NỘI DUNG
Cơ sở lý luận của vấn đề
1.1 Đặc điểm của tố chất sức mạnh
Thành tích nhảy cao phụ thuộc vào kỹ thuật và sức lực của người nhảy Để hoàn thiện kỹ thuật, cần phát triển tố chất thể lực và chú trọng đến quá trình hình thành kỹ năng vận động Tính bền vững của kỹ năng chỉ có giá trị khi động tác thực hiện đúng mà không cần sửa chữa Giáo viên cần phát hiện sớm sai lầm và đưa ra bài tập khắc phục kịp thời trong quá trình hình thành động tác Để đạt thành tích cao, học sinh cần phối hợp tốt các giai đoạn nhảy.
Trong giai đoạn chạy đà, học sinh THPT nên thực hiện từ 6 đến 8 bước (bước chẵn) hoặc 7 đến 11 bước (bước lẻ), mỗi bước tương đương với độ dài của 5 đến 6 bàn chân nối tiếp nhau Góc chạy đà nên nghiêng khoảng 30 đến 40 độ so với xà ngang Khi giậm nhảy, chân phải cần đứng phía bên phải của xà theo chiều nhìn vào xà và ngược lại.
Phần 1:Từ lúc xuất phát đến trước 3 bước đà cuối, độ dài và tốc độ bước chạy tăng dần, độ ngả của thần giảm dần.
Phần 2: Gồm 3 bước cuối trước khi giậm nhảy Nhiệm vụ của phần chạy đà này là duy trì tốc độ đã đạt được và chuẩn bị giậm nhảy sao cho đạt hiệu quả cao nhất Ở đây độ dài, nhịp điệu của các bước chạy, tư thế của thân người, của bàn chân cũng như hai tay có tầm quan trọng Cụ thể:
Bước đầu tiên, bạn cần nhanh chóng giậm chân ra phía trước hơn so với bước trước, chạm đất bằng gót bàn chân Sau đó, tiếp tục đưa chân lăng ra phía trước để thực hiện bước thứ hai.
Bước thứ hai là bước dài nhất trong ba bước đà cuối, khi chân chạm đất cần đưa ra sau trước khi kết thúc thời kỳ chống tựa Để đạt hiệu quả tối ưu, bàn chân khi tiếp đất cần phải thẳng hướng chạy đà, tránh đặt lệch.
Bước thứ ba là bước đặt chân vào điểm giậm nhảy, có độ dài ngắn hơn hai bước trước nhưng cần thực hiện nhanh chóng Khi đặt chân vào điểm giậm nhảy, chân gần như thẳng từ gót đến bàn chân, trong khi chân lăng co ở phía sau Thân và hai vai hơi ngả ra sau, nhưng đầu và cổ vẫn hướng về phía trước Hai tay phối hợp tự nhiên hoặc hơi co, với hai khuỷu tay hướng ra sau.
Giai đoạn giậm nhảy là bước quan trọng nhất trong nhảy cao, bắt đầu bằng việc chân giậm nhảy hơi chùng ở gối để tạo thế co cơ Người nhảy cần dồn sức để thực hiện động tác giậm nhảy, đồng thời sử dụng sức mạnh của đùi và độ linh hoạt của khớp hông để đá chân lên cao Hai tay cần phối hợp nhịp nhàng với chân lăng, đánh hơi vòng từ dưới lên cao, và khi hai khuỷu tay đạt ngang vai thì dừng lại để tạo thế nâng người Sự phối hợp chính xác giữa giậm nhảy, đá lăng và đánh tay, cùng với tốc độ di chuyển do chạy đà tạo ra, là yếu tố quyết định hiệu quả của giậm nhảy.
Giai đoạn trên không bắt đầu khi chân giậm nhảy rời khỏi mặt đất, sau đó chân giậm nhảy co nhanh và mũi chân đá lăng được xoay về phía xà, hoặc gót chân có thể xoay ra ngoài Tư thế này tạo ra sự nghiêng cho thân người so với xà, với chân giậm nhảy co ở phía dưới và chân đá lăng thẳng ở phía trên, giống như khi nằm nghiêng Hai tay cần phối hợp khéo léo để vượt qua xà một cách hiệu quả.
