định về mua bán quốc tế hàng hóa động sản, và Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc điều chỉnh hợp đồng mua bán quốc tế.
Phương pháp xung đột là cách tiếp cận sử dụng quy phạm xung đột để xác định hệ thống pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Hàng hải Việt Nam 2015, trong các trường hợp liên quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu biển, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành khách và hành lý, cũng như việc phân chia tiền công cứu hộ, áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu mang cờ quốc tịch Điều này cũng bao gồm các vụ việc xảy ra trên tàu khi đang ở vùng biển quốc tế và việc trục vớt tài sản chìm đắm.
Trong lĩnh vực quan hệ công, phương pháp điều chỉnh đặc thù được coi là phương pháp thực chất, sử dụng các nguyên tắc và quy phạm của công pháp quốc tế để xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, chủ yếu là các quốc gia.
10 Trần Thanh Bình, Trần Văn Thanh, Giáo trình lu ật thương mạ i qu ố c t ế, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2005, tr
Chủ thể của Luật thương mại quốc tế
Quốc gia trở thành chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế khi ký kết các hợp đồng thương mại Tuy nhiên, khi tham gia vào những hợp đồng này, quốc gia luôn được hưởng quy chế đặc biệt, điều này có nghĩa là nguyên tắc bình đẳng giữa các bên không áp dụng Sự khác biệt này xuất phát từ việc quốc gia là một chủ thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế, nắm giữ chủ quyền và quyền đối nội, đối ngoại, khác với cá nhân và pháp nhân.
Về mặt pháp lý, không có cơ quan xét xử nào có quyền xét xử quốc gia, và tài sản của quốc gia không thể bị cưỡng chế để đảm bảo cho các vụ kiện thương mại Quốc gia không bị ràng buộc bởi phán quyết của Tòa án nước ngoài nếu điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của mình Tuy nhiên, quyền miễn trừ của quốc gia trong thương mại quốc tế không phải lúc nào cũng được bảo vệ; nếu quốc gia từ bỏ quyền này, họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý trong các quan hệ dân sự và hợp đồng thương mại quốc tế Do đó, các chủ thể có quyền khởi kiện quốc gia, nhưng việc Tòa án có thụ lý vụ kiện hay không phụ thuộc vào ý chí của quốc gia bị kiện.
Pháp nhân là tổ chức được Nhà nước thành lập hoặc công nhận khi đáp ứng đủ điều kiện pháp lý theo quy định Theo nguyên tắc tự do kinh doanh trong thương mại quốc tế, hầu hết các quốc gia cho phép pháp nhân đủ điều kiện tham gia hoạt động thương mại trong nước cũng có quyền tham gia thương mại quốc tế Tuy nhiên, một số quốc gia có thể áp dụng điều kiện bổ sung cho pháp nhân trong những trường hợp cụ thể khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
11 Quy chế miễn trừ đối với quốc gia
12 Điề u 5 Cô ng ướ c Liên H ợ p qu ố c v ề mi ễ n tr ừ tài phán và tài s ả n c ủ a qu ố c gia 2004
Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước Liên Hợp Quốc về miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hợp tác quốc tế Bài viết được đăng tải trong Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Tập 15, số Quý I 2012, trang 67, nêu rõ những lợi ích và thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình thực thi các cam kết này.
14 Xem Chương IV Bộ luật Dân sự 2015
Trong thương mại quốc tế, cá nhân phải đáp ứng các tiêu chuẩn pháp luật cụ thể để trở thành chủ thể hợp pháp Do sự khác biệt về văn hóa và xã hội, các quốc gia có quy định khác nhau về tiêu chí của cá nhân tham gia quan hệ thương mại quốc tế Nếu pháp luật thương mại quốc tế xác định rõ ràng các tiêu chuẩn, chỉ những cá nhân đáp ứng đầy đủ yêu cầu mới được công nhận là chủ thể Ngược lại, nếu không có quy định cụ thể, tư cách chủ thể sẽ được xem xét dựa trên các quy định của pháp luật thương mại trong nước.
Mặc dù có những quy định khác nhau, nhưng hầu hết các quốc gia đều dựa vào hai tiêu chuẩn chính để xác minh tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ thương mại quốc tế.
Các điều kiện về nhân thân của cá nhân bao gồm năng lực pháp luật, năng lực hành vi và tình trạng tư pháp Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân.
