1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) thời gian và không gian nghệ thuật trong sử thi ramayana của ấn độ

114 0 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thời Gian Và Không Gian Nghệ Thuật Trong Sử Thi Ramayana Của Ấn Độ
Tác giả Phạm Thị Lê
Người hướng dẫn PGS.TS. Lê Sỹ Giáo
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Dân tộc học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 114
Dung lượng 1,31 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (9)
  • 3. Đối tƣợng, phạm vi, địa bàn nghiên cứu (12)
  • 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu (12)
  • 5. Kết cấu của luận văn (13)
  • CHƯƠNG 1: (15)
    • 1.1. Lịch sử của phương pháp Đánh giá nhanh có sự tham gia (Participatory (15)
    • 1.2 Định nghĩa PRA (16)
    • 1.3. Các đặc điểm của PRA (16)
    • 1.4. Các công cụ thuộc phương pháp PRA được sử dụng trong phạm vi luận văn (18)
      • 1.4.1 Số liệu thứ cấp (18)
      • 1.4.2 Quan sát trực tiếp (19)
      • 1.4.3 Vẽ bản đồ thôn bản (19)
      • 1.4.4 Lập bản lƣợc sử của cộng đồng (20)
      • 1.4.5 Lập lịch thời vụ (20)
      • 1.4.6 Thảo luận nhóm (21)
      • 1.4.7 Phỏng vấn sâu (22)
      • 1.4.8 Ma trận xếp hạng ƣu tiên (0)
    • 1.5 Ứng dụng các kỹ thuật phương pháp PRA (24)
      • 1.5.1 Thiết lập lịch trình (24)
      • 1.5.2 Làm việc với đối tác Địa phương – những người dân tham gia nghiên cứu thực địa (26)
      • 1.5.3 Đào tạo kỹ năng sử dụng công cụ PRA cho các nhà nghiên cứu địa phương (27)
      • 1.5.4 Tiến hành khảo sát thực địa (28)
  • CHƯƠNG 2: (33)
    • 2.1 Khái quát về địa bàn nghiên cứu (33)
    • 2.2 Văn hoá vật chất truyền thống trong xã hội hiện đại (35)
      • 2.2.1 Nhà ở (hướn) (35)
      • 2.2.2 Trang phục (42)
      • 2.2.3 Ăn - uống - hút (45)
      • 2.2.4 Phương tiện vận chuyển, nông ngư cụ và đồ dùng sinh hoạt (54)
  • CHƯƠNG 3: (59)
    • 3.1 Thế giới quan - Nhân sinh quan (59)
    • 3.2 Các kiến thức bản địa về nông nghiệp và tín ngƣỡng (63)
    • 3.3 Nghi lễ vòng đời (70)
      • 3.3.1 Những nghi lễ trong sinh đẻ (70)
      • 3.3.2 Nghi lễ trong hôn nhân (73)
      • 3.3.3 Tang ma (78)
      • 3.3.4 Âm nhạc và diễn xướng dân gian (83)
      • 3.3.5 Tri thức dân gian (85)
  • CHƯƠNG 4: (88)
    • 4.1 Mường – Tổ chức xã hội truyền thống (88)
    • 4.2 Quy ƣớc về sở hữu đất đai (0)
    • 4.3 Gia đình – Hạt nhân của xã hội Thái (91)
  • KẾT LUẬN (96)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (99)
  • PHỤ LỤC (108)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình thực hiện các dự án hỗ trợ tại cộng đồng nông thôn và miền núi phía Bắc, tôi nhận thấy rằng sự hỗ trợ từ bên ngoài chỉ là một yếu tố tác động đến nhận thức và hành vi của người dân trong cuộc chiến chống đói nghèo và vì công bằng xã hội Hơn nữa, các cộng đồng này sở hữu sức mạnh nội tại và lịch sử phát triển riêng, giúp họ bảo vệ và duy trì các giá trị văn hóa dân tộc cho các thế hệ tương lai.

Từ năm 2007 đến 2009, tôi đã hợp tác với Viện Văn hóa Nghệ Thuật Việt Nam thực hiện dự án “Thu thập Văn hóa Phi vật thể vùng ngập thủy điện Sơn La” nhằm thu thập thông tin và phục dựng di sản văn hóa của các tộc người bị di dời khỏi lòng hồ Thủy Điện Sơn La Trong quá trình này, tôi và các cộng sự đã tổ chức một nghiên cứu nhỏ sử dụng phương pháp Đánh giá nhanh có sự tham gia (PRA), với mục tiêu nghiên cứu văn hóa của các dân tộc dựa trên “tính sở hữu văn hóa” của cộng đồng và lắng nghe tiếng nói của người dân trong việc bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống.

Việc áp dụng công cụ PRA trong nghiên cứu khảo sát văn hóa cho phép người dân tham gia tích cực, từ đó kiểm chứng tính khả thi và tiềm năng của phương pháp này PRA không chỉ khẳng định vai trò chủ động của cộng đồng trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc, mà còn giúp họ thể hiện sự hiểu biết về văn hóa của mình một cách đa dạng Phương pháp này phù hợp với các mục đích trung tâm, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cộng đồng.

Tăng quyền là khái niệm thể hiện rằng kiến thức chính là sức mạnh, phát sinh từ quá trình nghiên cứu và sự tham gia của cộng đồng Khi người dân địa phương được chia sẻ thông tin và có cơ hội thể hiện kiến thức của mình, họ sẽ tự tin hơn trong việc tham gia vào các quyết định quy hoạch và quản lý Ngược lại, nếu nhà nghiên cứu áp đặt suy nghĩ của mình lên thông tin mà không lắng nghe ý kiến của người dân, sẽ dẫn đến những quyết định chủ quan và phiến diện Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là khuyến khích sự tự tin và tiếng nói của cộng đồng địa phương.

Trong quá trình sử dụng PRA, nhà nghiên cứu cần tôn trọng trí tuệ và khả năng của người dân địa phương, tránh ngạc nhiên trước sự thông minh của họ trong việc thể hiện ý tưởng qua hình ảnh và bảng biểu Hiểu được nụ cười, bài thơ và bài hát của người địa phương là chìa khóa để thấu hiểu văn hóa của họ Việc sử dụng vật liệu địa phương một cách sáng tạo không chỉ khuyến khích sự chia sẻ trực quan mà còn giúp tránh áp đặt những mong muốn từ bên ngoài.

Nâng cao tính nhạy cảm trong quy trình bằng cách chú ý đến các nhóm tham gia, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người già và người nghèo.

Phương pháp PRA được áp dụng trong nghiên cứu văn hóa Thái không nhằm mục đích mô tả đầy đủ hình ảnh của nền văn hóa này, mà giúp tôi tiếp cận gần gũi hơn với cộng đồng sở hữu những giá trị văn hóa và nội lực phát triển Sự tham gia của cộng đồng mang lại nguồn thông tin phong phú, cho phép họ kể lại câu chuyện của mình một cách tự nhiên Qua việc chủ động tham gia vào các hoạt động nghiên cứu, họ không chỉ cảm thấy được ghi nhận mà còn sở hữu những "kết quả" – tài sản văn hóa mà họ khám phá Chính vì vậy, tôi đã sử dụng các công cụ của phương pháp PRA trong nghiên cứu tại bản Khoan, xã Mường Sại, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.

