1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) lịch sử pháp luật về giáo dục ở việt nam từ 1945 đến nay

133 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lịch Sử Pháp Luật Về Giáo Dục Ở Việt Nam Từ 1945 Đến Nay
Tác giả Nguyễn Huy Hồng Lam
Người hướng dẫn PGS. TS Chu Hồng Thanh
Trường học Đại học quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 133
Dung lượng 1,23 MB

Cấu trúc

  • I. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI (4)
  • II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN (7)
  • III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI (9)
  • IV. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN (10)
  • Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ GIÁO DỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC (0)
    • 1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục và hoàn thiện pháp luật về giáo dục (12)
    • 1.2. Khái niệm pháp luật về giáo dục (21)
    • 1.3. Sự pháp điển pháp luật về giáo dục ở nước ta (22)
  • Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC (0)
    • 2.1. Pháp luật về giáo dục từ ngày thành lập nước đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) (27)
      • 2.1.1. Pháp luật về giáo dục trong năm đầu của nền cộng hòa (27)
      • 2.1.2. Pháp luật về giáo dục trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (12.1946 – 10.1954) (32)
    • 2.2. Pháp luật về giáo dục thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) (34)
    • 2.3. Pháp luật về giáo dục từ khi đất nước thống nhất đến trước thời kỳ đổi mới (1975 - 1986) (38)
    • 2.4. Pháp luật về giáo dục từ khi đổi mới đến nay (1986 đến nay) (40)
      • 2.4.1. Pháp luật về giáo dục từ 1986 đến 1998 (40)
      • 2.4.2. Luật giáo dục năm 1998 và hệ thống văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành (42)
      • 2.4.3. Luật giáo dục năm 2005 việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục (46)
      • 2.4.4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục năm 2009 (74)
      • 2.4.5. Luật giáo dục đại học (76)
  • Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỤC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 (0)
    • 3.1. Thực tiễn giáo dục và Chiến lƣợc phát triển giáo dục đến năm 2020 (0)
      • 3.1.1. Thực tiễn giáo dục hiện nay (87)
      • 3.1.2. Chiến lƣợc phát triển giáo dục đến năm 2020 (0)
    • 3.2. Kinh nghiệm xây dựng pháp luật về giáo dục ở một số nước (101)
    • 3.3. Yêu cầu về nội dung và hình thức trong xây dựng pháp luật về giáo dục (113)
    • 3.4. Phương hướng, giải pháp xây dựng pháp luật từ nay đến năm (117)
      • 3.4.1. Phương hướng xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 (117)
      • 3.4.2. Giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục từ nay đến 2020 (119)
  • KẾT LUẬN (25)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (129)

Nội dung

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Ngày 08/09/1945, chỉ sau sáu ngày thành lập, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành bốn Sắc lệnh quan trọng về giáo dục Sắc lệnh số 16 quy định về ngạch thanh tra học vụ, Sắc lệnh số 17 thiết lập bình dân học vụ, Sắc lệnh số 19 tổ chức các lớp học buổi tối cho công nhân và thợ thuyền, và Sắc lệnh số 20 quy định việc học chữ quốc ngữ trở thành bắt buộc và miễn phí Chỉ sau một năm, phong trào xoá mù chữ đã phát triển mạnh mẽ với 74.975 lớp học và 95.650 giáo viên, giúp 2,5 triệu người ở Bắc Bộ và Trung Bộ biết đọc, biết viết, nâng cao dân trí và kiến thức khoa học, chính trị, văn hoá trong toàn dân.

Chỉ một năm sau khi thành lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 146 và Sắc lệnh số 147 vào ngày 10/08/1946, thiết lập những nguyên tắc cơ bản cho nền giáo dục mới và tổ chức bậc học cơ bản Những sắc lệnh này đã tạo ra nền tảng vững chắc cho hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam.

Các nguyên tắc cơ bản về giáo dục đã được ghi nhận tại Điều 15 Hiến pháp 1946 Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và chống Mỹ (1954 - 1975), nhiều văn bản pháp luật về giáo dục đã được ban hành, góp phần hình thành hệ thống pháp luật điều chỉnh các quy định liên quan đến hệ thống giáo dục quốc dân, chương trình giáo dục, loại hình trường học, quy chế thi cử, chế độ đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, cũng như các biện pháp bảo đảm quyền học tập của công dân.

1959 đã khẳng định quyền học tập của công dân và các biện pháp bảo đảm quyền học tập của công dân

Từ năm 1975 đến 1986, sau giải phóng miền Nam, các cơ quan quản lý giáo dục đã ban hành nhiều văn bản nhằm thống nhất quản lý hệ thống giáo dục trên toàn quốc Giai đoạn này chứng kiến việc áp dụng đồng bộ các quy định pháp luật về giáo dục cho các loại hình trường học và cấp học khác nhau, xác định hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm Những nguyên lý giáo dục trong thời kỳ này được ghi nhận tại Điều 40 và Điều 41 của Hiến pháp năm 1959, nhấn mạnh sự kết hợp giữa học tập và thực hành, giáo dục với lao động sản xuất, và mối liên hệ giữa nhà trường với xã hội Hệ thống giáo dục được quy định bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học.

Từ năm 1987, pháp luật về giáo dục tại Việt Nam đã được hình thành và phát triển, tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô và đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đồng thời nâng cấp cơ sở vật chất cho các trường học Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, dù chỉ điều chỉnh một bậc học, đã có tác động lớn đến việc nâng cao dân trí và thực hiện nghĩa vụ giáo dục bắt buộc mà Hiến pháp 1992 quy định Điều 35 của Hiến pháp 1992, được sửa đổi theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, nhấn mạnh giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, với mục tiêu hình thành nhân cách và phẩm chất công dân, đào tạo lao động có nghề, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục, đánh dấu lần đầu tiên pháp điển hóa quy định về giáo dục tại Việt Nam Luật này quy định rõ mục tiêu giáo dục, nguyên lý và tính chất của giáo dục, cũng như yêu cầu về nội dung và phương pháp giáo dục Nó thiết lập hệ thống giáo dục quốc dân, quy định vai trò của nhà trường, cơ sở giáo dục, nhà giáo và người học, đồng thời xác định quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội Luật cũng đề cập đến quản lý nhà nước về giáo dục, văn bằng, chứng chỉ và xã hội hóa sự nghiệp giáo dục.

Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục mới, thay thế Luật giáo dục năm 1998 Luật giáo dục 2005 kế thừa và phát triển các quy định của Luật giáo dục trước đó, nhằm phát huy tác dụng tích cực và tạo ra hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động giáo dục.

