1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là bất động sản

82 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chia Tài Sản Chung Của Vợ, Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân Là Bất Động Sản
Tác giả Lương Trọng Kha
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2022
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 82
Dung lượng 3,88 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN (12)
    • 1.1. Điều kiện để thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật (12)
      • 1.1.1. Quy định pháp luật (12)
      • 1.1.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện (15)
    • 1.2. Hậu quả pháp lý của việc thoả thuận chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (18)
      • 1.2.1. Về quan hệ tài sản của vợ chồng (18)
      • 1.2.2. Về quan hệ nhân thân của vợ chồng và nghĩa vụ đối với con chung (22)
    • 1.3. Chấm dứt hiệu lực của việc thỏa thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (26)
      • 1.3.1. Điều kiện để thoả thuận chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực (26)
      • 1.3.2. Thời điểm có hiệu lực và hậu quả của việc chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (27)
      • 1.3.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện (29)
    • 1.4. Thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu (31)
      • 1.4.1. Các trường hợp thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng (31)
      • 1.4.2. Hậu quả của việc chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị tuyên bố vô hiệu (34)
      • 1.4.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện giải pháp bảo vệ quyền lợi của bên thứ (35)
  • CHƯƠNG 2. CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN (40)
    • 2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung vợ, chồng là bất động sản trong thời kỳ hôn nhân (40)
      • 2.1.1. Quy định pháp luật (40)
      • 2.1.2. Bất cập và kiến nghị (41)
    • 2.2. Nguyên tắc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (43)
      • 2.2.1. Quy định pháp luật (43)
      • 2.2.2. Bất cập và kiến nghị (44)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN

Điều kiện để thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật

1.1.1 Quy định pháp luật Điều kiện có hiệu lực của việc thoả thuận chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có hiệu lực pháp luật bao gồm: điều kiện về ý chí, điều kiện về hình thức

Để phân chia bất động sản trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực pháp luật, vợ và chồng cần có sự đồng thuận về ý chí Điều này xác định rõ ý chí của các bên liên quan, từ đó phát sinh quyền chia sẻ tài sản chung trong hôn nhân.

Theo quy định tại Điều 219 BLDS 2015, trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia, mỗi chủ sở hữu đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung Đặc biệt, sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, do đó cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu chia tài sản này Luật HNGĐ 2014 khẳng định vợ chồng có quyền tự do định đoạt việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Cụ thể, Khoản 1 Điều 38 Luật HNGĐ 2014 quy định rằng trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ những trường hợp được quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không đạt được thỏa thuận, họ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Pháp luật HNGĐ bảo vệ quyền sở hữu tài sản nhưng nhấn mạnh sự thống nhất ý chí của các chủ sở hữu Việc chia tài sản chung cần dựa trên thỏa thuận giữa vợ chồng, phù hợp với nguyên tắc luật định về việc chiếm hữu và sử dụng tài sản chung Phân chia tài sản theo thỏa thuận phản ánh tính chất tài sản chung hợp nhất, nơi quyền lợi của mỗi chủ sở hữu không được xác định theo tỷ lệ, do đó không thể tách riêng phần tài sản mà không có sự đồng thuận Chủ sở hữu chung hợp nhất chỉ có quyền định đoạt tài sản theo sự thỏa thuận, khác với chủ sở hữu chung theo phần.

Khoản 1 Điều 35 Luật HNGĐ 2014 nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đồng thuận giữa các chủ sở hữu chung, đồng thời tôn trọng quyền tự quyết của vợ chồng Điều này không chỉ khuyến khích sự thống nhất ý chí mà còn đảm bảo tính ổn định và bền vững cho gia đình thông qua sự đồng thuận của vợ chồng.