Hy vọng rằng những kinh nghiệm từ nghiên cứu sử dụng phương pháp PRA sẽ hỗ trợ các bạn trong việc khám phá những phát hiện thú vị khi nghiên cứu cộng đồng thiểu số, góp phần vào sự nghiệp nghiên cứu chung.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu văn hóa người Thái thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và nhà nghiên cứu trong và ngoài nước từ các lĩnh vực như Dân tộc học, Sử học, và Xã hội học Các công trình nghiên cứu này, với những cách tiếp cận đa dạng, đã tạo ra một kho tư liệu phong phú về Văn hóa Thái Các nghiên cứu có thể được chia thành hai nhóm chính: nhóm đầu tiên tập trung vào văn hóa truyền thống, trong khi nhóm thứ hai nghiên cứu sự biến đổi của văn hóa trong bối cảnh hiện tại.

Các nghiên cứu về văn hóa truyền thống của người Thái ở Việt Nam đã diễn ra từ sớm, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nét văn hóa độc đáo của họ trong lịch sử Những công trình khảo cứu này mô tả chi tiết các lĩnh vực trong đời sống của người Thái trong xã hội cổ truyền, cung cấp nguồn tư liệu quý giá để hình dung về lịch sử phát triển của một tộc người được coi là có sự tiến bộ vượt bậc trong lịch sử Việt Nam.

Trong luận văn “Các giá trị văn hóa vật chất của người Thái ở miền núi Nghệ

An” (1998) tác gải Artha tìm hiểu các giá trị văn hóa vật chất của người Thái ở Nghệ

Bài viết phân tích sự khác biệt và đồng nhất trong sinh hoạt vật chất của các nhóm Thái tại Nghệ An so với người Thái ở Thái Lan, thông qua các biểu hiện cụ thể như hệ thống công cụ sản xuất, hệ thống thủy lợi, trang phục, nơi ở, và phương tiện vận chuyển.

Tác giả Vi Văn An trong công trình “Thiết chế bản Mường truyền thống của người Thái ở miền Tây Nghệ An” (1999) đã cung cấp cái nhìn tổng quan về người Thái tại miền Tây Nghệ An, bao gồm các khía cạnh lịch sử, quan hệ xã hội, chế độ ruộng đất, tổ chức hành chính và bộ máy quản lý bản Mường, đồng thời phân tích sự biến đổi của thiết chế xã hội trong cộng đồng bản Mường.

Tác giả Cầm Trọng trong những nghiên cứu khá nổi tiếng như “Người Thái ở

Tác phẩm "Tây Bắc Việt Nam" (1978) và "Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam" (2005) đã giới thiệu rõ nét văn hóa Thái trong lịch sử Việt Nam, phân chia theo các vùng văn hóa và nhóm địa phương Bài viết đề cập đến quang cảnh tự nhiên, sinh hoạt kinh tế, ăn uống, ở, mặc, đi lại, cùng với quan hệ gia đình và xã hội Ngoài ra, tác phẩm cũng nêu bật một số đặc điểm cơ bản về văn hóa phi vật thể của người Thái tại Việt Nam.

Nhóm tác giả Cầm Trọng, Hoàng Lương, Nguyễn Văn Hoà, và Lê Sĩ Giáo đã thực hiện những nghiên cứu quan trọng về dân tộc Thái, tập trung vào các lĩnh vực như ngôn ngữ, văn tự, lịch sử, dân tộc học, văn học, nghệ thuật và y học Những đóng góp này được trình bày trong tuyển tập "Văn hoá và lịch sử người Thái ở Việt Nam", thể hiện sự phong phú và đa dạng của nền văn hoá Thái.

Tác giả Hoàng Lương trong ấn phẩm "Hoa văn Thái" đã khám phá và trình bày kỹ thuật tạo hoa văn của phụ nữ người Thái, bao gồm dệt, thêu và chấp vải màu Bên cạnh đó, cuốn sách còn nêu bật các giá trị văn hóa và lịch sử liên quan đến hoa văn Thái, mang đến cho độc giả cái nhìn sâu sắc về di sản văn hóa độc đáo này.

Trong cuốn “Sơ lược giới thiệu các nhóm ngôn ngữ Tày, Nùng, Thái ở Việt

Bài viết "Nam" của tác giả Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn tập trung vào việc mô tả văn hóa xã hội của các nhóm dân tộc thông qua thiết chế xã hội Mường Nội dung nhấn mạnh sự phân chia quyền lực trong xã hội, bao gồm hai giai cấp chính: giai cấp thống trị, bao gồm chúa đất, dòng họ chúa và các chức sắc thượng đẳng, và giai cấp bị trị, gồm những nông dân tự do, chức dịch hạ đẳng và gia nô.

Nhóm nghiên cứu dân tộc học do Ngô Ngọc Thắng dẫn đầu đang tập trung vào việc nghiên cứu kết cấu xã hội và bản làng của các dân tộc thiểu số tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam.

Lê Sĩ Giáo và Hoàng Nam đã giới thiệu ấn phẩm "Văn hoá bản làng truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam" Trong tác phẩm này, các tác giả nhấn mạnh những đặc điểm chung và riêng của văn hoá bản làng truyền thống của các dân tộc Thái và H'mông Họ cũng đề cập đến sự phát triển của văn hoá bản làng Thái, H'mông trong bối cảnh đổi mới, cùng với việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc từ truyền thống.

Tác giả Đỗ Thuý Bình đã nghiên cứu sâu về hôn nhân và gia đình của các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, cung cấp tài liệu phong phú về cấu trúc gia đình và mối quan hệ trong gia đình cũng như giữa các dòng tộc Nghiên cứu này nêu bật những chức năng cơ bản của gia đình và phân tích các nghi lễ trong chu kỳ đời sống, từ đó làm rõ những đặc điểm văn hóa độc đáo của các dân tộc này.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy rằng hầu hết các công trình đã công bố chủ yếu là sự tổng hợp từ những hiểu biết của các nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, mà chưa có nghiên cứu nào được thực hiện bởi chính người dân – đối tượng nghiên cứu – những người tự tin áp dụng các phương pháp nghiên cứu hàn lâm để khám phá lịch sử văn hóa của cộng đồng mình.

Kể từ đầu những năm 1990, phương pháp PRA đã phát triển nhanh chóng và chủ yếu được áp dụng bởi các tổ chức phi chính phủ (NGO) tại Đông Phi và Nam Á PRA đã được triển khai rộng rãi nhằm phục vụ sự phát triển cho các cộng đồng nghèo ở cả khu vực thành thị lẫn nông thôn.

Các công trình nghiên cứu về Phương pháp Đánh giá Tham gia (PRA) chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như quản lý tài nguyên thiên nhiên, xác lập quyền đất đai cho người dân bản địa, sử dụng bền vững tài nguyên cộng đồng, khai thác kiến thức bản địa, cải thiện đời sống cho người dân ở khu ổ chuột, phòng chống HIV/AIDS, nâng cao nhận thức và hành động, các chương trình chống đói nghèo, quản lý thiên tai, cũng như đàm phán và giải quyết xung đột Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu đề cập đến việc ứng dụng PRA trong việc nghiên cứu và bảo tồn văn hóa thông qua kiến thức của các nhà nghiên cứu là người bản địa.

Mục đích của luận văn này là nghiên cứu sự tham gia của người dân như những chủ nhân văn hóa thông qua việc thực hiện các cuộc khảo sát nghiên cứu văn hóa Kết quả của nghiên cứu này sẽ đóng góp quan trọng vào việc áp dụng Phương pháp Đánh giá Tham gia (PRA) trong lĩnh vực văn hóa.

