1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Kế toán tài sản cố định trong các doanh nghiệp niêm yết trên địa bàn thành phố hải phòng

186 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Kế Toán Tài Sản Cố Định Trong Các Doanh Nghiệp Niêm Yết Trên Địa Bàn Thành Phố Hải Phòng
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ Kinh Tế
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 186
Dung lượng 881,86 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG (40)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG CÁC (94)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH (142)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH

1 1 Khái quát chung về tài sản cố định trong doanh nghiệp

1 1 1 Khái niệm tài sản cố định

Tài sản cố định (TSCĐ) là một phần quan trọng trong tổng tài sản của các đơn vị, đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh Qua lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa TSCĐ, và khái niệm này đã thay đổi theo thời gian, phản ánh các quan điểm và cách tiếp cận khác nhau đối với tài sản nói chung và TSCĐ nói riêng trong từng giai đoạn phát triển.

Có thể hệ thống các khái niệm này dựa trên các tiêu chuẩn để xác định một tài sản nhƣ thế nào thì đƣợc coi là một TSCĐ

Dựa trên tiêu chuẩn mục đích và thời gian sử dụng tài sản

Khái niệm về tài sản cố định (TSCĐ) ban đầu tập trung vào mục đích và thời gian sử dụng của tài sản Theo Gene A Gohlke (1974), vào thời điểm đó, TSCĐ chưa được định nghĩa rõ ràng mà được hiểu chung trong khái niệm “bất động sản” Ông cho rằng bất động sản là các tài sản có thời gian hữu ích lâu dài, phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà không phải để bán Bất động sản được chia thành hữu hình (như đất đai, máy móc) và vô hình (như bằng sáng chế, nhãn hiệu) Gohlke cũng phân loại tài sản thành "tích sản hữu hình", là những tài sản vật chất có thời gian sử dụng lâu dài, và "tích sản vô hình", là các dịch vụ không có hình thể mang lại lợi ích cho doanh nghiệp Ông chỉ ra rằng các tài sản vô hình có thời gian hữu ích cũng cần khấu hao tương tự như tài sản hữu hình, trong khi những tài sản vô hình có thời gian hữu ích vô hạn thì không cần khấu hao.

Theo Kermit D Larson (1994), tài sản vật chất được sử dụng trong sản xuất hoặc lưu thông hàng hóa, dịch vụ và có thời gian sử dụng lâu dài hơn một kỳ kế toán được gọi là tài sản cố định (TSCĐ).

Theo Robert F Meigs và các cộng sự (1996), tài sản cố định (TSCĐ) là những tài sản có thời gian sử dụng lâu dài, được đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không nhằm mục đích bán cho khách hàng Quan điểm này nhấn mạnh rằng mục đích sử dụng của tài sản là phục vụ cho hoạt động sản xuất, không phải để tiêu thụ như hàng hóa.

Theo “Raymond H Peterson” (2002) cũng đồng quan điểm trên và cho rằng:

TSCĐ là tài sản có thời gian sử dụng trên một năm, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được báo cáo theo giá trị còn lại.

Theo Hennie Van Greuning và Marius Koen (2000), một tài sản được coi là tài sản cố định (TSCĐ) khi nó đáp ứng đồng thời các điều kiện sau: có thời gian sử dụng lâu dài, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không phải là đầu tư để bán.

Theo Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 16, tài sản, nhà xưởng và thiết bị được định nghĩa là những tài sản hữu hình mà doanh nghiệp sử dụng để sản xuất, cung cấp hàng hóa và dịch vụ, cho thuê, hoặc phục vụ cho mục đích quản lý hành chính Những tài sản này thường được sử dụng trong nhiều giai đoạn khác nhau.

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 38, tài sản vô hình được định nghĩa là tài sản không có hình thức vật chất nhưng có thể xác định được Tài sản này được sử dụng cho mục đích sản xuất hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, cho thuê cho bên thứ ba, hoặc phục vụ cho các mục đích hành chính.

