PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trong bài viết này, tôi sẽ nghiên cứu và phân tích thực trạng của dân ca ví, giặm xứ Nghệ, đồng thời đề xuất các biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của thể loại văn học dân gian này thông qua việc giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn 10.
Học sinh lớp 10 và một số học sinh lớp 11, 12 THPT tại đơn vị tôi công tác trong thời gian năm học 2020-2021 và năm học 2021-2022
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về các biện pháp bảo tồn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua giảng dạy văn học dân gian trong chương trình Ngữ Văn 10 nhằm đưa ra giải pháp thiết thực giúp học sinh hiểu và yêu thích văn học dân gian Điều này không chỉ nâng cao ý thức bảo tồn văn hóa dân ca mà còn bồi đắp tình yêu quê hương, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1 Phương pháp phân tích tài liệu
- Thao khảo một số tài liệu: Xem và lựa chọn thông tin cần thiết, có độ tin cậy cao nhất nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu
Để so sánh kết quả của đề tài với các nghiên cứu trước đây, cần tham khảo thông tin từ sách, báo và các công trình nghiên cứu liên quan Việc này giúp đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của thông tin, đồng thời cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về chủ đề nghiên cứu.
- Tham khảo nội dung từ các quyển sách báo, các bài viết của học sinh, của nghệ nhân dân ca ví, giặm trên môi trường mạng xã hội
2 Phương pháp điều tra, quan sát
Mục đích của nghiên cứu là đánh giá thực trạng và kiểm nghiệm hiệu quả các phương pháp nhằm khuyến khích học sinh phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo trong việc học văn học dân gian Qua đó, học sinh sẽ có thêm kiến thức, phát triển tình yêu và trách nhiệm trong việc gìn giữ, phát huy cũng như tự hào về văn học dân gian và dân ca ví, giặm xứ Nghệ.
Quan sát trực tiếp hoạt động học tập của học sinh giúp hiểu rõ thái độ và mức độ tiếp nhận văn học dân gian Việt Nam, đặc biệt là dân ca ví, giặm xứ Nghệ Việc này không chỉ phản ánh sự quan tâm của học sinh đối với di sản văn hóa mà còn góp phần nâng cao nhận thức về giá trị của văn học dân gian trong đời sống hiện đại.
Để thực hiện quan sát, cần theo dõi quá trình học tập của học sinh trong việc diễn xướng văn học dân gian và dân ca ví, giặm xứ Nghệ.
- Mục đích: Sử dụng hệ thống câu hỏi phỏng vấn được chuẩn hóa nhằm tìm hiểu sâu hơn những vấn đề nghiên cứu
- Nguyên tắc: Phỏng vấn trong không khí cởi mở, tin cậy, người được phỏng vấn tự do trình bày những vấn đề người phỏng vấn đưa ra
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi phỏng vấn học sinh về thái độ học tập văn học dân gian và sự hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ Ngoài ra, chúng tôi cũng phỏng vấn Ban giám hiệu và giáo viên dạy chương trình Ngữ văn 10, cùng với các nghệ nhân dân ca ví, giặm Quá trình phỏng vấn được ghi lại một cách hệ thống để tổng hợp các nội dung trao đổi.
4 Phương pháp xử lí thông tin
- Dựa vào số liệu điều tra, rút ra các kết luận khoa học cho đề tài
Khảo sát năng lực và kết quả học tập của học sinh ở các lớp thực nghiệm và đối chứng nhằm kiểm chứng hiệu quả của các phương pháp được đề xuất trong đề tài.
CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lí luận
1.1 Văn học dân gian có những đặc trưng cơ bản: tính nguyên hợp, tính tập thể, tính truyền miệng và tính dị bản Theo PGS.TS Khoa học Vũ Anh Tuấn, trong bốn đặc trưng trên, tính nguyên hợp là dấu hiệu phân biệt rõ ràng nhất để phân biệt sự khác biệt giữa văn học dân gian và văn học viết Tính nguyên hợp của văn học dân gian thể hiện ở chỗ: tác phẩm văn học dân gian chính là sự tổng hợp nguyên sơ của nhiều lĩnh vực nghệ thuật, kiến thức trong mình nó Vì thế, khi tìm hiểu tác phẩm văn học dân gian, chúng ta không thể bỏ qua đặc trưng này Đây chính là nguyên nhân vì sao phải giảng dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
1.2 Nghị quyết Trung Ương Đảng lần 5 Khóa VIII đã đề ra “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…” Trong thời kì hiện nay, đây là nhiệm vụ quan trọng của các cấp, các ngành, trong đó ngành Giáo dục có vai trò then chốt Một trong những nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là chúng ta phải phát huy văn hóa dân gian đặc sắc của dân tộc, trong đó văn học dân gian có một vị trí to lớn Phát huy vai trò của văn học dân gian là nuôi dưỡng cội nguồn của lòng yêu nước, yêu dân tộc, tha thiết với văn hóa dân tộc, tránh đánh mất bản sắc dân tộc
1.3 Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ( Dẫn theo Sách giáo khoa Giáo dục công dân 7, NXBGD Việt Nam, 2021, tr.48)
Di sản văn hóa được phân thành hai loại chính: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể Một trong những ví dụ tiêu biểu của di sản văn hóa phi vật thể là dân ca ví, giặm xứ Nghệ.