Luật giáo dục năm 2005 đã kế thừa và phát triển từ Luật giáo dục năm 1998, bổ sung nhiều quy định mới nhằm giải quyết năm nhóm vấn đề chính Đầu tiên, luật hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, khẳng định vai trò của giáo dục thường xuyên và phát triển giáo dục nghề nghiệp theo ba cấp đào tạo Thứ hai, luật nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, xác định rõ yêu cầu chương trình giáo dục và tiêu chí cho các cơ sở giáo dục đại học đào tạo tiến sĩ, đồng thời khuyến khích chuyển đổi sang đào tạo theo tín chỉ Thứ ba, luật tăng cường tính công bằng trong giáo dục, mở rộng cơ hội học tập cho con em dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách Thứ tư, luật nâng cao quản lý nhà nước về giáo dục và khuyến khích tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các trường đại học và nghề nghiệp Cuối cùng, luật khuyến khích đầu tư vào các trường dân lập, tư thục và tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng hoạt động của các trường này.

Pháp luật về giáo dục từ khi bắt đầu đổi mới đến nay chủ yếu tập trung vào việc chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân, từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hóa sang đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Pháp luật về giáo dục đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân lực phục vụ cho các cuộc kháng chiến cũng như công cuộc đổi mới đất nước Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và hội nhập toàn cầu, cần thiết phải đổi mới pháp luật về giáo dục để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật giáo dục từ năm 1945 đến nay sẽ giúp đánh giá những đóng góp và hạn chế của pháp luật trong từng giai đoạn, từ đó xác định phương hướng xây dựng pháp luật giáo dục hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này, phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN

Giáo dục là một lĩnh vực được nhiều người quan tâm và nghiên cứu, với nhiều công trình và bài viết tập trung vào các nội dung chuyên môn Các nghiên cứu thường xem xét các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, phục vụ cho mục tiêu phát triển quốc gia Những vấn đề như chiến lược giáo dục, chính sách nâng cao hiệu quả, đào tạo giáo viên, và xây dựng cơ sở vật chất cũng được chú trọng, như trong cuốn "Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển, hiện đại hóa" của GS.TSKH Vũ Ngọc Hải và các tác giả khác, hay bài viết của Nguyễn Minh Hiển về việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) trong ngành giáo dục.

Phát triển con người bền vững và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là những trọng điểm trong chiến lược giáo dục hiện nay, theo quan điểm của các chuyên gia như Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc và PGS.TS Nghiêm Đình Vì Đổi mới giáo dục nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực cũng được nhấn mạnh, cùng với việc hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học Nghiên cứu về luật giáo dục và lịch sử phát triển của pháp luật giáo dục từ năm 1945 đến nay là cần thiết để đánh giá tình hình giáo dục hiện tại và xác định phương hướng xây dựng pháp luật trong tương lai Các công trình nghiên cứu như "Luật giáo dục 2005" và các sửa đổi, bổ sung liên quan cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho giáo dục Việt Nam.

Năm 2020, mục tiêu chính là thúc đẩy phát triển quan hệ xã hội trong giáo dục, nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Điều này hướng tới việc đưa Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp vào năm 2020.

NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI

1 Phương pháp nghiên cứu a Phương pháp luận

- Chủ nghĩa duy vật lịch sử

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh b Phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phân tích quy định của pháp luật

- Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khảo sát thực tế

2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a Mục đích nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay, đồng thời phân tích tình hình phát triển kinh tế - xã hội và thực tiễn giáo dục hiện tại Mục tiêu là xác định phương hướng và giải pháp xây dựng pháp luật giáo dục đến năm 2020, nhằm thúc đẩy các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục, phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp.

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và nhận thức về pháp luật về giáo dục

- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay

Phân tích và đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội cũng như thực tiễn giáo dục hiện nay là cần thiết để xác định các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành luật Để thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục, cần đề xuất phương hướng và nội dung cụ thể cho việc xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 Mục tiêu là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

- Phân tích quy định pháp luật về giáo dục của một số quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới

3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Từ năm 1945 đến nay, các quy định pháp luật về giáo dục đã trải qua nhiều biến đổi, phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội và thực tiễn giáo dục hiện tại Tình hình giáo dục hiện nay cho thấy những thách thức và cơ hội trong việc thực thi pháp luật, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách hệ thống giáo dục để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của xã hội.

Đề tài nghiên cứu của luận văn tập trung vào lịch sử hình thành và phát triển pháp luật giáo dục từ năm 1945 đến nay Nghiên cứu sẽ xem xét cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng pháp luật giáo dục đến năm 2020, nhằm thúc đẩy phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục Mục tiêu là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, góp phần đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp.

DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN

Đề tài sẽ được thực hiện theo các bước cụ thể như sau:

Bước 1 trong quá trình nghiên cứu pháp luật về giáo dục là tìm hiểu cơ sở lý luận hình thành và phát triển của pháp luật giáo dục từ năm 1945 đến nay, đồng thời xem xét các yếu tố liên quan đến việc xây dựng pháp luật giáo dục cho giai đoạn đến năm 2020.

- Bước 2 Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay

Bước 3 là phân tích và đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện tại, thực trạng giáo dục, cũng như các quy định pháp luật liên quan đến giáo dục và việc thực thi các quy định này trong thực tế.

Bước 4 trong việc xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 yêu cầu nhận định rõ ràng dựa trên phân tích lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật giáo dục từ năm 1945 đến nay Cần đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội và thực tiễn giáo dục hiện tại, đồng thời xem xét các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục Việc đối chiếu với quy định pháp luật về giáo dục của một số quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới cũng là điều cần thiết để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn.

Để thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục, cần đề xuất một số kiến nghị và giải pháp xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 Những giải pháp này nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp.

KHÁI LUẬN VỀ GIÁO DỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục và hoàn thiện pháp luật về giáo dục

Quan điểm phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước Việt Nam được thể hiện rõ qua Sắc lệnh số 146/SL ngày 10/8/1946, nhấn mạnh nền giáo dục phải dựa trên ba nguyên tắc: đại chúng hoá, dân tộc hoá và khoa học hoá, phục vụ lý tưởng Quốc gia và dân chủ Từ sau cách mạng tháng 8, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách nhằm phát triển giáo dục, với hệ thống trường học được mở rộng khắp cả nước, bao gồm cả các vùng sâu, vùng xa Mục tiêu chính là xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học, đồng thời xây dựng xã hội học tập, thực hiện "giáo dục cho mọi người", đảm bảo ai cũng có cơ hội được học hành.

Giáo dục đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, với Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển tại các vùng khó khăn như miền núi, biên giới và vùng đồng bào dân tộc thiểu số Những nỗ lực này đã mang lại kết quả tích cực, thể hiện ưu việt của chế độ trong lĩnh vực giáo dục Nội dung giáo dục không chỉ chú trọng kiến thức mà còn đặc biệt quan tâm đến giáo dục nhân cách, đạo đức cách mạng, truyền thống dân tộc và văn hóa Bên cạnh đó, việc xã hội hóa giáo dục là cần thiết, khẳng định rằng phát triển giáo dục không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn cần sự chung tay của toàn xã hội.

