Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu nước ngoài
Phát triển bền vững yêu cầu chính phủ cung cấp cơ sở hạ tầng và vật chất công cộng để đảm bảo an ninh, sức khỏe và an sinh xã hội, đồng thời bảo vệ tài nguyên thiên nhiên Chính sách quy hoạch và sử dụng đất đai đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được những mục tiêu này Nghiên cứu "DLXH về các chính sách sử dụng đất đai" của Christopher A Cooper và H Gibbs Knotts nhấn mạnh vai trò của DLXH trong các chính sách đất đai, tập trung vào quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất tại Tây Nam bang Carolina Nghiên cứu gồm hai phần: tóm lược các chính sách sử dụng đất và phân tích cuộc điều tra DLXH năm 2007 với hơn một nghìn cư dân Kết quả cho thấy DLXH ngày càng quan trọng trong hình thành chính sách quy hoạch và sử dụng đất, và các nhà chức trách cần có biện pháp để hiểu rõ hơn về DLXH Nghiên cứu đã đưa ra ba bằng chứng để hỗ trợ kết luận này.
Hơn 60% người được hỏi ủng hộ chính sách quy hoạch và sử dụng đất đai Công chúng thể hiện sự hài lòng cao hơn với các kế hoạch sử dụng đất đai so với quy hoạch đất đai, do đó các nhà chức trách cần chú trọng hơn vào chính sách sử dụng đất Sự ủng hộ đối với các chính sách này khác nhau giữa các nhóm công chúng dựa trên các đặc trưng nhân khẩu Cuối cùng, nghiên cứu khuyến nghị các nhà lãnh đạo nên tiến hành điều tra dư luận xã hội trước khi ban hành các chính sách cụ thể.
Nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng cao từ các chính phủ đã dẫn đến việc thu hồi đất cho các mục đích công, trở thành một biện pháp hiệu quả trong bối cảnh nguồn đất hạn chế Tuy nhiên, việc thu hồi đất diễn ra trên quy mô lớn đã gây ra nhiều hệ lụy cho người bị thu hồi, khiến vấn đề này trở nên phức tạp và nhạy cảm tại nhiều quốc gia Để giải quyết tình trạng này, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc đã ban hành tài liệu “Cưỡng chế thu hồi đất và bồi thường”, nhằm cung cấp hướng dẫn cho những người quản lý đất đai và những ai quan tâm đến quyền sử dụng đất Tài liệu nhấn mạnh rằng thu hồi đất là chức năng quan trọng của chính phủ, thể hiện quyền lực trong lĩnh vực đất đai, đồng thời cần tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan Nó cũng giải thích các thuật ngữ liên quan, biện pháp triển khai quy trình thu hồi và bồi thường, đồng thời xem xét các hệ quả từ hệ thống pháp luật và chính sách không phù hợp, từ đó đưa ra giải pháp cải thiện dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của các chương trình và dự án nghiên cứu.
Việc thu hồi đất có những tác động xã hội sâu sắc, đặc biệt là đối với đời sống của người nông dân, như đã được nghiên cứu trong trường hợp Bako-Tibe Woreda tại Ethiopia của tác giả Moges Gobena Nghiên cứu này chỉ ra rằng hiện nay còn rất ít công trình nghiên cứu về tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống người dân, đặc biệt ở Châu Phi Mục đích của nghiên cứu là chỉ ra các hệ quả của việc thu hồi đất đối với sinh kế của nông dân Ethiopia, bao gồm tác động đến sinh kế, an ninh lương thực và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên Kết luận cho thấy rằng để đạt được lợi ích cho cả hai bên, cần có sự tham gia của các bên liên quan, đánh giá tác động môi trường và triển khai các chính sách hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm.
Tóm lại, quy hoạch và sử dụng đất đai là vấn đề quan trọng được chính phủ, nhà nghiên cứu và toàn xã hội quan tâm Mỗi cá nhân có cách nhìn nhận và phân tích khác nhau về các khía cạnh như vai trò của dân luận xã hội trong chính sách đất đai, vấn đề thu hồi đất và bồi thường, cũng như hệ lụy xã hội từ quá trình thu hồi đất Những quan điểm đa dạng này giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan và đa chiều về các vấn đề liên quan đến đất đai.
Nghiên cứu trong nước
Đất đai là tài nguyên quý giá và là tư liệu sản xuất đặc biệt, đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa và xã hội, đồng thời ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái Trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, việc chuyển đổi một phần lớn đất nông nghiệp sang đất công nghiệp và đô thị trở nên cần thiết Quá trình này không chỉ quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội mà còn thu hút sự quan tâm từ Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, thể hiện rõ nét qua sự ra đời của Luật Đất Đai.
Luật Đất Đai 2003 có những ưu điểm và nhược điểm đáng chú ý về chính sách bồi thường và hỗ trợ tái định cư Trong bài viết “Về chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”, tác giả Nguyễn Thị Phượng đã đưa ra những bình luận sâu sắc về vấn đề này Bài viết khẳng định rằng chính sách bồi thường cần được cải thiện để đảm bảo quyền lợi cho người dân bị thu hồi đất, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hỗ trợ tái định cư để giúp họ ổn định cuộc sống sau khi bị ảnh hưởng.
Luật Đất Đai năm 2003 đã có những cải tiến đáng kể so với các bộ luật trước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn và quy luật kinh tế thị trường, thể hiện qua các điều khoản như Khoản 1 Điều 38 và Điều 42 Các văn bản hướng dẫn như Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP đã quy định rõ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất và bồi thường Gần đây, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP bổ sung thêm quy định về quy hoạch sử dụng đất và hỗ trợ tái định cư Luật Đất Đai đã mang lại nhiều kết quả tích cực, như xác định rõ đối tượng bồi thường và mức bồi thường cao hơn, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế trong chính sách bồi thường và hỗ trợ tái định cư, đặc biệt là khó khăn trong việc xác định giá bồi thường và thủ tục hành chính phức tạp đối với nhà đầu tư.