Trong giai đoạn tiếp đất, sau khi vượt qua xà, vận động viên cần duỗi nhanh chân giậm nhảy để chủ động tiếp đất Hai tay nên được duỗi thẳng ra để hỗ trợ giữ thăng bằng Khi chân giậm nhảy bắt đầu tiếp đất, cần chủ động chùng chân để giảm chấn động.
Để thực hiện kỹ thuật nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” một cách hiệu quả, học sinh cần phải phối hợp các giai đoạn của kỹ thuật này một cách thuần thục Việc rèn luyện kỹ năng này không chỉ giúp đạt thành tích cao trong kiểm tra mà còn trong các cuộc thi đấu Do đó, quá trình giảng dạy cần chú trọng vào việc phát triển khả năng phối hợp và nhuần nhuyễn các giai đoạn nhảy.
Kỹ thuật "nằm nghiêng" là một phương pháp phức tạp, do đó việc hoàn thiện kỹ thuật trong quá trình giảng dạy là rất quan trọng; sai sót trong kỹ thuật có thể dẫn đến việc hình thành động tác sai và khó khắc phục Để đánh giá tố chất thể lực, người ta thường sử dụng các phương pháp đánh giá chung Sức mạnh được đo bằng lực kế, cho thấy rằng sức mạnh là khả năng tạo ra lực cơ thông qua nỗ lực của cơ bắp Khả năng của con người trong việc khắc phục hoặc chống lại lực đối kháng bên ngoài phụ thuộc vào sự nỗ lực của cơ bắp.
- Cơ bắp có thể sinh ra lực trong những trường hợp sau:
+ Không thay đổi độ dài cơ(chế độ tĩnh).
+ Giảm độ dài cơ (chế độ khắc phục).
+ Tăng độ dài cơ(chế độ nhượng bộ).
Chế độ khắc phục và chế độ nhượng bộ tạo thành động lực cho cơ bắp Trong các chế độ hoạt động này, cơ bắp sản sinh ra các lực khác nhau, từ đó phân biệt các loại sức mạnh cơ bản.
1.1.2 Sự phụ thuộc của sức mạnh vào điều kiện biểu hiện
- Năng lực hoạt động sức mạnh của cơ bắp phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Khả năng điều chỉnh và tự điều chỉnh của hệ thần kinh.
+ Cấu trúc hoàn thiện của hệ thống cơ bắp như cấu trúc sợi cơ, độ đàn hồi của cơ, bắp cơ.
+ Các phẩm chất về tâm lý, nổ lực ý chí, tinh thần.
+ Năng lực huy động nhanh chóng nguồn năng lượng thiếu Oxy.
+ Trình độ kỹ thuật thể thao, khả năng thực hiện hợp lý kỹ thuật.
1.2 Phương pháp phát triển sức mạnh
1.2.1 Cấu trúc phương pháp sử dụng lượng vận động nhằm giáo dục sức mạnh tối đa.
Sức mạnh tối đa là khả năng tối đa mà cơ thể có thể đạt được thông qua việc co cơ tối đa Mục tiêu của giáo dục sức mạnh tối đa là phát triển tiềm năng thể chất trong thời gian ngắn nhất Phương pháp luyện tập chủ yếu bao gồm việc lặp lại các bài tập với sự biến đổi để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.2 Cấu trúc phương pháp sử dụng lượng vận động nhằm giáo dục sức mạnh nhanh.
Sức mạnh nhanh là khả năng phát huy sức mạnh tối đa trong thời gian ngắn nhất với cường độ co cơ cao Mục tiêu của giáo dục sức mạnh nhanh là phát triển tiềm năng để tăng cường sức mạnh với tốc độ vận động lớn.