Luật HNGĐ 2014 đã có những bước tiến vượt bậc so với Luật HNGĐ 2000 khi không yêu cầu lý do phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, điều này giúp tăng cường quyền tự định đoạt của các bên Theo Luật HNGĐ 2000, việc chia tài sản chỉ được thực hiện trong ba trường hợp cụ thể, buộc vợ chồng phải chứng minh lý do chính đáng cho việc phân chia bất động sản Trong khi đó, Luật HNGĐ 2014 khẳng định rằng chủ sở hữu tài sản có quyền tự do định đoạt tài sản của mình, miễn là không vi phạm pháp luật và không gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc Việc phân chia tài sản chung trong hôn nhân được coi là một quan hệ dân sự, trong đó ý chí đồng thuận của các bên là yếu tố cốt lõi Quy định mới này không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu mà còn phản ánh đúng bản chất quyền sở hữu trong pháp luật dân sự, cho phép vợ chồng tự do thoả thuận về tài sản của mình.

Thứ hai, điều kiện về hình thức của thoả thuận phân chia bất động sản của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân có hiệu lực pháp luật

Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được thực hiện thông qua văn bản thoả thuận hoặc bản án của Toà án Trừ trường hợp một bên yêu cầu Toà án can thiệp, việc phân chia tài sản chỉ diễn ra khi có sự thoả thuận giữa hai bên Thỏa thuận này được coi là một giao dịch dân sự và phải tuân theo hình thức pháp luật để có hiệu lực.

Theo Điều 38 Luật HNGĐ 2014, việc chia tài sản chung giữa vợ chồng cần được lập thành văn bản và công chứng theo yêu cầu hoặc quy định của pháp luật Mặc dù việc chia tài sản ưu tiên thực hiện qua thỏa thuận giữa hai bên, nhưng để đảm bảo tính hợp pháp, thỏa thuận này phải được ghi lại bằng văn bản.

Theo quy định của pháp luật về công chứng và chứng thực, không có yêu cầu bắt buộc phải công chứng hay chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng, bao gồm quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

Theo Luật Đất đai 2013, việc công chứng và chứng thực hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất không yêu cầu bắt buộc đối với văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng Điều này có nghĩa là các bên có thể tự thỏa thuận mà không cần phải thực hiện công chứng hoặc chứng thực.

Theo Luật Đất đai 2013, văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không bắt buộc phải công chứng hay chứng thực khi thực hiện quyền của người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản.

Theo Luật Đất đai 2013, có sự khác biệt giữa các giao dịch phải công chứng, chứng thực và thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng Cụ thể, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không nhất thiết phải được công chứng, chứng thực Các giao dịch bắt buộc phải công chứng, chứng thực theo quy định của Luật Đất đai cần được thực hiện để đảm bảo tính hợp pháp và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Theo Luật Đất đai 2013, các giao dịch giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất cần được công chứng để đảm bảo tính hợp pháp và phòng ngừa rủi ro Đặc biệt, giao dịch phân chia tài sản chung của vợ chồng liên quan đến quyền sử dụng đất không yêu cầu công chứng, vì cả hai bên đều có quyền hợp pháp đối với tài sản chung Do đó, họ có quyền tự thỏa thuận về việc phân chia quyền lợi trong tài sản chung mà pháp luật công nhận và bảo vệ.

Luật Công chứng 2014 và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao, chữ ký, và hợp đồng mà không cần công chứng Trong hồ sơ đăng ký biến động đất đai và tài sản gắn liền với đất, không yêu cầu phải có văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng, theo Điều 84 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và khoản 5 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT.

Theo các quy định pháp lý hiện hành, thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực Mặc dù pháp luật không yêu cầu việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được công chứng, nhưng đối với bất động sản, việc công chứng là cần thiết để đảm bảo quyền lợi và giải quyết tranh chấp tại Toà án nếu có phát sinh.

