Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Các nước đang phát triển nhận thức rằng viễn thông là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế và phát triển Trong hơn hai thập kỷ qua, công nghệ thông tin đã chứng minh khả năng thúc đẩy phát triển, cải thiện đời sống cho người nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục, và tăng cường hiệu quả cũng như sự minh bạch của chính phủ Cải cách mạnh mẽ và tăng cường cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông là yếu tố then chốt giúp xã hội và chính phủ áp dụng công nghệ thông tin, từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong thập kỷ qua, dịch vụ và công nghệ viễn thông cùng thương mại quốc tế đã phát triển mạnh mẽ, khiến các doanh nghiệp viễn thông phải cạnh tranh khốc liệt để chiếm lĩnh thị trường Điều này đã thúc đẩy các tổ chức quốc tế và quốc gia không ngừng hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, nhằm điều chỉnh hành vi cạnh tranh và bảo vệ lợi ích của xã hội cũng như người tiêu dùng.
Khu vực viễn thông của nền kinh tế được coi là có năng lực cạnh tranh và hiệu quả khi có sự cạnh tranh nội bộ trong ngành Tuy nhiên, việc có hai hoặc nhiều nhà cung cấp dịch vụ viễn thông không đảm bảo rằng cạnh tranh thực sự tồn tại Cạnh tranh chỉ thực sự hiện hữu khi:
Khách hàng có quyền tự do lựa chọn giữa nhiều loại giá cả, dịch vụ và chất lượng từ hơn hai nhà cung cấp dịch vụ khác nhau.
- Người tiêu dùng có thể lựa chọn, nhu cầu của họ được cung cấp và đáp ứng;
Cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng thông qua việc phát triển và điều chỉnh lựa chọn cũng như giá cả dịch vụ là yếu tố điều tiết chính trong ngành.
Ngành viễn thông được coi là có cạnh tranh khi đáp ứng các điều kiện nhất định, với môi trường kinh doanh vi mô thuận lợi cho việc tăng năng suất nhanh chóng Cạnh tranh thúc đẩy cuộc đua mạnh mẽ, từ đó nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ viễn thông Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào môi trường hoạt động của họ.
Năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa và dịch vụ là yếu tố then chốt giúp chiếm lĩnh thị trường toàn cầu Khi giá cả, chất lượng và đa dạng sản phẩm của một nền kinh tế vượt trội hơn, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia đó sẽ gia tăng, dẫn đến việc tiêu thụ tốt hơn so với các đối thủ khác.
Việt Nam đang thúc đẩy tự do hoá viễn thông nhằm thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế vào lĩnh vực này Chính phủ đang chuyển đổi các doanh nghiệp viễn thông truyền thống thuộc sở hữu nhà nước sang mô hình kinh doanh và từng bước mở rộng cạnh tranh Quan điểm này được thể hiện rõ trong các chính sách chung và các văn bản pháp luật được Quốc hội thông qua.
Chiến lƣợc phát triển Công nghệ thông tin - viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Bưu chính viễn thông năm
Năm 2003, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển viễn thông trong một môi trường cạnh tranh công bằng và minh bạch Cụ thể, các doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông được phép đa dạng hóa, bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối hoặc đặc biệt, cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác Chính sách này được xác định rõ ràng trong Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông.
Mức độ tham gia của khu vực tư nhân trong lĩnh vực bưu chính viễn thông rất khác nhau giữa các hoạt động viễn thông Doanh nghiệp kinh doanh mạng, bao gồm cả các doanh nghiệp IXP, phải là 100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần thống lĩnh của nhà nước Ngược lại, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông có thể là doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả các doanh nghiệp ISP và OSP Chính sách này cũng áp dụng cho hầu hết các dịch vụ giá trị gia tăng.
Chính sách phát triển ngành viễn thông đã thúc đẩy sự chuyển đổi từ độc quyền sang cạnh tranh, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Dự kiến, thị phần của các doanh nghiệp mới sẽ đạt 25-30% vào năm 2005 và 40-50% vào năm 2010.