Pháp luật của hầu hết các quốc gia quy định rằng cá nhân phải đạt đến một độ tuổi nhất định để có năng lực pháp luật đầy đủ, vì ở độ tuổi này, con người đã phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần Chẳng hạn, theo pháp luật dân sự Việt Nam, người từ đủ mười tám tuổi trở lên được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Tương tự, pháp luật dân sự của Pháp cũng quy định tại Điều 488 rằng tất cả những người từ 18 tuổi trở lên đều đủ điều kiện để trở thành thương nhân.
Ngoài năng lực pháp luật, cá nhân cần có năng lực hành vi, tức là khả năng tự chủ ý thức Những người đủ tuổi nhưng bị hạn chế về năng lực hành vi, như mắc bệnh tâm thần, gặp khó khăn trong nhận thức hoặc nghiện ma túy, sẽ không đủ điều kiện để tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế.
Tình trạng tư pháp cá nhân là yếu tố quan trọng cần xem xét trong thương mại quốc tế Theo quy định của pháp luật các nước, những người đang bị phạt tù hoặc bị cấm tham gia hoạt động thương mại bởi tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ không đủ điều kiện trở thành chủ thể trong các giao dịch thương mại quốc tế.
15 Điều 20 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015
16 Điều 22, 23, 24 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015
Theo quy định pháp luật của nhiều quốc gia, một số nghề nghiệp nhất định không được phép tham gia vào hoạt động thương mại Tại Việt Nam, các đối tượng như cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, và công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan thuộc Quân đội nhân dân đều bị cấm tham gia vào các hoạt động thương mại, bao gồm cả thương mại quốc tế.
Các quy định về tiêu chuẩn pháp lý xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ thương mại quốc tế chủ yếu áp dụng cho công dân mang quốc tịch của quốc gia sở tại Tuy nhiên, việc áp dụng các tiêu chuẩn này cho cá nhân có quốc tịch nước ngoài còn phụ thuộc vào luật pháp của từng quốc gia và từng trường hợp cụ thể Hơn nữa, điều này cũng chịu ảnh hưởng lớn từ mối quan hệ ngoại giao giữa quốc gia sở tại và quốc gia của những cá nhân đang sinh sống trên lãnh thổ đó.
Những nguyên tắc cơ bản của Luật thương mại Quốc tế
1.4.1 Nguyên tắc đối xử Tối huệ quốc (Most Favoured Nation Treatment - MFN)
Nguyên tắc MFN (Most Favored Nation) yêu cầu rằng nếu một quốc gia cung cấp ưu đãi cho một quốc gia thành viên, thì ưu đãi đó cũng phải được áp dụng cho tất cả các quốc gia thành viên khác Nguyên tắc này thường được quy định trong các hiệp định thương mại song phương và khi áp dụng đa phương trong WTO, nó thể hiện nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử, đảm bảo mọi quốc gia đều nhận được "đối xử ưu đãi nhất" Tuy nhiên, nguyên tắc MFN trong WTO không phải là tuyệt đối và được quy định cụ thể trong Hiệp định GATT.
Năm 1947, quy định cho phép mỗi quốc gia tuyên bố không áp dụng một số điều khoản trong Hiệp định đối với các nước thành viên khác, phản ánh sự khác biệt về văn hóa, xã hội và chính trị, cũng như sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế Trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), các thành viên có quyền duy trì các biện pháp không phù hợp với yêu cầu về đối xử tối huệ quốc và có thể từ chối cung cấp thông tin bí mật nếu việc tiết lộ đó có thể cản trở thi hành pháp luật hoặc trái lợi ích công.
17 Xem Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014
18 Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (General Agreement on Tariffs and Trade, viết tắt là GATT)
12 cộng hoặc làm phương hại đến quyền lợi thương mại hợp pháp của một doanh nghiệp 19
1.4.2 Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treament - NT)
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong thương mại quốc tế yêu cầu các nước cam kết dành cho sản phẩm, dịch vụ và nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi tối thiểu tương đương với những ưu đãi mà họ dành cho sản phẩm, dịch vụ và nhà cung cấp trong nước Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được phân biệt đối xử giữa hàng hóa và dịch vụ nội địa và quốc tế về thuế, lệ phí cũng như các điều kiện cạnh tranh.
Trong WTO, nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia được quy định tại điều III GATT, điều XVII GATS và điều III TRIPs, yêu cầu hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi hoàn tất thủ tục hải quan hoặc được đăng ký bảo hộ phải được đối xử bình đẳng như hàng hóa, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ trong nước Tại Việt Nam, vấn đề này được quy định tại Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia kết hợp với nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc được coi là hai nguyên tắc cơ bản của WTO, nhằm đảm bảo không phân biệt đối xử và thúc đẩy tự do hóa thương mại giữa các quốc gia thành viên.