1.1.2 Bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Hậu quả pháp lý của việc thoả thuận chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

1.2.1 Về quan hệ tài sản của vợ chồng

Sau khi phân chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quan hệ tài sản giữa vợ chồng sẽ có những thay đổi nhất định, đặc biệt liên quan đến hình thức sở hữu của một số loại tài sản Các nguyên tắc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng được quy định rõ tại Điều luật.

Theo Điều 43 Luật HNGĐ 2014, một phần của quy định này đã mất hiệu lực Tuy nhiên, chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm cả bất động sản, vẫn không thay đổi Dù có chia tài sản chung hay không, chế độ tài sản của vợ chồng luôn tuân theo quy định của pháp luật.

(i) Chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi chế độ tài sản giữa vợ và chồng

Mặc dù vợ chồng có thể chia toàn bộ bất động sản chung, chế độ tài sản của họ vẫn theo quy định của pháp luật Việc chia tài sản chỉ thay đổi hình thức sở hữu từ chung sang riêng, trong khi những tài sản không nằm trong thỏa thuận vẫn thuộc sở hữu chung Khối tài sản chung của vợ chồng mang tính chất mở và sẽ tiếp tục phát sinh khi hôn nhân còn tồn tại Do đó, việc phân chia tài sản chung không làm thay đổi chế độ tài sản trong tương lai Điều này được quy định rõ ràng tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, nhấn mạnh rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không chấm dứt chế độ tài sản theo luật định.

(ii) Hình thức sở hữu một số loại tài sản thay đổi sau khi phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Khoản 1 Điều 40 Luật HNGĐ 2014 xác định hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là “phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác; phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng” Điều luật này được hướng dẫn rõ hơn tại văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-

Theo quy định của CP, tài sản riêng của vợ chồng bao gồm phần tài sản được chia, hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản đó, cũng như từ tài sản riêng khác của mỗi bên So với pháp luật trước đây, phạm vi tài sản bị ảnh hưởng bởi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã có những thay đổi đáng kể Cụ thể, Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định rằng nếu không có thỏa thuận khác, hoa lợi và lợi tức từ phần tài sản chia sẽ trở thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng Các văn bản pháp luật hiện hành đều công nhận rằng phần tài sản được chia cùng với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là tài sản riêng của mỗi bên.

Việc chuyển đổi hình thức sở hữu tài sản từ sở hữu chung hợp nhất sang sở hữu riêng là điều tất yếu, vì đây là những tài sản bị ảnh hưởng trực tiếp bởi hành vi phân chia tài sản chung Thông thường, hệ quả này là mục tiêu chính mà các bên hướng đến khi chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân Nếu phần bất động sản được chia tạo ra hoa lợi hoặc lợi tức, những tài sản này cũng sẽ thuộc về sở hữu riêng của một bên.

Quy tắc về cấu trúc tài sản chung và riêng của vợ chồng đã có sự thay đổi đáng kể, đặc biệt là trong việc phân chia tài sản chung khi hôn nhân vẫn tồn tại Việc này có thể biến một phần tài sản chung thành tài sản riêng, nhưng chỉ áp dụng cho hoa lợi và lợi tức phát sinh sau khi đã chia tài sản Những lợi tức trước đó vẫn thuộc về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Theo tác giả, sự thay đổi này là hợp lý, vì thu nhập từ lao động và hoạt động sản xuất kinh doanh thường là nguồn tài sản chính của các cặp vợ chồng Tuy nhiên, điều này có thể làm suy yếu mối ràng buộc tài sản giữa vợ chồng, dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống vật chất của gia đình, khi mà mỗi bên phải tính toán phần đóng góp của mình để không bị thiệt thòi.

Hệ quả lý luận này dẫn đến sự bất hợp lý trong việc phân chia tài sản, ảnh hưởng đến các tài sản không liên quan Ngoại trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận cụ thể, không có mối liên hệ nào giữa thu nhập từ lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác với tài sản được phân chia Việc coi thu nhập hợp pháp phát sinh sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ hoặc chồng không hoàn toàn phù hợp với quy định về căn cứ xác định tài sản chung theo khoản 1 Điều 27 Luật HNGĐ 2000.