Năm 2005, dự kiến sẽ có thêm 3 đến 5 nhà cung cấp IXP, 30 đến 40 ISP và nhiều nhà cung cấp OSP cung cấp dịch vụ Internet Chiến lược tự do hóa viễn thông sẽ tập trung vào việc mở rộng thị trường cạnh tranh, đồng thời củng cố vai trò của doanh nghiệp nhà nước Các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, sẽ được tạo điều kiện để cung ứng dịch vụ giá trị gia tăng và dịch vụ cơ bản Khu vực viễn thông cũng sẽ dần mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài theo các cam kết quốc tế, với việc tự do hóa hoạt động cung cấp dịch vụ diễn ra mạnh mẽ hơn so với kinh doanh mạng viễn thông.
- Tìm hiểu về quy định pháp luật quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông
Nghiên cứu tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam gần đây cho thấy xu hướng cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các doanh nghiệp viễn thông trong nước và quốc tế, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO Đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh hiện nay là cần thiết để hiểu rõ hơn về sự phát triển và thách thức trong ngành viễn thông.
Pháp luật về cạnh tranh tại Việt Nam hiện vẫn còn một số điểm hạn chế, như thiếu rõ ràng trong các quy định và cơ chế thực thi chưa hiệu quả Để hoàn thiện hệ thống pháp luật này, cần thiết phải cập nhật và bổ sung các quy định nhằm tăng cường tính minh bạch, đồng thời nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý Ngoài ra, việc tăng cường giáo dục và tuyên truyền về cạnh tranh lành mạnh cũng sẽ góp phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy môi trường kinh doanh công bằng hơn.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn này dựa trên cơ sở lý luận khoa học từ hệ thống lý thuyết của học thuyết Mác – Lê nin, các lý thuyết kinh tế, cùng với quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước liên quan đến ngành viễn thông.
Phương pháp nghiên cứu cho đề tài này bao gồm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh và dự báo Những phương pháp này giúp đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông.
Bố cục của luận văn
Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận văn bao gồm ba chương sau đây:
PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Khái quát chung
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều học thuyết về cạnh tranh, nhưng vẫn chưa có sự xác định rõ ràng về mặt pháp lý của khái niệm này Các học thuyết đều thống nhất rằng cần ngăn chặn và cấm các hành vi gây rối, hạn chế cạnh tranh Do sự bất lực của pháp luật trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh hợp pháp, các nhà làm luật thường chỉ tập trung vào những hành vi không lành mạnh Điều này dẫn đến việc pháp luật cạnh tranh không thể đưa ra các tiêu chí xác định cạnh tranh hợp pháp, từ đó chỉ tồn tại khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh là hoạt động của các chủ thể theo luật tư, trong khi việc cấm đoán hành vi cạnh tranh thường phải được thực hiện theo phương pháp của luật công Hình thức và phương pháp cạnh tranh là "luật chơi" riêng của thương trường, nơi con người được tự do sáng tạo, không thể áp dụng luật chơi cụ thể cho mọi thành viên Tự do trong cạnh tranh chỉ có giới hạn, và giới hạn này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, tại đây Nhà nước và pháp luật xuất hiện Pháp luật về cạnh tranh có đặc điểm khác biệt so với các lĩnh vực pháp luật khác như luật công ty hay luật hình sự, vì vậy, ở nhiều quốc gia phương Tây, pháp luật cạnh tranh được coi là chế định pháp luật cơ bản của luật kinh tế Dù có sự khác biệt trong cấu trúc hệ thống pháp luật cạnh tranh, các quốc gia thường chia thành hai lĩnh vực: pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh Sự phân biệt này xuất phát từ tính chất, mức độ và nguy hại của hành vi đối với thị trường, dẫn đến phương thức và tính cương quyết trong xử lý của pháp luật.