Dân ca ví, giặm xứ Nghệ, hay còn gọi là dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh, là hai thể loại hát dân ca không có nhạc đệm, được sáng tạo và lưu truyền bởi cộng đồng hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh Loại hình nghệ thuật này đã phát triển mạnh mẽ, trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của nhân dân xứ Nghệ Dân ca ví, giặm được thực hành trong nhiều hoạt động đời sống như ru con, làm ruộng, chèo thuyền, dệt vải và xay lúa, với các tên gọi đặc trưng theo hình thức lao động như ví phường vải, ví phường đan, và giặm ru Hai lối hát này thường được kết hợp với nhau, tạo thành tên gọi chung là dân ca ví, giặm.
Ví và giặm xứ Nghệ là hai loại hình nghệ thuật hát dân gian có sự kết hợp giữa tính ngẫu hứng và quy cách cụ thể Chúng chia sẻ những đặc điểm địa phương về thang điệu, điệu thức, tiết tấu, giai điệu và giọng hát, được thể hiện qua ba hình thức chính: hát lẻ, hát đối và hát cuộc Các cuộc hát thường bao gồm ba chặng chính: hát dạo, hát đối và hát xe kết, với sự tham gia của ít nhất hai đến ba người, trong đó có một người hát chính và những người còn lại hỗ trợ giọng hát.
Ca từ dân ca ví, giặm xứ Nghệ là những vần thơ ngắn gọn, dễ nhớ và dễ hát, phản ánh đa dạng cuộc sống, tập quán xã hội, lịch sử và tình yêu quê hương Chúng mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện lòng kính trọng cha mẹ, sự chung thủy và nghĩa tình, góp phần gìn giữ các truyền thống tốt đẹp trong ứng xử xã hội Ngoài ra, dân ca ví, giặm còn là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm âm nhạc và văn hóa hiện đại, được công chúng yêu thích, làm phong phú thêm đời sống văn hóa và tinh thần của cộng đồng.
Ngày 27/11/2014, dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, đánh dấu niềm tự hào cho người dân xứ Nghệ và cả nước Sự công nhận này cũng đặt ra trách nhiệm lớn lao trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua các hành động cụ thể, thường xuyên và lâu dài.
1.4 Trải nghiệm: Là quá trình nhận thức, khám phá đối tượng bằng việc tương tác với đối tượng thông qua các thao tác vật chất bên ngoài (nhìn, sờ, nếm, ngửi…) và quá trình tâm lí bên trong (chú ý, ghi nhớ, tư duy, tưởng tượng) Qua đó, chủ thể học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, tiếp thu, tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân và hoàn thành các kĩ năng trong cuộc sống
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong Chương trình Giáo dục Phổ thông là một hình thức giáo dục quan trọng, nơi học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn dưới sự hướng dẫn của giáo viên Qua đó, học sinh phát triển tình cảm, đạo đức và kỹ năng, đồng thời tích lũy kinh nghiệm và phát huy tiềm năng sáng tạo cá nhân.
Coi trọng, tăng cường và đổi mới tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một đổi mới căn bản của Chương trình Giáo dục Phổ thông mới
Việc áp dụng linh hoạt và đa dạng các phương pháp giảng dạy văn học dân gian là rất quan trọng để đưa dân ca ví, giặm xứ Nghệ vào trường học Điều này không chỉ giúp giữ gìn mà còn phát huy giá trị của dân ca ví, giặm xứ Nghệ trong cộng đồng.