1.2.3 Những đặc điểm giáo dục sức mạnh trong các môn thể thao có chu kỳ
Trong các môn thể thao ngắn hạn, quá trình yếm khí đóng vai trò chủ đạo, vì vậy việc nâng cao khả năng yếm khí là rất quan trọng Để phát triển sức mạnh trong các hoạt động có cường độ cao, cần áp dụng các phương pháp lặp lại và bài tập bổ trợ phù hợp Ngoài ra, trong quá trình giáo dục sức mạnh, cần chú ý đến đặc điểm cá nhân của người tập, vì trình độ và thể lực có sự khác biệt rõ rệt ở từng vùng hoạt động.
1.3 Đặc điểm phát triển sức mạnh trong Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”
1.3.1 Đặc điểm môn Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”
Cơ sở thực tiễn
2.1Giáo dục sứcmạnh trong hệ thốngGDTC trên thế giới và Việt Nam
GDTC là một quá trình giáo dục nhằm phát triển thể chất và nhân cách của thế hệ trẻ, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ Để đạt được những mục tiêu này, GDTC cần hoàn thành ba nhiệm vụ cơ bản: phát triển tố chất thể lực, hoàn thiện kỹ năng và kỹ xảo, cũng như tăng cường sức khỏe cho người tập.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, việc phát triển sức mạnh cho học sinh trở thành một thách thức lớn Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, cùng với việc sử dụng phương tiện di chuyển như xe máy, ô tô và xe đạp điện, đã làm giảm đáng kể việc đi bộ hàng ngày của học sinh Hơn nữa, việc học tập và sinh hoạt chủ yếu diễn ra trong lớp học và phòng thí nghiệm dẫn đến việc rèn luyện thể lực không đồng đều và chưa đầy đủ Để nâng cao sức khỏe và thể lực cho học sinh, cần áp dụng những phương pháp hợp lý và các bài tập hiệu quả nhằm phát triển sức nhanh và sức mạnh, từ đó nâng cao vị thế của công tác giáo dục thể chất.
2.2 Đặc điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi HS với việc giáo dục sức mạnh
Tuổi học sinh trong các trường phổ thông thường từ 16 đến 19 tuổi, giai đoạn này chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hệ vận động, tim mạch và hô hấp Về mặt tâm lý, học sinh thường hiếu động, thích nghi, ham chơi và có xu hướng bắt chước Họ thường suy luận, triết lý, nhưng đôi khi lại thiếu thực tế, trí tưởng tượng phong phú và khả năng ghi nhớ tốt Trong học tập, các em thích thể hiện tính độc lập và tìm tòi giải quyết vấn đề theo cách riêng Do đó, cần chú ý khi tham gia các hoạt động thể lực với cường độ khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ tập luyện và thi đấu thể thao.
Giải pháp và tổ chức thực hiện
"Đánh giá thực trạng của việc sử dụng các bài tập trong giảng dạy Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” cho Nữ THPT ".
3.1.1 Thực trạng, mức độ phát triển sức mạnh của Nữ học sinh trong việc sử dụng các bài tập giảng dạy Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”. Để nâng cao hiệu quả của tập luyện TDTT, Nữ THPT cần phải phát triển năng lực sức mạnh Trong đợt kiểm tra ban đầu năm học 2021 - 2022 của Nữ học sinh trường(hình dưới)thì nhìn chung là sức mạnh còn yếu.
Số liệu kiểm tra sức mạnh thông qua test có kết quả trung bình như sau:
Trong kiểm tra 64 Nữ học sinh số liệu cho thấy:
- Số học sinh xếp loại giỏi 0 học sinh, chiếm tỷ lệ 0% trên tổng số 64 em được kiểm tra.
- Số học sinh loại khá 25 học sinh, chiếm 39% trên tổng số 64 em được kiểm tra.
- Số học sinh loại trung bình 16 học sinh, chiếm 25% trên tổng số 64 em được kiểm tra.
-Số học sinh loại yếu 23 học sinh, chiếm 36% trên tổng số 64 em được kiểm tra.