1.1.1 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh:
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ thể nhằm mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh và có thể gây thiệt hại cho đối thủ hoặc bạn hàng Tính không lành mạnh của hành vi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trường và được điều chỉnh bởi luật tư Người bị ảnh hưởng cần phải đưa ra sự phản đối và khiếu kiện để pháp luật và Toà án can thiệp Chế tài pháp luật đối với hành vi vi phạm bao gồm việc buộc đình chỉ hành vi và bồi thường thiệt hại nếu có.
Dựa trên kinh nghiệm của các nước, pháp luật cạnh tranh không lành mạnh thường phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh thành 5 nhóm chính, bao gồm các hành vi cụ thể cần được quy định và kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng.
1 Thâu tóm khách hàng: Bao gồm những phương pháp cạnh tranh trái với tập quán để tác động lên khách hàng và bạn hàng Tính trái với tập quán ở đây thể hiện ở chỗ nó gây ảnh hưởng đến sự tự do trong quyết định của bạn hàng hay khách hàng Nó biểu hiện trong những dạng cụ thể nhƣ:
- Dối trá, thông tin sai về quan hệ mua bán
- Bán cƣỡng bức nhƣ bán kèm
2 Ngăn cản: Đƣợc thực hiện để chống đối thủ cạnh tranh về giá, tẩy chay nói xấu hay phân biệt đối xử ở đây, vấn đề không chỉ là ở chỗ gây ảnh hưởng tới đối thủ mà chính là ở chỗ tính không đúng đắn trong cạnh tranh
3 Bóc lột: Loại hành vi này cũng có mục đích chống lại đối thủ song chủ yếu lại không nhằm vào sản phẩm của đối thủ Thực ra vấn đề nàyđƣợc giải quyết chủ yếu trong pháp luật về sở hữu công nghiệp Song tính không lành mạnh ở đây thể hiện sự lợi dụng trái với tập quán những sản phẩm của người khác Chẳng hạn như: bắt chước kiểu dáng công nghiệp, man trá về nguồn gốc của sản phẩm hay dựa dẫm vào uy tín của sản phẩm khác (đặt tên giống với sản phẩm của người khác) hoặc lôi kéo khách hàng hoặc người làm công của đối thủ
4 Vi phạm pháp luật: Những vi phạm loại này thường diễn ra trong lĩnh vực luật kinh tế hay luật thuế song chỉ bị coi là không lành mạnh khi hành vi vi phạm có chủ ý can thiệp trái phép đến đối thủ cạnh tranh Ngoài ra những vi phạm pháp luật khác cũng có thể đồng thời bị coi là cạnh tranh không lành mạnh (thí dụ: lừa đảo) Những vi phạm hợp đồng cũng có thể đồng thời vi phạm pháp luật cạnh tranh nếu nó gắn liền với việc phá vỡ niềm tin cạnh tranh hoặc lạm dụng lòng tin của bạn hàng
5 Gây rối thị trường: Loại hành vi này không nhằm vào một đối thủ cạnh tranh nào, song nó có tác động chung gây rối thị trường Chẳng hạn, doanh nghiệp lớn hạ giá sản phẩm làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp nhỏ; hay một doanh nghiệp quảng cáo giật gân gây tâm lý chung hoảng sợ
1.1.2 Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền)
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh tập trung vào các hiện tượng độc quyền, bao gồm độc quyền hành chính, độc quyền tự nhiên và độc quyền nhóm, nhằm bảo vệ cơ cấu và tương quan thị trường Điều này có liên quan chặt chẽ đến pháp luật về gia nhập thương trường, vì những hiện tượng này có thể làm thay đổi cấu trúc thị trường.
Hạn chế cạnh tranh và tạo thế độc quyền gây thiệt hại lớn hơn so với cạnh tranh không lành mạnh và thường bị xử lý nghiêm khắc hơn về mặt pháp luật Tuy nhiên, chúng không cấu thành tội phạm và chủ yếu được xử lý bằng các công cụ hành chính Khi hành vi hạn chế cạnh tranh bị phát hiện, pháp luật và các quyết định hành chính sẽ được áp dụng, với các chế tài mạnh mẽ và đa dạng như cấm hoạt động, buộc từ bỏ, tuyên bố vô hiệu, phạt hành chính và bồi thường thiệt hại.