Tính dân tộc trong nền giáo dục Việt Nam được thể hiện rõ qua các văn bản của Đảng và Nhà nước, nhấn mạnh sự quan trọng của truyền thống giáo dục dân tộc trong tất cả các môn học Ngôn ngữ, lịch sử, văn học và địa lý nước nhà được chú trọng giảng dạy, với tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức trong trường học từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Chương trình giáo dục từ tiểu học cần chú ý đến tính địa phương, giáo dục lịch sử dân tộc và tinh thần yêu nước, gắn liền với ý thức công dân Đồng thời, cần thúc đẩy tinh thần bình đẳng giữa các dân tộc, khuyến khích sự tương trợ và đại đoàn kết để bảo vệ và xây dựng đất nước Văn hóa các dân tộc đã có bước phát triển mới, và Đảng cùng Nhà nước khẳng định việc phát huy văn hóa, giữ gìn tiếng nói và chữ viết của các dân tộc là rất quan trọng, theo quy định tại Điều 5 của Luật Giáo dục.

Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 - 2010 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế Đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp dạy học, cũng như cơ chế quản lý giáo dục là những ưu tiên hàng đầu Đồng thời, việc phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo và kỹ năng thực hành cũng được coi trọng Chiến lược này còn nhấn mạnh việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết nối chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội, đồng thời tạo điều kiện cho mọi công dân học tập suốt đời, gắn kết phát triển nguồn nhân lực với ứng dụng khoa học và công nghệ.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và nền kinh tế đang rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các quốc gia Khoa học - công nghệ là động lực chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực cho các thế hệ tương lai.

Cải cách giáo dục toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong quan niệm về chất lượng giáo dục và tổ chức hệ thống giáo dục Các trường học ngày càng mở cửa, tương tác với xã hội và gắn kết với nghiên cứu khoa học - công nghệ Vai trò của giáo viên cũng chuyển biến, từ việc chỉ truyền đạt kiến thức sang việc hướng dẫn học sinh phương pháp thu thập và phân tích thông tin một cách có hệ thống Điều này cho thấy cả các quốc gia phát triển và đang phát triển đều nhận thức rõ vai trò quan trọng của giáo dục và cần đổi mới để đáp ứng hiệu quả hơn các nhu cầu phát triển của đất nước.

Giáo dục hiện đại cần tạo động lực cho việc học tập suốt đời, nhằm xóa bỏ rào cản do thiếu cơ hội và điều kiện giáo dục, hướng tới xây dựng một xã hội học tập Qua đó, từng cá nhân sẽ phát triển khả năng sáng tạo, tinh thần chủ động và khả năng thích nghi, tăng cường tính tự chủ trong cuộc sống và công việc Giáo dục ban đầu là nền tảng vững chắc cho việc học tập suốt đời, không chỉ giới hạn ở giáo dục ban đầu mà còn phải phát triển giáo dục thường xuyên Mục tiêu hàng đầu của giáo dục là nâng cao tri thức và đa dạng hóa các loại hình giáo dục để khuyến khích việc làm giàu tri thức Trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và sự phát triển của thông tin hóa, cần đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục, xác định rằng giáo dục phục vụ cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa vào giáo dục.

Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức vai trò của giáo dục trong phát triển quốc gia Cuối thập kỷ 80, giáo dục được coi là một bộ phận quan trọng trong cách mạng văn hóa tư tưởng, góp phần thúc đẩy kinh tế và văn hóa Tuy nhiên, giáo dục chỉ được nhìn nhận trong khuôn khổ thượng tầng kiến trúc, ảnh hưởng đến dân trí và nhận thức xã hội Quan điểm này đã tạo nền tảng cho sự phát triển mới, khi giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, với đầu tư cho giáo dục được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội VII (1991), VIII (1996) và IX của Đảng Cộng sản.

Giáo dục và Đào tạo tại Việt Nam, theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các văn kiện của Đảng và Chính phủ, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội và cung cấp nguồn lực thiết yếu cho sự phát triển quốc gia.

Quan điểm "phát triển giáo dục là quốc sách đầu" của Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ trong các chính sách giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài Phát triển giáo dục bao gồm cả số lượng và chất lượng, với sự chú trọng vào đội ngũ học sinh, giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình học, và các điều kiện tài chính Mặc dù phát triển về số lượng quan trọng, nhưng chất lượng mới là yếu tố quyết định hiệu quả giáo dục Để phát triển giáo dục bền vững, cần gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học công nghệ, và đảm bảo tính hợp lý trong cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền Đây là một quá trình kế thừa và phát triển liên tục, hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện và hiệu quả.

Phát triển giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, vì nó liên quan đến mọi người và mọi vùng miền trong đất nước, đồng thời cần phải được ưu tiên và đi trước các chính sách khác.

"Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu" nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách giáo dục trong chiến lược phát triển quốc gia Chính sách giáo dục đóng vai trò quyết định giúp nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" vào đầu thế kỷ XXI Để giáo dục thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, cần đầu tư mạnh mẽ vào tài chính, cán bộ, chính sách ưu tiên và tổ chức quản lý Sự phát triển kinh tế thị trường đa thành phần đã tạo ra nguồn lực mới, đồng thời đặt ra nhu cầu đa dạng hóa giáo dục - đào tạo cho các tầng lớp dân cư Đảng và Nhà nước chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo, yêu cầu học phí từ người học, bãi bỏ chế độ phân phối học sinh tốt nghiệp, và mở rộng trường dân lập, tư thục cũng như các trường liên doanh với tổ chức quốc tế Sự phát triển nhanh chóng của các loại hình trường, cơ sở giáo dục đã tạo ra diện mạo mới cho giáo dục Việt Nam, không chỉ đa dạng hóa loại hình mà còn huy động thêm nguồn lực xã hội và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục, từng bước hình thành thị trường giáo dục - đào tạo có định hướng cho phát triển nguồn nhân lực.

Giáo dục là quyền lợi cơ bản của mọi thành viên trong xã hội, do đó, chính sách quản lý cần đảm bảo công bằng và cơ hội bình đẳng cho tất cả Trong bối cảnh kinh tế thị trường đang tạo ra khoảng cách thu nhập lớn, Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách như miễn học phí bậc tiểu học, hỗ trợ học sinh nghèo và tăng cường đầu tư cho giáo dục ở các vùng khó khăn Việc chuyển từ chính sách bình quân sang công bằng trong giáo dục đã tạo động lực mới cho sự phát triển giáo dục ở Việt Nam Thời kỳ đổi mới đã đưa đất nước từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và thúc đẩy công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Thành công của giáo dục và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam phụ thuộc vào nền móng vững chắc, bao gồm quy định pháp luật, cấu trúc tổ chức, và năng lực đội ngũ cán bộ Thiếu các quy định pháp lý và hệ thống quản lý linh hoạt, giáo dục sẽ không thể phát triển Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm quản lý giáo dục, hoạch định chính sách và xây dựng chương trình ở cấp quốc gia Các tỉnh cần cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phù hợp với địa phương, nhằm hoàn thành mục tiêu quốc gia Hiện nay, quá trình phân cấp quyền hạn và trách nhiệm đang diễn ra, nhằm thực hiện tốt các mục tiêu quốc gia Để thành công trong giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng chương trình học, đào tạo giáo viên, quy chế thi tuyển và thu thập thông tin phản hồi.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam đã thúc đẩy tổ chức và quản lý các hoạt động xã hội thông qua hệ thống pháp luật khách quan và công bằng, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân Trong thời gian qua, các chính sách phát triển giáo dục đã được cụ thể hóa từng bước thông qua hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục.