Với kết quả này, sức mạnh của Nữ THPT xếp loại yếu và trung bình tỷ lệ còn cao.
Ngoài ra, việc sử dụng các bài test như đứng tại chỗ bật xa và đứng lên ngồi xuống bằng một chân giúp đánh giá sức mạnh của nữ học sinh một cách hiệu quả.
Nếu tính thành tích theo thang điểm 10 thì so với qui định Nhảy cao kiểu
Qua kết quả kiểm tra ban đầu, khảo sát cho thấy năng lực sức mạnh của
Nữ học sinh hiện đang ở mức yếu, với sức mạnh chưa phát triển đầy đủ, dẫn đến thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” chưa cao Để cải thiện thành tích này, việc phát triển sức mạnh là rất cần thiết, vì sức mạnh có ảnh hưởng lớn đến kết quả thi đấu trong bộ môn Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”.
3.1.2 Những thực trạng hạn chế phát triển sức mạnh của Nữ THPT trong việc sử dụng các bài tập cho giảng dạy Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, có những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự phát triển chưa tương xứng của tố chất sức mạnh trong Nữ THPT.
Nữ sinh THPT trong tuần tập thứ hai vẫn chưa thực hiện đúng kỹ thuật động tác, và phong trào tập luyện phát triển sức mạnh chưa được phổ biến rộng rãi Quan sát cho thấy số lượng học sinh tham gia tập luyện sức mạnh vào buổi sáng tại sân vận động rất ít Vào buổi chiều, chỉ có một số ít học sinh tham gia các môn thể thao như bóng chuyền, đá bóng, cầu lông, đá cầu và bóng rổ Mặc dù việc tập luyện các môn thể thao này có tác động tích cực đến sức mạnh chung, nhưng chủ yếu chỉ hỗ trợ chứ không thực sự cải thiện sức mạnh đáng kể.
Trong nhảy cao kiểu “nằm nghiêng” của học sinh, việc luyện tập gặp khó khăn do không gian không thoải mái Các môn thể thao như bóng chuyền, đá cầu, cầu lông và bóng rổ thường có số lượng người chơi đông, trong khi sân tập lại hạn chế Thêm vào đó, điều kiện thời tiết xấu như mưa gió làm giảm khả năng phát huy tốc độ chạy và sức mạnh cần thiết cho các vận động viên.
Trong các lớp học hiện nay, phong trào luyện tập thể dục thể thao (TDTT) thường không được quan tâm Các giải điền kinh chỉ được tổ chức một đến vài năm một lần, và số lượng học sinh tham gia rất ít, chủ yếu chỉ có vài em tham gia luyện tập để thi học sinh giỏi Điều này đã dẫn đến sự suy giảm đáng kể của phong trào TDTT trong trường học.
Nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc tham gia các hoạt động thể thao do thiếu thói quen tập luyện thường xuyên, dẫn đến sự ngại ngùng khi tập cá nhân Chỉ có một số ít học sinh tập luyện khi gần đến kỳ thi Các em thường tập hợp thành nhóm để tham gia các môn thể thao như Bóng chuyền, Bóng đá, Bóng rổ và Cầu lông, nhưng số lượng học sinh tham gia tập luyện ngoài giờ cho môn Nhảy cao vẫn rất hạn chế.
“Nằm nghiêng”để phát triển sức mạnh.
Trong số các học sinh nữ, việc tập môn nhảy cao kiểu “nằm nghiêng” dường như không phổ biến, với chỉ một vài em tham gia Thống kê từ sổ đầu bài cho thấy, số buổi nghỉ học chính khóa của các nữ sinh trong môn nhảy cao kiểu “nằm nghiêng” tương đối cao.
Việc tổ chức tập luyện nghiêm túc để phát triển sức mạnh cho nữ học sinh hiện nay là rất cần thiết Cần có các biện pháp tích cực nhằm khuyến khích các em thường xuyên rèn luyện sức mạnh, từ đó nâng cao thành tích trong môn nhảy cao kiểu "nằm nghiêng".