Thông thường, hạn chế cạnh tranh hình thành từ 3 hướng:
1 Các hợp đồng, thoả thuận hay nghị quyết mà theo đó hình thành nên cartel, xanh-đi-ca, tờ-rớt, những thoả thuận này có thể hình thành theo chiều ngang hay chiều dọc của các quy trình kinh doanh Những thoả thuận này có thể tồn tại ở bất cứ hình thức nào và tác hại của chúng là thủ tiêu sự cạnh tranh giữa các thành viên tham gia thoả thuận và loại bỏ khả năng tham gia của các đối thủ cạnh tranh khác vào khu vực thị trường này Nội dung của những thoả thuận này có thể liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau nhƣ về giá, hạ giá, điều kiện mua bán, bảo vệ khách hàng và phân chia thị trường Về nguyên tắc, những thoả thuận kiểu này đều bị pháp luật cấm và khi xuất hiện chúng bị tuyên bố vô hiệu Tuy nhiên, ở các nước khác nhau có những dạng khác nhau về ngoại lệ của việc cấm này
2 Việc sáp nhập (M&A) của nhiều doanh nghiệp là con đường nhanh nhất để tạo khả năng độc quyền của một doanh nghiệp mới Đây là vấn đề càng ngày càng trở nên trọng tâm của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh Vì vậy hoạt động kiểm tra, giám sát, cấp phép, ngăn cản và thậm chí cƣỡng bức phân chia doanh nghiệp là mối quan tâm ngày càng lớn của các cơ quan chấp pháp Sáp nhập doanh nghiệp đƣợc nói ở đây có thể đƣợc thực hiện theo chiều ngang, chiều dọc và hỗn hợp của các doanh nghiệp theo dấu hiệu về các quy trình kinh doanh Việc sáp nhập doanh nghiệp có thể dẫn đến hậu quả và sự xuất hiện đột ngột (không thông qua sự gia tăng của hiệu quả kinh tế hay tăng trưởng kinh tế hay mở rộng kinh doanh) của một doanh nghiệp độc quyền hoặc một doanh nghiệp lớn đến mức mà đột nhiên các doanh nghiệp khác mất đi năng lực cạnh tranh Mặc dù, tự do khế ƣớc và tự do lập hội là nguyên tắc căn bản của cơ chế thị trường song để duy trì cạnh tranh, mọi sự sáp nhập doanh nghiệp đều phải đƣợc giám sát Sự giám sát đó có thể đƣợc thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau:
- Cấm sáp nhập và huỷ bỏ việc sáp nhập
Tiêu chí chính để áp dụng các hình thức giám sát là tỷ lệ thị phần hàng năm hoặc việc lạm dụng sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp do sáp nhập gây ra trong thị trường.
3 Về lý thuyết cũng như thực tế, trên thương trường sẽ có những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và phát triển không ngừng mà không cần có sự trợ giúp đặc biệt của quyền lực công cộng, của chụp giật và của sự thiếu lành mạnh chúng cũng trở thành những doanh nghiệp khổng lồ hoặc có vị thế độc quyền Đương nhiên, pháp luật không thể cấm hay hạn chế sự phát triển lành mạnh đó Song dưới giác độ của cạnh tranh thì pháp luật phải tỉnh táo trước nguy cơ lạm dụng sức mạnh cuả những doanh nghiệp này và phải xuất hiện nhƣ một sức mạnh vô hình để làm đối trọng với sức mạnh kinh tế và năng lực cạnh tranh của loại hình doanh nghiệp này để bảo toàn (nhƣ có thể) năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu Trong bối cảnh nhƣ vậy, ngoài việc giám sát về sự lạm dụng sức mạnh kinh tế của các doanh nghiệp có vị trí độc quyền, Nhà nước cần phải tạo điều kiện để nhiều doanh nghiệp mới gia nhập thương trường nhằm tìm cách phá vỡ thế mất cân sức trong cạnh tranh Chính tại đây, người ta nói tới chức năng và nhiệm vụ kiểm soát độc quyền của Nhà nước và pháp luật
Các quy định của pháp luật quốc tế về cạnh tranh
1.2.1 Các hệ thống pháp luật cạnh tranh điển hình
1.2.1.1 Hệ thống pháp luật cạnh tranh của Mỹ
Theo Điều 1 của Đạo luật Sherman năm 1890, các thỏa thuận hạn chế thương mại bị cấm Những thỏa thuận này có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức, rõ ràng hoặc ngụ ý, giữa hai hoặc nhiều bên nhằm hạn chế cạnh tranh Sự liên kết giữa các bên để tiếp tục hợp tác trong việc hạn chế thương mại và âm mưu chung để đạt được mục đích này cũng sẽ bị luật pháp cấm.