Luật Đất Đai và các Nghị định liên quan đang tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt trong vấn đề thu hồi đất, hỗ trợ, đền bù và tái định cư, do đó việc sửa đổi chính sách đất đai là cần thiết Tác giả Lê Thanh Khuyên trong bài viết “Hoàn thiện chính sách đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã chỉ ra những thành tựu trong 25 năm đổi mới, như Luật Đất Đai 2003 đã cải cách quan trọng về pháp luật và quy hoạch, khuyến khích cá nhân đầu tư sản xuất Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần cải thiện, bao gồm việc thực hiện đúng quan điểm phát triển kinh tế xã hội, xây dựng cơ chế quản lý nhà nước và thị trường, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, và gắn quản lý đất đai với bảo vệ môi trường Tác giả Hoàng Ngọc Hòa trong bài viết “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai ở nước ta” đề xuất 4 nhóm giải pháp chính để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai, bao gồm cụ thể hóa quyền và trách nhiệm của nhà nước và người sử dụng đất, cũng như cải thiện cơ chế phân cấp quản lý đất đai giữa trung ương và địa phương.
Việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển khu công nghiệp và đô thị là một xu hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Quá trình này góp phần nâng cao và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, nó cũng tạo ra những hệ quả xã hội đáng lưu ý.
Trong bài viết “Về vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa”, tác giả Lê Hiếu đã chỉ ra hệ quả xã hội nghiêm trọng liên quan đến việc làm của những người bị thu hồi đất Tác giả cung cấp nhiều số liệu thống kê về diện tích đất bị thu hồi và số lượng người mất việc, từ đó khẳng định rằng vấn đề việc làm và thu nhập của họ đang ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển bền vững của đất nước Để giải quyết tình trạng này, tác giả khuyến nghị cần lập quy hoạch khu đô thị và công nghiệp phù hợp với quy hoạch tổng thể, thực hiện chính sách bồi thường và hỗ trợ hợp lý, cũng như tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất chuyển đổi nghề nghiệp và giải quyết việc làm tại nông thôn.
Một trong những vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu liên quan đến việc thu hồi đất GPMB là tác động của việc này đối với đời sống của người nông dân Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc thu hồi đất có thể ảnh hưởng sâu sắc đến thu nhập, sinh kế và tâm lý của người dân nông thôn.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Diễn về “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp cho công nghiệp hóa đến sinh kế của các hộ nông dân ở tỉnh Hưng Yên” chỉ ra rằng việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển khu, cụm công nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích cho ngân sách địa phương, với mức tăng từ 2 đến 3 lần, cải thiện hạ tầng nông thôn và tăng thu nhập bình quân đầu người Tuy nhiên, quá trình này cũng gây ra những tác động tiêu cực, như ảnh hưởng đến việc làm và an toàn lương thực của nông dân, đồng thời thúc đẩy phân tầng xã hội Chỉ 16,4% lao động trong các hộ điều tra tìm được việc làm tại các nhà máy, trong khi 77% hộ không tự chủ về lương thực và 69,6% lo ngại về ô nhiễm môi trường do các nhà máy xung quanh.
Tác giả Quách Thị Kiều Dung với nghiên cứu “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống nông dân qua “thực tiễn ở huyện Mê Linh – Hà Nội”
Nghiên cứu này phân tích tính cấp thiết và tác động của quá trình thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống của nông dân bị ảnh hưởng, đặc biệt tại huyện Mê Linh - Hà Nội Qua khảo sát thực trạng, bài viết làm rõ những ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với đời sống của người dân trong khu vực này Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục các tác động tiêu cực từ việc thu hồi đất đối với đời sống của nông dân Mê Linh.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh nghiên cứu đề tài "Ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống, việc làm của nông dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên" Nghiên cứu này phân tích tình hình thu hồi đất để phát triển các khu, cụm công nghiệp và tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, việc làm và thu nhập của các hộ dân bị ảnh hưởng Đồng thời, bài nghiên cứu cũng chỉ ra những thách thức mà việc thu hồi đất mang lại trong quá trình phát triển.
Tác giả Nguyễn Văn Sửu trong nghiên cứu "Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế nông dân Việt Nam - trường hợp một làng ven đô Hà Nội" đã phân tích sâu sắc về việc thu hồi đất nông nghiệp và những ảnh hưởng của nó đến cuộc sống của người nông dân Nghiên cứu này tập trung vào tác động của quá trình đô thị hóa đối với sinh kế của cư dân tại một làng ven đô Hà Nội từ cuối những năm 1990.
Các vấn đề liên quan đến đất đai đang thu hút sự quan tâm của xã hội, nhưng nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội học, vẫn còn hạn chế Bài viết “Tái định cư trong phát triển đô thị và một số vấn đề xã hội” của Trịnh Duy Luân đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này Tác giả nhấn mạnh rằng tái định cư là một hình thức cơ động xã hội bắt buộc, đòi hỏi các chính sách và quy tắc quản lý khác biệt Bài viết phân tích tác động của mối quan hệ kinh tế và xã hội đến quá trình tái định cư, đồng thời nêu rõ nhu cầu về các hoạt động “hậu tái định cư” và hỗ trợ cho người thu nhập thấp Dựa trên những phân tích đó, tác giả đề xuất các chính sách kết hợp giải quyết vấn đề kinh tế, xã hội và quản lý trong mô hình tái định cư, đặc biệt chú trọng đến các nhóm dễ bị tổn thương.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình và bài báo tiêu biểu khác như "Nhà tái định cư: vừa ở vừa run" của tác giả Nguyễn Thiêm, đăng trên Báo Công an nhân dân ngày 21/5/2005, và bài viết "Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp" của tác giả Đỗ Đức.