Khái niệm pháp luật về giáo dục

Pháp luật là một hình thức ý thức xã hội có nguồn gốc từ xa xưa, gắn liền với sự tiến hóa của xã hội loài người và sự phát triển của Nhà nước Nó điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho sự phát triển theo ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện tính giai cấp Đồng thời, pháp luật còn mang tính xã hội, vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, vừa là công cụ giải quyết các vấn đề chung và thực hiện các chức năng xã hội, phản ánh bản chất của xã hội.

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự bắt buộc do nhà nước thiết lập hoặc công nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị Nó ghi nhận nhu cầu lợi ích của toàn xã hội và được đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng tới mục tiêu trật tự, ổn định và phát triển bền vững cho xã hội.

Pháp luật về giáo dục ở Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp mà còn mang tính xã hội rộng rãi Đây là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục, tổ chức và hoạt động giáo dục, cũng như xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân Mục tiêu của pháp luật này là phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào sự phát triển của đất nước, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.

Sự pháp điển pháp luật về giáo dục ở nước ta

Pháp điển là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tập hợp, loại bỏ các văn bản lỗi thời và bổ sung quy phạm mới, từ đó nâng cao hiệu lực pháp lý Kết quả của hoạt động này là sự ra đời của một văn bản pháp luật mới, có hiệu lực cao hơn và hoàn chỉnh hơn về kỹ thuật luật pháp Để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục từ năm 1945 đến 1998, Nhà nước đã ban hành gần 800 văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chúng còn phân tán và hiệu lực pháp lý không cao Do đó, cần thiết phải pháp điển hóa thành một bộ Luật về giáo dục để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả trong quản lý.

Luật giáo dục được Quốc hội khóa X thông qua vào tháng 12 năm 1998 là nền tảng pháp lý quan trọng cho sự phát triển giáo dục tại Việt Nam Đây là bộ luật chuyên ngành đầu tiên điều chỉnh các hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới Luật giáo dục năm 1998 đã thiết lập hành lang pháp lý cho sự phát triển của ngành giáo dục, tạo điều kiện mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và tăng cường hiệu quả giáo dục, đồng thời thực hiện công bằng xã hội Sự ra đời của Luật giáo dục năm 1998 đã hình thành và củng cố khung pháp lý cho các hoạt động giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Sau 7 năm thực hiện Luật giáo dục năm 1998, trước sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động giáo dục và nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân đã xuất hiện một số bức xúc do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi cần quy định cụ thể hơn một số nội dung của luật giáo dục năm 1998 hoặc sửa đổi một cách cơ bản, tạo cơ sở pháp lý để phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, đáp ứng ngày càng cao sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa Luật giáo dục năm 2005 đã đƣợc ban hành thay thế Luật giáo dục 1998 để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục

Qua 3 năm thực hiện, Luật giáo dục năm 2005 đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao trình độ dân trí và chất lƣợng nguồn nhân lực, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật đã nảy sinh một số điểm hạn chế, bất cập, một số quy định của Luật chƣa đi vào cuộc sống, một số điểm chƣa phù hợp tình hình thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục, chƣa phát huy đƣợc hiệu quả của việc hợp tác quốc tế về giáo dục cần đƣợc sửa đổi, bổ sung Những sửa đổi, bổ sung Luật giáo dục năm 2005 tạo cơ sở cho việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, thực hiện chế độ chính sách đối với người học, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đã đƣợc ban hành năm 2009 để đáp ứng các nhu cầu trên

Việc ban hành và hoàn thiện Luật giáo dục cần đi đôi với xây dựng các Luật chuyên ngành như Luật giáo dục đại học, Luật về nhà giáo, Luật giáo dục phổ thông, Luật giáo dục mầm non và Luật giáo dục nghề nghiệp Điều này nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý, tạo ra một hệ thống quy phạm thống nhất và đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong các quan hệ xã hội quan trọng trong giáo dục, từ đó hình thành một hệ thống pháp luật toàn diện về giáo dục.

Phát triển giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Đây là điều kiện thiết yếu để phát huy nguồn lực con người, góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.

Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001, nhấn mạnh vai trò của giáo dục trong việc nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực Mục tiêu giáo dục là hình thành nhân cách và năng lực công dân, đào tạo lao động có nghề, sáng tạo và tự hào về dân tộc Điều này góp phần vào sự phát triển của đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về giáo dục nhằm tạo hành lang pháp lý thực hiện mục tiêu giáo dục

Sau hơn 20 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội Tuy nhiên, hệ thống giáo dục vẫn tồn tại một số hạn chế và bất cập về số lượng, chất lượng, phương pháp giảng dạy, cũng như tính ổn định và kỷ cương trong quản lý.

Pháp luật về giáo dục bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục, tổ chức và hoạt động giáo dục, cũng như xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân Mục tiêu của pháp luật này là phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào sự phát triển của đất nước Chương 1 sẽ làm rõ các vấn đề lý luận, tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học.

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cho hoạt động giáo dục hiện nay là cần thiết Việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt từ các nước trong khu vực, sẽ hỗ trợ hội nhập toàn cầu Hiện tại, các hoạt động giáo dục chủ yếu được điều chỉnh bởi văn bản dưới luật, do đó, việc luật hoá các quy định này thành một hệ thống pháp luật có hiệu lực là phù hợp với thực tiễn giáo dục trong nước Trong tương lai, hệ thống pháp luật giáo dục Việt Nam sẽ được xây dựng đồng bộ, thống nhất, nhằm điều chỉnh tất cả hoạt động giáo dục và giảm thiểu việc ban hành quá nhiều văn bản dưới luật.

Cơ sở lý luận này tạo nền tảng cho việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về giáo dục Nó cũng giúp phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực giáo dục đại học trong các chương tiếp theo.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC

Pháp luật về giáo dục từ ngày thành lập nước đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

2.1.1 Pháp luật về giáo dục trong năm đầu của nền cộng hòa

Sau Cách mạng tháng 8, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chấm dứt sự thống trị của thực dân và phong kiến Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đoàn kết để đánh bại giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.

Vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức công bố sự thành lập, trong đó Bộ Quốc gia Giáo dục là một trong những bộ đầu tiên được thành lập.

