A. MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài.Ngày mồng 3 tháng 2 năm 1930, một mốc son chói lọi trong lịch sửđấu tranh của dân tộc Việt Nam ta, Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự hợp nhấtcủa Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng đã ra đời. Đó làkết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Namtrong thời đại mới, Hồ Chí Minh viết : Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩmcủa nghĩa Mác - Lê Nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nướcViệt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắmquyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng làsự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triểnnhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, cónhiều tổn thất, hy sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủnghĩa xã hội. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mànhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong suốt hơn bảy thậpkỷ qua đã khẳng định vai trò, công lao to lớn của Đảng và để lại nhiều bài họccó giá trị lý luận thực tiễn vô cùng to lớn, đặc biệt đối với giai đoạn hiện nay,trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương xây dựng mộtNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một nhà nước của nhân dân, do nhândân, vì nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chính là xây dựngmột Nhà nước thật sự của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dânchủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân:Nhà nước được tổchức và vận hành một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, tổ chức,hoạt động của Nhà nước phải bằng pháp luật, chịu sự điều chỉnh của phápluật; Nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người,quyền lực của Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực,2 có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việcthực hiện các quyền lực pháp, hành pháp và tư pháp, có cơ chế an toàn vàhiệu quả ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyềnvà lợi ích hợp pháp của công dân.Tại Điều 2 Hiến pháp nước ta năm 1992 quy định: "Nhà nước cộng hòaxã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhândân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Trong các Văn kiện củaĐảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định nhiệmvụ "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhândân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng".Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nướcpháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trongsuốt quá trình xây dựng và phát triển Nhà nước ta đã mang những yếu tố củamột Nhà nước pháp quyền của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân, gắn bóchặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Nhà nước đã từng bướcthực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Không ngừng phát huy dân chủ,tăng cường pháp chế XHCN. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đãkhẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới dự lãnh đạo củaĐảng như một xu thế khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lênCNXH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủnghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sởtôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việcnội bộ của nhau.Việc nghiên cứu tìm hiểu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủnghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hành trang không thểthiếu đối với bất kỳ công dân Việt Nam nào nhằm hiểu hơn về đất nước, conngười Việt Nam cũng như Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiêncứu phương diện lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền sẽ có ý nghĩato lớn trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam chúng ta
NỘI DUNG
Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
III Thực trạng, phương hướng và giải pháp của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
I CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN
Jcantơ là người đầu tiên đặt nền tảng triết học cho lý luận về Nhà nước pháp quyền, coi Nhà nước là liên minh của những người tuân thủ các đạo luật pháp quyền phúc lợi Tiếp nối ý tưởng của Jcantơ, Hêghen khẳng định rằng pháp luật là thực tế của tự do và là phương thức tồn tại của lý trí tự do, đồng thời xem Nhà nước chính là pháp luật, cụ thể hóa các quy định pháp lý.
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các học giả Nga đã đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về Nhà nước pháp quyền Những nhân vật tiêu biểu như Gessen, Korkynov, Novgortser, và sersenhevie đã đưa ra nhiều cấu trúc và mô hình phong phú nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng Nhà nước pháp quyền, nhấn mạnh tiêu chí "đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của pháp luật" trong việc xây dựng một xã hội mới và Nhà nước kiểu mới cho nhân dân lao động Tư tưởng này được thể hiện rõ trong các tác phẩm như "Sự khốn cùng của triết học" và "Phê phán triết học pháp quyền Hêghen", cũng như trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" Mác và Ăngghen khẳng định rằng "tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người", với mục tiêu "giải phóng con người" và "phát triển toàn diện con người" là nền tảng của một Nhà nước pháp quyền kiểu mới, nơi tổ chức đời sống chung của nhân dân và bảo đảm sự phát triển tự do tối đa.
"Tuyên ngôn" khẳng định rằng "tự do" chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ một cơ quan đứng trên xã hội thành một cơ quan phục tùng xã hội Mức độ tự do của các hình thức Nhà nước được xác định bởi pháp luật, và các cơ quan cũng như viên chức Nhà nước cần phải tuân thủ quy định này.
Mác chủ trương thiết lập một chế độ dân chủ triệt để, trong đó dân chủ được định nghĩa là "do nhân dân tự quy định", đánh dấu sự chuyển mình từ xã hội thần dân sang xã hội công dân Dân chủ không chỉ là quyền lợi của "nhân dân của Nhà nước" mà còn là "Nhà nước của nhân dân" Theo Ăngghen, để giải phóng cá nhân, xã hội cần phải được xây dựng dựa trên pháp luật, vì "xã hội sẽ không thể giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt" Quan hệ giữa người cầm quyền và người bị lãnh đạo phải được thiết lập trên nền tảng pháp luật, điều này là bất di bất dịch.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Mác - Ăngghen đã được V.I Lênin tiếp thu và phát triển trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới Ông nhấn mạnh rằng mục đích của chính quyền Xô Viết là khuyến khích người lao động tham gia vào quản lý Nhà nước, thực hiện một nền dân chủ rộng rãi, từ đó giải phóng và phát triển toàn diện con người trong xã hội mới.