Cơ sở thực tiễn
2.1 Nội dung dạy học văn học dân gian trong chương trình Ngữ Văn 10 theo công văn 4040/BGDĐT-GDTrH
1 Khái quát văn học dân gian Việt Nam
2 Chiến thắng Mtao Mxây (Trích Đăm Săn - sử thi
3 Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng
5 Nhưng nó phải bằng hai mày
6 Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa Chỉ dạy bài ca dao 1,4,6
7 Ca dao hài hước Chỉ dạy bài ca dao 1,2
8 Ôn tập văn học dân gian Việt Nam
Văn học dân gian Việt Nam không chỉ khuyến khích học sinh tự đọc và tìm hiểu, mà còn yêu cầu giáo viên cần có sự đổi mới trong phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2.2 Thực trạng học tập văn học dân gian và hiểu biết, yêu thích dân ca ví, giặm xứ Nghệ của học sinh THPT a Thực trạng học tập văn học dân gian của học sinh THPT Để có kết luận xác đáng, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh
Tôi đã tiến hành khảo sát mức độ hứng thú học văn học dân gian của 326 học sinh lớp 10 THPT tại đơn vị công tác của mình Kết quả khảo sát cho thấy (Phiếu khảo sát 01: xem phụ lục).
Lớp Tổng số HS Rất thích học Bình thường Không thích học
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Số liệu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết học sinh chưa có tư tưởng và thái độ học tập đúng đắn, đặc biệt là với môn Văn học dân gian, mà các em không thích và không coi trọng Kiến thức về văn học dân gian không nằm trong phạm vi ôn thi THPTQG, dẫn đến tâm lý chán nản và thiếu hứng thú trong việc học Để đánh giá thực trạng hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ, tôi đã tiến hành khảo sát 326 học sinh lớp 10 tại trường.
Hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Không hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Số liệu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Khảo sát cho thấy học sinh THPT chưa có ý thức tìm hiểu về dân ca ví, giặm xứ Nghệ, một di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận Điều này dẫn đến việc các em chưa nhận thức được vẻ đẹp và ý nghĩa của di sản này, cũng như trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca ví, giặm.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh THPT ít nghe dân ca ví, giặm là do sự yêu thích nhạc trẻ, cùng với việc dân ca ví, giặm chưa được giảng dạy chính khóa trong trường học Thêm vào đó, các hoạt động thi hát dân ca không được tổ chức thường xuyên và số lượng nghệ nhân hát dân ca ở địa phương ngày càng giảm.
2.3 Thực trạng giảng dạy văn học dân gian của giáo viên THPT
Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng giảng dạy của giáo viên tại một số trường THPT ở Nghệ An bằng cách phát phiếu khảo sát cho giáo viên Mục tiêu là để thu thập ý kiến của các thầy cô về việc áp dụng dân ca ví, giặm xứ Nghệ trong giảng dạy văn học dân gian, cũng như đánh giá sự hài lòng của họ đối với phương pháp này.
Có sự vận dụng dân ca ví, giặm
Chưa vận dụng dân ca ví, giặm
Hài lòng với phương pháp sử dụng
Chưa hài lòng với phương pháp sử dụng
Theo khảo sát, nhiều giáo viên đã đầu tư vào giáo án cho các tiết dạy văn học dân gian, nhưng vẫn chưa hài lòng với kết quả Họ chưa áp dụng hiệu quả dân ca ví, giặm vào quá trình giảng dạy Một số giáo viên và học sinh có tâm lý coi nhẹ văn học dân gian, cho rằng nó không liên quan đến các kỳ thi học sinh giỏi hay thi THPT Quốc gia, dẫn đến việc không chú trọng vào giờ dạy này.
2.4 Thực trạng về tài liệu tham khảo
Tôi đã tiến hành khảo sát các loại tài liệu tham khảo:
1 Nguyễn Khắc Đàm - Nguyễn Trọng Hoàn, Giới thiệu giáo án Ngữ Văn 10
(Chương trình chuẩn), Tập một, NXB Hà Nội, 2006
2 Phan Trọng Luận (Chủ biên), Thiết kế bài học Ngữ văn 10, NXB Giáo dục,
3 Phan Trọng Luận (Chủ biên), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn Lớp 10, NXB Đại học Sư Phạm, 2010
4 Phan Trọng Luận (Chủ biên), Ngữ văn 10, Sách giáo viên, Tập một, NXB
Từ kết quả khảo sát đó, tôi có nhận xét như sau:
Sách giáo viên hiện tại chỉ cung cấp hướng dẫn chung mà chưa đưa ra phương pháp giảng dạy cụ thể, điều này không đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong việc dạy học văn học dân gian theo chương trình.