Các tố chất thể lực, đặc biệt là sức mạnh, đóng vai trò quan trọng trong thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” Sức mạnh liên quan đến khả năng thực hiện các hoạt động vận động nhanh chóng, phụ thuộc vào sự căng cơ, lực tác dụng và hoạt động của hệ thần kinh Bên cạnh đó, sức nhanh cũng ảnh hưởng đến thành tích, phụ thuộc vào độ dài bước chạy và chiều dài của hai chân Để nâng cao thành tích trong Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”, cần chú trọng đến sự phối hợp và tổng hợp các yếu tố thể lực, tùy thuộc vào từng nội dung thi đấu.
“Một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nầng cao thành tích nhảy cao cho học sinh nữ THPT tại Nghệ An”.
3.2.1 Những căn cứ để lựa chọn bài tập
Dựa trên tổng hợp lý luận và thực trạng môn Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” của Nữ THPT đã được trình bày trước đó, tôi xác định rằng việc xây dựng bài tập phát triển thành tích cho đối tượng nghiên cứu cần phải dựa vào những căn cứ cụ thể.
- Các bài tập được xây dựng phải có nội dung và hình thức phù hợp với mục đích,nhiệm vụ của quá trình giảng dạy - huấn luyện.
Các bài tập cần được áp dụng hợp lý để phát triển các yếu tố thành tích cần thiết cho học sinh Kỹ thuật thực hiện động tác phải phù hợp với yêu cầu của từng bài tập, đồng thời khả năng chịu đựng của học sinh cũng cần được nâng cao liên tục.
- Bài tập cần xây dựng trên cơ sở đặc điểm trình độ, cũng như điều kiện trang thiết bị tập luyện của đối tượng tập giảng dạy - huấn luyện.
3.2.2 Lựa chọn một số bài tập để nâng cao thành tích trong môn Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”.
3.2.2.1 Xây dựng nội dung bài tập
Dựa trên lý luận chuyên ngành và sinh lý học, tôi đã thiết kế 12 bài tập nhằm phát triển sức mạnh cho nữ học sinh trường THPT Tuy nhiên, do hạn chế về cơ sở vật chất trong trường, việc áp dụng rộng rãi các bài tập này gặp khó khăn Mục tiêu chính của các bài tập là nâng cao hiệu quả trong bộ môn nhảy.
Bảng 1: Khối lượng và cường độ một số bài tập phát triển sức mạnh
TT Nội dung Mục đích phát triển Phương pháp Cường độ
Tại chỗ tập đánh tay luôn phiên
Sức mạnh của tayLặp lại với quãng nghỉngắn Cận cực đại
Ngồi xổm trên một chân
Sức mạnh của chân Lặp lại với quãng nghỉ đầyđủ Lớn
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại nghỉ giữa 2 phút Cực đại
Sức mạnh của 2 chân Lặplại nghỉ3 phút
Bật nhảy tại chỗ đổi chân liên tục
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại quãng nghỉ ngắn Cực đại
Bật nhảybằng2 chân (1 chân) với 2 tay vào vậtchuẩntrên cao
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại quãng nghỉ
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại nghỉ giữa 2 phút Cực đại
8 Đứnglên ngồi xuốngcó mangtrọngvật khoảng5 kg(Nữ)
Sức mạnh Lặp lại nghỉ quãng giữa 3phút Cực đại
Sức mạnh của tayLặp lại nghỉ giữa
Bật xa tại chỗ mỗi tổ
Sức mạnh của chân Lặp lại với quãng nghỉ 2phút Cực đại Đội hình tập luyện
11 Bật nhảy co gối trên cát 30 giây Sức mạnh nhóm cơ chân Lặp lại với quãng nghỉdài Nhỏ trung bình
12 Nhảy dây 3 phút Sức bền và khả năng phối hợp vậnđộng
Lặp lại với quãng nghỉ đầyđủ Trung bình
Bật nhảy bằng hai chân
3.2.2.2 Lựa chọn, áp dụng một số bài tập sức mạnh nhằm nâng cao thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”.