Đối tƣợng, phạm vi, địa bàn nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào văn hóa truyền thống của người Thái bản Khoan trong bối cảnh xã hội hiện đại, đồng thời áp dụng các công cụ của phương pháp PRA để khảo sát và phân tích các khía cạnh văn hóa đặc trưng của họ.

Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu văn hóa truyền thống của người Thái tại bản Khoan trong bối cảnh xã hội hiện đại, đồng thời đánh giá hiệu quả của các công cụ phương pháp PRA trong quá trình nghiên cứu Người dân địa phương đã tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và cùng nhau xây dựng kế hoạch bảo tồn văn hóa cộng đồng Nghiên cứu được thực hiện thông qua một trường hợp cụ thể tại bản Khoan, xã Mường Sại, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.

Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

Các nguồn tư liệu được sử dụng cho luận văn bao gồm:

Nguồn tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các biên bản phỏng vấn sâu, ghi chép, ảnh và các thông tin khác được thu thập tại địa bàn nghiên cứu Ngoài ra, còn có các bảng biểu thống kê, báo cáo và tài liệu do UBND xã Quỳnh Nhai cùng một số cá nhân cung cấp.

Nguồn thứ hai: sách, luận án, chuyên khảo, bài nghiên cứu từ tạp chí, các website về chủ đề có liên quan

Nguồn thứ ba: nguồn tư liệu điền dã đóng vai trò quan trọng nhất được tác giả thu thập từ việc khảo sát và nghiên cứu thực địa

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phân tích tư liệu sẵn có là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu, giúp tổng hợp thông tin từ các nghiên cứu trước đó và phân tích các văn bản thu thập được trong quá trình nghiên cứu.

Phỏng vấn sâu là một phương pháp nghiên cứu quan trọng trong điền dã dân tộc học, giúp ghi nhận ý kiến và câu chuyện của những người tham gia khảo sát Phương pháp này không chỉ thu thập thông tin cá nhân mà còn khai thác các vấn đề lịch sử của làng và dân tộc thông qua hệ thống câu hỏi mở, từ đó tạo ra cái nhìn sâu sắc về văn hóa và truyền thống của cộng đồng.

Nghiên cứu này áp dụng các phương pháp để khám phá giá trị văn hóa truyền thống của người Thái tại bản Khoan và đánh giá thái độ của họ khi tham gia các hoạt động thảo luận nhóm Đặc biệt, thông qua phương pháp quan sát tham dự, tác giả đã tham gia trực tiếp vào các hoạt động này để có cái nhìn chính xác và khách quan hơn về thái độ của người dân cũng như độ tin cậy của thông tin mà họ cung cấp.

Kết cấu của luận văn

Nội dung của luận văn được trình bày trong các phần sau:

Phần mở đầu của bài viết dài 6 trang nhấn mạnh tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, đồng thời tóm tắt tình hình nghiên cứu trước đó Nó cũng xác định phạm vi, đối tượng, và mục đích của nghiên cứu, giải thích các khái niệm cơ bản cùng với khung phân tích Cuối cùng, phần này liệt kê các nguồn tư liệu và phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu.

Chương 1: (16 trang) Khái quát về phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia

(PRA) và ứng dụng của nó trong nghiên cứu văn hóa tại bản Khoan

Chương 2: (26 trang) Những nét văn hóa truyền thống hiện diện qua con mắt của các nhà nghiên cứu địa phương

Chương 3: ( 28 trang) Những nét văn hóa tinh thần hiện diện qua con mắt của các nhà nghiên cứu địa phương

Chương 4: (8 trang) Những nét xã hội truyền thống trong bối cảnh xã hội hiện đại Kết luận: (2 trang)

Lịch sử của phương pháp Đánh giá nhanh có sự tham gia (Participatory

Trong quá trình triển khai các dự án phát triển cộng đồng, việc đảm bảo rằng dự án phản ánh đúng nhu cầu và nguyện vọng của người dân là một thách thức quan trọng đối với các cán bộ phát triển.

Từ những năm 60 của thế kỷ trước, nghiên cứu về phương pháp tham gia xây dựng dự án cộng đồng đã được tiến hành tại châu Mỹ Latinh Đến những năm 1970, lý thuyết về Đánh giá nhanh/nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (PRA) đã hình thành, và vào những năm 1980, phương pháp Đánh giá nhanh nông thôn (RRA) được phát triển tại Đại học Khon Kaen, Thái Lan Tuy nhiên, PRA/RRA lần đầu tiên được áp dụng tại Kênya và Ấn Độ vào năm 1988 và 1989 Tại Việt Nam, từ cuối những năm 80, nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã bắt đầu tham gia vào quá trình này.

Tổ chức Nông lương quốc tế (FAO) và các cơ quan nghiên cứu, phát triển trong nước đã áp dụng phương pháp PRA để xây dựng và triển khai các chương trình, dự án về quản lý tài nguyên và phát triển nông nghiệp, nông thôn Điều này chứng tỏ rằng PRA có thể được áp dụng linh hoạt trong các điều kiện văn hóa, kinh tế xã hội và các vùng sinh thái khác nhau, khẳng định PRA là một phương pháp tiếp cận triển vọng.

“từ dưới lên” – nghĩa là từ nhu cầu thực tế của người dân đưa ra đối với các nhà làm công tác phát triển ở các lĩnh vực

Đánh giá nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (PRA) là phương pháp đánh giá nhu cầu cộng đồng, được phát triển từ Thẩm định giá nhanh nông thôn (RRA) PRA tập trung vào việc trao quyền cho người dân địa phương, khác với RRA, vốn chủ yếu là công cụ cho bên ngoài thu thập thông tin Phương pháp này nhấn mạnh việc thể hiện sự đa dạng của kiến thức địa phương thông qua việc tạo điều kiện từ bên ngoài như cung cấp vật lực, kinh phí và kỹ thuật.

Định nghĩa PRA

PRA, hay Phương pháp Phân tích Tương tác Cộng đồng, là một quá trình liên tục nhằm khuyến khích sự tham gia của người dân trong cộng đồng để chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức về đời sống và điều kiện thực tế của họ Phương pháp này được thực hiện tại một địa điểm cụ thể bởi một nhóm liên ngành, với mục tiêu thu thập thông tin cần thiết cho sự phát triển nông thôn Sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương trong toàn bộ quy trình của các chương trình phát triển nông thôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của PRA.

Các đặc điểm của PRA

PRA thường diễn ra trong các nhóm và có thể thực hiện trên mặt đất hoặc trên giấy, với thảo luận nhóm trên mặt đất thường thu hút nhiều người tham gia hơn Đây là cơ hội để áp dụng các phương pháp trực quan hóa, giúp những người không biết chữ cũng có thể tham gia Kỹ thuật trực quan hóa không chỉ khuyến khích sự sáng tạo mà còn thúc đẩy việc trao đổi ý kiến một cách thẳng thắn giữa các thành viên Hơn nữa, chúng cũng cho phép kiểm tra chéo các nguồn thông tin, nâng cao tính chính xác và đa dạng trong quá trình thảo luận.

PRA là một quá trình học hỏi, dựa trên kiến thức và khả năng của cộng đồng trong việc xác định vấn đề, ra quyết định, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện, nhằm phát triển bền vững cộng đồng của chính họ.