Mặc dù các tác giả đã đề xuất những phương pháp dạy học văn học dân gian mang tính đổi mới, nhưng những đề xuất này vẫn còn chung chung và thiếu tính sáng tạo Khi áp dụng vào thực tiễn, những phương pháp này chưa tạo ra được hứng thú cho học sinh.
Các sách tham khảo hiện tại chưa đề cập đến việc áp dụng dân ca ví, giặm xứ Nghệ trong giảng dạy văn học dân gian Hơn nữa, việc dạy văn học dân gian cũng chưa được đặt trong mối quan hệ với văn hóa dân gian, điều này ảnh hưởng đến việc gìn giữ và phát huy di sản văn hóa của dân tộc.
2.5 Thực trạng về thi cử và kiểm tra đánh giá
Trong giáo dục hiện đại, việc đổi mới kiểm tra và đánh giá nhằm phát triển năng lực học sinh cần được thực hiện song song với cải cách phương pháp dạy học Tuy nhiên, thực tế cho thấy giáo viên vẫn tập trung chủ yếu vào việc đánh giá theo chuẩn kiến thức và kỹ năng, trong khi việc đánh giá quá trình học tập và sản phẩm học tập của học sinh từ nhiều nguồn khác nhau như tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau và đánh giá của giáo viên vẫn chưa được chú trọng Hơn nữa, các hình thức kiểm tra hiện nay còn thiếu sự đa dạng.
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tôi đã phát hiện một số biện pháp hiệu quả nhằm bảo tồn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua việc giảng dạy văn học dân gian trong chương trình Ngữ Văn 10 Những biện pháp này không chỉ góp phần đổi mới phương pháp dạy học văn học dân gian tại các trường THPT mà còn nâng cao chất lượng dạy học Ngữ Văn nói chung.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIỮ GÌN, PHÁT HUY DÂN CA VÍ, GIẶM XỨ NGHỆ THÔNG QUA DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN
Một số biện pháp để giữ gìn, phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua dạy học văn học dân gian (Ngữ Văn 10)
2.1 Tổ chức đa dạng hoạt động khởi động gắn với tìm hiểu văn học dân gian và dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Hoạt động khởi động bài học, mặc dù chỉ diễn ra trong khoảng bốn đến năm phút đầu giờ, đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự tích cực của người học, đặc biệt là tạo ra hứng thú học tập cho học sinh.
Tổ chức các hoạt động khởi động đa dạng liên quan đến văn học dân gian và dân ca ví, giặm xứ Nghệ không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức mà còn kích thích sự hứng thú và niềm đam mê đối với những thể loại văn học này.
Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động liên quan đến việc tìm hiểu văn học dân gian và dân ca ví, giặm xứ Nghệ bao gồm việc vận dụng các làn điệu dân ca này vào trò chơi "Người ấy là ai?" khi giảng dạy các tác phẩm tự sự dân gian.
Học sinh sẽ khám phá âm nhạc qua các làn điệu dân ca ví, giặm xứ Nghệ, đồng thời kết hợp với việc tìm hiểu về nhân vật trong các tác phẩm tự sự dân gian.
Khi dạy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, giáo viên có thể khởi động bài học bằng cách cho học sinh xem một số video liên quan để tham gia trò chơi, từ đó kích thích sự hứng thú và tạo không khí học tập sôi nổi.
Người ấy là ai? ( Xác định tên nhân vật )
Nhân vật An Dương Vương: (đường link video: https://youtu.be/-HTb- v8xFzs)
Sống chủ quan khinh địch
Mất cảnh giác đề phòng
Thương con thế là xong
Vô tình vào tay giặc Âu Lạc vào tay giặc
Nhân vật Mị Châu: (đường link video: https://youtu.be/opPvwB8nc9E)
Thương lắm em ơi, một đời người con gái
Trái tim yêu thương, lầm chỗ để trên đầu
Cơ đồ đã đắm sâu,
Vẫn trọn tình chồng vợ
Nhân vật Trọng Thủy: (đường link video: https://youtu.be/LUdYPJjMvyo)
Sự sụp đổ cơ đồ
Ai gây nên tai họa
Kẻ gián điệp, giết người
Bày mưu mà tính kế
Dùng tình người tính kế
Khi dạy truyện cổ tích Tấm Cám, giáo viên khởi động bài học bằng cách cho học sinh xem một số video và tham gia trò chơi "Người ấy là ai?" để xác định tên nhân vật.