Tôi đã lựa chọn và áp dụng một số bài tập nhằm phát triển sức mạnh để nâng cao hiệu quả của Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” Dựa trên kết quả phỏng vấn và các nguồn tư liệu khác, cùng với những hạn chế về cơ sở vật chất và trình độ của học sinh, cũng như ý kiến từ thầy cô và đồng nghiệp trong bộ môn GDTC, tôi tiến hành lựa chọn các bài tập phù hợp để cải thiện thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” cho nữ học sinh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 6 trong 12 nhóm hình thức bài tập được lựa chọn để nâng cao thành tích cho đối tượng nghiên cứu, bao gồm các bài tập 1, 2 và 3.
Bảng 2: Một số bài tập phát triển sức mạnh để nâng cao thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”.
TT Nội dung Mục đích phát triển Phương pháp Cường độ
Tại chỗ tập đánh tay luôn phiên
Sức mạnh của tayLặp lại với quãng nghỉngắn Cận cực đại
Ngồi xổm trên một chân
Sức mạnh của chân Lặp lại với quãng nghỉ đầyđủ Lớn
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại nghỉ giữa 2 phút Cực đại
Sức mạnh của 2 chân Lặplại nghỉ3 phút
Bật nhảy tại chỗ đổi chân liên tục
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại quãng nghỉ ngắn Cực đại
Bật nhảybằng2 chân (1 chân) với 2 tay vào vậtchuẩntrên cao
Sức mạnh và sức nhanh Lặp lại quãng nghỉ
Thực nghiệm sư phạm
4.1 Mục đích thực nghiệm sư phạm
Bài viết phân tích ảnh hưởng của tố chất thể lực cơ bản, đặc biệt là sức mạnh, đến thành tích nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” của nữ học sinh THPT Từ đó, đề xuất một số bài tập phát triển sức mạnh phù hợp để áp dụng trong giờ học, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập, đồng thời cải thiện thành tích nhảy cao cho đối tượng nghiên cứu.
4.2 Đối tượng thực nghiệm sư phạm
Các bài tập đã lựa chọn được vận dụng trên đối tượng Nữ THPT Diễn Châu
4 và trường THPT Quỳnh Lưu 3.
Việc áp dụng các phương pháp tập luyện thường xuyên trong giảng dạy và huấn luyện là rất quan trọng Trong đó, phương pháp lặp lại giúp củng cố kiến thức và kỹ năng, trong khi phương pháp lặp lại có biến đổi mang lại sự mới mẻ và kích thích cho quá trình học tập Sự kết hợp giữa hai phương pháp này không chỉ nâng cao hiệu quả huấn luyện mà còn giúp người học phát triển toàn diện hơn.
- Thời lượng vận dụng cho nhóm thực nghiệm (Bảng: 3)
+ Số tuần áp dụng các bài tập: 14 tuần.
+ Số buổi tập 1 buổi/tuần: 14 buổi.
+ Mỗi buổi tập thời gian: 45 phút.
- Lượng vận động trong 14 buổi tập: Phân chia làm 3 giai đoạn.
+ Giai đoạn I: Những bài tập biến đổi (5 buổi) với khối lượng tương đối cao, cường độ lớn.
+ Giai đoạn II: (5 buổi) giữ nguyên khối lượng như giai đoạn I, cường độ cận cực đại.
+ Giai đoạn III: (4 buổi) khối lượng giảm so với giai đoạn I và II nhưng cường độ cực đại.
Bảng 3: Phân phối các bài tập
Buổi Bài tập Buổi Bài tập
- Để tập luyện hiệu quả, tôi phân 32 học sinh trong nhóm thực nghiệm thành
3 tổ dựa vào năng lực chuyên môn của các em.