Vào ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất "mở chiến dịch chống nạn mù chữ", được Hội đồng thông qua ngay sau ngày tuyên ngôn độc lập Ngày 8/9/1945, Chủ tịch đã ký ba sắc lệnh về Bình dân học vụ: Sắc lệnh số 17/SL quy định việc thành lập bình dân học vụ trên toàn quốc; Sắc lệnh số 19/SL quy định việc thiết lập các lớp học bình dân cho nông dân và thợ thuyền vào buổi tối, yêu cầu mỗi làng và đô thị phải có ít nhất một lớp học với ba mươi học viên trong vòng sáu tháng; và Sắc lệnh số 20/SL quy định việc học chữ Quốc ngữ trở thành bắt buộc và miễn phí cho tất cả mọi người trong khi chờ đợi việc thành lập Tiểu học cưỡng bách.

“Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên tám tuổi phải biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ”

- Cũng trong thời gian này, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa cũng đã cũng ra một loạt sắc lệnh nhằm đặt nền móng cho tổ chức và hoạt động của nền giáo dục mới:

Sắc lệnh số 13/SL ngày 08/09/1945 quy định rằng Trường Viễn Đông Bác Cổ, các nhà bảo tàng, thư viện công (trừ thư viện phụ thuộc của các công sở) và các học viện, như Viện Hải học, sẽ được sáp nhập vào Bộ Quốc gia Giáo dục.

Sắc lệnh số 16/SL ngày 08/09/1945 đã thiết lập ngạch Thanh tra học vụ trên toàn quốc, nhằm kiểm soát việc thực hiện chương trình giáo dục theo quy định của Chính phủ dân chủ cộng hòa.

Sắc lệnh số 18/SL ngày 08/09/1945 quy định bãi bỏ ngạch học quan do thực dân Pháp đặt ra, đồng thời quy định chế độ nghỉ hưu cho những viên chức đủ tuổi Những viên có năng lực và hạnh kiểm tốt sẽ được bổ dụng vào ngạch khác, trong khi những viên bất lực hoặc có hạnh kiểm xấu sẽ bị thải hồi.

Sắc lệnh số 44/SL ngày 10/10/1945 đã thành lập Hội đồng cố vấn học chính với nhiệm vụ nghiên cứu và cải cách chương trình giáo dục, theo dõi thực hiện chương trình và kiến nghị sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn Hội đồng cũng tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục về các vấn đề sư phạm Thành viên của Hội đồng bao gồm Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục, Đổng lý Văn phòng Bộ và 30 thành viên khác là nhà giáo, đại diện các đoàn thể chính trị, văn hóa và phụ huynh học sinh.

Vào ngày 10/10/1945, Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã quy định việc thành lập Ban đại học văn khoa và thiết lập quỹ tự trị cho trường đại học Việt Nam, bao gồm nguồn tài chính từ Chính phủ, chính quyền địa phương và các tài sản do tư nhân tặng.

Sắc lệnh số 110/SL ngày 20/06/1946 quy định rằng Nha Bình dân học vụ Trung ƣơng sẽ tổ chức lớp huấn luyện cho cán bộ Bình dân học vụ, nhằm phục vụ cho các đại biểu dân tộc thiểu số.

Sắc lệnh số 132/SL ngày 23/7/1946 quy định thành lập Hội đồng sách giáo khoa, bao gồm đại diện từ Bộ Quốc gia Giáo dục, Bộ Nội vụ, giảng viên đại học, giáo viên trung học, giáo viên tiểu học, giáo viên trường tư thục, chuyên gia như nghệ sĩ và kỹ sư, đại diện Hội phụ huynh học sinh, cùng một viên chức của Bộ Quốc gia Giáo dục.

Vào ngày 10/08/1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành sắc lệnh số 146/SL và 147/SL, quy định các nguyên tắc cơ bản và cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong nền giáo dục Việt Nam.

Nền giáo dục tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: đại chúng hóa, dân tộc hóa và khoa học hóa Giáo dục không chỉ nhằm phục vụ lý tưởng Quốc gia mà còn hướng tới việc phát triển nền dân chủ.

Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân gồm:

+ Bậc giáo dục ấu trĩ: nhận trẻ em dưới 7 tuổi và sẽ tổ chức tùy theo điều kiện do Bộ Quốc gia giáo dục quy định

Đệ nhất cấp là bậc học cơ bản dành cho trẻ em từ 7 tuổi, bao gồm 4 năm học, nhằm dạy những kiến thức cần thiết và rèn luyện những thói quen tốt Học sinh hoàn thành đệ nhất cấp sẽ thi lấy bằng giáo dục cơ bản Kể từ năm 1950, đệ nhất cấp đã trở thành bậc học bắt buộc.

Lớp dự bị sau bậc học cơ bản kéo dài một năm, nhằm trang bị kiến thức phổ thông đại cương và chú trọng đến khuynh hướng, khả năng của học sinh Mục tiêu là lựa chọn ngành học tổng quát hoặc chuyên môn cho cấp đệ nhị Lớp dự bị được tổ chức theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và khi có điều kiện phù hợp.

Đệ nghị cấp bao gồm hai loại ngành học: ngành học tổng quát và ngành học chuyên môn Ngành học tổng quát chia thành hai bậc: bậc học phổ thông kéo dài 4 năm, trong đó có 2 năm học theo chương trình phổ thông và 2 năm học theo chương trình phân hóa tại các lớp dự bị chuyên nghiệp và chuyên khoa, được chia thành 4 ban: ban văn học, ban khoa học, ban vạn vật và ban kỹ thuật Bậc chuyên khoa dành cho học sinh đã hoàn thành các lớp dự bị chuyên khoa, kéo dài 3 năm.

Pháp luật về giáo dục thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)

Sau khi miền Bắc được giải phóng, ngành giáo dục nhanh chóng tiếp quản các cơ sở giáo dục tại Hà Nội và các vùng mới giải phóng, nhằm khai giảng năm học mới Bộ Giáo dục đã hướng dẫn các trường tạm thời dạy theo chương trình cũ, loại bỏ nội dung phản động, đồng thời mở nhiều lớp sư phạm cấp tốc để cung cấp giáo viên Ngoài ra, Bộ khuyến khích các địa phương mở trường dân lập và vận động cộng đồng xây dựng trường học, hỗ trợ trang thiết bị như bàn, ghế, và cải tạo các trường tư thục thành trường dân lập đủ điều kiện hoạt động giáo dục.

Vào tháng 3 năm 1956, Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc đã phê duyệt Đề án của Bộ Giáo dục, nhằm sáp nhập hai hệ thống giáo dục phổ thông: hệ thống 12 năm tại các vùng trước đây bị Pháp chiếm đóng và hệ thống 9 năm ở các khu vực kháng chiến, tạo thành hệ thống giáo dục 10 năm.