Tài sản chung của vợ chồng bao gồm thu nhập từ lao động và hoạt động sản xuất, kinh doanh Khi phân chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân, chỉ những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận phân chia mới bị ảnh hưởng pháp lý, trong khi các tài sản khác cần xác định rõ ràng theo quy định Nếu chỉ phân chia một phần bất động sản chung, vợ chồng có thể không mong muốn rằng toàn bộ thu nhập sau này trở thành tài sản riêng Nhiều người có thể bất ngờ khi biết rằng, sau khi chia tài sản chung để trả nợ riêng, thu nhập của họ sẽ không còn là tài sản chung mà trở thành tài sản riêng theo quy định pháp luật Để tránh tình huống này, vợ chồng cần ghi nhận rõ ràng trong văn bản thỏa thuận về vấn đề tài sản.

Pháp luật hiện hành không đưa nhóm tài sản “thu nhập do hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác” vào khối tài sản riêng của một bên sau khi chia tài sản chung là hợp lý Theo quy định, từ thời điểm chia tài sản chung có hiệu lực, nếu tài sản có được từ khai thác tài sản riêng mà không xác định được nguồn gốc, thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng Điều này cho thấy sự thay đổi trong tư duy pháp lý, khi thu nhập từ lao động và hoạt động sản xuất, kinh doanh được coi là sở hữu chung, bất kể nguồn gốc Quy định này phù hợp với nguyên tắc suy đoán pháp lý, rằng tài sản không chứng minh được là tài sản riêng thì thuộc sở hữu chung Ngoài ra, việc bổ sung quy định về hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng giúp các bên quản lý tài sản hiệu quả hơn.

7 Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập II: Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, NXB Trẻ, tr 27

Theo Khoản 4 Điều 44 và Khoản 2 Điều 45 của Luật HNGĐ 2014, việc xác định tài sản chung và riêng trở nên dễ dàng hơn Mục đích của việc phân chia tài sản chung là nhằm tạo ra sự độc lập tài chính, do đó, việc thừa nhận hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cũng được xem là tài sản riêng, phù hợp với mong muốn của các bên Hơn nữa, tài sản gốc tạo ra hoa lợi và lợi tức vốn là tài sản riêng; nếu không có sự kiện kết hôn, các hoa lợi và lợi tức này sẽ thuộc sở hữu riêng Rõ ràng, sau khi chia tài sản chung, tính chất "riêng" của các tài sản riêng càng được khẳng định.

Pháp luật hiện hành cho phép vợ chồng thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt là khi hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng trở về thuộc sở hữu riêng Điều này mang lại sự linh hoạt và đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên trong việc quản lý tài sản.

Việc xác định hậu quả phân chia tài sản chung không nên được hiểu là vợ chồng có thể tự do "thoả thuận khác" cho mọi loại tài sản, mà chỉ nên giới hạn trong phạm vi tài sản được chia, hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản đó cùng với hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng khác Điều này có nghĩa là "thoả thuận khác" của vợ chồng chỉ có thể giảm bớt khối lượng tài sản chuyển từ sở hữu chung sang sở hữu riêng mà không cho phép tăng thêm tài sản riêng.

Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ chồng với bên thứ ba, được xác lập trước thời điểm chia tài sản chung, vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý.