+ Tổ 1: Các học sinh có thành tích kiểm tra ban đầu từ 0,85 (m) đến 0,90 (m) gồm: 10 học sinh
+ Tổ 2: Các học sinh có thành tích từ 0,80 (m ) gồm: 11 học sinh
Tổ 3 gồm 11 học sinh có thành tích nhỏ hơn 0,80 (m) Trong các buổi tập, mỗi tổ thực hiện theo yêu cầu riêng về khối lượng và cường độ vận động phù hợp.
- Nhóm thực nghiệm gồm 32 học sinh Nữ lớp 10D2 trường THPT Quỳnh Lưu 3 và 34 học sinh nữ lớp 11A9 trường THPT Diễn Châu 4.
- Nhóm đối chứng gồm 32 học sinh Nữ lớp 10A2 trường THPT Quỳnh Lưu
3 và 34 học sinh nữ lớp 11A10 trường THPT Diễn Châu 4.
+ Nhóm thực nghiệm tập theo chương trình tôi lựa chọn đã nêu.
+ Nhóm đối chứng tập theo phương pháp truyền thống.
- Kiểm tra thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” trước khi thực nghiệm (Bảng: 5)
Bảng 5: Kết quả kiểm tra Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” của 2 nhóm tr- ước thực nghiệm
Nhảy cao kiểu“Nằm nghiêng” (mét) 0,79 ± 0,077 0,81 ± 0,084 0,02 1 > 0,05
Nhóm thực nghiệm ghi nhận thành tích nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” trung bình là 0,79 ± 0,077 m trong số 66 học sinh nữ từ 2 trường Không có học sinh nào đạt thành tích từ 1,00 m trở lên; trong đó, 20 học sinh đạt từ 0,85 m đến 0,90 m, 22 học sinh đạt 0,80 m, và 24 học sinh có thành tích dưới 0,80 m Khoảng tin cậy của số trung bình cộng được xác định từ 0,76 m đến 0,82 m.
Nhóm đối chứng cho thấy thành tích nhảy cao kiểu “nằm nghiêng” trung bình đạt 0,81 ± 0,084 m trong số 66 học sinh nữ từ 2 trường Không có học sinh nào đạt thành tích từ 1,00 m trở lên; 30 học sinh có thành tích từ 0,85 m đến 0,90 m, 10 học sinh đạt từ 0,80 m, và 26 học sinh có thành tích dưới 0,80 m Khoảng tin cậy của số trung bình cộng được xác định từ 0,78 m đến 0,84 m.
Qua kiểm tra thành tích ban đầu cho thấy:
Sự khác biệt về thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” giữa 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm là không có ý nghĩa thống kê khi T(tính)
= 1 < T(bảng) = 2 và P > 0,05 Chênh lệch thành tích là 0,02.
Kết quả cho thấy thành tích ban đầu của hai nhóm học sinh trước thực nghiệm là tương đương, không có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa hai nhóm.
- Kết quả của 2 nhóm trước và sau thực nghiệm (Bảng: 6)
Bảng 6: Thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” của 2 nhóm trước và sau thực nghiệm
Nhóm thực nghiệm: Nữ học sinh 10D2 và 11A9
Nội dung Trước thực nghiệm
Nhóm đối chứng: Nữ học sinh 10A2 và 11A10
Nội dung Trước thực nghiệm
Sau 14 tuần tập luyện, nhóm thực nghiệm đạt được sự cải thiện trung bình 0,14 mét trong thành tích nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” Kết quả này có ý nghĩa thống kê với T(tính) = 7 vượt quá T(bảng) = 2 và P < 0,05, cho thấy sự đại diện cho tổng thể (khi 0,009 < 0,05).
Nhóm đối chứng: Sau 14 tuần tập luyện, thành tích Nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng” cũng tăng trung bình là 0,05 (m) Sự tăng thành tích Nhảy cao kiểu
“Nằm nghiêng” của nhóm đối chứng sau khi thực nghiệm có sự khác biệt giữa
2 số trung bình là có ý nghĩa thống kê khi T(tính) = 2,5 > T(bảng) = 2 và P