Vào năm 1911, Toà án tối cao Mỹ đã giới thiệu cho nước Anh lý thuyết nguyên tắc hợp lý "Rule of Reason" Theo nguyên tắc này, bị đơn muốn được miễn trừ khỏi việc áp dụng pháp luật chống hạn chế cạnh tranh cần phải cung cấp bằng chứng chứng minh rằng hành vi của mình là "hợp lý".
Các hành vi như Cartel giá và Cartel quota rõ ràng vi phạm cạnh tranh và không thể biện minh bằng lý do nào, sẽ bị xử lý theo nguyên tắc tự dạng (Perse Rule) Tất cả nhà kinh doanh có hành vi vi phạm theo quy định của luật sẽ bị pháp luật chống hạn chế cạnh tranh xử lý, trong đó nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan công quyền.
1.2.1.2 Hệ thống pháp luật cạnh tranh của Châu Âu
+ Các hệ thống trung thành với nguyên tắc cấm đoán
Trong những năm gần đây, khuôn mẫu pháp luật chống hạn chế cạnh tranh đã được áp dụng tại nhiều quốc gia châu Âu, theo các quy định của Điều 85 và 86 của Hiệp định EC Những quốc gia như Bỉ, Hy Lạp, Ai Len, Italia và Tây Ban Nha đã triển khai các biện pháp này nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ở các quốc gia này chủ yếu tuân thủ điều 85 và 86 của Hiệp định EC, cấm mọi hoạt động hạn chế cạnh tranh như thỏa thuận, nghị quyết và quyết định của hiệp hội kinh doanh Những hành vi này sẽ bị coi là vô hiệu ngay lập tức Mặc dù có những ngoại lệ cho sự cấm đoán, nhưng chúng chỉ được chấp nhận trong trường hợp cụ thể do cơ quan cạnh tranh áp dụng hoặc được phân loại theo các thỏa thuận hiện tại Đặc biệt, việc lạm dụng vị trí thống trị trên thị trường bị nghiêm cấm và không có ngoại lệ nào.
+ Các hệ thống trung thành với các nguyên tắc lạm dụng
Trong khi một số quốc gia đã mở rộng phạm vi cấm đoán hạn chế cạnh tranh theo pháp luật, các nước EU như Đan Mạch, Anh và Hà Lan lại tập trung vào việc kiểm soát lạm dụng Hệ thống pháp luật cạnh tranh của họ chỉ áp dụng sự cấm đoán đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh hiện tại, đặc biệt là những thoả thuận liên quan đến việc cố định giá.
+ Các hệ thống phối hợp cả hai nguyên tắc
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh của Đức thể hiện sự phối hợp giữa nguyên tắc cấm đoán và nguyên tắc lạm dụng Trong khi các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang bị cấm nghiêm ngặt, các hạn chế theo chiều dọc lại được xử lý dễ dãi hơn, với chỉ việc cố định giá và hạn chế điều kiện giao dịch bị cấm một cách nghiêm ngặt Các trường hợp khác như hợp đồng phân phối có điều kiện loại trừ chỉ phải chịu sự kiểm soát lạm dụng Sự kết hợp giữa hai nguyên tắc này cũng áp dụng trong việc kiểm soát các doanh nghiệp có vị trí thống trị trên thị trường.