Khoản 2 Điều 40 Luật HNGĐ 2014 khẳng định: “Thoả thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.” Điều này có nghĩa là, trước khi thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có quyền tài sản, nghĩa vụ tài sản như thế nào với chủ thể thứ ba khác thì sau việc phân chia, những quyền và nghĩa vụ đó vẫn giữ nguyên không thay đổi Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, giá trị pháp lý của thoả thuận chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ không làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của quyền, nghĩa vụ tài sản giữa vợ, chồng với bên thứ ba đã phát sinh trước thời điểm thoả thuận phân chia có hiệu lực Khi giao dịch tài sản với vợ, chồng, bên thứ ba không có nghĩa vụ phải dự đoán vợ chồng sẽ tiến hành phân chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân dẫn đến những thay đổi về khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ tài sản Pháp luật một mặt đảm bảo vợ chồng có quyền tự do định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của mình (vợ chồng không cần sự đồng ý hay giám sát từ bên thứ ba mà mình có nghĩa

Chấm dứt hiệu lực của việc thỏa thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

1.3.1 Điều kiện để thoả thuận chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực

Để chấm dứt việc phân chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ và chồng cần có sự thỏa thuận rõ ràng và đồng thuận về ý chí của cả hai bên.

Khoản 1 Điều 41 Luật HNGĐ 2014 quy định: “Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung” Khác với khi chia tài sản chung, để chấm dứt hiệu lực của việc phân chia thì cần sự đồng thuận của cả vợ và chồng, Toà án không còn khả năng can thiệp dù một bên có yêu cầu Điểm khác biệt này được giải thích dựa trên tính chất tài sản trước và sau khi phân chia Khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng đều là chủ sở hữu tài sản Mặc dù không xác định cụ thể phần quyền sở hữu của mỗi người nhưng mỗi người đều có quyền thể hiện ý chí định đoạt của mình đối với tài sản chung Pháp luật bảo vệ quyền này của chủ sở hữu tài sản chung thông qua quy định “mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung” 15 Ngược lại, sau khi đã tiến hành phân chia, tài sản chung trở thành tài sản riêng và do một bên toàn quyền định đoạt Điều đó có nghĩa là bên vợ hoặc chồng còn lại không còn khả năng tác động đến những tài sản riêng của bên kia, không có quyền đơn phương yêu cầu thay đổi hình thức sở hữu của tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chia hay tài sản riêng khác Pháp luật không cho phép một bên vợ hoặc chồng yêu cầu Toà án giải quyết việc chấm dứt thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm bảo vệ tối đa quyền của chủ sở hữu tài sản Như vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chỉ có thể chấm dứt dựa trên sự đồng thuận của vợ chồng Điều này không chỉ áp dụng trong trường hợp vợ chồng tự thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà còn đúng khi việc phân chia tài sản được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án

Điều kiện hình thức để văn bản thoả thuận chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là rất quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của thỏa thuận này.

Luật HNGĐ năm 2014 quy định hình thức thoả thuận chấm dứt việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, dẫn chiếu đến điều luật về phân chia tài sản Cụ thể, theo khoản 1 Điều 41, hình thức thoả thuận phải tuân thủ theo các quy định hiện hành.

Theo Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 và Khoản 2 Điều 38 của Luật HNGĐ, việc chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản và công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật So với các quy định trước đây, Luật HNGĐ năm 2014 đã có bước tiến đáng kể khi ghi nhận rõ hình thức có hiệu lực của thoả thuận chấm dứt hiệu lực nếu việc phân chia tài sản được Toà án giải quyết, thể hiện qua Khoản 4 Điều 41 của luật này.

Theo quy định năm 2014, khi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án hoặc quyết định của Tòa án, thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung cần được Tòa án công nhận Điều này giúp ngăn chặn tình trạng bản án hoặc quyết định của Tòa án về việc chia tài sản chung vẫn còn hiệu lực pháp luật, trong khi việc phân chia tài sản đã chấm dứt hiệu lực do sự thỏa thuận giữa vợ chồng.