Nhân vật Tấm: (đường link video: https://youtu.be/utbiEV2jIjQ)
Thương lắm em ơi, người hiền lành chung thủy
Thùy mị nết na, đức độ trăm đường
Người con gái đáng thương, sao gặp nhiều ro rủi!
Hạnh phúc ùa tới, được sống bên chồng
Lòng sung sướng mênh mông, ở hiền gặp lành, đó bạn
Nhân vật Cám: (đường link video: https://youtu.be/F2OS_k9TEkc)
Miệng bên ngoài thơn thớt
Cướp chồng của chị thôi
Sống ác độc lắm rồi Đã ôm nên tai họa
Dành phần mình tai họa b Tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn”
Giáo viên tổ chức một cuộc thi hỏi đáp ngắn về kiến thức văn học dân gian và dân ca ví, giặm xứ Nghệ, khuyến khích học sinh tham gia bằng cách trả lời nhanh, đúng và nhiều câu hỏi nhất để giành chiến thắng.
Ví dụ: Khi dạy bài “Ôn tập văn học dân gian Việt Nam”, giáo viên đưa ra một số câu hỏi để tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn”
Câu hỏi 1 Xem hai hình ảnh sau và cho biết hình ảnh đó gợi em liên tưởng đến hoạt động nào trong văn hóa – văn học dân gian?
Hình ảnh 1: Hình ảnh 2: Đáp án: Hai hình ảnh trên gợi chúng ta liên tưởng đến hoạt động diễn xướng trong văn hóa- văn học học dân gian
Gv nhấn mạnh thêm: Hình ảnh 1: Diễn xướng dân ca quan họ Bắc Ninh; hình ảnh 2: diễn xướng dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Từ đó, giáo viên hỏi thêm học sinh: Hãy nêu những hiểu biết của em về dân ca quan họ Bắc Ninh và dân ca ví, giặm xứ Nghệ?
Một số tác phẩm tự sự dân gian nổi bật bao gồm: Tấm Cám, Sọ Dừa, Thạch Sanh, Cây khế, và Cây tre trăm đốt Các tác phẩm này thuộc thể loại truyện cổ tích, phản ánh văn hóa và truyền thống dân gian phong phú của dân tộc.
Truyền thuyết: Con Rồng, cháu Tiên, Thánh Gióng, Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy…
Truyện cười: Tam đại con gà, Lợn cưới áo mới, Treo biển… c Tổ chức trò chơi “ Về miền quan họ và miền ví, giặm ”
Khi dạy ca dao, giáo viên có thể khởi động tiết học bằng trò chơi "Về miền quan họ và miền ví, giặm", giúp học sinh khám phá không gian văn hóa – âm nhạc đặc trưng của miền Bắc và Nghệ Tĩnh Hình thức này không chỉ tạo sự hứng thú mà còn kết nối việc dạy ca dao với dân ca, làm phong phú thêm trải nghiệm học tập của học sinh.
Bài hát "Cò lả" do NSND Thúy Cải thể hiện thuộc thể loại dân ca quan họ Bắc Ninh Bài hát mang âm hưởng truyền thống, thể hiện tình cảm sâu sắc qua lời ca và giai điệu Ngoài ra, bài "Giận mà thương" cũng nằm trong thể loại dân ca, góp phần làm phong phú thêm kho tàng âm nhạc dân gian Việt Nam.
Hãy chia sẻ một bài dân ca quan họ hoặc dân ca ví, giặm xứ Nghệ mà bạn yêu thích Để chuẩn bị cho yêu cầu này, giáo viên đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị từ tiết học trước.
Học sinh thể hiện bài dân ca quan họ hoặc dân ca ví, giặm, từ đó giáo viên hướng dẫn rằng ca dao và dân ca có mối liên hệ chặt chẽ Cả dân ca quan họ và dân ca ví, giặm xứ Nghệ đều được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại Do đó, việc tìm hiểu ca dao cần đi đôi với việc khám phá và tự hào về dân ca.
2.2 Tổ chức hoạt động “Tâm tình bằng ví, giặm” khi dạy ca dao
Ca dao là thể loại thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc để diễn tả thế giới nội tâm của con người Mối quan hệ chặt chẽ giữa ca dao và dân ca cho thấy việc giảng dạy ca dao không thể tách rời khỏi dân ca, mà nên đặt trong môi trường diễn xướng để ca dao thể hiện vẻ đẹp của nó Do đó, tôi đã tổ chức hoạt động “Tâm tình bằng ví, giặm” khi dạy ca dao, giúp học sinh hiểu và cảm nhận sâu sắc về nghệ thuật dân ca ví, giặm xứ Nghệ Để thực hiện hoạt động này, giáo viên cần chuẩn bị ít nhất hai tuần trước, viết lời cho dân ca ví, giặm dựa trên nội dung ca dao trong chương trình THPT và hướng dẫn học sinh biểu diễn Trong quá trình chuẩn bị, giáo viên cũng kết nối với nghệ nhân địa phương để học sinh có cơ hội tìm hiểu các làn điệu dân ca ví, giặm.