Phương pháp PRA yêu cầu sự hỗ trợ từ người điều hành, nhưng không nhất thiết người này phải chiếm toàn bộ thời gian hoạt động nhóm Nhiều người gặp khó khăn trong vai trò này do phải dành thời gian để giải thích, làm quen và tạo sự thu hút cho nhóm Họ luôn mong muốn đạt được kết quả chắc chắn, đảm bảo rằng tất cả người dân địa phương, bất kể trình độ học vấn, giới tính hay tình trạng kinh tế, đều có thể tham gia vào quá trình phân tích.

Phương pháp PRA bao gồm nhiều kỹ thuật và công cụ đa dạng, được lựa chọn và kết hợp linh hoạt để phù hợp với từng nghiên cứu cụ thể Việc sử dụng một hoặc nhiều phương pháp PRA sẽ giúp tạo ra bức tranh chi tiết về cộng đồng, phản ánh sự phức tạp và đa dạng của thực tế cuộc sống người dân địa phương, vượt trội hơn so với các phương pháp điều tra truyền thống như bảng câu hỏi.

Những người thực hiện PRA cần có thái độ tôn trọng và quan tâm đến các thành viên trong cộng đồng, đặc biệt là những người nghèo, phụ nữ và các nhóm thiệt thòi Họ nên lắng nghe ý kiến của cộng đồng thay vì dạy bảo hay thể hiện định kiến, từ đó tạo ra sự gắn kết và hiểu biết sâu sắc hơn về nhu cầu của người dân.

Phương pháp PRA được xem là công cụ phát triển cộng đồng hiệu quả, giúp người dân tự phân tích nhu cầu và thực trạng cuộc sống của họ Ưu điểm nổi bật của PRA là trao quyền cho cộng đồng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến cuộc sống của chính mình Nhà nghiên cứu và cán bộ phát triển tham gia vào quá trình này để học hỏi, cùng với cộng đồng phân tích, đánh giá các khó khăn và thuận lợi, từ đó đưa ra giải pháp kịp thời Qua đó, PRA không chỉ giúp lập kế hoạch hành động mà còn tạo điều kiện cho việc giám sát và đánh giá hiệu quả của các hoạt động phát triển.

15 kết quả dựa trên phân tích những khía cạnh không gian và thời gian của các vấn đề kinh tế - xã hội – văn hóa và môi trường

Phương pháp PRA, tương tự như quan sát tham dự trong ngành dân tộc học, cho phép người nghiên cứu tham gia trực tiếp vào đời sống cộng đồng và sử dụng nhiều công cụ như thảo luận nhóm, phỏng vấn bán cấu trúc, ghi âm và chụp ảnh Tuy nhiên, PRA nổi bật với khả năng tìm kiếm sự đồng thuận giữa các thành viên trong cộng đồng khi họ thảo luận về các thực tế văn hóa mà họ nắm giữ Ví dụ, cộng đồng có thể nhận thấy tầm quan trọng của các bài hát dân tộc trong việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết của người Thái, giúp truyền tải di sản văn hóa qua các thế hệ.

Các công cụ thuộc phương pháp PRA được sử dụng trong phạm vi luận văn

Các công cụ trong phương pháp PRA là những kỹ thuật hữu ích giúp thu hút sự tham gia của cộng đồng vào quá trình đánh giá, phân tích vấn đề và lập kế hoạch hành động cho sự phát triển bền vững.

Danh sách một số công cụ được ứng dụng khi thực hiện phương pháp PRA:

- Xem xét tài liệu thứ cấp

- Vẽ sơ đồ cộng đồng: Để phân tích các vấn đề theo không gian

- Lập bản lược sử của cộng đồng, lịch mùa vụ: Để phân tích các vần đề theo thời gian

- Để phân tích ra quyết định: thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu

- Xếp hạng ưu tiên (cho điểm, biểu quyết)

Trước khi tiến hành khảo sát thực địa, nhóm PRA cần thu thập toàn bộ thông tin có sẵn, bao gồm cả thông tin chính thức và không chính thức, để đảm bảo có được những dữ liệu cơ bản cần thiết.

Trong nghiên cứu về tài nguyên và sử dụng đất, nhóm đã phân tích 16 bản đồ liên quan đến vùng sinh thái, hệ thống canh tác và kinh nghiệm quản lý tài nguyên nông nghiệp Hoạt động này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian khai thác thông tin mà còn xác định được những thiếu sót cần bổ sung, đồng thời mở ra cơ hội thu thập thông tin mới.

Quan sát trực tiếp là phương pháp nghiên cứu có hệ thống, cho phép người quan sát ghi nhận các sự vật, sự kiện cùng với các mối quan hệ của chúng trong bối cảnh tồn tại cụ thể.

Quan sát trực tiếp là phương pháp hiệu quả để kiểm tra và xác minh các câu nói, câu hỏi cũng như những trao đổi giữa các thành viên trong cộng đồng nghiên cứu.

1.4.3 Vẽ bản đồ thôn bản

Bản đồ cung cấp thông tin chi tiết về vị trí, đất đai, cây trồng, nguồn tài nguyên, hoạt động sản xuất, hệ thống thủy lợi và cơ sở hạ tầng, đồng thời chỉ ra những cơ hội và thách thức mà cộng đồng gặp phải khi sử dụng tài nguyên thiên nhiên Nó giúp nhóm PRA và các thành viên trong cộng đồng nắm rõ ranh giới và đặc điểm của khu vực, từ đó nâng cao nhận thức và khả năng quản lý tài nguyên hiệu quả.

- Thành lập nhóm người dân cả nam và nữ từ 5 đến 7 người

- Các vật liệu văn phòng phẩm (giấy khổ lớn, bút lông màu, băng keo dán)

- Thúc đẩy viên giải thích rõ mục đích ý nghĩa và tiến hành theo các bước như sau:

- Đề nghị nhóm phác họa sơ đồ trên giấy khổ lớn

Thúc đẩy viên khuyến khích người dân giải thích ý nghĩa các hình ảnh họ vẽ, đồng thời tạo điều kiện để họ tham gia vào các cuộc trao đổi và tranh luận trong quá trình vẽ bản đồ thôn bản.

- Thảo luận: khó khăn, cơ hội, thuận lợi, giải pháp

- Thời gian cần thiết: 120 phút

- Vai trò của thúc đẩy viên: hỏi, khuyến khích, tạo thuận lợi cho nhóm trao đổi và các thành viên tự làm

1.4.4 Lập bản lƣợc sử của cộng đồng

Mỗi cộng đồng đều sở hữu một lịch sử phát triển đặc trưng với nhiều sự kiện quan trọng Những kinh nghiệm và kiến thức từ quá khứ được kế thừa giúp cộng đồng phát huy nội lực Việc lập bản sơ lược lịch sử không chỉ giúp nhận diện các sự kiện chủ chốt mà còn phản ánh những khó khăn và thành tựu trong đời sống của cộng đồng đó.

- Thành lập nhóm người dân cả nam và nữ từ 5 đến 7 người

- Các vật liệu văn phòng phẩm (giấy khổ lớn, bút lông màu, băng keo dán)

- Thúc đẩy viên giải thích rõ mục đích ý nghĩa và tiến hành theo các bước như sau:

- Đề nghị nhóm phác họa sơ đồ lên mặt đất (nếu không có giấy khổ lớn) hoặc trên tờ giấy khổ lớn

Thúc đẩy viên khuyến khích người dân giải thích ý nghĩa các tác phẩm của họ, đồng thời tạo điều kiện để họ tham gia vào các cuộc trao đổi và tranh luận trong quá trình vẽ bản lược sử của cộng đồng.