1.3.2 Thời điểm có hiệu lực và hậu quả của việc chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Thứ nhất, thời điểm việc chấm dứt việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực

Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể thời điểm có hiệu lực của thoả thuận chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung Tuy nhiên, có thể suy ra rằng thời điểm này tương tự như thời điểm có hiệu lực của thoả thuận chia tài sản chung Theo hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ 2000, thời điểm có hiệu lực của thoả thuận chấm dứt chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được xác định như sau: nếu vợ chồng có thỏa thuận và ghi rõ trong văn bản, thời điểm có hiệu lực sẽ là thời điểm đó; nếu không xác định, thời điểm có hiệu lực tính từ ngày lập văn bản Nếu văn bản được công chứng, thì thoả thuận chấm dứt có hiệu lực từ thời điểm công chứng Đối với trường hợp chia tài sản chung theo bản án, quyết định của Toà án, thoả thuận chấm dứt có hiệu lực từ thời điểm Toà án công nhận.

16 Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP

Thứ hai, hậu quả của việc chấm dứt hiệu lực việc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Theo Điều 41 Luật HNGĐ 2014, từ ngày thỏa thuận của vợ chồng có hiệu lực, việc xác định tài sản chung và tài sản riêng sẽ tuân theo Điều 33 và Điều 43 của luật này Điều này có nghĩa là các quy định trước đó về quyền sở hữu tài sản không còn áp dụng, và nguyên tắc xác định tài sản chung, riêng sẽ được khôi phục Các tài sản bị ảnh hưởng bởi việc chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung bao gồm hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia cũng như từ tài sản riêng khác Cần lưu ý rằng nguyên tắc xác định tài sản chung - riêng chỉ có hiệu lực trở lại từ thời điểm thỏa thuận chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung có hiệu lực pháp luật Do đó, hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng đã hình thành trước đó vẫn thuộc về tài sản riêng Đối với các tài sản đã được chia cho mỗi bên, việc thay đổi hình thức sở hữu phụ thuộc vào thỏa thuận của vợ chồng; nếu không có thỏa thuận khác, tài sản đã chia vẫn thuộc sở hữu riêng của một bên.

Khoản 3 Điều 41 Luật HNGĐ 2014 quy định rằng quyền và nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước khi chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ khi có thỏa thuận khác Điều này áp dụng cho mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng và giữa vợ chồng với bên thứ ba, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao dịch Việc thay đổi quy tắc xác định tài sản chung và riêng của vợ chồng có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, nhưng không làm tổn hại quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba Pháp luật bảo vệ quyền tự do định đoạt của chủ sở hữu mà không xâm phạm quyền lợi của người khác.

Việc chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung trong hôn nhân không tự động làm mất quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng đối với tài sản đã được chia, cũng như hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trước khi có thỏa thuận chấm dứt phân chia tài sản chung.

Theo Khoản 2 Điều 41 Luật HNGĐ 2014, quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng vẫn được duy trì nguyên vẹn Hậu quả pháp lý của các thỏa thuận chỉ xác định nguyên tắc về tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, áp dụng như trước khi phân chia tài sản Đồng thời, các quy định đặc biệt liên quan đến hình thức sở hữu hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sẽ không còn hiệu lực.

1.3.3 Bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Hình thức thoả thuận chấm dứt hiệu lực việc chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng.

Hiện nay, pháp luật hôn nhân và gia đình chỉ quy định hai trường hợp văn bản thoả thuận chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải tuân theo thủ tục bắt buộc: một là công chứng nếu có quy định của pháp luật và hai là được Toà án công nhận theo bản án, quyết định có hiệu lực Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn rõ ràng về việc thoả thuận chia bất động sản chung có cần công chứng hay không Luật Công chứng năm 2014 chỉ xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng là khi được ký và đóng dấu, nhưng không quy định điều kiện hay thời điểm hết hiệu lực Để chấm dứt hiệu lực của văn bản thoả thuận chia tài sản chung, các bên cần thực hiện công chứng việc huỷ bỏ giao dịch, theo quy định tại Điều 51 Luật Công chứng năm 2014.

