1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) đề tài gia đình trong truyện ngắn trần thùy mai, y ban và nguyễn thị thu huệ

119 29 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đề Tài Gia Đình Trong Truyện Ngắn Trần Thùy Mai, Y Ban Và Nguyễn Thị Thu Huệ
Tác giả Lê Thị Huệ
Người hướng dẫn PGS - TS Lưu Khánh Thơ
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 119
Dung lượng 0,98 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (6)
  • 2. Lịch sử vấn đề (8)
    • 2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình (8)
    • 2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả (9)
      • 2.2.1. Trần Thùy Mai (9)
      • 2.2.2. Y Ban (10)
      • 2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ (11)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
    • 3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả (12)
    • 3.2. Phạm vi nghiên cứu (12)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (12)
  • 5. Cấu trúc của luận văn (12)
  • CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI, Y (14)
    • 1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ Đổi mới (14)
      • 1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới (14)
      • 1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị (17)
    • 1.2. Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đương đại (25)
      • 1.2.1. Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội (25)
      • 1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam (30)
    • 2.1. Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ (41)
      • 2.1.1. Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền (41)
      • 2.1.2. Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai, (46)
    • 2.2. Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ (53)
      • 2.2.1. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả (0)
      • 2.2.2. Nhân vật nam trong truyện ngắn ba tác giả (78)
      • 2.2.3. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn ba tác giả (83)
  • Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN (90)
    • 3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý (90)
    • 3.2. Ngôn ngữ (93)
      • 3.2.1. Ngôn ngữ đời sống (93)
      • 3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại (96)
      • 3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại (101)
    • 3.3. Giọng điệu (104)
      • 3.3.1. Giọng trữ tình sâu lắng (105)
      • 3.3.2. Giọng xót xa, ngậm ngùi (109)
      • 3.3.3. Giọng mỉa mai, châm biếm (111)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (116)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu về đề tài gia đình

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con người và xã hội, đặc biệt là trong xã hội phương Đông Tuy nhiên, sự thay đổi không mong muốn trong bối cảnh kinh tế thị trường đã ảnh hưởng lớn đến cấu trúc và giá trị gia đình Nhiều nghiên cứu và bài viết đã chỉ ra vấn đề này, như "Gia đình Việt Nam hiện nay: Truyền thống hay hiện đại" (Tamvocviet.vn) và "Gia đình Việt Nam trong cơn bão của thời đại" (Nguyễn Hồng Mai, Tạp chí nghiên cứu văn hóa Đại học Văn Hóa Hà Nội) Những bài viết này phản ánh sự biến động và những thách thức mà gia đình hiện đại đang phải đối mặt, đặc biệt là ở các thành phố lớn.

Giang – Khoa học và phát triển), Mái nhà giữa cơn giông thời hiện đại

(Nguyễn Hoàng Đức – Vietnamnet)… Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình hôm nay (Nguyễn Bảo Hưng –

Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả

Trần Thùy Mai, Y Ban, và Nguyễn Thị Thu Huệ là ba tác giả có ảnh hưởng lớn đến văn học đương đại Việt Nam, với nhiều tác phẩm truyện ngắn được chuyển thể thành phim và ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả trong và ngoài nước Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về các tác phẩm của họ, chủ yếu tập trung vào thế giới nhân vật nữ và nghệ thuật, nhưng vẫn chưa có công trình nào khai thác đề tài gia đình trong truyện ngắn của cả ba tác giả này.

Truyện của Trần Thùy Mai vượt qua ranh giới thời gian và không gian, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc Nhiều tạp chí và báo chí đã có những cảm nhận và phân tích sâu về các vấn đề được chị đặt ra trong tác phẩm của mình.

Bùi Việt Thắng đã đánh giá Trần Thùy Mai là “cây bút có sức bền với thể loại truyện ngắn”, trong khi Lê Mỹ Ý nhấn mạnh rằng tác giả luôn duy trì giọng văn trong sáng và phong cách độc đáo từ tập truyện đầu tiên Hoàng Nguyên Vũ tìm thấy sức hấp dẫn trong những trang viết của Mai, cho rằng chúng phản ánh những cuộc đời nhỏ bé, từ những cuộc sống thoáng qua đến những giấc mơ miên viễn Tác giả Lý Hạnh cũng đã có những nhận định tích cực về tác phẩm của Trần Thùy Mai.

Công an nhân dân số tháng 3-2008 lại quan tâm đến tình yêu trong truyện

Trần Thùy Mai, theo Lý Hạnh, không viết về tình yêu chỉ để thu hút sự chú ý Cô còn có nhiều bài viết trên các báo điện tử nổi tiếng như Vnexpress với các tác phẩm như "Trần Thùy Mai nối dài cuộc sống từ các nhân vật" và "Trần Thùy Mai lặng lẽ với văn chương" Ngoài ra, bài viết "Trần Thùy Mai viết văn là một cách thương yêu" trên Tuổi trẻ online cũng thể hiện quan điểm của cô về việc viết văn Trần Thùy Mai thể hiện tình yêu qua từng trang viết của mình.

Truyện ngắn của Trần Thùy Mai mang đến hành trình tìm kiếm hạnh phúc ảo, như được thể hiện qua bài viết của Lê Thị Hường trên Văn nghệ Đà Nẵng Nhà văn Trần Thùy Mai cũng chia sẻ quan điểm về việc tránh xa cuộc đua "hàng hót" trong tác phẩm của mình, theo bài viết của Mai Hoàng trên An ninh Thủ đô Bà nhấn mạnh rằng tình yêu là yếu tố quan trọng giúp bà có thể sáng tạo và cống hiến, như được nêu trong Tạp chí Người đẹp Việt.

Nam, 2004), Trần Thùy Mai và những bi kịch của người phụ nữ (Tạp chí

Nhiều nhận xét đã nhấn mạnh đến thế giới nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của Trần Thùy Mai, tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều sự chú ý đến các biểu hiện của đề tài gia đình trong các tác phẩm của bà.