- Thảo luận: khó khăn, cơ hội, thuận lợi, giải pháp

- Thời gian cần thiết: 120 phút

- Vai trò của thúc đẩy viên: hỏi, khuyến khích, tạo thuận lợi cho nhóm trao đổi và các thành viên tự làm

Lịch thời vụ cung cấp thông tin phong phú và đa dạng trong một khung thời gian nhất định, nêu rõ các hoạt động chính và hiện tượng diễn ra trong cộng đồng trong suốt một năm, cùng với những biến đổi về môi trường.

- Thành lập nhóm người dân cả nam và nữ từ 5 đến 7 người

- Các vật liệu văn phòng phẩm (giấy khổ lớn, bút lông màu, băng keo dán)

- Thúc đẩy viên giải thích rõ mục đích ý nghĩa và tiến hành theo các bước như sau:

- Đề nghị nhóm phác họa sơ đồ lên mặt đất (nếu không có giấy khổ lớn) hoặc trên tờ giấy khổ lớn

Hãy hỏi người dân về ý nghĩa những gì họ vẽ, đồng thời khuyến khích họ tham gia vào các cuộc trao đổi và tranh luận trong quá trình lập lịch thời vụ.

- Thảo luận: khó khăn, cơ hội, thuận lợi, giải pháp

- Thời gian cần thiết: 120 phút

- Vai trò của thúc đẩy viên: hỏi, khuyến khích, tạo thuận lợi cho nhóm trao đổi và các thành viên tự làm

Phỏng vấn nhóm là phương pháp hiệu quả để thu thập thông tin ở cấp độ cộng đồng, giúp tiếp cận một khối lượng kiến thức lớn và cho phép kiểm tra chéo thông tin ngay lập tức giữa các thành viên Ngoài ra, thảo luận nhóm còn tạo điều kiện cho các thành viên thống nhất quan điểm chung, từ việc lập kế hoạch, xác định đúng sai, đến việc tìm kiếm nguồn cung cấp thông tin và vật dụng cần thiết.

Trong thảo luận nhóm, việc chú trọng đến kỹ thuật làm quen và kết nối giữa cán bộ nghiên cứu và người dân tham gia là rất quan trọng Kỹ thuật này giúp chúng ta hiểu rõ cảm nghĩ ban đầu và cái nhìn tổng quát của người dân về cộng đồng của họ, đồng thời tạo ra bầu không khí thân thiện giữa nhà nghiên cứu và người dân Sử dụng hình vẽ là phương pháp tối ưu, vì bất kỳ ai, kể cả những người nghèo hoặc không biết chữ, đều có thể vẽ Hình vẽ đóng vai trò như một điểm tựa, giúp mọi người bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc của mình một cách dễ dàng.

Các bước thực hiện như sau :

- Thành lập nhóm người dân từ 5-7 người (cùng giới tính thì tốt hơn vì nếu có nam lẫn nữ thì nữ thường lệ thuộc vào ý kiến của nam)

- Phát cho mỗi người một tờ giấy trắng A4, một cây bút mực

- Thúc đẩy viên giải thích thật rõ mục đích, ý nghĩa của công việc

Khuyến khích người dân thể hiện suy nghĩ của họ về cộng đồng hoặc dự án mà họ tham gia là rất quan trọng Mặc dù ban đầu họ có thể cảm thấy không tự tin về khả năng vẽ, nhưng với sự kiên nhẫn và động viên, chúng ta có thể giúp họ tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đẹp và sống động.

Trong phòng họp, những bức hình sẽ được dán lên vách bằng băng keo dán Các tác giả của những bức hình sẽ lần lượt đứng lên để giải thích ý nghĩa của biểu tượng và các chi tiết liên quan đến cuộc sống cộng đồng của họ, cũng như những dự án đã thực hiện trong thời gian qua.

Ứng dụng các kỹ thuật phương pháp PRA

Việc sử dụng lịch mùa vụ tại bản Khoan giúp sắp xếp kế hoạch cho các hoạt động hiệu quả hơn Tuy nhiên, chúng tôi cần xác định khoảng thời gian lý tưởng để thực hiện các hoạt động này, đảm bảo rằng chúng diễn ra vào mùa nông nhàn, tức là không trồng, thu hoạch hay chăm sóc cây trồng Để đạt được điều này, chúng tôi đã nghiên cứu tài liệu có sẵn và phối hợp với đối tác địa phương, từ đó nhận thấy rằng thời điểm phù hợp nhất cho các hoạt động của chúng tôi và cộng đồng là vào khoảng tháng.

Trong khoảng thời gian 7 lịch âm trước mùa thu hoạch, người dân có cơ hội tạm ngưng sản xuất để tham gia nghiên cứu, nhằm đảm bảo tính linh hoạt cho các đối tác địa phương và sự cam kết của cộng đồng trong dự án Đây là thời điểm mà các đối tác của chúng tôi thực hiện các hoạt động tập trung, nhằm đạt hiệu quả cao trong thời gian ngắn.

LỊCH MÙA VỤ CỦA NGƯỜI DÂN Âm lịch Lịch Thái Công việc chính trong năm

Tháng Giêng Bơn nưng - Tháng con hổ

(xưa) Ăn tết Nguyên đán, gieo mạ và cấy lúa vụ chiêm, phát nương lúa, trồng ngô trồng bông, trồng sắn, trỉa ngô,

Tháng Ba Bơn sam - Tháng con rồng (luống)

Trỉa lúa nương, làm cỏ ngô, vun xới ngô, làm cỏ lúa nương và lúa ruộng, thanh minh

Tháng Tư Bơn xí - Tháng con rắn

Tháng Năm Bơn hả - Tháng con ngựa (mạ)

Trong mùa vụ, nông dân tiến hành thu hoạch lúa ruộng chiêm, gieo mạ và cấy lúa vụ mùa Ngoài ra, họ còn trồng các loại đậu, lạc, vừng và rau mùa hè, hái thuốc nam, làm cỏ lúa nương và thu hoạch ngô.

Tháng Sáu Bơn hôốc - Tháng con dê

Tháng Bảy Bơn chết - Tháng con khỉ

(hính) Làm cỏ và chăm bón lúa vụ mùa

Tháng Tám Bơn pét - Tháng con gà

Chuẩn bị kho và dụng cụ lao động là bước quan trọng để thu hoạch lúa nương sớm Sau khi thu hoạch, người dân sẽ được ăn cơm mới và tiếp tục trồng các loại rau vụ đông Đồng thời, việc thu hoạch đỗ và bông cũng cần được thực hiện, bên cạnh các hoạt động đi săn để đảm bảo nguồn thực phẩm phong phú cho gia đình.