1.2.1.3 Hệ thống pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ở các nước Châu Á (trừ Nhật Bản)
Hiện nay, 23 nước Châu Á (trừ Nhật Bản) đều có pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh
Xem xét sự phát triển của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh theo trình tự thời gian, có thể thấy rằng Philippines đã ban hành luật này vào năm 1925, trong khi Ấn Độ và Pakistan bắt đầu xây dựng luật vào những năm 70 Tiếp theo, Thái Lan và Hàn Quốc đã thực hiện vào những năm 1980, và Sri Lanka vào năm 1987 Đến những năm 1990, các quốc gia này đã có những bước đột phá trong việc hoàn thiện pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh, với Đài Loan ban hành luật vào năm 1991 Sự chuyển đổi từ hệ thống xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường đã dẫn đến việc ban hành luật cạnh tranh ở Trung Quốc và Mông Cổ vào năm 1993, cùng với một số nước thuộc Liên Xô cũ như Kazakhstan, Uzbekistan, Azerbaijan và Kyrgyzstan từ năm 1991 đến 1994 Hơn nữa, các quốc gia này đã tích cực sửa đổi luật của họ, tạo ra nhiều biến động trong việc xây dựng và điều chỉnh pháp luật cạnh tranh ở châu Á từ đầu những năm 80, với xu hướng ổn định nhằm củng cố lĩnh vực pháp luật này trở nên rõ ràng hơn trong những năm 90.
Các quốc gia này đã trải qua thời kỳ thuộc địa hoặc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, dẫn đến việc phát triển nền kinh tế thị trường ở mức độ thấp Do đó, pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh của họ được xây dựng dựa trên mô hình của các nước phát triển ở Châu Âu.
Mỹ, Philippines và Hàn Quốc áp dụng nguyên tắc cấm đoán và kiểm soát lạm dụng nhằm chống lại hiện tượng hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên, mức độ phối hợp giữa hai nguyên tắc này ở các quốc gia là rất khác nhau.
Các quốc gia Châu Á, do là những nước đi sau, đã xây dựng quy định về hạn chế cạnh tranh trong pháp luật của mình với những điểm khác biệt so với các quốc gia có nền kinh tế phát triển Đặc biệt, ở những nước đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh còn bao gồm các quy định nhằm ngăn chặn sự can thiệp của các cơ quan hành chính vào thị trường Điều này cho thấy rằng, việc cấm độc quyền hành chính và lạm dụng quyền lực hành chính là một sản phẩm lập pháp đặc trưng của các quốc gia này.
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ở các nước này còn yếu kém và kém hiệu quả khi so sánh với quy định về cạnh tranh không lành mạnh của chính họ.
Thông qua việc phân tích chính sách cạnh tranh và phân loại các hệ thống pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ở một số quốc gia tiêu biểu, chúng ta có thể rút ra những nhận định quan trọng về hiệu quả và sự khác biệt trong cách tiếp cận của từng quốc gia đối với việc bảo vệ cạnh tranh trên thị trường.
Hạn chế cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong các nền kinh tế thị trường, dẫn đến việc các quốc gia áp dụng nguyên tắc cấm đoán và nguyên tắc lạm dụng để quản lý hành vi này Hai nguyên tắc quan trọng trong pháp luật chống hạn chế cạnh tranh là nguyên tắc tự dạng (Perse Rule) và nguyên tắc hợp lý (Rule of Reason) Tuy nhiên, mức độ kết hợp giữa các nguyên tắc này khác nhau tùy theo bối cảnh, tạo ra các hệ thống pháp luật cạnh tranh riêng biệt theo khu vực địa lý, phản ánh các điều kiện kinh tế tương đồng và bản sắc pháp lý đặc trưng của từng quốc gia.