Y Ban đã thu hút sự chú ý của độc giả và giới phê bình từ khi tác phẩm "Bức thư gửi mẹ Âu Cơ" giành giải trong cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989 – 1990) Nhiều bài viết đã phân tích văn phong của chị, với những ý kiến trái chiều Tác giả Hoàng Tố Mai nhận xét rằng tác phẩm của Y Ban chứa đựng nhiều chi tiết ấn tượng, phản ánh một vốn sống phong phú và gu thẩm mỹ khác lạ, trong đó cái Đẹp không chỉ là mỹ miều mà còn có thể gây ám ảnh và sốc Trên diễn đàn văn hóa học, Mỹ Linh cũng nhấn mạnh rằng yếu tố tình dục trong tác phẩm của Y Ban phản ánh khía cạnh con người mà thường bị che giấu bởi những định kiến xã hội Nhiều bài báo và tạp chí khác cũng đã đề cập đến Y Ban, như "Khi người ta trẻ" của Bùi Việt Thắng, "Báo cáo kết quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội" của Hoàng Ngọc Hà, và "Y Ban và những thân phận đàn bà" của Xuân.

Cang), Đọc truyện ngắn Y Ban Y Ban - hành trình đến tận cùng thế tục (Hoàng Tố Mai - www vietimes vietnamnet.vn), Y Ban: Bốp chát và nữ tính

(Hòa Bình – tienphong.vn), Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức ( Tú Cầu – Giadinh.net.vn), Y Ban “Cũng có lúc khóc rú lên một mình” (Hà

Linh – Vnexpress.net), Nhà văn Y Ban: “Chỉ cầu mong hai chữ bình an”

Tại hội thảo khoa học về "Mười truyện ngắn hay" do Trường đại học Hồng Đức tổ chức vào năm 1998, tác phẩm "Sau chớp là dông bão" của Y Ban đã thu hút sự chú ý và nhận được nhiều ý kiến đánh giá từ các nhà giáo và sinh viên.

Truyện của Y Ban nhận được nhiều ý kiến trái chiều, nhưng phần lớn đánh giá tác phẩm này một cách khách quan, phát hiện ra nhiều giá trị tốt đẹp Một số ít ý kiến phê phán thường mang tính phiến diện và chủ quan.

Nguyễn Thị Thu Huệ, với giọng văn lạnh lùng nhưng đầy cảm thương, đã trở thành một hiện tượng văn học được yêu mến Nhiều ý kiến đã được đưa ra về truyện ngắn của chị, trong đó Bùi Việt Thắng nhận định rằng tác phẩm của Thu Huệ thu hút độc giả nhờ sự phong phú của chất đời và khả năng khám phá chiều sâu tâm hồn con người Tác giả đặc biệt quan tâm đến sự tan rã của gia đình trong xã hội hiện đại và những nguyên nhân dẫn đến điều đó Nhiều bài viết trên các báo, tạp chí cũng đã đánh giá cao Nguyễn Thị Thu Huệ về khả năng nắm bắt và phản ánh hiện thực một cách nhạy bén, sâu sắc, cùng với giọng điệu độc đáo của mình.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu: lịch sử - xã hội, so sánh đối chiếu, thống kê phân loại, phân tích tổng hợp.

Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung phần kết luận và tài liệu tham khảo.

Phần nội dung được triển khai trong ba chương:

Chương 1 của bài viết khám phá các tác phẩm ngắn của ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ, trong bối cảnh dòng chảy của truyện ngắn thời kỳ đổi mới Bài viết nhấn mạnh sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đương đại, phản ánh những biến đổi trong mối quan hệ và giá trị gia đình qua lăng kính nghệ thuật của các tác giả.

Chương 2: Gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền trong truyện ngắn ba tác giả

Chương 3: Một số phương thức biểu hiện đặc sắc

TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI, Y

Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ Đổi mới

1.1.1 Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới

1.1.1.1 Những vấn đề chung của văn học thời kỳ Đổi mới Đại hội Đảng VI năm 1986 đã chỉ ra đường lối đổi mới cả về chính trị lẫn văn hóa xã hội Nhờ thực hiện chủ trương đó, xã hội ta có những chuyển biến sâu sắc trên mọi phương diện: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang đươc đẩy nhanh tốc độ phát triển, việc giao lưu mở rộng hội nhập với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới được đặc biệt chú ý Xã hội đổi thay có nhiều tác động đến văn học Đó là sự thay đổi về nhu cầu, thị hiếu của người đọc cũng như người sáng tác

Từ sau năm 1986, văn học Việt Nam đã trải qua một giai đoạn "cởi trói" và "lột xác" để thích ứng với bối cảnh mới, mở rộng đề tài từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư – thế sự Cuộc sống được phản ánh đa chiều, không còn đơn giản như trước, mà bao gồm cả những góc khuất trong tâm hồn con người Văn học khám phá con người qua nhiều bình diện như ý thức, vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và bản năng, thể hiện khát vọng cao cả cũng như dục vọng tầm thường Trong khi trước đây, các nhà văn thường có cái nhìn đơn chiều về thiện – ác hay địch – ta, thì hiện nay, cái nhìn đã trở nên đa dạng và phức tạp hơn.

1.1.1.2 Đội ngũ các cây bút nữ thời kỳ Đổi mới

Giai đoạn này chứng kiến nhiều bài phỏng vấn và đánh giá về các cây bút nữ, như "Văn xuôi phái đẹp" của Bích Thu, "Khi người ta trẻ I và II" của Bùi Việt Thắng, cùng với những suy nghĩ của Phương Lựu về đặc điểm của nữ văn sĩ Lê Thị Hương Thủy cũng điểm qua sự vận động của truyện ngắn từ các cây bút nữ, trong khi Huỳnh Như Phương thảo luận về văn chương nữ giới như một cách thể hiện trong đời sống Nhiều bài báo còn đưa ra nhận định riêng về từng tác giả, làm nổi bật sự đóng góp của họ trong văn học.

Sự thay đổi trong quan niệm xã hội đã nâng cao vị thế của người phụ nữ, đặc biệt là trong văn học Việt Nam Sự xuất hiện và đóng góp của các nữ văn sĩ đã làm phong phú thêm bức tranh văn học, đặc biệt trong giai đoạn trung đại và những năm 1930 của văn học hiện đại.

Từ năm 1945 đến 1975, số lượng nữ văn sĩ tăng đáng kể, với 75% tác giả truyện ngắn là nữ từ sau đổi mới (1986), theo thống kê của Bùi Việt Thắng Những tên tuổi nổi bật như Trần Thùy Mai, Y Ban, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, và nhiều tác giả khác đã khẳng định vị thế của phụ nữ trong văn học Bùi Việt Thắng đã đúng khi gọi văn học đương đại là nền văn học “mang gương mặt nữ”, phản ánh sự hiện diện mạnh mẽ của các tác giả nữ trong lĩnh vực này.

Vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước và đầu thế kỷ này, sự bền bỉ, dẻo dai và nhiệt huyết khám phá cuộc sống là những điểm chung nổi bật Những cung bậc cảm xúc và góc khuất trong tâm hồn con người, đặc biệt là của phụ nữ, được thể hiện đa sắc và gợi nhiều suy ngẫm cho người đọc Các nhà văn nữ, với lợi thế giới tính, đã mạnh dạn viết về những vấn đề nhạy cảm, khám phá thế giới tâm hồn bí ẩn của phụ nữ Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhận định rằng phụ nữ có sự nhạy cảm đặc biệt, giúp họ nắm bắt thời đại nhanh hơn nam giới và gần gũi với những phức tạp của cuộc sống, đồng thời họ cũng có khả năng thể hiện những mặt mạnh của mình một cách rõ ràng và sớm hơn.

Trong sáng tác của các nhà văn nữ hiện đại, những vấn đề xã hội và cuộc sống đương đại được phản ánh một cách sâu sắc qua những câu chuyện đời thường Họ khắc họa những nỗi vất vả mưu sinh, sự thay đổi trong tâm lý con người, và sức mạnh của đồng tiền trong bối cảnh kinh tế thị trường, dẫn đến sự thiếu quan tâm giữa cha mẹ và con cái Tình yêu được miêu tả một cách nhạy cảm, như một nguồn nước tưới mát tâm hồn giữa sa mạc cằn cỗi Nhân vật nữ trong tác phẩm thường mang những số phận bất hạnh, từ những người phụ nữ mạnh mẽ dám sống thật với cảm xúc, đến những người tìm kiếm ký ức để trốn chạy khỏi cô đơn Mặc dù tình yêu và hạnh phúc gia đình là khát vọng cháy bỏng của họ, nhưng các tác phẩm vẫn tồn tại những hạn chế về nội dung và hình thức, với nguy cơ lặp lại chính mình Tuy nhiên, không thể phủ nhận những nỗ lực và thành công của họ trong nền văn học hiện nay.

1.1.2 Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

Khi nghĩ đến Trần Thùy Mai, tôi không thể không liên tưởng đến câu thơ “người thơ phong vận như thơ ấy”, mặc dù chị là một cây bút chuyên viết truyện ngắn Nụ cười hồn hậu và gương mặt thanh tú với lúm đồng tiền duyên dáng của chị để lại ấn tượng sâu sắc cho bất kỳ ai, dù chỉ là nhìn qua ảnh Sự nhẹ nhàng và tinh tế trong văn phong của chị có lẽ được ảnh hưởng từ mảnh đất nơi chị sinh ra và lớn lên.

Trần Thùy Mai, sinh ngày 8 tháng 9 năm 1954 tại Hội An và lớn lên ở Huế, là một nhà văn nổi bật Sau khi tốt nghiệp Khoa Văn tại Đại học Sư phạm Huế, chị làm giảng viên và biên tập viên tại Nhà Xuất bản Thuận Hóa Mặc dù chỉ sống một thời gian ngắn ở Hội An, nhưng nơi đây cùng với Huế đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm của chị Chị từng chia sẻ rằng Hội An là nguồn cảm hứng với những mộng tưởng đẹp đẽ, trong khi Huế là nơi ghi dấu ấn mạnh mẽ nhất trong sự nghiệp viết lách của mình Hai vùng đất này đã trở thành nền tảng cho những trang văn đầy cảm xúc của Trần Thùy Mai.

Những điệu hò mái nhì Huế với âm hưởng u uẩn, cùng những điệu hò Quảng Nam nồng nàn, đã từ lâu trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người Chúng góp phần tạo nên vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế nhưng cũng đầy mạnh mẽ và quyết đoán trong các tác phẩm văn học của chị.

Trần Thùy Mai là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm truyện ngắn đặc sắc, thể hiện rõ bản sắc văn xuôi xứ Huế Bên cạnh việc sáng tác thơ và viết phê bình sách, chị coi việc viết lách như là lẽ sống và tình yêu đích thực Trong gần ba mươi năm cầm bút, Trần Thùy Mai đã cho ra đời nhiều tập truyện ngắn, trong đó có những tác phẩm tiêu biểu như "Bài thơ về biển khơi" và "Cỏ hát", cả hai đều được phát hành vào năm 1983.

Thị trấn hoa quỳ vàng (1994), Trò chơi cấm (1998), Quỷ trong trăng (2001), Thập tự hoa (2003), Mưa đời sau (2005), Mưa ở Strasbourg (2007), Trăng nơi đáy giếng (2008), Một mình ở Tokyo (2008), Onkel yêu dấu (2010) …

Nhiều tác phẩm đã chuyển thể thành kịch bản phim, trong đó có Thập tự hoa, Gió thiên đường, Trăng nơi đáy giếng

Chị đã đạt nhiều giải thưởng uy tín cả ở Trung ương và địa phương, bao gồm Giải B Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ hai vào năm 1998 cho tập truyện ngắn "Thị trấn hoa quỳ vàng".

Văn học thiếu nhi "Vì tương lai đất nước" do Nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2002 bao gồm tác phẩm truyện dài dành cho thiếu nhi mang tên "Người khổng lồ núi Bạc", tác phẩm này đã giành Giải B của Hội Nhà văn Việt Nam.

Tác giả đã nhận nhiều giải thưởng văn học danh giá, bao gồm Giải A Giải thưởng Văn học Cố đô lần thứ ba năm 2005 cho tập truyện ngắn "Quỷ trong trăng" và Giải A Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ tư năm 2008 cho tập "Thập tự hoa" Ngoài ra, tác giả còn được vinh danh với Giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế năm 2008 cho tác phẩm "Một mình ở Tokyo" và Giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011 từ Ủy ban kết nghĩa thành phố San Francisco - TP Hồ Chí Minh.

Trần Thùy Mai, nhà văn xứ Huế, thể hiện thái độ làm việc nghiêm túc và say mê qua những tác phẩm của mình, phản ánh quan niệm rõ ràng về nghề văn và cuộc sống Chị ví mình như "mảnh nam châm hút về mình những đau khổ", cho thấy trái tim nhạy cảm trước nỗi đau, đặc biệt là của phụ nữ Những câu chuyện của chị mang đậm dấu ấn cuộc đời đa đoan của không chỉ bản thân mà còn của nhiều phụ nữ Việt Nam Văn chương của chị không chỉ thể hiện niềm cảm thương mà còn khám phá sâu sắc những khát khao và góc khuất trong tâm hồn con người Chị tin rằng "viết văn là một cách thương yêu chính mình và những người xung quanh", đồng thời nhấn mạnh rằng "viết phải có lợi cho nhân loại".

Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đương đại

1.2.1.Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội

Gia đình, theo Từ điển Tiếng Việt, là tập hợp những người sống chung, gắn bó bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống, thường bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái Gia đình không chỉ là đơn vị nhỏ nhất của xã hội mà còn là tổ chức đời sống cộng đồng, hình thành và phát triển dựa trên các mối quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên Dù có sự khác biệt giữa các quốc gia, gia đình vẫn là một thể chế xã hội toàn cầu mà mỗi người đều thuộc về Qua lịch sử, gia đình đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, từ một thế hệ đến nhiều thế hệ, là nơi chúng ta bắt đầu và trở về, nơi hạnh phúc hay bất hạnh lớn nhất của đời người thường bắt nguồn Trong văn hóa phương Đông, vai trò của gia đình đối với cá nhân đặc biệt quan trọng, và gia đình không phải là một cấu trúc khép kín.

Nó có mối liên hệ chặt chẽ, có mối tương tác biện chứng với xã hội

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, được coi là tế bào tự nhiên và đơn vị cơ bản tạo nên xã hội Để xây dựng một xã hội tốt, cần phải có những gia đình vững mạnh Gia đình không chỉ là nơi mỗi cá nhân được sinh ra mà còn là môi trường đầu tiên ảnh hưởng đến tính cách và cách cư xử của họ với mọi người xung quanh Nó mang lại giá trị hạnh phúc và sự hài hòa cho mỗi thành viên, đồng thời nuôi dưỡng những công dân tốt cho xã hội Sự hạnh phúc trong gia đình là nền tảng quan trọng để hình thành nhân cách tích cực cho các thành viên, từ đó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của xã hội.

Trong xã hội hiện đại, gia đình không còn là một thế giới khép kín mà chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố xã hội Mỗi cá nhân không chỉ tồn tại trong mối quan hệ gia đình mà còn là một thành viên của cộng đồng rộng lớn hơn Sự tương tác giữa gia đình và xã hội là không thể tách rời, bởi vì mỗi cá nhân đều bị tác động bởi các hiện tượng xã hội, ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển tư tưởng, đạo đức và lối sống của họ.

Xã hội đương đại đang trải qua những biến chuyển mạnh mẽ, với xu hướng công bằng và dân chủ thẩm thấu vào các mối quan hệ gia đình Phụ nữ và trẻ em, những đối tượng từng chịu thiệt thòi, đã bắt đầu nhận thức về quyền lợi của mình và yêu cầu được tôn trọng Sự hình thành của xã hội công dân đã tạo điều kiện cho mọi người, khi đến tuổi trưởng thành, có quyền độc lập trong giao tiếp và giao dịch nhân sự, làm giảm đi quyền lực tuyệt đối của người gia trưởng Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm thay đổi cấu trúc xã hội từ nền kinh tế tiểu nông sang mô hình gia đình hiện đại đa dạng, như gia đình nông dân, công nhân, viên chức và doanh nhân Những hình ảnh quen thuộc của làng quê truyền thống giờ chỉ còn là ký ức Trong nền kinh tế mới, phụ nữ đã tự tin khẳng định bản thân qua sự nghiệp và địa vị xã hội, cùng với nam giới, họ đã vươn ra ngoài gia đình và có nhiều cơ hội để phát huy tiềm năng sáng tạo, xác lập vị trí bình đẳng thực sự Rõ ràng, xã hội đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ.

Trong thời đại hiện nay, các cơn bão của cuộc sống đang tấn công từng gia đình, buộc chúng ta phải can đảm đối diện với những thách thức Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, nhiều điều tốt đẹp cũng đã xuất hiện, mang lại hy vọng và cơ hội mới cho cuộc sống.

Gia đình Việt Nam đang trải qua nhiều biến chuyển trước sự thay đổi của xã hội, với nhiều giá trị truyền thống có nguy cơ bị mai một Mô hình gia đình truyền thống tam, tứ đại đồng đường đang dần chuyển sang gia đình hiện đại hai thế hệ, cho phép con cái có sự chủ động hơn trong công việc và các mối quan hệ Sự mâu thuẫn trong gia đình truyền thống giảm đi, trong khi vai trò của nam giới không còn được đề cao như trước Người phụ nữ, từng bị lệ thuộc và không có quyền quyết định, giờ đây đã có vị thế cao hơn trong xã hội hiện đại, tích cực tham gia các hoạt động xã hội và có tiếng nói được ghi nhận.

Gia đình hiện đại, mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng cũng đối mặt với nhiều hệ lụy không mong muốn Nền kinh tế mới tạo cơ hội cho sự sáng tạo, nhưng cũng khiến con người rơi vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt, buộc họ phải làm việc cật lực để đáp ứng nhu cầu vật chất, dẫn đến thời gian dành cho gia đình ngày càng ít Trong cuộc đua này, có những người thành công trong việc tận dụng cơ hội, trong khi nhiều người khác lại bỏ lỡ Văn hóa Việt Nam hiện nay đa dạng, vẫn giữ được bản sắc dân tộc nhưng cũng hòa nhập với thế giới, đặc biệt là những giá trị tiến bộ như bình đẳng giới, quyền trẻ em và chống bạo lực gia đình.

Sự xuất hiện của các yếu tố mới đang làm thay đổi xã hội gia trưởng đã tồn tại hàng ngàn năm tại Việt Nam Cá tính và sự khác biệt ngày càng được tôn trọng, mở ra cơ hội cho tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân được phát huy.

Trong bối cảnh văn hóa hiện đại, bên cạnh những điểm tích cực, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều yếu tố tiêu cực như sự thiếu gắn kết trong gia đình Việc tiếp thu văn hóa toàn cầu diễn ra nhanh chóng, dẫn đến sự thay đổi trong nếp sống và thói quen sinh hoạt Những bữa ăn quây quần ngày càng ít đi, và khi có, thường diễn ra vội vã do mọi người muốn trở về với thế giới riêng của mình Mô hình gia đình hạt nhân thay thế cho gia đình đông đúc, mang lại điều kiện sống tốt hơn nhưng cũng khiến trẻ em thiếu thốn về mặt tinh thần Sự bận rộn của cha mẹ đã dẫn đến việc họ không có đủ thời gian chăm sóc con cái, khiến tình cảm gia đình trở nên xa cách và những cuộc trò chuyện trở nên ngắn ngủi, hời hợt.