Tháng Chín Bơn cẩu - Tháng con chó

Tháng Mười Bơn xíp - Tháng con lợn

Tiếp tục thu hoạch lúa nương, thu hoạch lúa ruộng mùa, cưới xin, đi săn

Tháng Một Bơn xíp ết - Tháng con chuột (nu)

Tiếp tục thu hoạch lúa màu, chuẩn bị đất cho vụ chiêm, sửa nhà, đi săn

Tháng Chạp Bơn xíp xoong - Tháng con trâu (quái) Chuẩn bị ăn tết Nguyên đán

1.5.2 Làm việc với đối tác Địa phương – những người dân tham gia nghiên cứu thực địa

Các thành viên trong nhóm nghiên cứu cần là cư dân của bản địa nơi thực hiện nghiên cứu, đại diện cho các nhóm độ tuổi khác nhau trong cộng đồng Điều này giúp đạt được hiệu quả cao thông qua các thảo luận nhóm nhỏ, cho phép tác giả so sánh và khám phá sự liên quan văn hóa giữa các nhóm dân cư khác nhau.

Tôi đã quyết định xây dựng một nhóm "nhà nghiên cứu địa phương" từ cộng đồng bản Khoan, những người không có kiến thức chuyên môn về văn hóa, để được tập huấn về phương pháp PRA Nhóm này sẽ bao gồm những người dân địa phương, trở thành những "chủ chốt" trong việc hỗ trợ cộng đồng chia sẻ hiểu biết về văn hóa và lịch sử của họ Họ sẽ tự tổ chức các buổi nghiên cứu với sự hỗ trợ của chúng tôi, tránh những bài giảng lý thuyết nhàm chán, nhằm tạo ra một không gian giao lưu và học hỏi tích cực.

Chúng tôi đã thiết lập tiêu chí lựa chọn cho những người tham gia các nhóm thảo luận, bao gồm kỹ năng giao tiếp tốt và cam kết ưu tiên lợi ích của cộng đồng.

Nhóm nghiên cứu địa phương sẽ tập trung vào việc khám phá văn hóa Thái của cộng đồng mình, bao gồm 7 thành viên từ bản Khoan, trong đó có 3 phụ nữ và 4 nam giới, độ tuổi từ 35-57 Sau khi được đào tạo về các công cụ của PRA, nhóm sẽ đảm nhận trách nhiệm tổ chức và thực hiện các buổi làm việc trong bản.

Trình độ văn hóa của các nhà nghiên cứu văn hóa địa phương dao động từ lớp 4 đến cấp trung học, với sự thiên lệch giới tính không thuận lợi cho phụ nữ, những người thường có trình độ văn hóa thấp hơn Họ gặp khó khăn trong việc ghi chép và viết trên bảng, nhưng có thể khắc phục điều này bằng cách tự tin trình bày ý kiến và dẫn dắt các buổi làm việc trong quá trình nghiên cứu thực địa.

Các nhà nghiên cứu, như chúng tôi, phối hợp với các nhà nghiên cứu địa phương để thực hiện phân tích và nhận định nhằm nâng cao nhận thức của người dân Qua đó, người dân có thể phát hiện vấn đề của mình, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục hiệu quả.

1.5.3 Đào tạo kỹ năng sử dụng công cụ PRA cho các nhà nghiên cứu địa phương

Việc đào tạo những người dân tham gia nhóm nghiên cứu cần phải phù hợp với thời gian và khả năng học tập của họ Chúng tôi ưu tiên đảm bảo họ hiểu rõ các mục tiêu nghiên cứu, phương pháp, và lập thời gian biểu tương thích với ngôn ngữ cũng như phong tục tập quán của cộng đồng Điều này giúp tránh hiểu lầm về mục tiêu của dự án trong quá trình làm việc.

Nghiên cứu văn hóa có sự tham gia có thể áp dụng đồng thời các công cụ PRA như bản đồ theo mùa, lịch sử thôn bản và ma trận, cùng với các phương pháp nghiên cứu cổ điển như phỏng vấn Tuy nhiên, để hoàn thiện nghiên cứu văn hóa, cần bổ sung thêm các công cụ khác, chẳng hạn như bài tập tập trung vào kiến thức của cá nhân.

Để thu thập thông tin về văn hóa và kiến thức vốn có, chúng ta cần tổ chức một cuộc thảo luận nhóm Cuộc thảo luận này sẽ giúp tìm hiểu sâu sắc về nền văn hóa của cộng đồng, từ đó tạo ra sự hiểu biết và kết nối giữa các thành viên.

Khi thời gian cho đào tạo hạn chế, chúng tôi đã sử dụng ba công cụ chính để chọn lọc thông tin cơ bản: bản đồ dân số, lịch mùa vụ và bài tập kiến thức cá nhân về văn hóa.

Họ đã có sự hiểu biết vững chắc về ba công cụ nghiên cứu và không có nhu cầu học thêm kỹ thuật mới Để tiếp tục cuộc nghiên cứu, họ đã xây dựng một bộ ba câu hỏi quan trọng: (1) Người Thái là ai? Họ sống ở đâu và sống cùng ai? (2) Người Thái làm gì? Họ sử dụng thời gian của mình như thế nào trong năm? (3) Văn hóa Thái bao gồm những gì?

Khái quát về địa bàn nghiên cứu

Xã Mường Sại, thuộc huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La, nằm trong vùng sâu xa và được bao bọc bởi dòng sông Đà cùng các dãy núi song song Đây là một trong những khu vực nằm trong vùng ngập lòng hồ thủy điện Sơn La Tính đến đầu năm 2008, Mường Sại có 1.236 hộ dân với 6.460 nhân khẩu, chủ yếu là người Thái và Thái Trắng, sinh sống tập trung ở 13 bản: Bản Máy, Bản Canh, Bản Om, Bản Lái, Bản Coi A, Bản Coi B, Bản Muôn A, Bản Muôn B, Bản Ít A, Bản Ít B, Bản Ca, Bản Khoan và Bản Cán Ngoài ra, người La Ha chủ yếu cư trú tại 3 bản là Bản Phá Báng, Bản Hát Dọ A và Bản Hát Dọ B.

Trong luận văn này, tôi tập trung nghiên cứu văn hóa của người Thái tại bản Khoan, thuộc xã Mường Sại Bản Khoan chủ yếu là nơi sinh sống của người Thái Trắng, với tổng cộng 74 hộ và 389 nhân khẩu.

Theo truyền thuyết, từ "Khoan" trong tiếng Thái có nghĩa là "chiếc rìu" được sử dụng để đẽo đá làm quan tài cho Nàng Ủa Bản Khoan nằm ở phía Đông giáp bản Ca, phía Tây giáp xã Phổng Lái, huyện Thuận Châu, phía Nam giáp bản Cán và phía Bắc giáp xã Chiềng Bằng.

Bản Khoan có tổng diện tích tự nhiên là 175,89 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 66,4 ha, đất lâm nghiệp 23,81 ha, và đất thổ cư 3,92 ha Phần diện tích còn lại là 81,76 ha thuộc các loại đất khác.

Người Thái ở bản Khoan và các bản Mường Sại khác có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp trồng lúa Mặc dù cư dân nơi đây đã có truyền thống canh tác lúa nước từ lâu, nhưng do thiếu đất canh tác, họ phải kết hợp với hình thức canh tác nương rẫy để duy trì sinh kế.

Hiện nay, do chính sách giao đất giao rừng của Nhà nước, nhiều hộ gia đình đã giảm đáng kể diện tích nương rẫy và chủ yếu chỉ còn canh tác ruộng nước Theo Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng năm 2006, tổng diện tích gieo trồng trong năm đạt 1.981 ha, trong đó diện tích cây lương thực có hạt là 676,9 ha.