Trong các bài viết gần đây, vấn đề thu hồi đất đã thu hút sự quan tâm lớn từ dư luận Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số 8, tháng 8/2007) đã chỉ ra nguyên nhân khiến người dân chưa đồng thuận về chính sách này Báo Điện tử Kinh tế và Đô thị (19/8/2008) cũng nêu rõ những bức xúc liên quan đến giá đền bù không hợp lý Hơn nữa, bài viết trên Báo điện tử Dân Trí (3/10/2008) nhấn mạnh rằng sự bất mãn của người dân không chỉ đến từ giá cả mà còn từ sự vô cảm của chính quyền, như được phản ánh trong bài viết của nhóm phóng viên điều tra trên Báo điện tử Nhà báo và Công luận (17/09/2009) Cuối cùng, Tạp chí Luật học (số 10/2010) đã đề cập đến các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, nhằm cải thiện tình hình và đáp ứng nguyện vọng của người dân.
Hiện nay, tình hình khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai tại Việt Nam đang diễn ra phức tạp và gay gắt, thu hút sự chú ý của dư luận Vụ kiện đất đai nổi bật tại Hải Phòng giữa ông Đoàn Văn Vươn và Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng đã trở thành đỉnh điểm của xung đột đất đai, làm bộc lộ những bất cập trong pháp luật và thực thi pháp luật ở địa phương, dẫn đến thương vong cho lực lượng chức năng và bắt giữ nhiều người dân Tương tự, vụ cưỡng chế đất tại Văn Giang, Hưng Yên liên quan đến dự án Ecopark đã khiến người dân liên tục khiếu kiện do mức giá đền bù không công bằng Người dân Văn Giang đã tập trung khiếu nại về nhiều vấn đề, từ sai lệch giấy tờ đến tố cáo cưỡng chế trái pháp luật Trong bối cảnh đó, dư luận cũng đang lo ngại về khả năng xảy ra vụ cưỡng chế đất nghiêm trọng tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đề tài "Dư luận xã hội về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại Thành phố Hà Nội" tập trung vào hai phường Dương Nội và Phú Lương, Quận Hà Đông, nhằm áp dụng các lý thuyết xã hội học để phân tích và đánh giá dư luận xã hội liên quan đến bồi thường và tái định cư Nghiên cứu cung cấp luận cứ khoa học xác thực, phản ánh đúng thực trạng vấn đề, từ đó tạo cơ sở cho việc hoạch định chính sách của Nhà nước về thu hồi đất, sử dụng và bồi thường tái định cư Đồng thời, nghiên cứu cũng nhấn mạnh việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học vào các đề tài cụ thể.
Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu này giúp làm rõ dư luận xã hội về bồi thường và hỗ trợ tái định cư, từ đó cung cấp thông tin quý giá cho chính quyền và nhà đầu tư để hiểu rõ nguyện vọng của người dân Đồng thời, việc khảo sát dư luận về quản lý và sử dụng đất đai là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, điều chỉnh chính sách nhằm bảo vệ lợi ích của người bị thu hồi đất, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.
Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Bài viết này sẽ phân tích thực trạng bồi thường và hỗ trợ tái định cư tại phường Dương Nội và phường Phú Lương, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội Dựa trên những vấn đề đã được nhận diện, chúng tôi sẽ đưa ra các khuyến nghị nhằm cải thiện những hệ quả tiêu cực liên quan đến quá trình này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Tìm hiểu DLXH về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại phường Dương Nội và phường Phú Lương, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
Nghiên cứu về hệ quả và nguyên nhân gây bức xúc trong nhân dân liên quan đến việc bồi thường và hỗ trợ tái định cư sau khi thu hồi đất là rất cần thiết Việc này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của người dân mà còn phản ánh sự công bằng trong chính sách đất đai Những bất cập trong quy trình bồi thường có thể dẫn đến sự phẫn nộ và mất niềm tin của cộng đồng vào chính quyền Do đó, cần có những giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình và đảm bảo quyền lợi cho người dân bị ảnh hưởng.
(3) Đưa ra những khuyến nghị nhằm khắc phục những khó khăn trong việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
DLXH về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư trên địa bàn Thành phố
Khách thể nghiên cứu
- Nhân dân bị thu hồi đất tại hai phường Dương Nội và phú Lương, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
- Các cấp lãnh đạo phường Dương Nội, phú Lương và quận Hà Đông
- Chủ đầu tư các dự án tại hai phường Dương Nội và Phú Lương.
Phạm vi nghiên cứu
5.3.1 Phạm vi thời gian Đề tài được khảo sát từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2014
5.3.2 Phạm vi không gian Đề tài được tiến hành tại phường Dương Nội và phú Lương, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
Nội dung của đề tài bao gồm các thông tin chủ yếu sau:
DLXH đề cập đến chính sách bồi thường và hỗ trợ tái định cư cho người dân bị thu hồi đất tại phường Dương Nội và phường Phú Lương, quận Hà Đông, TP Hà Nội Chính sách này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân, giúp họ ổn định cuộc sống sau khi mất đất canh tác và sinh sống Việc thực hiện bồi thường công bằng và hỗ trợ tái định cư là cần thiết để giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc thu hồi đất.
(2) DLXH về hệ quả và nguyên nhân gây bức xúc trong nhân dân về việc việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư sau khi thu hồi đất.
Câu hỏi nghiên cứu
(1) DLXH về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại hai địa bàn trên như thế nào?
(2) DLXH về hệ quả của việc thu hồi đất hiện nay ra sao? Đâu là nguyên nhân chính dẫn đến những bức xúc trong nhân dân hiện nay?
Giả thuyết nghiên cứu, khung phân tích
Giả thuyết nghiên cứu
Phần lớn người dân quan tâm đến việc giải phóng mặt bằng (GPMB), tuy nhiên, họ chưa hài lòng với cách tổ chức bồi thường và hỗ trợ tái định cư từ các cấp chính quyền và nhà đầu tư.
Nguyên nhân chính gây ra sự không hài lòng của người dân chủ yếu xuất phát từ mức đền bù chưa thỏa đáng và sự thiếu dân chủ trong việc thực hiện các thủ tục, quy định trong quá trình giải phóng mặt bằng (GPMB).
* Giả thuyết 3 : Kênh thông tin chính của người dân về việc GPMB ở địa phương chủ yếu là truyền thông liên cá nhân hay kênh “truyền miệng”.