1.4.3 Nguyên tắc mở cửa, tiếp cận thị trường (Market access)
Nguyên tắc "mở cửa thị trường" hay "tiếp cận thị trường" đề cập đến việc cho phép hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa Trong hệ thống thương mại đa phương, việc tất cả các bên đồng ý mở cửa thị trường tạo ra một thương mại toàn cầu thông suốt Về chính trị, "tiếp cận thị trường" phản ánh nguyên tắc tự do hóa thương mại của WTO, trong khi về mặt pháp lý, nó thể hiện nghĩa vụ ràng buộc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường mà các quốc gia đã đồng ý khi gia nhập WTO.
1.4.4 Nguyên tắc thương mại công bằng (Fair Trade)
Cạnh tranh công bằng, biểu thị nguyên tắc tự do cạnh tranh trong điều kiện bình đẳng, đã được xác nhận trong án lệ của vụ Uruguay kiện 15 nước phát triển vào năm 1962, liên quan đến việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau.
19 Kho ản 2 Điều II, Điề u III bis c ủ a Hi ệp đị nh chung v ề Thương mạ i D ị ch v ụ GATS
20 Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS)
21 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Agreement On Trade – Related Aspects Of Ipr – TRIPS)
Vụ kiện của Uruguay đã tạo ra một tiền lệ mới có lợi cho các nước đang phát triển, cho phép họ kiện các nước phát triển ngay cả khi không vi phạm điều khoản GATT, nếu những hành vi của các nước phát triển đó trái với nguyên tắc cạnh tranh công bằng.
1.4.5 Nguyên tắc minh bạch (Transparency)
Nguyên tắc minh bạch trong thương mại bao gồm hai khía cạnh chính: minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường Minh bạch về chính sách đòi hỏi các quy định thương mại phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, tuân thủ luật WTO và được áp dụng đồng nhất Đồng thời, các bên liên quan cần có cơ hội tham gia góp ý trong quá trình xây dựng chính sách Về minh bạch tiếp cận thị trường, các thành viên cần cam kết ràng buộc mức thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường dịch vụ, giúp doanh nghiệp dự đoán và lập kế hoạch kinh doanh hiệu quả.
Nguồn của Luật thương mại quốc tế
Pháp luật của mỗi quốc gia là hệ thống quy tắc và quy định điều chỉnh mọi khía cạnh của đời sống xã hội, bao gồm cả thương mại quốc tế Các quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế, được áp dụng trong hai trường hợp chính.
Khi ký kết hợp đồng thương mại quốc tế, các bên có quyền tự do thỏa thuận về luật áp dụng, bao gồm việc chọn luật của một bên hoặc luật của bên thứ ba Luật của bên thứ ba có thể là luật tại nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng, hoặc nơi có tài sản liên quan đến hợp đồng Điều này giúp đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo các quy định pháp lý mà họ đã thống nhất.
Vào năm 1962, Uruguay đã khởi kiện 15 nước phát triển trong khuôn khổ GATT, dẫn đến việc Đại hội đồng GATT thành lập nhóm công tác để xem xét vụ việc Kết luận của Đại hội đồng cho thấy rằng việc áp dụng mức thuế nhập khẩu khác nhau cho cùng một mặt hàng không vi phạm quy định của GATT, nhưng điều này đã làm tổn hại đến "điều kiện cạnh tranh công bằng" mà Uruguay đáng lẽ được hưởng và gây thiệt hại cho lợi ích thương mại của nước này Dựa trên kết luận này, Đại hội đồng GATT đã khuyến nghị các nước phát triển liên quan cần điều chỉnh chính sách thuế của mình.
"đàm phán" với Uruguay để thay đổi các cam kết và nhân nhượng thuế quan trước đó
Trong quan hệ thương mại, luật quốc gia sẽ được áp dụng nếu quốc gia của các bên liên quan là thành viên của một công ước có liên quan, và công ước đó chỉ định việc áp dụng luật của một quốc gia thành viên.
Điều ước quốc tế về thương mại có thể chia thành hai loại: điều ước song phương (giữa hai quốc gia) và điều ước đa phương (từ ba quốc gia trở lên) Điều ước song phương được ký kết nhằm thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong hoạt động thương mại quốc tế, thường đề cập đến các lĩnh vực cụ thể như thương mại và thanh toán Ngược lại, điều ước đa phương, như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế hay Hiệp định GATT 1947, liên quan đến nhiều quốc gia và cũng quy định về các lĩnh vực cụ thể trong thương mại quốc tế Các điều ước này chỉ có giá trị bắt buộc khi được các quốc gia tham gia ký kết và công nhận; nếu không, chúng chỉ có thể áp dụng nếu các bên thỏa thuận Đối với Việt Nam, các điều ước mà Việt Nam ký kết và phê chuẩn sẽ được áp dụng, trong khi các điều ước chưa ký kết sẽ chỉ áp dụng các điều khoản không trái với pháp luật Việt Nam.
Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam, khi có sự khác biệt giữa quy định của Bộ luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, quy định của điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng Nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, có thể áp dụng tập quán, nhưng tập quán đó không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam.
Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen thương mại lâu đời, có nội dung rõ ràng và cụ thể, được áp dụng liên tục trong giao dịch giữa các chủ thể Những tập quán này đóng vai trò quan trọng trong việc định hình cách thức giao thương và tạo ra sự tin cậy trong quan hệ kinh doanh toàn cầu.
23 Khoản 4 Điều 4 và Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015
Tập quán thương mại quốc tế là một phần quan trọng trong giao dịch thương mại toàn cầu, nhưng giá trị pháp lý của nó khác biệt so với luật quốc gia và các điều ước thương mại quốc tế Để có giá trị pháp lý trong giao dịch thương mại quốc tế, tập quán này cần đáp ứng ít nhất một trong những điều kiện cụ thể.
Các bên tham gia hợp đồng thống nhất áp dụng các điều khoản đã ghi trong hợp đồng, đồng thời tuân thủ các điều ước thương mại quốc tế liên quan và các quy định của luật pháp trong nước.
Cơ quan xét xử cho rằng các bên chủ thể đã mặc nhiên áp dụng tập quán thương mại quốc tế trong giao dịch thương mại của họ.
Nhà nước trong hoạt động thương mại quốc tế
Việt Nam, với quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực còn ngắn, đang đối mặt với nhiều thách thức do thiếu khung pháp lý đầy đủ và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế Để vượt qua những khó khăn này, Nhà nước cần nâng cao vai trò quản lý và điều tiết trong thương mại, thiết lập cơ chế và chính sách thương mại hợp lý với điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại Đồng thời, Nhà nước cần thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và thương mại quốc tế Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước là định hướng chiến lược, xây dựng khung pháp luật, và đảm bảo sự phát triển công bằng, thống nhất, đồng thời điều hòa quyền lợi chung và cá nhân Các quốc gia, từ phát triển đến đang phát triển, đều chú trọng sự kết hợp giữa cơ chế thị trường tự do và sự điều tiết của Nhà nước để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
CÁC THIẾT CHẾ CƠ BẢN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Khái niệm chung về các thiết chế thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, các thiết chế thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ giải quyết tranh chấp và điều chỉnh các quan hệ thương mại Với sự phát triển của hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa, vai trò của các thiết chế này ngày càng trở nên cần thiết trong việc thiết lập quy tắc thương mại đa phương Chẳng hạn, các Hiệp định của WTO quy định về hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí tuệ, áp dụng cho tất cả các quốc gia thành viên, góp phần thúc đẩy thương mại toàn cầu.
Các thiết chế thương mại quốc tế bao gồm nhiều cơ quan có tính chất chung cho toàn hệ thống kinh tế thế giới, cùng với các tổ chức đại diện cho các khu vực và tổ chức chuyên ngành Những tổ chức này, bao gồm liên quốc gia, phi chính phủ, khu vực và toàn cầu, đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng và phát triển các khu vực và quốc gia Chúng cũng có trách nhiệm ban hành các văn bản quy định và điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế.
Thiết chế thương mại quốc tế được định nghĩa là tổ chức hoặc diễn đàn bao gồm các quốc gia, được thành lập dựa trên các điều ước quốc tế và tuân thủ Luật quốc tế hiện đại Mục đích của các thiết chế này là thực hiện những mục tiêu cụ thể, với một cấu trúc tổ chức hoàn chỉnh, đồng thời có quyền và nghĩa vụ độc lập với các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên.
2.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển
Các thiết chế thương mại quốc tế đã được hình thành và phát triển để đáp ứng nhu cầu của hoạt động thương mại toàn cầu Mặc dù vậy, những tổ chức quốc tế đầu tiên ra đời không phải để phục vụ cho thương mại mà chủ yếu tập trung vào mục đích nhân đạo và tổ chức.
24 Trần Thanh Bình, Trần Văn Thanh, Giáo trình lu ật thương mạ i qu ố c t ế, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2005, tr
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhu cầu tái thiết và phát triển kinh tế đã thúc đẩy các chính phủ liên kết và thành lập các tổ chức quốc tế Giai đoạn này chứng kiến sự ra đời của GATT, tiền thân của WTO hiện nay Việc hình thành các thiết chế thương mại thế giới xuất phát từ nhiều tiền đề kinh tế xã hội khác nhau, tạo nền tảng cho sự phát triển hợp tác thương mại toàn cầu.
Sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị và xã hội giữa các quốc gia đã dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế do chính sách hạn chế thương mại Vì vậy, các quốc gia nhận thấy sự cần thiết phải hợp tác và liên kết với nhau để hỗ trợ phát triển Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển nhanh chóng và sự phụ thuộc lẫn nhau gia tăng, vấn đề toàn cầu hóa kinh tế trở nên cấp bách Các quốc gia đang chú trọng đến việc đảm bảo ổn định và an toàn trong phát triển kinh tế, và việc thiết lập các cơ chế hợp tác kinh tế quốc tế là điều tất yếu.
Các thiết chế thương mại quốc tế được hình thành dựa trên các văn bản pháp lý mà các quốc gia thỏa thuận và ký kết, hoặc do các cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế ban hành Những văn bản này không chỉ cung cấp cơ sở cho hoạt động và cấu trúc tổ chức của các thiết chế thương mại quốc tế, mà còn xác định thẩm quyền của các thiết chế này.
WTO được thành lập dựa trên hiệp định GATT, trong khi ASEAN hình thành từ Tuyên bố Bangkok, và UNCITRAL được thiết lập theo Nghị quyết 2205 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc.
2.1.3 Đặc điểm của các thiết chế thương mại quốc tế hiện nay
Các tổ chức quốc tế điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ quá trình toàn cầu hóa của nền kinh tế toàn cầu hiện nay Vì vậy, những thiết chế thương mại quốc tế này sở hữu một số đặc điểm cơ bản đáng chú ý.
Sự đa dạng về hình thức tổ chức trong các thiết chế thương mại quốc tế hiện nay rất phong phú Các tổ chức này được thành lập theo nhiều mô hình khác nhau, phản ánh sự linh hoạt và thích ứng với nhu cầu của thị trường toàn cầu.
25 Nguyễn Thị Kim Ngân, Chu Mạnh Hùng, Giáo trình lu ậ t Qu ố c t ế, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012, tr 239
Các thiết chế thành lập có thể được phân loại thành ba nhóm chính: thiết chế công, thiết chế tư và thiết chế phi chính phủ, cùng với thiết chế liên chính phủ.
Thiết chế liên chính phủ là các tổ chức được thành lập bởi hai hoặc nhiều quốc gia nhằm thực hiện các hoạt động vì lợi ích chung, ví dụ như Liên minh Châu Âu (EU) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) Trong khi đó, thiết chế phi chính phủ bao gồm các tổ chức phi lợi nhuận, hoạt động như đại diện cho các nhóm quốc gia trong lĩnh vực quốc tế, như Hiệp hội Quốc tế các Liên đoàn khoa học (ICSU) Ngoài ra, còn có các tổ chức phi chính phủ vì lợi nhuận, bao gồm các công ty xuyên quốc gia và các liên doanh hoạt động tại nhiều quốc gia.
Căn cứ vào khu vực địa lý và quy mô tác động, các thiết chế thương mại có thể được phân loại thành ba hình thức chính: thiết chế thương mại khu vực, thiết chế thương mại toàn cầu và thiết chế thương mại chuyên ngành.
Các thiết chế toàn cầu là tổ chức được hình thành từ sự cam kết của các quốc gia thành viên thông qua các điều ước quốc tế Những tổ chức này cho phép các quốc gia khác gia nhập một cách tự nguyện và hoạt động với quy mô toàn cầu Ví dụ tiêu biểu bao gồm Liên Hợp Quốc (UN), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Phòng Thương mại Quốc tế (ICC).
Các thiết chế khu vực là tổ chức được thành lập dựa trên hiệp định hợp tác khu vực, tuân thủ Hiến chương Liên Hợp Quốc và hoạt động ổn định Chúng nhằm mục đích hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và thương mại Ví dụ tiêu biểu về các thiết chế khu vực bao gồm ASEAN, NAFTA và Thị trường chung Nam.
Các thiết chế thương mại tiêu biểu
Liên Hợp Quốc chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương Liên Hợp Quốc được Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ và hầu hết các quốc gia đã ký trước đó đều phê chuẩn Tên gọi "Liên Hợp Quốc" do Tổng thống Mỹ Franklin D Roosevelt sáng lập và được sử dụng lần đầu tiên.
"Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc" vào ngày 01/01/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kếttiếp tục cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít 28
Sự ra đời của Liên Hợp Quốc đánh dấu một sự kiện quan trọng, phản ánh nhiều yếu tố như vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai cùng với những hậu quả thảm khốc đối với nhân loại, và nỗ lực của các quốc gia trong việc thiết lập một tổ chức toàn cầu có khả năng đảm bảo hòa bình và an ninh hiệu quả hơn.
Hiến chương của Liên Hợp Quốc xác định mục tiêu tối thượng là duy trì hòa bình và an ninh toàn cầu, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
2.2.1.3 Một số cơ quan của Liên hợp quốc hoạt động trong lĩnh vực thương mại
- Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (Economic and Social Council - ECOSOC)
Theo Hiến chương Liên Hợp quốc, tổ chức này đặt mục tiêu quan trọng trong việc hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, đồng thời thúc đẩy tôn trọng nhân quyền và quyền tự do cơ bản cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo Cụ thể, Liên Hợp quốc cam kết phát triển các vấn đề liên quan đến sức khỏe, giáo dục và điều kiện sống của con người.
- Nâng cao mức sống, tạo việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển kinh tế xã hội
Giải quyết các vấn đề quốc tế liên quan đến kinh tế, xã hội và y tế là rất quan trọng, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục.
Tôn trọng và thực hiện quyền con người cũng như các quyền tự do cơ bản là điều cần thiết cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện các chức năng kinh tế và xã hội của Liên Hợp Quốc Theo Điều 60 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, ECOSOC hoạt động dưới sự chỉ đạo của Đại hội đồng, được giao nhiệm vụ trực tiếp thực hiện các chức năng này.
28 Lê Văn Quang, L ị ch s ử quan h ệ qu ố c t ế t ừ 1917 đế n 1945, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh, 2002, tr 224
Liên Hợp Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế Trang thông tin điện tử của Liên Hợp Quốc cung cấp nhiều thông tin về các hoạt động và nhiệm vụ của tổ chức này Để tìm hiểu thêm về vai trò và chức năng của Liên Hợp Quốc, bạn có thể truy cập vào trang web chính thức của họ.
Ủy ban Liệp Hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) được thành lập năm 1966 với mục tiêu thúc đẩy sự hài hòa và thống nhất trong luật thương mại quốc tế UNCITRAL gồm 36 thành viên, chịu trách nhiệm xây dựng các công ước, luật mẫu và hướng dẫn pháp lý, đồng thời cập nhật thông tin về án lệ và các văn bản thống nhất Một số ví dụ tiêu biểu bao gồm Luật mẫu về chuyển giao quỹ, luật mẫu về thương mại điện tử và dự thảo công ước về bảo lãnh độc lập Việc pháp điển hóa luật thương mại quốc tế trong khuôn khổ UNCITRAL đã giúp loại bỏ rào cản thương mại do sự khác biệt trong hệ thống pháp luật quốc gia, góp phần tích cực vào cải cách luật thương mại toàn cầu.
- Cơ quan về thương mại và phát triển của Liên Hợp quốc (United Nation Conference on Trade and Development - UNCTAD)
UNCTAD, tổ chức được thành lập vào ngày 30/12/1964 theo Nghị quyết 1995 (XIX) của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, nhằm thúc đẩy hội nhập và phát triển cho các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển Tổ chức này còn tập trung vào việc đảm bảo sự hài hòa trong các lĩnh vực thương mại, vận tải, viện trợ, tài chính và kỹ thuật giữa các quốc gia thành viên.
UNCTAD có vai trò tổ chức các hội nghị nhằm giải quyết tranh chấp về chính sách thương mại giữa các quốc gia và định hướng phát triển cho các chính sách này Tổ chức này đặc biệt chú trọng vào việc đảm bảo sự tương tác hài hòa giữa các chính sách trong nước và hỗ trợ quốc tế, góp phần vào sự phát triển bền vững của các quốc gia và cộng đồng quốc tế Hiện tại, UNCTAD là tổ chức kinh tế thương mại quốc tế lớn nhất trong hệ thống Liên Hợp Quốc với 194 nước thành viên.
UNCTAD đóng vai trò quan trọng như một diễn đàn cho các Đại diện Chính phủ thảo luận về thương mại hàng hóa quốc tế, chính sách vĩ mô và tài chính giữa các quốc gia thành viên Diễn đàn này tạo cơ hội cho các quốc gia trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và hướng tới sự đồng thuận Sự hợp tác giữa UNCTAD và WTO là một ví dụ điển hình cho việc phối hợp nhằm thúc đẩy thương mại toàn cầu.