Khi tiến hình dạy học ca dao, giáo viên cho học sinh thực hiện hoạt động
Tổ chức hoạt động “Tâm tình bằng ví, giặm” trong lớp học hoặc cho học sinh quay video tại nhà và trình chiếu trong giờ học với thiết bị âm thanh sẽ giúp học sinh thể hiện cảm xúc, khát khao và lo lắng thông qua âm nhạc Qua đó, học sinh không chỉ hiểu sâu sắc nội dung văn bản mà còn phát huy năng khiếu âm nhạc và biểu diễn Hoạt động này tạo ra sự hứng khởi, hấp dẫn, đồng thời dẫn dắt học sinh khám phá văn hóa xứ Nghệ và văn học dân gian.
Khi dạy bài ca dao "Thân em như tấm lụa đào - Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai", cô trò đã tham khảo ý kiến từ nghệ nhân hát dân ca ví, giặm Qua đó, họ đã sáng tác lời cho làn điệu dân ca ví, giặm, thể hiện tâm tình và cảm xúc của mình với mọi người.
+ Ví, giặm xứ Nghệ “Tìm anh”
(Dựa theo bài ca dao: Thân em như tấm lụa đào - Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai)
Hát ví: Ơ…ơ… Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Em nỏ biết em vào tay ai
Em nỏ biết em vào tay ai
Truyền thống anh ơi, chiếc áo dài se lạnh
Gái chưa chồng phất phơ bỏng chảnh Đứng chờ ai, trông ai mà đẹp cảnh, đẹp ơ… người Đứng giữa chợ mắt nhìn theo anh ơi
Thân em đẹp, đẹp lắm anh ơi
Tấm lụa đào lung linh chờ đợi
Phất phơ bay mà xa vời vợi Để nhớ, để thương, vương vấn trong ơ…ơ…lòng
Mời anh rồi xuống chợ
Tìm gặp lại người thân
Tìm duyên mới ái ân Ước nên chồng nên vợ
Mà ước trọn tình chồng vợ
Tấm lụa đào giữa chợ
Sáng rực cả một vùng
Rồi ai thấy cũng ưng
Níu thân em đứng lại
Thân em rồi ngồi ơ…ơ lại
Hát khuyên thương: Ước nguyện từ lâu em chọn người tri kỉ
Xích lại gần một tí, chẳng phải sợ đổi lòng
Anh có nhớ em không? Suốt đêm trông ngày đợi
Phất phơ, phơi phới lòng nhớ thương ai
Lời nguyện ước không phai, cho trọn tình vẹn nghĩa
Lời hứa chẳng thể phai, để trọn tình vẹn nghĩa…
+ Video học sinh Tâm tình bằng ví, giặm bài “Tìm anh” (dựa theo bài ca dao số 1) được đăng tại: https://youtu.be/dZK92cES7Q8
Ví dụ 2: Khi dạy bài ca dao số 6:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi chăng nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa
Phạm vi ứng dụng
Từ năm học 2020-2021 đến nay, đề tài ứng dụng trong giảng dạy văn học dân gian (Ngữ Văn 10) tại trường THPT Nam Yên Thành đã mang lại hiệu quả tích cực Giáo viên dễ dàng áp dụng đúng phương pháp, khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của học sinh, đồng thời phát triển năng khiếu diễn xuất, ca hát và viết kịch bản cho cả giáo viên lẫn học sinh.
2 Mức độ vận dụng Đề tài được triển khai cho các đối tượng học sinh từ lớp 10 từ trung bình đến khá giỏi và có tính chất phân cấp từ dễ đến khó, từ chuẩn kiến thức - kĩ năng đến mở rộng, nâng cao các đơn vị kiến thức - kĩ năng Đề tài có tính gợi mở hướng tiếp cận nhiều nội dung dạy học khác trong chương trình Ngữ Văn, gắn nội dung dạy học với thực tiễn cuộc sống
Sau khi áp dụng đề tài vào thực nghiệm giảng dạy, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 326 học sinh về mức độ hứng thú đối với văn học dân gian Kết quả khảo sát cho thấy sự quan tâm và yêu thích của học sinh đối với thể loại này, điều này được ghi nhận trong phiếu khảo sát 01 ở phần phụ lục.