Khung phân tích
Chính sách xã hội về đất đai tại địa phương
Các yếu tố: -Giới tính
- Diện tích/ vị trí đất bị thu hồi
Khuyến nghị về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
-Quá trình thu hồi đất
-Việc bồi thường, hỗ trợ -Chính sách tái định cư
Dư luận xã hội về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tập trung vào việc phân tích sự phát triển và mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng Đồng thời, nghiên cứu cũng sử dụng các lý thuyết xã hội học như thuyết dòng xoáy im lặng và thuyết xung đột để làm rõ hơn những vấn đề được khảo sát.
Nghiên cứu về DLXH dựa trên hai cơ sở chính: nhận thức và xã hội Cơ sở nhận thức bao gồm trình độ hiểu biết của công chúng và khuôn mẫu tư duy xã hội, cả hai yếu tố này đều ảnh hưởng đến nội dung và sắc thái của DLXH Sự hiểu biết của công chúng về một vấn đề xã hội sẽ quyết định cách nhìn nhận và đánh giá của họ đối với vấn đề đó Đồng thời, khuôn mẫu tư duy xã hội, theo tác giả Phạm Chiến Khu, là những quan niệm và phán xét đơn giản nhưng phổ biến và bền vững trong cộng đồng, cũng có tác động lớn đến sự phán xét của DLXH.
Sự tồn tại của các khuôn mẫu tư duy là cần thiết để hình thành hành động xã hội, trong đó DLXH đóng vai trò như phương thức tồn tại của các khuôn mẫu này Để hiểu rõ về cơ sở xã hội của DLXH, cần xem xét các yếu tố xã hội, với lợi ích được coi là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến nội dung và sắc thái của DLXH Bên cạnh lợi ích chung và lợi ích của nhóm, cộng đồng, còn có lợi ích cá nhân Đôi khi, các lợi ích này có thể thống nhất, nhưng cũng có lúc chúng mâu thuẫn, điều này ảnh hưởng đến nội dung và sắc thái của DLXH.
Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp quan sát là công cụ quan trọng trong nghiên cứu DLXH, cho phép thu thập thông tin sơ cấp bằng cách ghi chép các biểu hiện, thái độ và hành vi của đối tượng nghiên cứu Qua việc quan sát, nhà nghiên cứu có thể nhận diện xu hướng và cường độ của các hiện tượng xã hội liên quan đến vấn đề nghiên cứu Nghiên cứu tập trung vào việc quan sát các khu tái định cư, bao gồm môi trường sống, giao thông và dịch vụ, cũng như đời sống và quan hệ giao tiếp của người dân Những quan sát này sẽ làm cơ sở để đánh giá ý kiến và mức độ hài lòng của người dân đối với chính sách bồi thường và hỗ trợ tái định cư cho những hộ gia đình bị thu hồi đất.
8.2.2 Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kiến thức nền và đánh giá tổng quan về vấn đề nghiên cứu Trong nghiên cứu này, tôi chú trọng vào việc sử dụng các tài liệu như văn bản, nghị quyết liên quan đến đất đai, bồi thường và hỗ trợ tái định cư, cùng với các báo cáo của chính quyền Quận Hà Đông, Phường Dương Nội và Phú Lương Ngoài ra, tôi cũng tham khảo các công trình nghiên cứu trước đây, bài viết trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành, và thông tin trên internet về các vấn đề liên quan Thông tin thu thập từ tài liệu được lựa chọn cẩn thận để đáp ứng hiệu quả nhu cầu thông tin của nghiên cứu.
8.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu là một công cụ hữu ích để thu thập thông tin đa dạng, bao gồm tư tưởng, thái độ và quan điểm của người tham gia về vấn đề nghiên cứu, đồng thời giúp phát hiện những ý kiến trái chiều mà bảng hỏi khó có thể khai thác Thông tin thu được từ phỏng vấn sâu còn có thể bổ sung và làm rõ các dữ liệu định lượng Nghiên cứu này tập trung vào việc áp dụng phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc, với các câu hỏi được chuẩn bị sẵn nhằm đảm bảo tính hệ thống và hiệu quả trong quá trình thu thập thông tin.
Nghiên cứu tiến hành các cuộc phỏng vấn sâu với người dân để thu thập đánh giá, quan điểm, thái độ và mức độ hài lòng về bồi thường, hỗ trợ tái định cư Đồng thời, nghiên cứu cũng tập trung vào những vấn đề cụ thể mà người dân đang quan tâm và còn bức xúc Để có cái nhìn đa chiều, nghiên cứu còn tiến hành phỏng vấn đại diện các cấp chính quyền và chủ đầu tư, nhằm thu thập thông tin về quan điểm và đánh giá của các bên liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Số lượng phỏng vấn sâu: 11 phỏng vấn ( 8 người dân, 2 cán bộ đại diện cấp phường, 1 phỏng vấn đại diện chủ đầu tư)
8.2.4 Phương pháp trưng cầu ý kiến
Phương pháp trưng cầu ý kiến tập trung vào việc đo lường ý kiến của người dân về các vấn đề nghiên cứu, đặc biệt là sự đánh giá và mức độ hài lòng của họ đối với bồi thường và hỗ trợ tái định cư hiện nay Phiếu trưng cầu không chỉ nhằm mục đích thu thập thông tin về sự quan tâm của người dân mà còn tìm hiểu các nguyên nhân chính gây bức xúc, như mức bồi thường, khu tái định cư và việc sắp xếp công ăn việc làm cho họ.
Một trong những điểm quan trọng của nghiên cứu này là phương pháp chọn mẫu, cụ thể là chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống Nghiên cứu đã thực hiện 300 phiếu khảo sát, với 150 phiếu cho mỗi phường Phương pháp này bắt đầu bằng cách rút thăm ngẫu nhiên một đơn vị đầu tiên, sau đó các đơn vị tiếp theo được chọn theo hệ thống Công thức chọn mẫu ngẫu nhiên được áp dụng là K = N/n, trong đó K là khoảng cách giữa các phần tử được chọn, N là kích thước tổng thể, và n là dung lượng mẫu Đối với phường Dương Nội, khảo sát đã tiến hành trên 150 hộ trong tổng số.