Chăn nuôi đóng vai trò quan trọng trong kinh tế gia đình, nhưng vẫn phụ thuộc vào trồng trọt Đồng bào chủ yếu chăn nuôi đại gia súc để phục vụ sức kéo và vận chuyển, đồng thời nuôi tiểu gia súc và gia cầm như lợn, gà, vịt để cung cấp thực phẩm và phục vụ các dịp lễ tết Ngoài ra, họ còn thực hiện một số nghề thủ công để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày và trao đổi hàng hóa Tuy nhiên, các nghề dệt, đan lát, rèn vẫn chỉ là nghề phụ và sản phẩm thủ công chưa trở thành hàng hóa chính thức.

Nền kinh tế cổ truyền của đồng bào Thái vẫn duy trì tính tự cấp tự túc, với hộ gia đình là đơn vị kinh tế chủ yếu.

Bản là đơn vị xã hội quan trọng, đóng vai trò văn hóa và là chỗ dựa kinh tế-xã hội cho các gia đình hạt nhân Khi có những sự kiện quan trọng như sinh con, cưới xin, xây nhà mới hay thờ cúng tổ tiên, các gia đình trong bản luôn nhận được sự quan tâm và hỗ trợ từ cộng đồng.

Văn hoá vật chất truyền thống trong xã hội hiện đại

Người Thái ở bản Khoan vẫn gìn giữ nhiều đặc trưng kiến trúc truyền thống của nhà sàn, mặc dù đã có một số thay đổi trong phương pháp xây dựng.

Nhà sàn của người Thái trắng, gọi là “hươn”, được xây dựng kiên cố chủ yếu bằng gỗ, với quy trình chọn gỗ kỹ lưỡng thường do đàn ông thực hiện Gỗ được chọn vào mùa khô để tránh mối mọt và dễ vận chuyển, phải là cây lâu năm, thẳng, chắc chắn, tránh những cây bị hư hại Khi chặt cây, một lễ nhỏ được tổ chức để xin phép ma rừng Trước đây, mái nhà chủ yếu được lợp bằng cỏ tranh và đan tranh, nhưng hiện nay, mái nhà thường được thay thế bằng đá đen tự chế và đá trắng để kê chân cột.

Người Thái nói chung thích chọn những nơi đất đai bằng phẳng, rộng rãi, gần rừng, gần sông suối để dựng nhà

Người Thái sử dụng phương pháp bói đất độc đáo bằng hạt gạo, trong đó họ đào bốn hố nhỏ tại bốn góc Đông, Tây, Nam, Bắc của mảnh đất đã chọn Sau đó, họ thả ba hạt gạo vào mỗi hố để tiến hành bói toán.

Trong phong tục bói đất của người Thái, 33 hạt gạo được chụm đầu vào nhau và đặt dưới một chiếc bát Chủ nhà cắm hương ở bốn góc, khấn mời tổ tiên và các linh hồn về nhận đất, với nội dung đại ý rằng họ đã chọn được mảnh đất tốt và mong nhận được thông báo về chất lượng của đất Sáng hôm sau, khi lật bát lên, nếu các hạt gạo không bị xê dịch, điều đó chứng tỏ mảnh đất đó tốt để xây dựng Ngược lại, gia chủ sẽ phải tìm mảnh đất khác và thực hiện lại nghi lễ cho đến khi nhận được sự đồng ý từ tổ tiên và các linh hồn Nguồn gốc của phong tục này hiện nay không còn ai biết rõ, chỉ được truyền lại qua lời kể của người già.

Tại bản Khoan, có một ông thầy mo chuyên xem ngày và chọn giờ tốt dựa trên tuổi của chủ nhà Người Thái, giống như nhiều tộc người thiểu số khác, rất kiêng kỵ việc dựng nhà vào ngày sinh hoặc ngày mất của các thành viên trong gia đình.

Quá trình làm nhà của người Thái diễn ra tuần tự như sau: đo nền, san nền, dựng vì kèo, làm sàn, lợp mái, thưng vách và cầu thang

Phương pháp san nền truyền thống của người Thái chủ yếu sử dụng trâu để cày đất, sau đó dùng cuốc, vồ và sức người để nện đất cho phẳng Hiện nay, cộng đồng đã áp dụng nhiều công cụ hiện đại như cuốc, xẻng, và cả máy xúc, máy ủi từ các công trình gần đó để hỗ trợ trong việc san nền.

Ngày nay, cấu trúc nhà truyền thống của người Thái đã có nhiều thay đổi, trong đó việc dựng vì kèo được coi trọng hơn bao giờ hết Họ thường kết hợp các cột, xà ngang và xà dọc thành một hàng vì hoàn chỉnh, sau đó dùng dây thừng và sức người để dựng từng hàng vì lên Cột chính (xau luống) đóng vai trò quan trọng trong quá trình dựng vì Trước khi bắt đầu, chủ nhà cần nhờ ông cậu (lúng ta) thực hiện nghi lễ bằng cách lấy lá cây thiêng nhúng nước vo gạo và vẩy lên tất cả các cột trong nhà để xua đuổi ma ác Nếu không có lúng ta, chủ nhà có thể nhờ bố vợ hoặc anh em bên nhà vợ thực hiện nghi lễ này.

Lá cây so se được người Thái sử dụng trong các nghi lễ sau khi tham dự đám ma hoặc khi gặp người chết do tai nạn Họ thường tắm, gội, và rửa chân tay bằng lá cây này trước khi trở về nhà để tránh bị ma quỷ đuổi theo.

Nhà sàn Thái cổ truyền thường được xây dựng với cấu trúc 3 gian hoặc 5 gian, có từ 4 đến 6 vì cột, mỗi vì cột bao gồm 4 cột trụ, gồm hai cột cái và hai cột con Các cột được ghép lại bằng phương pháp ghép mộng xuyên và mộng sập Trước khi dựng khung nhà, người ta chôn sẵn các hàng cột trên mặt đất để làm điểm tựa, từ đó sử dụng dây thừng và sức người để kéo từng bộ vì lên Hiện nay, tại bản Khoan, một số nhà sàn Thái đã sử dụng cột kê đá, với đá được định vị thành hàng tương ứng với vị trí mỗi vì cột, nhằm giảm thiểu tác động của thời tiết như mưa và ẩm, từ đó hạn chế tình trạng mối mọt và mốc gẫy.

Sau khi hoàn thiện cấu trúc cột, thợ sẽ xuyên xà ngang qua các cột dọc bằng mộng xuyên và dùng mộng sập để gài đòn nóc, các đòn tay và rui, mè, tạo thành bộ khung mái Mỗi vì cột trong nhà sàn Thái gồm bốn cột trụ: hai cột cái (xau luống) và hai cột con (xau lọi), trong khi hai vì kèo ở giữa chỉ có hai cột quân và hai cột trốn Các cột được kết nối với ba xà ngang, trong đó xà ngang thấp nhất chạy qua cả bốn cột, còn hai xà ngang bên trên chỉ chạy qua hai cột cái Hai vì mái (sáu dô) kết nối các đỉnh cột với nhau, và điểm giao nhau giữa hai vì mái chính là nơi vì nóc (mày lép) chạy qua Bộ vì cột của nhà sàn Thái đen có thể được coi là một tam giác cân, với đỉnh là điểm giao nhau của hai vì mái và hai đỉnh còn lại là điểm tiếp xúc giữa hai đầu cột quân với vì mái.