Trước xu hướng toàn cầu hóa trong thương mại quốc tế, nhu cầu về một chính sách cạnh tranh toàn cầu và quy định chung trong hoạt động thương mại trở nên cấp thiết Việc xây dựng pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là pháp luật chống hạn chế cạnh tranh trong khuôn khổ WTO, là cần thiết để thiết lập một không gian kinh tế chung, đảm bảo sự thống nhất trong sự đa dạng.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG
Pháp luật quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông
2.1.1 Một số điều ƣớc quốc tế
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) là một trong ba trụ cột chính của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bao gồm tất cả các lĩnh vực dịch vụ như làm sạch, buôn bán chứng khoán, tư vấn và vận tải đường bộ Sau khi đàm phán thành công về viễn thông vào năm 1997, lĩnh vực này đã được đưa vào GATS và áp dụng các quy định về tự do hóa Hiện tại, 69 quốc gia, chiếm hơn 93% doanh số toàn cầu về dịch vụ viễn thông, đã cam kết trong hầu hết các tiểu ngành viễn thông cơ bản.
Ngành viễn thông là một trong những lĩnh vực dịch vụ lớn nhất và phát triển nhanh nhất, không chỉ cung cấp dịch vụ liên lạc mà còn là nền tảng cho việc chuyển tải nhiều loại hình dịch vụ điện tử khác Đây là ngành thiết yếu đối với các nhà xuất khẩu dịch vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ của họ.
Phụ lục viễn thông của GATS quy định các nguyên tắc về viễn thông, tập trung vào các biện pháp ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ cùng mạng viễn thông công cộng.
Phụ lục không yêu cầu các nước Thành viên phải cho phép các hãng cung cấp dịch vụ và thiết bị viễn thông; tuy nhiên, các nước này cần đảm bảo rằng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể hoạt động công bằng và không bị phân biệt đối xử trong cả nước và quốc tế Điều này bao gồm việc cung cấp thiết bị kết nối, kết nối các mạch riêng, và lựa chọn giao thức điều hành Thông tin cần được lưu chuyển tự do, bao gồm cả thông tin nội bộ doanh nghiệp và truy cập cơ sở dữ liệu Các nước có thể đưa ra hướng dẫn chi tiết về điều kiện và tiêu chí truy cập, đồng thời cần công khai thông tin liên quan đến chi phí, giao diện kỹ thuật, tiêu chuẩn, và yêu cầu đăng ký Hợp tác kỹ thuật và phát triển tiêu chuẩn quốc tế cho tính tương thích toàn cầu cũng được khuyến khích.
Phụ lục viễn thông áp dụng khi một nước Thành viên cam kết cung cấp dịch vụ trong bất kỳ ngành nào, bao gồm cả viễn thông.
Nghị định thư thứ tư của GATS về Dịch vụ Viễn thông Cơ bản, có hiệu lực từ ngày 5/2/1998, phân chia dịch vụ viễn thông thành hai mảng chính: dịch vụ cơ bản bao gồm điện thoại, truyền dữ liệu, telex, điện báo, fax và mạch thuê bao, cùng với dịch vụ giá trị gia tăng như thư điện tử, thư thoại, truy cập cơ sở dữ liệu trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển đổi mã và giao thức.
Kết quả từ Vòng đàm phán Uruguay cho thấy hầu hết các quốc gia đã cam kết về dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng, trong khi chỉ một số ít đưa dịch vụ viễn thông cơ bản vào cam kết Đã có sự đồng thuận về việc đàm phán dịch vụ viễn thông cơ bản nhằm thúc đẩy tự do hóa mạnh mẽ và toàn diện thương mại trong lĩnh vực này Để theo dõi quá trình đàm phán, một nhóm chuyên trách về viễn thông cơ bản đã được thành lập.