Rất thích học Bình thường Không thích học
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Số liệu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Số liệu cụ thể về mức độ hứng thú học văn học dân gian giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng như sau:
Rất thích học Bình thường Không thích học
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát với 326 học sinh về sự hiểu biết của họ về dân ca ví, giặm xứ Nghệ, và kết quả khảo sát được trình bày trong phiếu khảo sát 02 ở phần phụ lục.
Hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Không hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Số liệu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Số liệu cụ thể về sự hiểu biết dân ca ví, giặm xứ Nghệ giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng như sau:
Hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Không hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
- Bảng khảo sát kết quả học tập qua bài kiểm tra thường xuyên của lớp dạy thực nghiệm và lớp đối chứng trong năm học 2021-2022:
Sau khi thực hiện đề tài trong thực nghiệm dạy học, tôi đã tiến hành phát phiếu khảo sát ý kiến giáo viên (xem phiếu khảo sát 04 phần phụ lục) và đã thu được kết quả đáng chú ý.
Dễ thực hiện và có hiệu quả
Khó thực hiện và hiệu quả không cao
Tiếp tục thực hiện và nhân rộng
Không tiếp tục sử dụng
Sử dụng có cải tiến
3.2 Phân tích kết quả khảo sát
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua việc giảng dạy văn học dân gian trong chương trình Ngữ Văn 10, kết quả đạt được từ phía học sinh rất khả quan Học sinh không chỉ nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa dân gian mà còn phát triển kỹ năng cảm thụ và biểu diễn nghệ thuật truyền thống.
Dựa trên khảo sát, việc áp dụng các biện pháp giữ gìn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ qua dạy học văn học dân gian (Ngữ Văn 10) đã làm tăng hứng thú học tập của học sinh, với số học sinh thích học tăng 32% và số không thích giảm 39% Sự hiểu biết và yêu thích về dân ca ví, giặm xứ Nghệ cũng tăng mạnh (72%), đồng thời kết quả học tập được cải thiện Phương pháp dạy học mới, hiện đại, chú trọng trải nghiệm sáng tạo và gắn liền với thực tiễn đã tạo điều kiện cho học sinh chủ động trong việc hình thành kiến thức, phát triển năng lực cá nhân, và hình thành thái độ học tập tích cực, ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát huy văn học dân gian, cũng như tự hào về di sản văn hóa dân tộc.
Nhờ sự áp dụng hai lớp thực nghiệm, hứng thú học văn học dân gian và hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ của học sinh khối 10 đã được cải thiện rõ rệt, thể hiện qua kết quả bài kiểm tra thường xuyên Tuy nhiên, ở các lớp không áp dụng đề tài, kết quả học tập vẫn còn ở mức thấp.
Trong mỗi giờ dạy, giáo viên không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà còn là người học hỏi từ sự chuẩn bị bài và khả năng ứng phó của học sinh Thông qua các hoạt động trải nghiệm trong lớp, giáo viên có cơ hội đánh giá và hiểu rõ hơn về tính cách cũng như kỹ năng sống của học sinh Đồng thời, học sinh cũng mang đến sự hứng thú và niềm đam mê cho giáo viên nhờ vào khả năng sáng tạo của các em.
Sau khi tham gia dự giờ thực nghiệm và áp dụng đề tài, các đồng nghiệp đều nhận thấy rằng đề tài này mang tính mới mẻ và thiết thực, kết nối giữa dạy học và thực tiễn Nó giúp gắn liền lý thuyết với thực hành và phát huy vai trò chủ động của người học Việc áp dụng các biện pháp của đề tài phù hợp với nội dung bài học, cơ sở vật chất của trường và đặc điểm của đối tượng học sinh.
Việc áp dụng các biện pháp giữ gìn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua dạy học văn học dân gian trong Ngữ Văn 10 không chỉ nâng cao hiệu quả học tập mà còn tạo ra ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hóa này cho cả giáo viên và học sinh trong toàn trường.
+ Các giáo viên đều nhất trí cao trong việc tiếp tục áp dụng và nhân rộng phương pháp dạy học được đề cập đến trong đề tài.