Xã hội hiện đại tác động mạnh mẽ đến gia đình thông qua sự thay đổi vai trò của từng giới Người đàn ông phải gánh vác trách nhiệm lớn theo chuẩn mực truyền thống, đồng thời thích ứng với yêu cầu mới, trở thành trụ cột kinh tế vững chắc Trong khi đó, người phụ nữ không chỉ giữ lửa cho gia đình mà còn tham gia tích cực vào công việc xã hội, có cơ hội thể hiện tài năng và nâng cao địa vị bình đẳng với chồng Tuy nhiên, áp lực từ định kiến giới có thể khiến nhiều phụ nữ thành đạt vẫn không tìm thấy hạnh phúc Từ đó, các mối quan hệ trong gia đình ngày càng biến đổi theo hướng cá tính hoá sâu sắc.

Xã hội hiện đại đã làm thay đổi mối quan hệ vợ chồng, khi tình yêu đôi lứa ngày càng được đề cao hơn trách nhiệm trong hôn nhân Trước đây, phụ nữ thường tìm kiếm hạnh phúc thông qua sự hy sinh vì gia đình, nhưng ngày nay, nhiều người sẵn sàng chấm dứt hôn nhân khi tình yêu không còn Sự gia tăng các vụ ly hôn đang gây ra nỗi lo lắng, khi gia đình không còn là chỗ dựa vững chắc cho các thành viên, đặc biệt là trẻ em Những đứa trẻ, lẽ ra được chăm sóc và yêu thương, lại phải đối mặt với cuộc sống thiếu thốn tình cảm, hoặc dù có đủ vật chất nhưng vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng Gia đình, vốn là bức tường bảo vệ, giờ đây trở thành nguồn gốc tạo ra những số phận éo le trong bối cảnh xã hội biến động.

1.2.2 Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam

Văn học chân chính luôn hướng người ta đến những giá trị Chân, Thiện,

Gia đình luôn là đề tài quan trọng trong văn chương, đặc biệt là văn chương đương đại, xuất phát từ những rung động sâu sắc của trái tim đối với con người và cuộc sống Không chỉ đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, văn học mới đề cập đến gia đình, mà chủ đề này đã hiện diện từ lâu trong văn học cổ điển.

1.2.2.1 Đề tài gia đình trong văn học dân gian (qua ca dao và truyện cổ tích)

Từ lâu, đề tài gia đình đã xuất hiện nhiều trong ca dao và cổ tích, thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc giữa các thành viên Những câu hát ngọt ngào, sâu lắng về tình bà, tình mẹ đã tôn vinh mối quan hệ cha - con, mẹ - con một cách đẹp đẽ và ý nghĩa.

- Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

- Ơn cha nặng lắm ai ơi Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang Nghĩa vợ - chồng:

Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người

Sự hiếu lễ, ghi nhớ công lao của cháu con với ông bà, cha mẹ:

Ngó lên nuộc lạt mái nhà, ta như thấy hình ảnh của ông bà hiện về, gợi nhớ bao kỷ niệm Các sáng tác dân gian phong phú, đa dạng chủ đề, thường hướng đến mọi thành viên trong gia đình, từ trẻ em đến người lớn, bao gồm cả nam và nữ Những tác phẩm này không chỉ mang giá trị văn hóa mà còn phản ánh mối quan hệ gắn bó trong gia đình qua nhiều cách thức khác nhau.

Có lẽ, người phụ nữ là đối tượng được phản ánh nhiều nhất trong các sáng tác văn học dân gian

Trong truyện cổ tích Việt Nam, nhân vật nữ như cô Tấm, cô Út và người vợ của anh học trò nghèo thường đại diện cho lý tưởng công bằng và hạnh phúc cho những người bất hạnh Họ thường có số phận bi thảm, tiêu biểu cho những người dân "thấp cổ bé họng", phải trải qua nhiều khó khăn và thử thách, nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp như nhân hậu, chăm chỉ và hiền dịu Dù bị hãm hại, họ luôn tìm thấy hạnh phúc cuối cùng, như cô Tấm hồi sinh xinh đẹp hơn, cô Út đoàn tụ với chồng và người vợ trở nên xinh đẹp sau khi thoát khỏi hình dạng xấu xí Tuy nhiên, truyện cổ tích không đi sâu vào tâm tư của họ mà chủ yếu sử dụng họ như những nhân vật chức năng để thể hiện khát vọng công bằng và lý tưởng chính nghĩa.

Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

2.1.1 Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền

Từ đầu thế kỷ XX, nữ quyền đã thu hút sự chú ý tại phương Tây, đặc biệt từ cuối thập niên 60, khi phê bình nữ quyền trở thành một xu hướng nổi bật trong văn học nghệ thuật Các nhà phê bình nữ quyền đã kế thừa những lý thuyết của Virginia Woolf và Simone de Beauvoir, nhấn mạnh rằng bản sắc nữ giới không phải là cố định mà là một quá trình hình thành Họ chỉ ra rằng nền văn hóa patriarchy là cơ chế chính trong việc đàn áp phụ nữ Nhiệm vụ của các nhà văn nữ không chỉ là chống lại áp bức mà còn phải phát triển một mỹ học riêng, thiết lập điển phạm và tiêu chí cảm thụ văn học riêng biệt Đến cuối thế kỷ XX, phê bình nữ quyền đã hình thành một hệ thống lý thuyết phong phú với nhiều nhánh nghiên cứu khác nhau.

Trong vài thập kỷ qua, nữ quyền đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức và tư tưởng của các nhà văn tại Việt Nam, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của văn học nữ Sự xuất hiện ồ ạt của các tác giả nữ đã tạo nên một làn sóng mới trong văn chương, mang đến một diện mạo mới cho văn học với sự trắc ẩn, khoan dung, tinh tế và đằm thắm hơn.

Mầm mống văn học nữ quyền đã xuất hiện từ thời trung đại, mặc dù bị chi phối bởi tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ Văn học trung đại chủ yếu phản ánh tiếng nói yêu nước của nam giới, nhưng vào nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, văn học nữ quyền bắt đầu trỗi dậy với sự xuất hiện của các nữ sĩ tài năng như Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan và Hồ Xuân Hương Họ đã mang đến những tác phẩm thơ lay động lòng người, đồng thời cũng có sự đồng cảm từ các nam sĩ như Nguyễn Gia Thiều trong tác phẩm "Cung oán ngâm khúc", thể hiện nỗi niềm của phụ nữ trong xã hội nam quyền.