30 M.A, Vi ệ t Nam tham d ự H ộ i ngh ị Liên H ợ p qu ố c v ề thương mạ i và phát tri ể n l ầ n th ứ 14, Trang thông tin điện tử
Bộ thông tin và truyền thông, http://infonet.vn/viet-nam-tham-du-hoi-nghi-lhq-ve-thuong-mai-va-phat-trien-lan-thu-14-post204088.info [truy cập ngày 9/12/2016]
Vào tháng 4 năm 2003, UNCTAD và WTO đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác nhằm cải thiện hoạt động của hệ thống thương mại đa phương Hai tổ chức này thường xuyên tương tác và tham gia các Hội nghị liên chính phủ, cùng nhau nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lợi ích thương mại quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật lẫn nhau.
UNCTAD cam kết thực hiện nghiên cứu và phân tích chính sách, cung cấp dữ liệu hỗ trợ các cuộc tranh luận giữa đại diện chính phủ và chuyên gia UNCTAD có mối liên hệ chặt chẽ với Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), nơi nhận sự đồng tài trợ từ UNCTAD và WTO để hỗ trợ doanh nghiệp toàn cầu trong phát triển mậu dịch quốc tế Trong khi UNCTAD chủ yếu hỗ trợ kỹ thuật cho chính phủ các nước thành viên, ITC tập trung vào doanh nghiệp ở các nước đang phát triển Cả UNCTAD và WTO đều tham gia Ban tư vấn giám sát công việc của ITC, bên cạnh đó UNCTAD cũng cung cấp một số hỗ trợ kỹ thuật riêng cho ITC.
UNCTAD cung cấp hỗ trợ kỹ thuật phù hợp với nhu cầu cụ thể của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt chú trọng đến các nước kém phát triển và các nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi Khi cần thiết, tổ chức này còn hợp tác với các tổ chức khác và các quốc gia tài trợ để đảm bảo cung cấp hỗ trợ kỹ thuật hiệu quả.
Các thiết chế thương mại khu vực
2 3.1 Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương ( Asia-Pacific Economic Cooperation - APEC)
2.3.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào tháng 11/1989 tại Canberra, Australia, giữa bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi lớn và xu hướng khu vực hóa các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển APEC ban đầu gồm 12 nền kinh tế và đã mở rộng qua các năm, với việc kết nạp Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan vào tháng 11/1991, và thêm Chilê, Mêxicô, Papua Niu Ghinê vào tháng 11/1994 Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC vào tháng 6/1996 và trở thành thành viên chính thức tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC tháng 11/1997 ở Vancouver, Canada, cùng với Nga và Peru, nâng tổng số thành viên lên 21 nền kinh tế Việt Nam chính thức trở thành thành viên APEC vào ngày 14/11/1998 tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 ở Kuala Lâm Pơ, Malaysia.
Với 25 năm hình thành và phát triển, Diễn đàn APEC là một cơ chế hợp tác kinh tế hàng đầu ở khu vực và trên thế giới, dẫn dắt tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư, thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc vì hòa bình và phát triển APEC hội tụ hầu hết các nền kinh tế năng động nhất của khu vực, đại diện cho khoảng 39% dân số thế giới; đóng góp 57% GDP và 47% thương mại toàn cầu 54 Những thỏa thuận của APEC đã góp phần giảm gần 3 lần mức thuế quan trung bình ở khu vực và tăng 7 lần thương mại hàng hóa nội khối
2.3.1.2 Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC
APEC là một diễn đàn đối thoại, không phải là một tổ chức, do đó các cam kết trong khuôn khổ APEC không có tính ràng buộc cao như trong ASEAN và WTO APEC liên kết chặt chẽ các cam kết với việc thực hiện các cam kết này trong thực tiễn.
51 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lu ật thương mạ i qu ố c t ế , NXB Công An nhân dân, Hà Nội, 2012, tr 738
52 12 nước bao gồm: Ôxtrâylia, Hoa Kỳ, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunây, Inđônêxia, Xingapo, Malaixia, Philippin, Thái Lan, và Niu Dilân
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) bao gồm 53 nền kinh tế thành viên, cung cấp thông tin chi tiết về các nền kinh tế này trên trang web chính thức của APEC Bạn có thể truy cập thông tin tại http://www.apec.org/About-Us/About-APEC/Member-Economies.aspx (truy cập ngày 15/12/2016).
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã phát biểu tại hội thảo "Năm APEC Việt Nam 2017", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một cộng đồng APEC năng động, tự cường và gắn kết Ông khẳng định rằng APEC cần thúc đẩy hợp tác kinh tế, tăng cường kết nối và phát triển bền vững, nhằm tạo ra cơ hội cho tất cả các thành viên trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu Sự kiện này không chỉ là dịp để các quốc gia thành viên trao đổi ý tưởng mà còn là cơ hội để củng cố mối quan hệ hợp tác trong khu vực.