Sau khi cố định các vì kèo, vào mùa mưa, việc lợp mái thường được ưu tiên thực hiện trước khi làm sàn và thưng vách Trước đây, mái nhà chủ yếu được lợp bằng cỏ tranh, nhưng hiện nay đã dần chuyển sang sử dụng mái tôn, blô-xi măng, và phổ biến nhất là mái đá đen Kiến trúc mái nhà bằng đá đen hiện nay đã trở thành một đặc trưng tiêu biểu cho nhà sàn Thái, thay thế cho kiểu mái hình mái rùa và khau cút trang trí như trước kia.

Người Thái sống ven sông Đà nổi tiếng với nghề chế tác đá Vào mùa cạn, họ khai thác những khối đá nổi lên giữa dòng sông, những phiến đá này đã được nước mài nhẵn theo thời gian Chỉ cần gọt đẽo một chút, họ có thể tạo ra những sản phẩm vuông vắn và sắc cạnh.

35 là được một viên đá Mái đá được lợp xen kẽ, đan cài hình vẩy cá theo thứ tự từ nóc nhà xuống

Sàn nhà của người Thái, cao khoảng 1,6 đến 1,7 m, trước đây được làm từ thân cây luồng, nhưng hiện nay đã chuyển sang sử dụng những tấm gỗ ván dày từ 5 đến 7 cm Vách nhà cũng được xây dựng bằng gỗ, và trong quá trình thi công, thợ sẽ đục luôn cửa chính, cửa phụ và cửa sổ Cửa ra vào được mở ở hai đầu hồi, với cửa chính (tu quản) ở gian khách hướng Bắc và cửa phụ (tu chan) ở gian bếp hướng Nam Khung cửa có hình chữ nhật, cao từ 1,7 đến 2 m và rộng từ 1 đến 1,2 m, trong khi một số nhà còn sử dụng ba tấm gỗ rộng để tạo nên không gian thoáng đãng.

Khung cửa trong các ngôi nhà Thái thường được ghép lại từ các thanh gỗ dài 15 cm, với cánh cửa làm bằng gỗ mộc, không sơn và có chạm trổ hoa văn, thường mở vào trong Cửa sổ (tu tang) được khắc chạm tinh tế với các hình ngôi sao và mặt trời, mỗi ngôi nhà thường có từ 2 đến 3 cửa sổ hướng ra đường chính, chủ yếu ở gian khách và gian đối diện với gian con gái Cửa sổ có kích thước khoảng 1m2, với hai cánh mở ra ngoài, tạo không gian thoáng đãng cho ngôi nhà.

Ngày nay, người Thái đã ngừng sử dụng gầm sàn để nhốt gia súc nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường sống và phòng tránh bệnh tật, theo các chương trình tuyên truyền của cán bộ y tế Thay vào đó, họ sử dụng gầm sàn để lưu trữ củi, nông cụ, ngư cụ, máy móc, phương tiện đi lại và một số đồ dùng sinh hoạt khác.

Ngày đăng: 02/07/2022, 09:33

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Vi Văn An (1992), Một số tư liệu về tổ chức xã hội và kết cấu giai cấp của người Thái vùng đường 7 tỉnh Nghệ An (trước cách mạng tháng 8 - 1945), Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 89 – 103 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Dân tộc học
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 1992
2. Vi Văn An (1996), Hôn nhân và tục lệ cưới xin của người Thái ở miền núi Nghệ An, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 2, tr. 61 – 68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn hóa Dân gian
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 1996
3. Vi Văn An (1998), Tết Nguyên Đán của đồng bào Thái ở Nghệ An, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 2, tr. 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn hóa các dân tộc
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 1998
4. Vi Văn An (1998), Tục chơi hang của người Thái ở miền Tây Nghệ An Tạp chí Văn nghệ Dân tộc và Miền núi, số 7, tr. 16 – 17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn nghệ Dân tộc và Miền núi
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 1998
5. Vi Văn An (1999), Thiết chế Bản - Mường truyền thống của người Thái ở miền Tây Nghệ An, Luận án Tiến sĩ Sử học, Viện Dân tộc học, Hà Nội, 133 tr Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thiết chế Bản - Mường truyền thống của người Thái ở miền Tây Nghệ An
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 1999
6. Vi Văn An (2001), Góp phần tìm hiểu về hai nhóm Thái và Thái Trắng ở miền Tây Nghệ An, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 32 – 36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Dân tộc học
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 2001
7. Vi Văn An (2002), Góp phần tìm hiểu về tên gọi Thái Đỏ ở Việt Nam, Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 88 – 99 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Tác giả: Vi Văn An
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002
8. Vi Văn An (2004), Về mối quan hệ nguồn gốc và những nét tương đồng văn hoá giữa ba nhóm Thay Đăm, Thay Khao và Thay Đeng ở Lào với người Thái ở Việt Nam, Tạp chí Đông Nam Á, số 1, tr. 51 – 62 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Đông Nam Á
Tác giả: Vi Văn An
Năm: 2004
9. Vương Anh (2001), Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh, Sở Văn hóa thông tin Thanh Hoá, 287 tr Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh
Tác giả: Vương Anh
Năm: 2001
11. Cao Ngọc Ánh (2001), Nghề dệt thổ cẩm với phụ nữ Thái, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 37, tr. 11 – 12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Dân tộc và Thời
Tác giả: Cao Ngọc Ánh
Năm: 2001
12. Trần Thanh Bé (1999), Đánh giá nhanh nông thôn với sự tham gia của người dân, Tài liệu tập huấn – PRA Trà Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá nhanh nông thôn với sự tham gia của người dân
Tác giả: Trần Thanh Bé
Năm: 1999
13. Đỗ Thuý Bình (1994), Dòng họ và mối quan hệ giữa gia đình và dòng họ ở người Thái, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 32 – 35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Dân tộc học
Tác giả: Đỗ Thuý Bình
Năm: 1994
14. Đỗ Thuý Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 263 tr Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam
Tác giả: Đỗ Thuý Bình
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1994
15. Trần Bình (2002), Ảnh hưởng văn hóa Môn - Khơme ở người Thái, Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 344 – 347 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Tác giả: Trần Bình
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002
16. Vi Ngọc Chân (2002), 147 câu lời hay ý đẹp của người Thái vùng đường 48 Nghệ An, Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 765 – 774 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Tác giả: Vi Ngọc Chân
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002
17. Trần Trí Dõi (2000), Chữ Thái cổ Lai Pao ở Tương Dương (Nghệ An) và những văn bản mới được phát hiện, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 5, tr. 45 – 47 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
Tác giả: Trần Trí Dõi
Năm: 2000
18. Bạc Cầm Đậu (2002), Lễ “Xên Mường” của hai dân tộc Thái và Lào ở huyện Sông Mã, Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 548 – 559 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xên Mường” của hai dân tộc Thái và Lào ở huyện Sông Mã, "Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Tác giả: Bạc Cầm Đậu
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002
19. Phan Kiến Giang (2002), Áo ngắn - Xửa cỏm Thái cổ truyền mà thời trang, Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 302 – 305 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Tác giả: Phan Kiến Giang
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002
20. Lê Sỹ Giáo (1992), Các đặc điểm của nông nghiệp truyền thống của người Thái Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr. 36 – 42 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Dân tộc học
Tác giả: Lê Sỹ Giáo
Năm: 1992
22. Lê Sỹ Giáo (2002), Giao thoa văn hóa và việc xây dựng đời sống văn hóa hiện nay ở các vùng người Thái (qua địa bàn miền núi Thanh - Nghệ), Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.353 – 360 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Tác giả: Lê Sỹ Giáo
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w