Hồ Xuân Hương, một trong những tác giả tiêu biểu của thơ Nôm, thể hiện rõ nét màu sắc nữ quyền trong sáng tác của mình Bà không chỉ là một cá tính độc đáo và mạnh mẽ, mà còn là biểu tượng của sự tự do trong thời kỳ mà phụ nữ Việt Nam thường bị gò bó trong không gian riêng tư Dù thông minh và thích giao lưu, đường tình duyên của bà lại đầy trắc trở, với hai lần kết hôn đều phải làm lẽ và chịu cảnh góa bụa Những nỗi buồn, cô đơn, và bi kịch trong thơ của bà phản ánh sâu sắc thân phận của những người phụ nữ phải chịu đựng số phận éo le Hồ Xuân Hương khẳng định cái "tôi" mạnh mẽ, đồng thời thể hiện sự cảm thông với những nỗi khổ của phụ nữ, quyết tâm minh oan cho những cô gái gặp bất hạnh.

Trong thơ Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam được tôn vinh và nâng cao, không chỉ ngang hàng mà còn vượt trội hơn so với nam giới Bà lên án mạnh mẽ những kẻ bạc tình, sở khanh và những người đàn ông thô bỉ, thể hiện sự mạnh mẽ và kiên cường của phụ nữ trong xã hội.

Văn học nữ tính tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của thế kỷ XX, khi làn sóng phương Tây tác động sâu sắc đến xã hội và văn hóa Nhiều nhà văn thuộc Tự lực Văn đoàn đã góp phần quan trọng trong việc đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ, lên án hôn nhân không tình yêu và những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến, đồng thời tôn vinh quyền tự do yêu đương Các tác phẩm lãng mạn bắt đầu khắc họa vẻ đẹp thể chất và khát khao của người phụ nữ, trong khi các tác giả hiện thực phê phán lại chú trọng đến sự khổ sở và bất hạnh của nhân vật nữ, thường là nạn nhân của nghèo đói và dốt nát Những hình ảnh như chị Dậu trong "Tắt đèn" hay Thị Mịch trong "Giông tố" phản ánh sự tha hóa và méo mó của nhân cách trong bối cảnh xung đột giai cấp, nhưng lại ít đề cập đến vấn đề phái tính.

Sau năm 1945, sự ra đời của Hội Phụ nữ Việt Nam đã nâng cao vai trò của phụ nữ, tạo điều kiện cho "văn học nữ tính" phát triển với sự tham gia đông đảo của các nhà văn nữ Nhiều tác phẩm của họ đã gây tiếng vang và nhận được sự yêu mến từ độc giả, thể hiện sự thay đổi lớn về ý thức phái tính và sự tôn vinh vai trò của nữ giới Trong các sáng tác, hình ảnh phụ nữ được khắc họa đẹp đẽ, như chị Út Tịch trong "Người mẹ cầm súng" hay chị Sứ trong "Hòn đất" Tuy nhiên, trong giai đoạn này, đời sống tinh thần của nữ giới chủ yếu được khai thác từ khía cạnh xã hội, mà chưa chú trọng đến những đặc trưng về giới hay những suy nghĩ, cảm xúc thầm kín của họ Do đó, mặc dù vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền đã được đề cập, nhưng chưa trở thành mối quan tâm thực sự của các nhà văn trong việc tạo dựng tư tưởng nghệ thuật riêng.

Xã hội đã đạt được một trình độ dân chủ thực sự, giúp nền văn học nữ tính phát triển đúng nghĩa Sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động xã hội ngày càng tăng, đồng thời ý thức về giới đã trở thành một phần quan trọng trong tư duy của các tác giả Điều này đã tạo ra một âm hưởng nữ quyền mạnh mẽ trong văn học, được gọi là "văn học nữ tính".

Văn học Việt Nam sau năm 1986 đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học nữ quyền, với những tác giả nổi bật như Phạm Thị Hoài và Lê Minh Khuê, thể hiện sự sắc sảo, bản lĩnh và cá tính riêng Nhiều nhà nghiên cứu nhận định thời kỳ này mang dấu ấn "âm thịnh dương suy", cho thấy sự chuyển mình mạnh mẽ và quan trọng của tiếng nói nữ giới trong văn học.

Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ và các tác giả như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thị Ngọc Tư đã tạo ra những đột phá mạnh mẽ trong văn học dân tộc Họ mang đến những tiếng nói mới mẻ, khiến các nhà văn và phê bình nam giới phải công nhận tài năng của mình Những tác phẩm của họ thể hiện thế giới cảm xúc phức tạp và những cuộc đấu tranh nội tâm một cách sống động và chân thực Đồng thời, nhiều nhà văn nam cũng lên tiếng ủng hộ bình đẳng giới và công nhận nữ giới là chủ thể tư duy, trải nghiệm và thẩm mĩ thông qua các tác phẩm xuất sắc.

Khát vọng bình đẳng giới không phải là yêu cầu thay đổi chức năng giới tính, mà là tạo ra môi trường thuận lợi để mỗi giới thực hiện tốt thiên chức của mình Trong quá trình giải phóng cá nhân và khẳng định bản ngã của nữ giới, việc miêu tả khoái cảm tình dục là cần thiết, nhưng giải phóng cá nhân không chỉ giới hạn ở khía cạnh tình dục Trong văn học, tình dục cần được thể hiện như một yếu tố văn hóa, là phương tiện để nhà văn truyền tải những quan niệm nhân sinh một cách nghệ thuật Cần có sự tỉnh táo khi nhìn nhận vấn đề giới, đặc biệt là đối với các cây bút trẻ, khi nhiều tác phẩm phản ánh rõ ràng trạng thái cô đơn và nổi loạn của giới trẻ hiện nay, cũng như hiện tượng nhà văn lặp lại chính mình.

Hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong văn học từ xa xưa, nhưng thường bị nhìn nhận qua lăng kính của nam quyền Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nữ quyền đã trở thành một chủ đề được xã hội và văn hóa văn nghệ đặc biệt quan tâm.

2.1.2 Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai,

Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

Sau năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986, văn học Việt Nam chuyển hướng từ việc quan tâm đến số phận cộng đồng và dân tộc sang việc khám phá cuộc sống của những con người bình thường với những số phận cá nhân phức tạp Qua lăng kính văn học, cuộc sống hiện lên đa dạng và nhiều sắc thái, không chỉ đơn thuần phân chia thiện - ác hay cao cả - thấp hèn, mà thể hiện một tiểu vũ trụ phức tạp với sự đan xen của cái xấu và cái tốt Các nhà văn chú trọng khai thác những vấn đề sâu sắc và gai góc trong cuộc sống, như gia đình, tình yêu, đạo đức cá nhân và sự biến đổi trong từng cá nhân, khiến cho văn học trở nên "thực hơn" và "đời hơn".