Huỷ bỏ giao dịch dân sự là một trong những hình thức chấm dứt hiệu lực của giao dịch này Theo Điều 422 BLDS năm 2015, hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp như: hợp đồng đã hoàn thành, theo thoả thuận của các bên, cá nhân hoặc pháp nhân giao kết hợp đồng qua đời hoặc chấm dứt tồn tại, hợp đồng bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt, không thể thực hiện do đối tượng không còn, hoặc theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này, cùng với các trường hợp khác do luật quy định.

Việc chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được coi là trường hợp chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận của các bên Cần lưu ý rằng căn cứ và hậu quả pháp lý khi hủy bỏ hợp đồng khác với khi thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.

18 Khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng 2014

Thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu

kỳ hôn nhân vô hiệu

1.4.1 Các trường hợp thoả thuận phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu

Theo Điều 42 Luật HNGĐ năm 2014, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể bị vô hiệu vì hai lý do chính: một là nếu việc phân chia gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình và quyền lợi hợp pháp của con cái, và hai là nếu mục đích chia tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ pháp lý Mặc dù vợ chồng có quyền tự do định đoạt tài sản chung, nhưng hành vi này không được xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người khác Nếu việc phân chia tài sản vi phạm nguyên tắc này, dẫn đến thiệt hại cho lợi ích của con cái hoặc gia đình, thì các giao dịch phát sinh sẽ không được pháp luật công nhận, và việc chia tài sản sẽ bị coi là vô hiệu theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014.

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình và quyền lợi của con cái, đặc biệt là những trẻ chưa thành niên hoặc những người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc khả năng lao động Quy định này mới được bổ sung trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, thể hiện rõ ràng ý chí của các nhà làm luật trong việc ưu tiên bảo vệ lợi ích gia đình và mối quan hệ hôn nhân, ngay cả khi vợ chồng đã thực hiện việc chia tài sản chung.

Sự bổ sung quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là hợp lý, vì hôn nhân vẫn tồn tại và không bị ảnh hưởng bởi việc chia tài sản Vợ chồng vẫn giữ nghĩa vụ đối với gia đình và con cái, bao gồm cả con chưa thành niên và con đã trưởng thành nhưng không có khả năng tự nuôi sống Trách nhiệm nuôi dưỡng và đảm bảo đời sống gia đình là ưu tiên hàng đầu của vợ chồng Nếu việc chia tài sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghĩa vụ này, thì sự phân chia đó sẽ trở nên vô hiệu.

Khoản 1 Điều 42 Luật HNGĐ 2014 đã đặt ra những khó khăn trong việc xác định phạm vi vô hiệu của việc chia tài sản chung trong hôn nhân, đặc biệt là khi đánh giá mức độ ảnh hưởng được xem là "nghiêm trọng" Việc xác định vô hiệu từng phần cần phải đảm bảo rằng lợi ích của con và gia đình không còn bị tác động Tuy nhiên, lợi ích gia đình và quyền lợi của con chung thường khó định lượng và có thể thay đổi theo thời gian Để quyết định phạm vi vô hiệu trong việc chia tài sản chung, có thể áp dụng một số phương pháp cụ thể.

Phương pháp đầu tiên yêu cầu thỏa thuận vô hiệu phải đảm bảo khôi phục lợi ích của gia đình và con cái, tương tự như tình trạng trước khi chia tài sản chung.

Phương pháp thứ hai là chỉ vô hiệu một phần sao cho đời sống gia đình không còn bị ảnh hưởng ở mức “nghiêm trọng”

Pháp luật hiện nay chỉ can thiệp khi sự ảnh hưởng đến lợi ích gia đình và quyền hợp pháp của con cái đạt đến mức “nghiêm trọng” Phương pháp xác định phần bị vô hiệu hiện tại không phù hợp với nguyên tắc ưu tiên lợi ích gia đình, vì nó có thể dẫn đến việc quyền lợi của con cái bị xâm phạm dưới lợi ích riêng của vợ hoặc chồng trong quá trình chia tài sản chung Điều này cho thấy việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mới là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến lợi ích gia đình, và để khôi phục các quyền lợi này, toàn bộ việc chia tài sản chung cần phải bị vô hiệu Ngoài ra, việc chia tài sản nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ như nuôi dưỡng, bồi thường thiệt hại, hay nghĩa vụ tài chính khác cũng sẽ dẫn đến sự vô hiệu của việc chia tài sản theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 và các quy định pháp luật liên quan.