Hiệu quả
Sau khi áp dụng đề tài vào thực nghiệm giảng dạy, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 326 học sinh về mức độ hứng thú đối với văn học dân gian Kết quả khảo sát cho thấy (xem phiếu khảo sát 01 ở phần phụ lục).
Rất thích học Bình thường Không thích học
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Số liệu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Số liệu cụ thể về mức độ hứng thú học văn học dân gian giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng như sau:
Rất thích học Bình thường Không thích học
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Tôi đã thực hiện khảo sát với 326 học sinh để đánh giá sự hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ, và kết quả khảo sát được trình bày chi tiết trong phiếu khảo sát 02 ở phần phụ lục.
Hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Không hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Số liệu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Số liệu cụ thể về sự hiểu biết dân ca ví, giặm xứ Nghệ giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng như sau:
Hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
Không hiểu biết về dân ca ví, giặm xứ Nghệ
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
- Bảng khảo sát kết quả học tập qua bài kiểm tra thường xuyên của lớp dạy thực nghiệm và lớp đối chứng trong năm học 2021-2022:
Sau khi thực hiện đề tài trong quá trình dạy học, tôi đã tiến hành phát phiếu khảo sát ý kiến giáo viên (xem phiếu khảo sát 04 phần phụ lục) và thu được những kết quả đáng chú ý.
Dễ thực hiện và có hiệu quả
Khó thực hiện và hiệu quả không cao
Tiếp tục thực hiện và nhân rộng
Không tiếp tục sử dụng
Sử dụng có cải tiến
3.2 Phân tích kết quả khảo sát
Sau khi áp dụng các biện pháp bảo tồn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ qua việc giảng dạy văn học dân gian trong chương trình Ngữ Văn 10, đã đạt được nhiều kết quả tích cực Học sinh không chỉ nắm vững kiến thức về văn hóa dân gian mà còn phát triển tình yêu đối với di sản văn hóa của quê hương.
Dựa trên khảo sát, việc áp dụng biện pháp giữ gìn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ qua dạy học văn học dân gian (Ngữ Văn 10) đã làm tăng hứng thú học tập của học sinh, với 32% học sinh thích học hơn và 39% giảm số học sinh không thích Sự hiểu biết và yêu thích về dân ca ví, giặm xứ Nghệ cũng tăng 72%, đồng thời kết quả học tập được cải thiện Phương pháp dạy học hiện đại, chú trọng trải nghiệm sáng tạo và gắn liền với thực tiễn đã giúp học sinh làm chủ kiến thức, phát triển năng lực cá nhân, và hình thành thái độ tích cực trong việc giữ gìn và tự hào về văn học dân gian và di sản dân tộc.
Nhờ vào sự áp dụng hai lớp thực nghiệm, mức độ hứng thú và hiểu biết về văn học dân gian, đặc biệt là dân ca ví, giặm xứ Nghệ của học sinh khối 10 đã được cải thiện đáng kể, thể hiện qua kết quả bài kiểm tra thường xuyên Tuy nhiên, ở các lớp không áp dụng đề tài, kết quả học tập vẫn còn ở mức thấp.
Trong mỗi giờ dạy, giáo viên không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà còn là người học hỏi từ quá trình chuẩn bị bài và khả năng phản ứng của học sinh Thông qua các hoạt động trải nghiệm, giáo viên có thể đánh giá và hiểu rõ hơn về tính cách và kỹ năng sống của học sinh Đồng thời, sự sáng tạo và hứng thú của học sinh trong lớp học cũng mang lại niềm đam mê cho giáo viên trong việc giảng dạy.
Sau khi tham gia dự giờ thực nghiệm và áp dụng đề tài, các đồng nghiệp đều nhận thấy rằng đề tài này rất mới mẻ và thiết thực Nó liên kết chặt chẽ giữa giảng dạy và thực tiễn, giúp cân bằng lý thuyết và thực hành, đồng thời phát huy vai trò của người học Việc áp dụng các biện pháp trong đề tài không chỉ phù hợp với nội dung bài học mà còn thích ứng tốt với cơ sở vật chất của trường và đối tượng học sinh.
Việc áp dụng biện pháp giữ gìn và phát huy dân ca ví, giặm xứ Nghệ thông qua dạy học văn học dân gian trong Ngữ Văn 10 không chỉ nâng cao hiệu quả học tập mà còn tạo ra ý thức trách nhiệm cho giáo viên và học sinh trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hóa này.
+ Các giáo viên đều nhất trí cao trong việc tiếp tục áp dụng và nhân rộng phương pháp dạy học được đề cập đến trong đề tài