Trong quá trình thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, có 472 hộ gia đình bị ảnh hưởng Để khảo sát, chúng ta áp dụng công thức K=N/n, với K là tỷ lệ chọn mẫu Từ đó, ta có K=472:150=3.1, nghĩa là trung bình cứ 3 hộ gia đình sẽ chọn 1 hộ gia đình để thu thập thông tin Tương tự, tại phường Phú Lương, trong tổng số 436 hộ gia đình bị thu hồi đất, chúng ta khảo sát 150 hộ Áp dụng công thức K=N/n, ta tính được K=436:150=2.9, cho thấy trung bình cứ 3 hộ gia đình sẽ chọn 1 hộ gia đình để khảo sát.
Cơ cấu mẫu như sau:
Bảng 1.1: Cơ cấu mẫu khảo sát
Có vợ/chồng Chƣa có vợ/chồng Ly hôn/ly thân Góa N %
Không theo TG TG khác N %
CĐ, ĐH trở lên Trung cấp/sơ cấp THPT THCS Tiểu học N %
Cấu trúc luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Dư luận xã hội xung quanh vấn đề đền bù và hỗ trợ tái định cư sau khi thu hồi đất tại phường Dương Nội và phường Phú Lương, quận Hà Đông, TP Hà Nội, phản ánh những quan điểm và ý kiến của người dân về chính sách bồi thường, mức độ công bằng trong việc hỗ trợ tái định cư, cũng như những tác động đến đời sống và sinh kế của họ Sự minh bạch trong quy trình bồi thường và tính hợp lý của các giải pháp tái định cư được xem là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng niềm tin của cộng đồng đối với chính quyền địa phương.
Chương 3: Dư luận xã hội về hệ quả và nguyên nhân gây bức xúc trong nhân dân liên quan đến vấn đề bồi thường và hỗ trợ tái định cư sau khi thu hồi đất đang thu hút sự quan tâm lớn Người dân thường bày tỏ sự không hài lòng về mức bồi thường không công bằng và quy trình hỗ trợ chưa minh bạch Những nguyên nhân này dẫn đến tình trạng khiếu nại, phản đối và căng thẳng trong cộng đồng, ảnh hưởng đến ổn định xã hội Việc cải thiện chính sách bồi thường và hỗ trợ tái định cư là cần thiết để khôi phục niềm tin của người dân và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ.
Kết luận và khuyến nghị
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Các khái niệm
Dư luận xã hội (DLXH) có thể được hiểu đơn giản là tập hợp các ý kiến cá nhân về những vấn đề, sự kiện và hiện tượng thời sự, liên quan đến lợi ích và mối quan tâm của công chúng.
Theo Hadley Cantril, DLXH có 4 đặc tính cơ bản: khuynh hướng, thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối; cường độ, phản ánh sức căng về ý kiến của DLXH; phạm vi, chỉ số lượng cá nhân hay nhóm xã hội mà DLXH bao phủ; và mức độ sâu sắc, thể hiện mức độ cắm rễ của DLXH trong suy nghĩ của một nhóm hay cá nhân.
Nghiên cứu DLXH là việc hết sức cần thiết vì DLXH có những chức năng tích cực rất quan trọng:
- Chức năng điều tiết các mối quan hệ xã hội
- Chức năng tư vấn, phản biện
- Chức năng giải tỏa tâm lý xã hội
Trong nghiên cứu DLXH, việc phân biệt giữa khái niệm DLXH và tin đồn là rất quan trọng, nhằm đảm bảo tính chính xác của nghiên cứu Sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm này có thể dẫn đến những sai lệch trong kết quả nghiên cứu.
Những tiêu chí DLXH Tin đồn
Tính kiểm chứng của vấn đề đƣợc đề cập
Vấn đề thường liên quan đến lĩnh vực công cộng
Nguồn kiểm chứng thông tin có thể qua hai nguồn: các cơ quan chức năng và các phương tiện truyền thông
Có thể là vấn đề của cá nhân cũng có thể là vấn đề của công cộng Mang tính khó kiểm chứng
Mức độ tham gia của yếu tố tinh thần
Mức độ tham gia cao Mức độ tham gia thấp
Kênh phổ biến Chủ yếu qua kênh truyền thông đại chúng
Chủ yếu qua kênh giao tiếp cá nhân
Tính ổn định Có sự ổn định cao Dễ thay đổi
1.1.2 Thu hồi đất nông nghiệp
Theo Từ điển giải thích Luật học, thu hồi đất là hành động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc lấy lại quyền sử dụng đất từ người vi phạm quy định sử dụng đất Mục đích của việc thu hồi này là để giao đất cho người sử dụng khác hoặc trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp bị lấn chiếm Ngoài ra, trong những trường hợp cần thiết, nhà nước có thể thu hồi đất đang sử dụng để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng.
Theo Điều 4, Khoản 5 của Luật Đất đai năm 2003, việc thu hồi đất được hiểu là quyết định hành chính của Nhà nước nhằm thu lại quyền sử dụng đất hoặc đất đã được giao cho tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của pháp luật.
Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được hiểu là quyết định hành chính của Nhà nước nhằm thu lại quyền sử dụng đất nông nghiệp đã cấp cho hộ gia đình, cá nhân Việc thu hồi này được thực hiện theo quy định của Luật đất đai, phục vụ cho các mục đích như quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế.
Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai 2003 quy định “Bồi thường khi NN thu hồi đất là việc NN trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất” Như vậy, căn cứ vào quy định trên có thể hiểu bồi thường đối với hộ gia đình, cá nhân khi NN thu hồi đất nông nghiệp là việc NN trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân là nghĩa vụ của Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được giao đất, cho thuê đất nhằm phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế Việc bồi thường này nhằm đảm bảo bù đắp cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp những thiệt hại vật chất do việc thu hồi đất gây ra.