Cuộc sống phong phú và phức tạp được phản ánh qua lăng kính của các nhà văn, thể hiện cảm nhận sâu sắc của họ Với trái tim nhạy cảm, các nhà văn thường xúc động trước những số phận và hoàn cảnh khác nhau Đặc biệt, các nữ nhà văn thường chú trọng đến những đề tài liên quan đến gia đình, số phận và giá trị của người phụ nữ trong xã hội, thể hiện những tâm tư và trăn trở của họ qua từng tác phẩm.

Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ, những nhà văn nữ nổi bật từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, đã có nhiều đóng góp quan trọng về đề tài gia đình trong văn học Các tác phẩm của họ thường phản ánh hình ảnh gia đình, đặc biệt là gia đình hiện đại, trong bối cảnh xã hội đang thay đổi.

Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

2.2.1 Hình ảnh người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả

2.2.1.1 Gia đình và những khát vọng của người phụ nữ

Khát vọng tình yêu, hạnh phúc

Người phụ nữ, bất kể hoàn cảnh, luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc Trong hôn nhân truyền thống, tình yêu không phải là yếu tố quyết định, nhưng ngày nay, hôn nhân thường được xây dựng trên nền tảng tình yêu tự nguyện và tự do Tình yêu trở thành sợi dây kết nối bền chặt trong mỗi gia đình, giúp con người vượt qua khó khăn trong cuộc sống Do đó, sự khao khát tình yêu và hạnh phúc luôn hiện hữu trong tâm hồn người phụ nữ Chủ đề tình yêu trong văn học là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau Tình yêu, với mục đích cao đẹp của nó, luôn mới mẻ và không có hồi kết, tạo ra những thách thức cho nhà văn trong việc khám phá và thể hiện các cung bậc tình yêu Nhân vật nữ trong tác phẩm của ba nhà văn, mỗi người mang một "khuôn mặt" và số phận riêng, nhưng đều sống và yêu hết mình.

Trần Thùy Mai mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc về văn hóa tình yêu qua các trang viết của mình, nơi thể hiện đam mê và cuồng nhiệt nhưng cũng không thiếu sự dại khờ và nông nổi Tình yêu trong tác phẩm của bà vừa ngọt ngào, hạnh phúc, vừa chứa đựng đắng cay, phản ánh đúng câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu: “Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào.” Với lối viết nhẹ nhàng, tác giả tập trung vào việc miêu tả cảm xúc và suy tư của nhân vật, từ những khoảnh khắc chạm tới trái cấm đến những phút giây xao lòng, nhưng họ luôn phải nén lòng trong những trạng thái tâm hồn phức tạp, khiến mọi ranh giới trở nên mong manh.

Niềm khát khao hạnh phúc đã khiến nữ nhân vật trong "Tàu ngầm xuyên đại dương" vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình Sự lạnh lùng của chồng đã giết chết tình yêu trong cô, khiến cô lạc lối trong mối tình với một nhà văn có vẻ ngoài cuốn hút Cô nhận ra mình thiếu sự dịu dàng và âu yếm, và người đàn ông lạ đã mang lại cho cô những khoảnh khắc ngọt ngào, giúp hồi sinh những cảm xúc đã bị lãng quên Tuy nhiên, hạnh phúc đó không kéo dài, và cô chết lặng khi nhận được email chia tay từ người yêu, kết thúc một chương tình yêu đầy mộng mơ.

Trong tác phẩm Cánh cửa thứ chín của Trần Thùy Mai, sự cô đơn và khát khao tình yêu của người phụ nữ không chỉ xuất hiện trong bối cảnh Tàu ngầm xuyên đại dương mà còn được thể hiện qua cuộc sống tĩnh lặng của nhân vật Cuộc sống của tôi gắn liền với “những ngày rất dài trong khu vườn lặng lẽ”, khi phải đối mặt với nỗi đau của căn bệnh thống kinh và sự ngột ngạt trong không gian bốn bức tường Một cuộc điện thoại nhầm số đã mở ra cơ hội kết nối với một người đàn ông, làm bùng cháy trong tôi những khao khát mãnh liệt, dù tôi vẫn là người phụ nữ của gia đình.

Niết cảm thấy không thể sống trong sự tẻ nhạt và lạnh lẽo của cuộc đời, cô khao khát được yêu thương và trải nghiệm cuộc sống trọn vẹn Dù kết hôn với một viên chức, cuộc sống của nàng lại thiếu đi sự đồng điệu, khi chồng chỉ về thăm hỏi gia đình mà không dành thời gian cho vợ Trong sự cam chịu, Niết sống trong một thế giới cô đơn cho đến khi Dõng, một thanh niên giúp việc, xuất hiện và mang đến cho nàng cảm giác sống động Mối quan hệ với Dõng đã khiến Niết có con, nhưng cũng để lại nỗi ân hận và day dứt trong suốt cuộc đời nàng khi vượt qua rào cản của định kiến xã hội.

Trong tác phẩm của Trần Thùy Mai, tình yêu được khắc họa là sức mạnh vượt qua mọi rào cản và biên giới Quan niệm rằng "Trong tình yêu, hạnh phúc thật ngọt ngào nhưng khổ đau cũng đầy thi vị" cho thấy sự sâu sắc trong cảm xúc Các nhân vật nữ trong truyện giống như những chú chim dũng cảm lao vào bụi mận gai, chấp nhận đau khổ để cất lên những tiếng hót đẹp nhất ca ngợi tình yêu.

Tình yêu có sức mạnh vượt qua ranh giới giữa cuộc sống trần tục và tu hành, một chủ đề thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm của nữ nhà văn xứ Huế Điển hình là mối tình giữa cha mẹ Đăng Ninh, tình cảm giữa Lan và chú tiểu Đăng Ninh trong "Thương nhớ hoàng lan", cùng với tình yêu của Dung dành cho chú tiểu Những câu chuyện này thể hiện sâu sắc khía cạnh phức tạp của tình yêu trong bối cảnh tâm linh và đời sống.