TSCĐ, hay tài sản cố định, được định nghĩa qua nhiều thuật ngữ như bất động sản, cơ xưởng, và tài sản hữu hình hoặc vô hình Điểm chung của các loại tài sản này là chúng được sử dụng qua nhiều kỳ kế toán và mục đích chính là phục vụ cho hoạt động kinh doanh, không phải để bán.

Dựa trên tiêu chuẩn lợi ích kinh tế và thời gian sử dụng tài sản

Ngoài việc xác định tài sản cố định (TSCĐ) dựa trên mục đích và thời gian sử dụng, nghiên cứu của Barry J Epstein và Abbas Ali Mirza (2000) cũng chỉ ra rằng thời gian sử dụng và lợi ích kinh tế mà tài sản mang lại là hai tiêu chuẩn quan trọng Một tài sản được ghi nhận là TSCĐ khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện này.

Sản phẩm có thời gian sử dụng lâu dài, đủ năng lực sản xuất và hứa hẹn mang lại lợi ích kinh tế bền vững cho doanh nghiệp, như được nêu bởi Donald E Kieso và Jerry J Weygandt.

Theo quy định năm 2010, để được công nhận là tài sản cố định (TSCĐ), tài sản trong doanh nghiệp phải đáp ứng hai tiêu chuẩn: (1) chắc chắn trong tương lai sẽ mang lại lợi ích kinh tế từ việc sử dụng tài sản; (2) có căn cứ đáng tin cậy để xác định giá trị của tài sản Mặc dù các khái niệm này không trực tiếp đề cập đến mục đích sử dụng cho hoạt động kinh doanh, nhưng việc nhấn mạnh lợi ích kinh tế từ tài sản cho thấy rằng tài sản đó phải phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Tiêu chuẩn về lợi ích kinh tế từ việc sử dụng tài sản đã được ghi nhận trong các khái niệm về TSCĐ.

Dựa trên tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng tài sản

Trước năm 1995, chế độ kế toán thống kê của Việt Nam cùng với chế độ kế toán doanh nghiệp theo quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT-1995 đã đưa ra khái niệm về tài sản cố định (TSCĐ) dựa trên hai tiêu chuẩn chính: giá trị và thời gian sử dụng TSCĐ hữu hình được định nghĩa là những tài sản có hình thái vật chất, đáp ứng đủ tiêu chuẩn về giá trị và thời gian sử dụng theo quy định hiện hành Trong khi đó, TSCĐ vô hình là các tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện giá trị đã đầu tư nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp Theo quy định của chế độ kế toán thời kỳ này, tiêu chuẩn về giá trị đã được quy định rõ ràng trong các văn bản quản lý TSCĐ do Bộ Tài chính ban hành, cụ thể là theo Thông tư 45/TT-BTC ngày 25/4/2013.

TSCĐ hiện hành của Việt Nam là trên 30 000 000 đồng”; “Thông tƣ số 203/2009/TT- BTC ngày 20/10/2009” thì áp dụng tiêu chuẩn quy định về “giá trị TSCĐ là trên

Dựa trên tiêu chuẩn giá trị, mục đích và thời gian sử dụng tài sản

Theo các nhà nghiên cứu kế toán Bắc Mỹ, tài sản cố định là những tài sản hữu hình hoặc vô hình có giá trị lớn, có thời gian sử dụng trên 1 năm và được sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh, không phải để bán Điều này khác với đất đai mua để đầu cơ và vật kiến trúc xây dựng để bán, những tài sản này được phân loại là đầu tư dài hạn chứ không phải là tài sản cố định.

Theo nghiên cứu của các chuyên gia kế toán Tây Âu, tài sản cố định và bất động sản là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài Những tài sản này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh.

DN xây dựng, mua sắm làm công cụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải đối tƣợng khai thác ngắn hạn”

Ngày đăng: 04/07/2022, 16:06

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w