"không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây:
1 Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ;
2 Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ" (1)
Lênin nhấn mạnh vai trò quan trọng của pháp luật và pháp chế trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa, coi đây là điều kiện thiết yếu cho thành công của hệ thống này Ông khẳng định rằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải dựa vào luật lệ của mình để đảm bảo thắng lợi triệt để của chủ nghĩa xã hội Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển sang chính sách kinh tế mới, Lênin đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
Trong quá trình cách mạng, các hình thức quan hệ mới được hình thành dựa trên chính sách kinh tế của chính quyền cần được thể hiện trong pháp luật và được bảo vệ tư pháp Lênin đã sáng tạo ra khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa và trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng tổ chức viện kiểm sát để đảm bảo tính nghiêm chỉnh và thống nhất của pháp chế.
Nguyễn Ái Quốc đã khởi xướng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ngay từ những ngày đầu cách mạng Trong bức thư gửi Hội nghị Véc-xay năm 1919, ông đã nêu ra tám yêu cầu cơ bản về quyền con người, bao gồm ân xá cho chính trị phạm, bãi bỏ toà án đặc biệt, và đảm bảo quyền tự do báo chí, tư tưởng, hội họp, lập hội, cư trú, xuất dương, học tập, cũng như mở trường kỹ thuật cho người bản xứ Tóm lại, hai nội dung chính của những yêu cầu này là: một là đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; hai là khẳng định rằng để bảo vệ quyền tự do dân chủ, cần có sự quản lý bằng các đạo luật, cụ thể là Hiến pháp Đây chính là tư tưởng cốt lõi của một Nhà nước pháp quyền.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới, Hồ Chí Minh đã nhất quán phát triển hai nội dung quan trọng: lý luận và tổ chức thực tiễn, nhằm tạo nền tảng dân chủ và pháp lý cho chính quyền Người nhấn mạnh truyền thống chính trị "lấy dân làm gốc", khẳng định rằng sức mạnh của Nhà nước ta xuất phát từ nhân dân Toàn Đảng và toàn dân cần có ý thức sâu sắc về nguồn gốc và sức mạnh này để xây dựng một Nhà nước vững mạnh.
Nước ta là một quốc gia dân chủ, nơi mọi lợi ích đều hướng đến phục vụ nhân dân Quyền hạn thuộc về nhân dân, và trách nhiệm trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước cũng nằm trong tay của mỗi người dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân" (2)
Người lãnh đạo xây dựng Nhà nước theo hướng dân chủ đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động của chính quyền Ông là trưởng ban soạn thảo các Hiến pháp năm 1946, góp phần định hình hệ thống pháp luật của đất nước.
Thực trạng và giải pháp của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
1 Thực trạng của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
Nhà nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã kiên cường vượt qua mọi khó khăn, duy trì và hoàn thiện bản chất cách mạng của một Nhà nước pháp quyền, phục vụ lợi ích của nhân dân.
Từ cuộc tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6 tháng 1 năm 1946, nhân dân Việt Nam đã thực hiện quyền làm chủ chính trị, trực tiếp bầu chọn đại biểu đại diện cho mình.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước, đã được thể chế hóa qua 4 bản hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) Quốc hội đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước Với chức năng này, Quốc hội ngày càng hoạt động hiệu quả, phản ánh tiếng nói và lợi ích của nhân dân Các kỳ họp Quốc hội thể hiện không khí dân chủ và thẳng thắn, đặc biệt trong các phiên chất vấn, đồng thời chú trọng xây dựng pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng và nguyện vọng của nhân dân.
* Về nhận thức lý luận
Bài học quan trọng từ hơn 20 năm đổi mới trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là nhận thức rằng đây không phải là việc xây dựng một Nhà nước mới tách rời các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng này đã được xác định tại Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII vào tháng 12/1994, nhấn mạnh rằng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật để phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Nhà nước pháp quyền được xây dựng dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân, với liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Tư tưởng này tiếp tục được phát triển qua các nghị quyết và văn kiện của các Đại hội, thể hiện sự vận dụng sáng tạo học thuyết Nhà nước pháp quyền vào thực tiễn Việt Nam.