Nghị định thư thứ tư của GATS quy định về tất cả các tiểu ngành dịch vụ viễn thông, bao gồm nội hạt, đường dài và quốc tế, với các hình thức truyền âm, dữ liệu, hình ảnh hoặc tổ hợp Các cam kết của các nước WTO về viễn thông cơ bản bao gồm mọi phương thức kỹ thuật như cáp, sóng và vệ tinh Hầu hết các nước đã loại trừ chương trình phát thanh và phát hình khỏi cam kết của mình thông qua các ghi chú và tham chiếu cụ thể Văn bản của Chủ tịch vòng đàm phán nhấn mạnh rằng các bản cam kết sẽ mang tính "trung hòa về mặt kỹ thuật", cho phép cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản qua bất kỳ phương thức kỹ thuật nào.
Nghị định thư thứ tư về dịch vụ viễn thông cơ bản của 69 nước nêu rõ cam kết về tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia, tùy thuộc vào mức độ phát triển của từng quốc gia Hầu hết các nước thực hiện cam kết tiếp cận thị trường một cách dần dần, với thời hạn tự do hóa dịch vụ điện thoại công cộng khác nhau từ năm 1998 đến 2011 Chín quốc gia đã đưa ra ngoại lệ đối với nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) của GATS, chủ yếu nhằm bảo lưu khả năng duy trì giá cước khác nhau cho liên lạc quốc tế Tuy nhiên, một số ngoại lệ MFN khác, như của Hoa Kỳ và Brazil, lại nhằm bảo vệ các dịch vụ viễn thông cụ thể, đặc biệt là dịch vụ dựa trên vệ tinh.
48 nước thành viên WTO đã đưa ra cam kết bổ sung dựa trên "Tài liệu tham chiếu" - một văn bản không ràng buộc liên quan đến kết nối, chống cạnh tranh, điều kiện cấp phép, tài nguyên hiếm, dịch vụ phổ thông và tính độc lập với các nhà chức trách Những nguyên tắc này chỉ mang tính chất đại cương, nhằm dễ dàng thích ứng với các chế độ chính trị khác nhau trên toàn cầu, đồng thời hỗ trợ cho các cam kết về tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia của các thành viên WTO.
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) (có hiệu lực từ năm 2001):
Việt Nam và Mỹ đã đồng ý áp dụng Phụ lục viễn thông của Hiệp định GATS vào Hiệp định BTA, với việc dẫn chiếu tương ứng theo quy định, ngoại trừ các điều khoản tại khoản 6 và khoản 7.
Hai bên đã thống nhất rằng Tài liệu tham chiếu viễn thông sẽ được tích hợp vào Hiệp định GATS, nhằm đảm bảo việc dẫn chiếu tương ứng theo quy định đã được nêu rõ trong hiệp định.
2.1.2 Các cam kết liên quan đến cạnh tranh viễn thông của Việt Nam khi gia nhập WTO [ Phụ lục 3 ]
WTO, được thành lập vào ngày 1/1/1995, kế thừa và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế từ Hiệp định chung về Thuế quan và mậu dịch (GATT), là tổ chức quốc tế duy nhất thiết lập các nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên toàn cầu.
Mục tiêu hàng đầu của WTO là thúc đẩy thương mại diễn ra một cách thông suốt, tự do, công bằng và có thể dự đoán Để đạt được điều này, WTO triển khai các biện pháp nhằm cải thiện hệ thống thương mại toàn cầu.
- Quản lý các thỏa thuận thương mại
- Hoạt động như là một diễn đàn cho các đàm phán thương mại
- Giải quyết các tranh chấp thương mại
- Xem xét các chính sách thương mại quốc gia
- Hỗ trợ các nước đang phát triển về các vấn đề chính sách thương mại thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
Hiện nay, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có hơn 150 quốc gia thành viên, đại diện cho khoảng 90% dân số toàn cầu, 95% GDP và 95% giá trị thương mại quốc tế Đồng thời, có khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức này Việt Nam là một trong những thành viên quan trọng của WTO.
150, gia nhập WTO vào tháng 11/2006 [ 8 ]