Vào ngày 12/5/1956, Bộ Giáo dục đã ban hành Quy chế tổ chức quản lý lớp vỡ lòng, nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục trong bối cảnh đất nước còn nghèo Các lớp mẫu giáo và vỡ lòng cần sự hỗ trợ từ nhân dân, các cơ quan chuyên môn và trường phổ thông Hội nghị phổ cập vỡ lòng toàn miền Bắc diễn ra vào ngày 28/10/1958 đã đặt ra tiêu chuẩn cụ thể, yêu cầu 90% trẻ em từ 6 đến 11 tuổi phải tham gia lớp học, cùng với phương châm vận động phát triển giáo dục.

“lớn trước, bé sau”, “số lượng đi đôi với chất lượng” Để phát triển giáo dục, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số

Vào ngày 12/8/1957, Chỉ thị 5377/CT-VG đã được ban hành nhằm chỉ đạo các cấp, các ngành "tận lực phát triển" giáo dục phổ thông, nhấn mạnh rằng cần "dựa vào nhân dân để xây dựng giáo dục phổ thông" Mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế, số lượng trường, lớp, giáo viên và học sinh đã tăng mạnh so với năm học đầu tiên sau giải phóng Để tiếp tục xóa mù chữ và nâng cao trình độ dân trí, vào ngày 27/3/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 114/CT-TTg, khẳng định rằng công tác bình dân học vụ là bộ phận thiết yếu trong kế hoạch nhà nước, yêu cầu các cấp chính quyền phải trực tiếp lãnh đạo và quy định chính sách cho cán bộ, giáo viên bình dân học vụ.

Vào ngày 27 tháng 12 năm 1957, Chính phủ đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa tại Trung ương Dựa trên quyết định này, các tỉnh cũng đã thành lập Ban chỉ đạo tương tự ở cấp địa phương.

Sau khi hoàn thành việc xóa mù chữ, Chính phủ đã chuyển hướng mạnh mẽ sang công tác bổ túc văn hóa Vào ngày 15/7/1961, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 195/TTg, yêu cầu các thủ trưởng cơ quan phải chịu trách nhiệm về việc tổ chức học tập và nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, nhân viên, công nhân trong đơn vị Trong giai đoạn này, Bộ Giáo dục đã đề ra phương châm “cần gì, học nấy” và “kết hợp học văn hóa với học kỹ thuật” ngay từ cấp I.

Việc triển khai các quy định và chủ trương đã thúc đẩy phong trào Bổ túc văn hóa, giúp hàng triệu người, bao gồm cả cán bộ và nhân dân, nâng cao trình độ học vấn Nhiều cán bộ đã được đào tạo và bồi dưỡng từ các đối tượng như công nhân và nông dân.

Ngày 7 tháng 4 năm 1960, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 203/CT-TW, nhấn mạnh sự cần thiết mở các trường kết hợp giữa giáo dục văn hóa phổ thông và đào tạo kỹ thuật sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trong giai đoạn này, nhằm phát triển giáo dục quy mô lớn, Chính phủ đã khuyến khích người dân đóng góp học phí từ cấp I đến cấp III, theo Chỉ thị số 169/CT-TTg ngày 4/8/1964 Để thúc đẩy phong trào “phổ cập vỡ lòng”, Bộ Giáo dục đã ban hành Thông tư số 25/TT-MG ngày 25/5/1961, quy định về giáo viên vỡ lòng và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cũng như cải thiện cơ sở vật chất Để chuẩn bị cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3, Bộ đã phát hành Thông tư số 41/TT-ĐTBD ngày 14/8/1964 về cải cách hệ thống trường sư phạm Ngày 14/11/1964, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 206/CT-TTg về đào tạo giáo viên phổ thông, và vào ngày 01/9/1964, Bộ Giáo dục đã phát hành Thông tư số 46/TT-ĐTBD hướng dẫn thành lập trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên tại các tỉnh, thành phố.

Vào ngày 20/11/1963, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 171/CP nhằm quy định chế độ mở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, giúp tổ chức và hoạt động của các trường trở nên nề nếp hơn Để thúc đẩy phát triển giáo dục tại miền núi và các vùng dân tộc ít người, Bộ Giáo dục đã tổ chức hai Hội nghị về giáo dục dân tộc và miền núi vào các năm 1958 và 1964.

Sau mười năm giải phóng miền Bắc và kết thúc kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1960 – 1965), nước ta đã cải cách căn bản hệ thống giáo dục cũ, xây dựng hệ thống giáo dục mới mang tính dân tộc và dân chủ Các ngành học được phát triển cả về số lượng và chất lượng, tạo ra sự phát triển cân đối và đồng bộ giữa các cấp học Từ năm 1965 đến 1975, trong bối cảnh toàn dân chống Mỹ cứu nước, giáo dục đã mở rộng quy mô đáng kể Vào tháng 10/1965, Nhà nước quyết định tách bộ phận chỉ đạo ngành đại học và trung học chuyên nghiệp.

Bộ Giáo dục đã được thành lập thành một bộ riêng biệt, với sự phê duyệt của Hội đồng Chính phủ thông qua các Nghị định quy định về tổ chức bộ máy của Bộ Giáo dục và Bộ Đại học cùng Trung học chuyên nghiệp.

Trong bối cảnh cả nước đang đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ này được xác định là phải thích ứng với điều kiện chiến tranh Mục tiêu chính là duy trì và phát triển sự nghiệp giáo dục, đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ có chất lượng, nhằm giữ vững và nâng cao trình độ giáo dục trong toàn quốc.

Vào ngày 5/8/1965, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 88/TTg nhằm chuyển hướng công tác giáo dục, nhấn mạnh việc cần phải chiến thắng đế quốc Mỹ trên mặt trận giáo dục Chỉ thị yêu cầu giáo dục phải đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài của cách mạng Để thực hiện chỉ thị này, Bộ Giáo dục đã chỉ đạo các biện pháp phòng không, sơ tán trường học, đảm bảo an toàn cho giáo viên và học sinh, đồng thời chăm sóc sức khỏe cho học sinh, sinh viên và duy trì chất lượng giảng dạy cũng như các hoạt động giáo dục khác.

Thực hiện Nghị quyết số 138/CP của Hội đồng Chính phủ, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã ban hành Quy chế mở trường cùng với các quy chế chuyên môn, nhằm cải tiến chương trình và nội dung phương pháp giáo dục, từ đó đưa các trường đại học và trung học chuyên nghiệp vào ổn định.

Pháp luật về giáo dục từ khi đất nước thống nhất đến trước thời kỳ đổi mới (1975 - 1986)

Thời kỳ sau giải phóng miền Nam, đất nước ta bước vào giai đoạn củng cố độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải đối mặt với hậu quả nặng nề của chiến tranh Ngành giáo dục tập trung vào việc tiếp quản và ổn định hoạt động giáo dục tại miền Nam, quản lý giáo dục thống nhất trên toàn quốc và hòa nhập sự nghiệp giáo dục của miền Nam với sự phát triển chung Đồng thời, cần củng cố và phát triển giáo dục ở miền Bắc, tiến hành cải cách giáo dục theo Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị Phương thức quản lý được điều chỉnh phù hợp với tình hình miền Nam, áp dụng hệ thống văn bản pháp luật và hoàn thiện cơ chế quản lý, thực hiện dân chủ trong công việc Mục tiêu là liên kết giáo dục với các ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hóa xã hội, từng bước xã hội hóa giáo dục.