Luật Đất đai năm 2013 quy định nguyên tắc bồi thường về đất và thiệt hại tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi thành hai điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88) Phương thức bồi thường đã có nhiều đổi mới, bao gồm việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi Nếu không có đất để bồi thường, thì sẽ được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm ra quyết định thu hồi Đặc biệt, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở và người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam, nếu có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận nhưng chưa được cấp, sẽ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong trường hợp không còn đất ở hoặc nhà ở nào khác trong khu vực xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi, người dân sẽ được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở Nếu không có nhu cầu nhận bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở, Nhà nước sẽ tiến hành bồi thường bằng tiền.
Trong trường hợp có đất ở hoặc nhà ở trong khu vực xã, phường, thị trấn bị thu hồi, người dân sẽ được bồi thường bằng tiền Đối với những địa phương có quỹ đất ở dồi dào, việc bồi thường có thể được xem xét bằng hình thức đất ở.
Trong trường hợp người dân phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác, Nhà nước sẽ hỗ trợ bằng cách bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.
Ngoài việc nhận bồi thường cho đất, người dân còn được bồi thường chi phí đầu tư vào các loại đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp khác theo quy định tại Điều này.
Theo quy định tại các Điều 77, 78, 80 và 81, những loại đất được Nhà nước giao, cho thuê không thu tiền hoặc miễn thu tiền giao đất, bao gồm đất nông nghiệp công ích, đất nhận khoán cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối, sẽ không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi Tuy nhiên, người sử dụng đất sẽ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.
Cơ chế và chính sách bồi thường đất được quy định chi tiết cho từng loại đất, bao gồm đất ở, đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp không phải đất ở, cũng như theo từng đối tượng sử dụng Mức bồi thường cho người có đất thu hồi không chỉ dựa vào loại đất và đối tượng sử dụng mà còn phụ thuộc vào thời hạn sử dụng đất còn lại Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn đã bổ sung các trường hợp bồi thường cho các dự án đặc biệt, như đất ở trong khu vực ô nhiễm môi trường hoặc có nguy cơ sạt lở, sụt lún, ảnh hưởng đến tính mạng con người.
Các lý thuyết áp dụng
1.2.1 Thuyết dòng xoáy im lặng
Thuyết dòng xoáy im lặng, được đề xuất bởi nhà xã hội học Noell-Neumann năm 1974, giải thích lý do tại sao con người thường không công khai bày tỏ quan điểm khi cảm thấy thuộc về thiểu số Theo thuyết này, mọi người có xu hướng giữ im lặng khi quan điểm của họ không phổ biến, dựa trên ba giả thuyết chính: khả năng tiền thống kê trong tương tác xã hội, nỗi sợ bị cô lập, và sự kín đáo khi thể hiện quan điểm thiểu số Dòng xoáy im lặng xảy ra khi có quan điểm trái chiều trong xã hội; cá nhân càng gần với dư luận thịnh hành thì càng có xu hướng bày tỏ ý kiến, ngược lại, khi khoảng cách giữa ý kiến cá nhân và dư luận lớn, họ sẽ ngại ngùng trong việc thể hiện quan điểm Khi ý kiến của nhóm đa số được khẳng định bởi những người có uy tín, nó càng củng cố vị thế của nhóm này, trong khi nhóm thiểu số càng cảm thấy sợ hãi và bị đẩy lùi.
Lý thuyết dòng xoáy im lặng giúp giải thích nhiều hiện tượng xã hội, đặc biệt là dư luận về đất đai Trong các dự án GPMB, nhiều người dân không hài lòng với mức bồi thường của chủ đầu tư, dẫn đến sự gia tăng biểu tình từ nhóm nhỏ đến đông đảo Mặc dù một số ít người dân hài lòng với bồi thường, họ thường không dám lên tiếng phản kháng mà tham gia cùng số đông hoặc tỏ ra thờ ơ Ngược lại, những người biểu tình cảm thấy được ủng hộ, dẫn đến các hành động gây mất an ninh trật tự như khiếu kiện đông người và lập hàng rào ngăn cản thực hiện dự án.
Karl Marx là một trong những người sáng lập thuyết xung đột, nhấn mạnh vai trò của cưỡng chế và quyền lực trong việc thiết lập trật tự xã hội Ông cho rằng xã hội được chia thành các nhóm cạnh tranh nhằm giành lấy nguồn lực xã hội và kinh tế Trật tự xã hội được duy trì bởi giai cấp thống trị, những người nắm giữ các nguồn lực chính trị, kinh tế và xã hội.
Theo thuyết xung đột, bất bình đẳng xã hội xuất phát từ việc một nhóm người kiểm soát nhiều nguồn lực hơn những người khác và liên tục bảo vệ lợi ích của mình Quần chúng nhân dân không bị ràng buộc bởi các giá trị chung mà bởi sự thống trị của giới cầm quyền Học thuyết này nhấn mạnh sự kiểm soát xã hội, nơi các nhóm và cá nhân tìm cách gia tăng lợi ích và đấu tranh giành quyền kiểm soát nguồn lực Kết quả là những người sở hữu nhiều nguồn lực có quyền lực hơn, dẫn đến bất bình đẳng và cuộc đấu tranh giành nguồn lực không ngừng diễn ra Đặc biệt, thuyết xung đột còn chỉ ra rằng các yếu tố chủng tộc, giai cấp và giới tính ảnh hưởng lớn đến quá trình này.
Trong khi nhiều lý thuyết xã hội học tập trung vào các khía cạnh tích cực của xã hội, thuyết xung đột lại nhấn mạnh vào những yếu tố tiêu cực như mâu thuẫn và sự biến đổi không ngừng của xã hội Khác với các nhà chức năng luận, những người bảo vệ sự ổn định và trật tự xã hội, các nhà xung đột khuyến khích sự thay đổi xã hội và cho rằng quyền lực thường được sử dụng để duy trì trật tự có lợi cho những người mạnh, trong khi những người nghèo và yếu thế thường bị áp bức.