* Bước tiến trong thực tiễn
Trong quá trình xây dựng Nhà nước, nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân được quán triệt, thực hiện dân chủ và phát huy tính sáng tạo của nhân dân Đồng thời, cần tham khảo và vận dụng một cách có chọn lọc các lý luận về Nhà nước pháp quyền từ quốc tế, phù hợp với đặc điểm dân tộc, thời đại và thực tiễn của Việt Nam.
Kiện toàn tổ chức bộ máy Chính phủ và cơ quan chính quyền địa phương đã được thực hiện bằng cách sắp xếp các cơ quan bộ và ngang bộ, hình thành các bộ quản lý Nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực Điều này giúp tách dần chức năng quản lý Nhà nước khỏi quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phân biệt rõ ràng giữa chức năng của cơ quan hành chính công quyền và các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công cộng Qua quá trình sắp xếp, số lượng đầu mối của bộ máy Chính phủ đã giảm từ 76 xuống còn
Hiện nay, hệ thống tổ chức của Chính phủ đã được tinh gọn hơn, với 39 cơ quan, bao gồm 17 bộ, 6 cơ quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ Cụ thể, bộ máy uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giảm từ trên 40 đầu mối xuống còn dưới 20, trong khi cấp huyện cũng giảm từ trên 20 xuống còn dưới 10 Nhờ đó, hoạt động điều hành của Chính phủ ngày càng trở nên nhanh nhạy, kịp thời và hiệu quả hơn, đồng thời thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp chính quyền địa phương được quy định rõ ràng hơn.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam đã được xây dựng và hoàn thiện nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong khuôn khổ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo ra một trật tự pháp lý ổn định và góp phần hình thành Nhà nước pháp quyền Hệ thống này thể hiện tính dân chủ thông qua quy trình làm luật, khuyến khích sự đóng góp ý kiến từ các tầng lớp nhân dân Thủ tục pháp lý minh chứng cho tính chất dân chủ, cởi mở và khả năng tiếp cận pháp luật của người dân Bên cạnh đó, cải cách hành chính quốc gia đã được tiến hành, tập trung vào việc nâng cao tính khoa học, chính quy và công khai trong tổ chức bộ máy hành chính, cũng như quy chế hóa và xã hội hóa hoạt động hành chính.
Trong 20 năm đổi mới, Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội Việc ban hành và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở đã góp phần tích cực vào việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân Quyền tham gia của công dân trong các công việc Nhà nước và xã hội, cũng như trong việc xây dựng các quyết định chính trị quan trọng, đã được mở rộng và thực chất hơn Nhờ đó, trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân cũng từng bước được nâng cao.
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, tư duy Nhà nước cũng như nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đã có những bước tiến quan trọng Sự đổi mới này không chỉ tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn khuyến khích trách nhiệm và tính chủ động của các cơ quan Nhà nước.
Quốc hội đã có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, với việc sửa đổi Hiến pháp và hệ thống pháp luật Quy trình làm luật được cải tiến và nhiều pháp lệnh mới được ban hành, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý Nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở nên thực quyền và dân chủ hơn Quốc hội đã cải cách từ khâu bầu cử đại biểu đến tổ chức và phương thức hoạt động, tăng cường giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước Từ năm 1987 đến tháng 6/2005, Quốc hội đã ban hành 145 luật, bao gồm 6 bộ luật lớn, tạo ra khung pháp lý cho quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh Sự đổi mới trong tổ chức, đặc biệt là việc thiết lập lại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đã nâng cao vai trò của Chủ tịch Quốc hội và các ủy ban Những luật và pháp lệnh được ban hành đã hỗ trợ kịp thời cho đường lối đổi mới toàn diện, góp phần phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh Sự xuất hiện nhiều đạo luật mới đã thay đổi cách thức xử sự truyền thống của người Việt Nam, định hình lối sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội, mở ra bước ngoặt cho sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam, từ một hệ thống không hoàn chỉnh sang một hệ thống pháp luật toàn diện và đồng bộ hơn.
Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp đang được phân định rõ ràng hơn, với sự điều chỉnh tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân tối cao và cấp tỉnh, bao gồm việc thành lập các tòa án chuyên trách như tòa kinh tế, tòa lao động và tòa hành chính Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng được điều chỉnh để tập trung vào chức năng công tố, giám sát và giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế và lao động.
Viện kiểm sát nhân dân được thành lập vào đầu năm 2002, đã cải tiến quy trình xét xử theo hướng khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh tụng và nhấn mạnh vai trò quan trọng của Luật sư trong quá trình này.
Bộ máy Nhà nước đã được tổ chức và hoạt động hiệu quả hơn, với việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ, cán bộ, ngành và chính quyền địa phương Sự phân cấp trong quản lý cũng được tăng cường Đồng thời, các hoạt động tư pháp và công tác cải cách tư pháp đã có những chuyển biến tích cực.