Vào ngày 27/10/1976, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 426/TTg nhằm sắp xếp lại các trường học mới tiếp quản, thành lập trường mới và giải thể các trường đại học tư, đồng thời xây dựng lại mạng lưới trung học chuyên nghiệp phía Nam phù hợp với yêu cầu chung cả nước Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ giáo viên, như Quyết định về ngày Nhà giáo Việt Nam, tôn vinh danh hiệu Nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, và quy định về lương thâm niên Quyết định số 224/TTg ngày 24/5/1976 cũng được ban hành để tổ chức đào tạo đại học trong nước Từ năm 1970, Bộ Giáo dục và Bộ Đại học đã tập trung nghiên cứu cải cách giáo dục, với Nghị quyết số 14/NQ-TW ngày 11/1/1979 xác định các quan điểm cơ bản về xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa hiện đại Trong giai đoạn này, hai bộ đã phối hợp quản lý thống nhất sự nghiệp giáo dục ở miền Nam, hướng tới giáo dục XHCN Tuy nhiên, chất lượng giáo dục chưa cao và việc triển khai cải cách còn gặp nhiều khó khăn.

Pháp luật về giáo dục từ khi đổi mới đến nay (1986 đến nay)

2.4.1 Pháp luật về giáo dục từ 1986 đến 1998 Đại hội lần thứ VI (tháng 12/1986) của Đảng cộng sản Việt Nam định ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực kinh tế - xã hội để đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp tục đi lên xã hội CNXH Tiếp đến Đại hội đảng lần thứ VII (tháng 6/1991) đã cụ thể hóa và hoàn chỉnh đường lối đổi mới, thông qua "cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và "chiến lƣợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 Đối với sự nghiệp giáo dục, Quốc hội đã thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu học (tháng 8/1991) đây là Luật chuyên ngành đầu tiên về giáo dục mặc dù phạm vi điều chỉnh của luật mới chỉ giới hạn đối với việc phổ cập một bậc học đó là tiểu học Ban chấp hành Trung ƣơng đảng đã ra Nghị quyết về công tác giáo dục và đào tạo tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng lần thứ

Tháng 11 năm 1993, khóa VII đã đặt nền tảng cho sự đổi mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo Trong giai đoạn này, Bộ Giáo dục đã trải qua nhiều thay đổi lớn, từ bốn cơ quan trực thuộc chính phủ được hợp nhất thành hai Bộ vào năm 1987 và tiếp tục thành một Bộ duy nhất vào năm 1990, quản lý tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân Sự thay đổi này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý giáo dục một cách thống nhất, nhưng cũng làm cho công tác quản lý trở nên phức tạp hơn Để thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị giáo dục tháng 7/1987, đưa ra 10 tư tưởng chỉ đạo và xây dựng chương trình phát triển giáo dục giai đoạn 1987-1990 với 38 chỉ tiêu, bao gồm phổ cập giáo dục cấp I, xóa mù chữ, cải cách giáo dục, và phát triển đội ngũ giáo viên Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 16/CT vào ngày 1/8/1987, xác định phương hướng và nhiệm vụ phát triển giáo dục trong ba năm tới.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cam kết ổn định và phát triển sự nghiệp giáo dục thông qua các chủ trương và giải pháp phù hợp với từng địa phương Để đạt được điều này, Bộ đã đa dạng hóa các loại hình trường lớp và hình thức giáo dục, đồng thời dân chủ hóa hoạt động của nhà trường và xã hội hóa giáo dục Hàng năm, Bộ tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt ngành giáo dục nhằm quán triệt các nghị quyết quan trọng của Đảng, từ đó định hướng cho việc đổi mới giáo dục Đặc biệt, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, xây dựng các trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao, và thành lập các đại học quốc gia, đại học khu vực cùng các trường đại học dân lập.

Pháp luật về giáo dục đã được hình thành và phát triển đa dạng, nâng cao cơ sở vật chất cho nhà trường Trình độ dân trí và chất lượng giáo dục đã có những chuyển biến tích cực Các văn kiện của Đảng và chính phủ liên tục được ban hành, điều chỉnh các nội dung công việc cụ thể như chế độ cho giáo viên, học sinh, sinh viên và lưu học sinh, cùng với quy định về tài chính và tổ chức hoạt động của các cấp học.

Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng điều chỉnh tư duy và phương pháp giáo dục, đưa ra những chủ trương phù hợp với giai đoạn chuyển đổi Những chủ trương này bao trùm và ảnh hưởng toàn bộ quá trình đổi mới giáo dục, với mục tiêu chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân từ phục vụ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.4.2 Luật giáo dục năm 1998 và hệ thống văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Để quản lý hoạt động giáo dục, phát triển giáo dục, từ năm 1945 đến năm 1998, Nhà nước đã ban hành gần 1000 văn bản pháp luật về giáo dục dưới hình thức sắc lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư, Các văn bản pháp luật về giáo dục đã góp phần đảm bảo thực hiện mục đích và mục tiêu giáo dục đó là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong từng thời kỳ Tuy nhiên, văn bản về giáo dục còn phân tán, có hiệu lực pháp lý không cao Với quan điểm coi giáo dục là một vấn đề quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, vấn đề xây dựng một đạo luật về giáo dục đã được Nghị quyết đại xã hội của đất nước, với tư tưởng xây dưng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, yêu cầu hội nhập về pháp luật giáo dục với khu vực và thế giới đòi hỏi lĩnh vực giáo dục phải đƣợc điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, pháp điển hóa các quy định về giáo dục còn phân tán thành quy định của Luật giáo dục

Luật giáo dục 1998 được cấu trúc với đoạn mở đầu và 9 chương, quy định 110 Điều, từ những vấn đề chung như mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục Việt Nam đến tổ chức và hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân Đoạn mở đầu nhấn mạnh giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn dân Để phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luật giáo dục cần được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

Chương I Những quy định chung, gồm 17 điều (từ Điều 1 đến Điều

17) quy định về phạm vi điều chỉnh; mục tiêu giáo dục; tính chất, nguyên lý giáo dục; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục; ngôn ngữ dùng trong nhà trường; hệ thống giáo dục quốc dân; văn bằng, chứng chỉ; phát triển giáo dục; quyền và nghĩa vụ học tập của công dân; phổ cập giáo dục; xã hội hóa sự nghiệp giáo dục; đầu tư cho giáo dục; quản lý nhà nước về giáo dục; vai trò của nhà giáo; nghiên cứu khoa học; không truyền bá tôn giáo trong các trường, cơ sở giáo dục khác; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục

Chương II Hệ thống giáo dục quốc dân, gồm 26 (từ Điều 18 đến Điều 43) quy định về giáo dục mầm non (giáo dục mầm non; mục tiêu của giáo dục mầm non; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục mầm non; cơ sở giáo dục mầm non); giáo dục phổ thông (giáo dục phổ thông; mục tiêu của giáo dục phổ thông; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông; sách giáo khoa; cơ sở giáo dục phổ thông; văn bằng giáo dục phổ thông); giáo dục nghề nghiệp (giáo dục nghề nghiệp; mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục nghề nghiệp; giáo trình trung học chuyên nghiệp, giáo trình dạy nghề dài hạn; cơ sở giáo dục nghề nghiệp; văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp); giáo dục đại học và sau đại học (giáo dục đại học và sau đại học; mục tiêu của giáo dục đại học và sau đại học; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học và sau đại học; giáo trình cao đẳng, giáo trình đại học; cơ sở giáo dục đại học và sau đại học; văn bằng giáo dục đại học và sau đại học); phương thức giáo dục không chính quy (giáo dục không chính quy; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục không chính quy; cơ sở giáo dục không chính quy; văn bằng, chứng chỉ giáo dục không chính quy)

Chương III Nhà trường và cơ sở giáo dục khác, gồm 16 điều (từ Điều

Điều 44 đến Điều 60 quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của các loại hình nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm nhà trường thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân Các quy định này đề cập đến điều kiện thành lập, thẩm quyền thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia tách và giải thể nhà trường, cũng như quy chế hoạt động, vai trò của hiệu trưởng, hội đồng tư vấn, tổ chức Đảng và các đoàn thể trong nhà trường Bên cạnh đó, nhiệm vụ và quyền hạn của các loại trường như trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trong nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội cũng được nêu rõ, cùng với quyền tự chủ và trách nhiệm của các trường cao đẳng, đại học Ngoài ra, các loại trường chuyên biệt như trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học, trường chuyên, trường năng khiếu và trường dành cho người khuyết tật cũng được quy định Cuối cùng, tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục khác cũng được đề cập trong các điều khoản này.

Chương IV Nhà giáo, gồm 12 điều (từ Điều 61 đến Điều 72) quy định về nhiệm vụ và quyền của nhà giáo (nhà giáo; giáo sƣ, phó giáo sƣ; nhiệm vụ của nhà giáo; quyền của nhà giáo; thỉnh giảng; ngày nhà giáo Việt Nam); đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo (trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo; trường sư phạm; đào tạo nhà giáo cho trường cao đẳng, trường đại học); chính sách đối với nhà giáo (bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; tiền lương; chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn);

Chương V Người học gồm 12 điều (từ Điều 73 đến Điều 85) quy định về nhiệm vụ và quyền của người học (người học, nhiệm vụ của người học; quyền của người học; nghĩa vụ của người học tại trường cao đẳng, trường đại học công lập); chính sách đối với người học (học bổng, trợ cấp xã hội; chế độ cử tuyển; tín dụng giáo dục; miễn, giảm phí dịch vụ công cộng cho học sinh, sinh viên)

Chương VI Nhà trường, gia đình và xã hội, gồm 5 điều (từ Điều 81 đến Điều 85) quy định về trách nhiệm của nhà trường; trách nhiệm của gia đình; quyền của cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh; trách nhiệm của xã hội; quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ xã hội

Chương VII Quản lý nhà nước về giáo dục bao gồm 18 điều (từ Điều

Điều 86 đến Điều 103 quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, bao gồm nội dung quản lý và các cơ quan quản lý giáo dục Bài viết cũng đề cập đến đầu tư cho giáo dục, với các nguồn tài chính, ngân sách nhà nước, ưu tiên xây dựng trường học, và các khoản học phí, lệ phí Về quan hệ quốc tế, nội dung khuyến khích hợp tác giáo dục với nước ngoài và công nhận văn bằng nước ngoài cũng được nêu rõ Cuối cùng, thanh tra giáo dục, cùng với nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thanh tra và đối tượng thanh tra, là những vấn đề quan trọng không thể thiếu trong quản lý giáo dục.

Chương VIII Khen thưởng và xử lý vi phạm, gồm 5 điều (từ Điều

Các Điều 104 đến 108 quy định về việc phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Nhà giáo Ưu tú, khen thưởng cho các tổ chức và cá nhân có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực giáo dục, cũng như khen thưởng cho người học Ngoài ra, các điều này còn đề cập đến việc phong tặng danh hiệu Tiến sĩ danh dự và xử lý các vi phạm liên quan.

Chương IX Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 109 và Điều 110) quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỤC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

Ngày đăng: 06/07/2022, 14:13

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1996
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2001
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2004
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.Các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2006
6. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghịu quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghịu quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992)
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
8. Luật khoa học và công nghệ ngày 28 tháng 6 năm 2000 9. Luật ngân sách nhà nước ngày 27 tháng 12 năm 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật khoa học và công nghệ" ngày 28 tháng 6 năm 2000 9. "Luật ngân sách nhà nước
15. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 Khác
16. Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đính hướng đến năm học 2014-2015 Khác
17. Luật giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012 Văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ ban hành Khác
18. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh số 13, ngày 08 tháng 09 năm 1945 về sáp nhập Trường Viễn Đông Bác cổ, các Nhà bảo tàng, các Thƣ viện công, các Học viện vào Bộ Giáo dục và Đào tạo Khác
19. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh số 16, ngày 08 tháng 09 năm 1945 về việc thành lập Thanh tra học vụ Khác
20. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh số 16, ngày 08 tháng 09 năm 1945 về việc thành lập Bình dân học vụ Khác
21. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh số 17, ngày 08 tháng 09 năm 1945 về việc bãi bỏ ngạch học quan do thực dân Pháp đặt ra Khác
22. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh số 19, ngày 08 tháng 09 năm 1945 về việc thiết lập cho nông dân và công nhân những lớp học bình dân buổi tối Khác
23. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh số 19, ngày 08 tháng 09 năm 1945 về việc học chữ Quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người Khác
26. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 về việc thiết lập cho trường Đại học Việt Nam một quỹ tự trị Khác
27. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946) Sắc lệnh số 38 ngày 27 tháng 03 năm 1946 về việc thiết lập trong Bộ Quốc gia giáo dục một Nha Thanh niên và Thể dục Khác
28. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946) Sắc lệnh số 110 ngày 20 tháng 06 năm 1946 về việc Nha Bình dân học vụ Trung ƣơng mở lớp huấn luyện cán bộ Bình dân học vụ các đại biểu dân tộc thiểu số Khác
30. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946) Sắc lệnh số 147 ngày 10 tháng 08 năm 1946 về bậc học cơ bản không phải trả học phí Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w