Theo thuyết xung đột, nguồn gốc của xung đột xuất phát từ lợi ích, và ngày nay, các nhà lý thuyết xung đột nhận thấy rằng xung đột có thể xảy ra giữa bất kỳ nhóm nào, dẫn đến bất bình đẳng trong các lĩnh vực như chủng tộc, giới tính, tôn giáo, chính trị và kinh tế Họ cũng nhấn mạnh rằng các nhóm bất bình đẳng thường mang trong mình các giá trị xung đột và có những phương thức khác nhau để đấu tranh chống lại các nhóm khác Sự đấu tranh liên tục giữa các nhóm xã hội đã góp phần tạo nên bản chất thay đổi không ngừng của xã hội.
Theo Dahrendorf, thuyết xung đột là lý thuyết quan trọng giúp giải thích căng thẳng trong xã hội, xuất phát từ cuộc đấu tranh quyền lực giữa các nhóm có lợi ích đối lập Quyền lực được hiểu là khả năng thực hiện ý chí của một cá nhân trong mối quan hệ xã hội, bất chấp sự kháng cự từ người khác Nó thể hiện sự kiểm soát, quyền ra lệnh và chiếm đoạt lợi ích từ những người yếu thế Mâu thuẫn nảy sinh giữa những người bảo vệ quyền lực và những người kháng cự nhằm giành lấy quyền lực, với bộ mặt cơ bản của quyền lực là sự giành giật và sử dụng quyền lực để theo đuổi mục đích cá nhân.
Theo thuyết xung đột, mỗi nhóm đều theo đuổi lợi ích riêng, dẫn đến xung đột xã hội, đặc biệt là giữa nhóm thu hồi đất và nhóm bị thu hồi đất Mâu thuẫn giữa hai nhóm này là nguyên nhân chính gây ra tình trạng biểu tình, khiếu nại và tố cáo hiện nay Việc không đảm bảo lợi ích giữa hai bên đã gây trở ngại cho quá trình giải phóng mặt bằng (GPMB) Thuyết xung đột cho thấy nhóm thu hồi đất có lợi thế hơn do nắm quyền lực, nhưng trong xã hội dân chủ hiện nay, ý kiến của quần chúng cũng ngày càng được coi trọng, ảnh hưởng lớn đến chính sách và quá trình GPMB.
Quan điểm của Đảng và NN về việc nghiên cứu DLXH
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta khẳng định rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Do đó, việc duy trì mối liên hệ thường xuyên với quần chúng và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ là yếu tố cốt lõi trong việc xây dựng Đảng và tư tưởng của Đảng.
Trong những năm gần đây, sự phát triển của dân chủ trong xã hội đã làm cho việc nắm bắt và định hướng dư luận xã hội (DLXH) trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, vì DLXH phản ánh tâm tư, nguyện vọng và ý chí của người dân DLXH không chỉ là chỉ báo về mặt tinh thần của xã hội mà còn là thước đo thái độ của dân Ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng đã chú trọng đến việc nắm bắt DLXH để kịp thời điều chỉnh chủ trương, chính sách và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được Đảng áp dụng để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời hình thành quy chế dân chủ ở cơ sở với việc “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin” Các chủ trương này đã dần đi vào cuộc sống và được khẳng định qua nhiều văn bản, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Từ năm 1982, Ban bí thư đã thành lập Viện nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, với nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu dư luận nhân dân về các vấn đề cơ bản và quan trọng của đất nước Trong những năm tiếp theo, Đảng và Nhà nước tiếp tục chỉ đạo tăng cường nghiên cứu dư luận xã hội, thể hiện qua các Văn kiện Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương Đặc biệt, vào năm 2012, Bộ Chính trị đã ban hành kế hoạch số 08/KH-TW, yêu cầu đổi mới và nâng cao điều tra dư luận xã hội, nhằm tập hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước khi ban hành nghị quyết, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Công cuộc đổi mới thành công hiện nay có sự đóng góp quan trọng từ việc Đảng tự đổi mới, tìm kiếm cơ chế và phương thức phát huy sức sáng tạo của nhân dân Nhân dân không chỉ tham gia bàn thảo các vấn đề của đất nước mà còn tích cực tham gia vào đời sống chính trị thông qua các hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát và tự quản.
Tổng quan địa bàn nghiên cứu
1.4.1 Tổng quan về phường Dương Nội
Dương Nội là phường thuộc quận Hà Đông, Hà Nội, cách trung tâm thành phố 14 km và cách trung tâm quận Hà Đông 3 km Phường Dương Nội giáp với phường Quang Trung ở phía Đông, phường Phúc La ở phía Tây, phường Vạn Phúc ở phía Nam và phường Đồng Mai ở phía Bắc.
Theo Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội 6 tháng đầu năm 2014 thì phường có những đặc điểm như sau:
Về nông nghiệp, phường đã vận động nhân dân tự khai hoang 6 ha đất chưa sử dụng để trồng hoa, màu và rau các loại Toàn phường hiện có 25 hộ sản xuất bún mỳ và các loại thực phẩm tương tự Đối với công tác tiêm phòng, đã tiêm phòng cho 172 con bò tại Phước Lý và 689 con chó dại Ngoài ra, còn 53 hộ nuôi heo, bò và có trại gà trên địa bàn phường.
Về việc quản lý đất đai, GPMB:
- Việc xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở: Trình 28 hồ sơ đề nghị UBND quận Hà Đông cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Xác nhận
20 trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định
Việc xét duyệt đất dịch vụ đã xác định mốc giới cho 11 thửa, đồng thời thông báo thu tiền hạ tầng cho 15 thửa trong tổng số 34 trường hợp Đề nghị giao đất dịch vụ đã được trình cho 59 thửa trong 97 trường hợp Tổ chức đã thực hiện gắp thăm đợt 26, 27 và xét duyệt xin giao đất cho 08 trường hợp Ngoài ra, trình sở TNMT thu hồi đất dự án nghĩa trang nhân dân cũng đã được thực hiện.