Trong khuôn khổ WTO, APEC hướng tới việc thực hiện sâu hơn và sớm hơn các mục tiêu về tự do hóa thương mại và đầu tư Các thành viên APEC cam kết cụ thể hóa và giám sát chặt chẽ các mục tiêu này trong khu vực, từ đó củng cố việc thực hiện các mục tiêu của APEC Để đạt được điều này, các hoạt động của APEC được xây dựng trên ba cơ sở chính.
Tự do hoá thương mại và đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho hợp tác kinh tế trong APEC, thông qua việc giảm và xóa bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan Để thực hiện tự do hoá theo lộ trình trong Tuyên bố Bogor 1994, các quốc gia cần cam kết tự nguyện về việc cắt giảm thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ và đầu tư Đồng thời, các nước phải làm rõ chính sách thuế quan, phi thuế quan và cam kết lộ trình cắt giảm thuế quan, phù hợp với xu thế và nguyên tắc của WTO Các nền kinh tế cũng cần mở cửa thị trường dịch vụ, nới lỏng quy định và hạn chế tiếp cận, đồng thời xem xét tự do hoá đầu tư.
Thuận lợi hoá kinh doanh nhằm giảm chi phí giao dịch, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại Việc này giúp các nhà xuất khẩu ở Châu Á - Thái Bình Dương giao lưu và thực hiện giao dịch hiệu quả hơn, từ đó giảm chi phí sản xuất Kết quả là, thương mại gia tăng với hàng hoá và dịch vụ chất lượng cao hơn, giá cả hợp lý hơn, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm.
Chương trình Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật (ECOTECH) của APEC nhằm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực cho các thành viên, hướng tới phát triển kinh tế bền vững và công bằng trong khu vực ECOTECH tập trung vào việc triển khai các dự án và chương trình hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể, đặc biệt chú trọng vào đào tạo cán bộ và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam trong việc xây dựng và thực hiện chính sách.
Tuyên bố Bogor 1994 tại 55 Bogor, Indonesia, đã xác định mục tiêu của APEC là thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương Theo đó, các nền kinh tế phát triển sẽ đạt được mục tiêu này vào năm 2010, trong khi các nền kinh tế đang phát triển sẽ hoàn thành vào năm 2020.
Để thực hiện mục tiêu của Tuyên bố Bogor về môi trường kinh tế và thương mại tự do tại Châu Á Thái Bình Dương, các nền kinh tế APEC đã tuân thủ lộ trình chiến lược do các Nguyên thủ APEC thiết lập tại Osaka năm 1995, được gọi là Chương trình hành động Osaka Chương trình này định hướng cho việc đạt được mục tiêu Bogor thông qua tự do hóa thương mại và đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh và các hoạt động ngành nghề, thông qua đối thoại chính sách và hợp tác kỹ thuật APEC đã xác định một số nguyên tắc chung cho toàn bộ tiến trình tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khu vực.
Nguyên tắc toàn diện nhấn mạnh việc thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá trên tất cả các lĩnh vực, nhằm loại bỏ các rào cản và thúc đẩy tiến trình đạt được mục tiêu lâu dài về tự do hoá thương mại và đầu tư.
Nguyên tắc phù hợp với GATT/WTO yêu cầu rằng các biện pháp và chương trình hành động nhằm tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư phải tuân thủ các quy tắc, luật lệ và thỏa thuận được thiết lập trong khuôn khổ của GATT/WTO.
Nguyên tắc đảm bảo sự đồng nhất giữa các thành viên trong việc thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại cũng như đầu tư là rất quan trọng Mặc dù các nền kinh tế thành viên có sự khác biệt về trình độ phát triển, tất cả đều cần thực hiện các biện pháp tự do hóa và thuận lợi hóa một cách thích hợp đối với thương mại và đầu tư.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là một trong những cam kết quan trọng của các thành viên APEC, nhằm đảm bảo rằng tất cả các quốc gia, bao gồm cả những nước không phải là thành viên, đều được hưởng lợi từ việc tự do hóa thương mại và đầu tư Các thành viên APEC nỗ lực thực hiện nguyên tắc này để thúc đẩy sự công bằng và minh bạch trong quan hệ thương mại quốc tế.
Nguyên tắc đảm bảo công khai: Minh bạch hóa mọi luật lệ chính sách hiện hành tại các thành viên APEC;
Nguyên tắc lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc: Các thành viên chỉ có giảm dần các biện pháp bảo hộ chứ không được tăng thêm;