Luật HNGĐ năm 2014 chỉ quy định nghĩa vụ tài sản, không điều chỉnh hành vi phân chia tài sản chung nhằm trốn tránh nghĩa vụ nhân thân như tình yêu thương, chung thủy Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không được phép nếu làm ảnh hưởng đến mối quan hệ nhân thân, vi phạm các điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội Chủ thể có quyền phản đối việc chia tài sản chung và khởi kiện yêu cầu tuyên vô hiệu là bên có quyền trong các mối quan hệ này Quyền phản đối phát sinh từ quyền tài sản, do đó nghĩa vụ tài sản phải là nghĩa vụ thực tế và đã được xác định Nếu nghĩa vụ còn tranh chấp, bên có quyền không thể phản đối việc chia tài sản chung với lý do trốn tránh nghĩa vụ Tranh chấp nghĩa vụ tài sản không ngăn cản việc chia tài sản chung, vì đây chỉ là tranh chấp về nghĩa vụ tài sản đối với bên thứ ba, không phải về quyền sở hữu tài sản.

Thứ hai, vô hiệu do vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung

Việc phân chia tài sản chung sẽ bị coi là không hợp pháp nếu không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Vi phạm điều kiện về chủ thể trong hôn nhân xảy ra khi một hoặc cả hai bên vợ chồng không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Vi phạm điều kiện về sự tự nguyện trong việc chia tài sản chung có thể xảy ra khi có sự nhầm lẫn, giả tạo, lừa dối hoặc đe dọa Các bên liên quan có thể tiến hành phân chia tài sản trong trạng thái không nhận thức và không làm chủ được hành vi của mình, dẫn đến những hệ quả pháp lý không mong muốn.

Vi phạm về nội dung và mục đích trong việc chia tài sản chung xảy ra khi nội dung hoặc mục đích của việc chia tài sản trái với quy định của pháp luật hoặc đi ngược lại với các chuẩn mực đạo đức xã hội.

Việc chia tài sản chung phải tuân thủ các điều kiện về hình thức, trong đó thỏa thuận phân chia cần được lập thành văn bản Nếu văn bản không đáp ứng các yêu cầu hình thức theo quy định của pháp luật, thì sẽ coi là vi phạm.

1.4.2 Hậu quả của việc chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị tuyên bố vô hiệu

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu sẽ không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập Các bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Thời điểm vô hiệu của việc chia bất động sản chung trong hôn nhân được xác định ngay khi việc phân chia được thiết lập, không phải khi có yêu cầu hay quyết định của Tòa án Nếu vợ chồng chưa thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận phân chia, họ không cần thực hiện nữa; ngược lại, nếu đã tiến hành chia, họ phải khôi phục lại tình trạng sở hữu chung cho các tài sản đã chia Hoa lợi và lợi tức phát sinh từ thời điểm chia bất động sản chung sẽ trở về khối tài sản chung, bất kể nguồn gốc của chúng Nếu không thể hoàn trả tài sản đã nhận ban đầu, các bên phải tính giá trị thành tiền để bổ sung vào khối tài sản chung.

Hậu quả pháp lý khi vô hiệu hóa việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là khôi phục hình thức sở hữu chung hợp nhất đối với phần tài sản đã được chia Các nguyên tắc xác định tài sản chung và riêng không có hiệu lực từ thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản chung, dẫn đến hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản được chia; đồng thời, hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng cũng thuộc sở hữu chung hợp nhất của hai bên.

CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN

Ngày đăng: 05/07/2022, 23:31

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w