Trong quá trình GPMB các dự án, đã hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh nhầm lẫn về diện tích bồi thường hỗ trợ cho 06 trường hợp Đồng thời, chi trả bồi thường hỗ trợ tái định cư cho hộ ông Nguyễn Xuân Manh tại Tổ dân phố Quyết Tâm cũng được thực hiện Ngoài ra, việc xác minh nguồn gốc sử dụng đất và tài sản trên đất của các hộ thuộc dự án trường trung cấp nghề và khảo thí quốc tế đã được tiến hành Cuối cùng, phối hợp tổ chức bàn giao thông báo nhận tiền và chi trả cho các hộ dân có đất bị thu hồi trong dự án trạm cấp nước số 3 cũng đã được thực hiện.
Về việc xây dựng cơ bản, quản lý trật tự xây dựng và đô thị
- Xây dựng cơ bản: Giám sát thi công công trình: nhà họp dân Trung
Bình và chùa La Âm Khởi công xây dựng nhà họp dân tổ dân phố Hòa Bình, đường từ kênh Đan Hoài vào khu đất dịch vụ La Dương
Trong lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng, tổng số công trình khởi công là 35, trong đó có 34 công trình được cấp phép và 01 công trình xây dựng không phép Đối với công trình không phép, đã có Quyết định đình chỉ và chủ đầu tư đã khắc phục xong.
Để cải thiện trật tự đô thị, cần tập trung vào việc giải tỏa các khu vực xung quanh chợ, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm lấn chiếm lòng đường và vỉa hè dọc các tuyến đường.
Lê Trọng Tấn và đường Lê Văn Lương kéo dài đã trở thành khu vực kinh doanh sôi động Trong quá trình kiểm tra, lực lượng chức năng đã thu giữ 07 biển quảng cáo, ô dù và bạt che Đồng thời, phối hợp với Công an quận Hà Đông để xử lý một trường hợp đổ phế thải không đúng quy định.
Về việc văn hoá xã hội
Việc văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đồng thời tổ chức kỷ niệm 5 năm ngày thành lập phường và 67 năm ngày thương binh liệt sĩ Các hoạt động này không chỉ thể hiện lòng tri ân đối với những người đã hy sinh vì tổ quốc mà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về ý nghĩa của các sự kiện lịch sử.
Để nâng cao sức khỏe cộng đồng, cần tổ chức hiệu quả ngày tiêm chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi và phụ nữ mang thai Đồng thời, phối hợp khám và cấp thuốc miễn phí cho 203 đối tượng chính sách, mỗi suất trị giá 100.000 đồng Ngoài ra, tổ chức lớp truyền thông dinh dưỡng cho các bà mẹ có con dưới 5 tuổi cũng là một hoạt động quan trọng nhằm nâng cao nhận thức về dinh dưỡng cho trẻ nhỏ.
Trong năm 2014, chính sách xã hội đã được thực hiện hiệu quả với việc chi trả trợ cấp hàng tháng cho 245 đối tượng chính sách với tổng số tiền 359.602.000 đồng, cùng với 432 đối tượng người cao tuổi và bảo trợ xã hội nhận 204.400.000 đồng Nhân dịp 27/7, đã cấp quà cho 332 đối tượng chính sách với tổng số tiền 299.200.000 đồng Ngoài ra, đã chi trả chế độ cho 1 trường hợp hỏa táng với số tiền 3.500.000 đồng và 04 trường hợp mai táng phí tổng cộng 12.000.000 đồng.
- Về Giáo dục: Tập trung việc tuyển sinh, kết quả: Trường mầm non
Năm nay, Dương Nội tuyển sinh tổng cộng 998 học sinh, trong đó Trường mầm non La Dương tuyển 400 học sinh Trường Tiểu học Kim Đồng tuyển 180 học sinh, Trường Tiểu học Dương Nội B tuyển 165 học sinh, và Trường Tiểu học Dương Nội A đạt tỷ lệ tuyển sinh 91,3% với 157/172 học sinh được nhận.
1.4.2 Tổng quan về phường Phú Lương
Phú Lương, trước đây là một xã thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, đã chính thức trở thành phường của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội từ tháng 5/2009 Hiện nay, phường Phú Lương có dân số trên 20.000 người, với 6.205 hộ dân, được chia thành 22 tổ dân phố và có diện tích tự nhiên là 671,52 ha Phú Lương nổi bật với một số nghề truyền thống như xây dựng, mộc, làm bột lọc và chổi chít, trong đó nghề mộc Thượng Mạo đã được công nhận là làng nghề truyền thống bởi UBND Thành phố Hà Nội.
Trong những năm qua, kinh tế - văn hóa xã hội ở Phú Lương ngày càng phát triển, theo Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 3 tháng đầu năm 2014:
Trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng tôi đang tập trung chỉ đạo việc phun thuốc phòng trừ bệnh đạo ôn hại lúa vụ xuân và chăm sóc cây rau màu cho vụ xuân năm 2014 Đồng thời, thực hiện tổng vệ sinh và tiêu độc môi trường với tổng số lượng hóa chất sử dụng là 23 lít.
Về việc quản lý đất đai, GPMB:
Giao đất dịch vụ đã diễn ra với 45 thửa trong 89 trường hợp Thông báo thu tiền đất dịch vụ đợt 13 được áp dụng cho 29 thửa trong 81 trường hợp Danh sách kết quả gắp thăm đất dịch vụ khu LK31 sẽ được lập để điều chỉnh quy hoạch chi tiết phân lô theo kết quả này Đồng thời, cần rà soát các hộ ghép lô có diện tích trên và dưới 50 m2 và báo cáo lên UBND quận để có chỉ đạo phù hợp.
Về việc xây dựng cơ bản, quản lý trật tự xây dựng và đô thị
Giám sát thi công dự án xây dựng cơ bản tại tổ dân phố Hoàng Hanh, Quang Minh, Hoàng Văn Thụ bao gồm việc bổ sung đường và hệ thống cống rãnh Hiện tại, đã hoàn tất khảo sát và đang tiến hành lập hồ sơ tu sửa điểm tổ dân phố Hoàng Hanh, nhà tổ Chựa Hếu Đồng thời, thủ tục đầu tư xây dựng 03 nhà họp dân cũng đang được hoàn thiện.