Phước Tuệ trong "Hoa phù dung dưới núi" là biểu tượng của vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi, khiến bao chàng trai mơ ước Tuy nhiên, nàng chỉ dành tình cảm cho chú tiểu Đăng Ninh, người quyết tâm quy y cửa Phật Bất chấp điều đó, Lan vẫn yêu say đắm và sẵn sàng hy sinh vì chàng Chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của Lan đã cảm động trái tim của chú tiểu, mở ra một câu chuyện tình đầy ý nghĩa.

Tình yêu vượt qua ranh giới tuổi tác và định kiến Đó là mối tình “chị

- em” giữa chị Trúc và Hiệp trong Chị Hai ơi Họ hơn kém nhau sáu tuổi

Tình yêu giữa Trúc và Hiệp nảy nở và phát triển khi Trúc được mẹ Hiệp cưu mang, tạo nên một mối tình thầm lặng, đẹp đẽ và trong sáng, mang lại ánh sáng ấm áp cho cuộc đời Trúc Tình yêu này không chỉ hồi sinh trái tim khô cằn của cô mà còn mang lại sức mạnh cho Hiệp, giúp anh vượt qua định kiến để hướng tới hạnh phúc chung Tuy nhiên, hạnh phúc không đến khi mẹ Hiệp đuổi Trúc ra khỏi nhà vì cho rằng cô đã quyến rũ con trai mình Dù vậy, Hiệp vẫn kiên quyết tìm kiếm Trúc, khẳng định rằng họ có quyền sống bên nhau khi chưa ai có vợ chồng Câu hỏi này tạo ra một khoảng lặng, khiến độc giả phải suy ngẫm về những ranh giới và quan niệm xã hội, liệu có thể xóa nhòa để trái tim yêu thương được hạnh phúc bên nhau hay không.

Tình yêu không chỉ vượt qua ranh giới tuổi tác mà còn xóa nhòa khoảng cách không gian và thời gian, như tình yêu thầm lặng của cô bé Uma dành cho nhân vật tôi trong "Onkel yêu dấu" Dù khoảng cách địa lý lên tới hàng trăm ngàn cây số và thời gian kéo dài mười lăm năm, tình yêu ấy vẫn âm ỉ cháy, vượt qua mọi rào cản.

Uma vẫn không thôi thương nhớ và khát khao hạnh phúc được ở bên Onkel của cô

Trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, người đọc thấy hình ảnh một người phụ nữ với nhiều khát vọng, nhưng thể hiện một cách dịu dàng, điềm đạm, khác hẳn với các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ và Y Ban Trong khi đó, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ lại thể hiện niềm khao khát tình yêu hạnh phúc mãnh liệt, với những nhân vật nữ chủ động và sẵn sàng hy sinh vì tình yêu Một trong những nhân vật đã bày tỏ quan điểm về cuộc sống gia đình và tình yêu: “Tôi không muốn sống trong cuộc sống gia đình tù túng thì tôi sống một mình với con Nhưng tôi sợ sự cô đơn thì tôi phải có bạn tình Tôi yêu một người đàn ông đã có vợ Tôi chấp nhận sự sẻ chia đó” (Nhân tình).

Vì khao khát hạnh phúc và tình yêu, Lan trong "Một nửa đời người" đã tìm đến Thắng khi không tìm thấy tình yêu từ người chồng của mình.

Chồng Lan, Hải, là người đàn ông yêu thương và tận tụy với gia đình, nhưng Lan cảm thấy hạnh phúc chưa đủ khi cuộc hôn nhân của cô không xuất phát từ tình yêu Cô lấy Hải vì sự hiếu thắng và mong muốn được người khác ngưỡng mộ, nhưng tình yêu không nảy nở sau hôn nhân vì Hải quá đơn giản và bình lặng Lan rơi vào bế tắc và tìm kiếm sự thỏa mãn bên ngoài qua mối quan hệ với Thắng, người mà cô nghĩ sẽ mang lại tình yêu trọn vẹn, nhưng cuối cùng cô nhận ra rằng Thắng không sẵn sàng hy sinh vì cô Tình yêu thực sự là sức mạnh giúp con người vượt qua nỗi sợ hãi và khó khăn, như trong câu chuyện của nhân vật Mùa đông ấm áp và Lụa trong Bảy ngày trong đời, họ đã dũng cảm theo đuổi tình yêu và cuối cùng tìm thấy hạnh phúc bên nhau, dù tương lai còn nhiều thử thách.

Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ thể hiện sự cá tính và hiện đại qua quan điểm về tình yêu, mà cô ví như một trò chơi bạc: "Trong tình yêu, có lúc phải giành lấy cái, được thì phất, hỏng thì thôi." Dù khát vọng hạnh phúc ở mối tình đầu không thành hiện thực, cô vẫn không từ bỏ ảo vọng Cô tâm sự rằng "tình yêu của tôi không bị mạng nhện chăng bởi tôi đem nó đặt lên ban thờ," thể hiện sự trân trọng và gìn giữ kỷ niệm Những hình ảnh như "vòm sấu ran ran tiếng ve" hay "mặt đường trắng ly ty hoa" gợi nhớ đến quá khứ tươi đẹp Ngay cả khi biết người yêu đã ra đi, cô vẫn chờ đợi và nhớ thương, khẳng định rằng "tôi chờ người ấy hàng ngày," dù thực tế họ đã có cuộc sống riêng.

Bộ ba ngồi trên chiếc xe cúp đỏ, mang theo rổ xe chở áo mưa và túi lưới, thể hiện sự nghịch ngợm của tuổi trẻ Cô gái trải qua tình yêu thứ hai với hy vọng hạnh phúc sẽ đến, nhưng chàng trai lại trở về với gia đình, để lại cô một mình lập ban thờ cho tình yêu mới Dù nhận ra cuộc đời chưa bao giờ trọn vẹn, cô vẫn kiên trì với niềm tin vào tình yêu: "miễn là tôi yêu và tôi được yêu" Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ không ngừng tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc, bất chấp những đau khổ và tổn thương mà cô phải gánh chịu.

Tình yêu cũng là một đề tài thường xuyên trong những trang văn của

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

Ngày đăng: 02/07/2022, 08:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
25. Đỗ Hạnh - Nhà văn Trần Thùy Mai (2004) “Tôi chẳng làm được gì nếu không được yêu”. Tạp chí Người đẹp Việt Nam, (129) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tôi chẳng làm được gì nếu không được yêu
47. Nguyên Hương - Nguyễn Thị Thu Huệ , nhà văn của nồng ấm tình yêu http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/van-hoa-the-thao-giai-tri/nguyen-thi-thu-hue-nha-van-cua-nong-am-tinh-yeu/207612.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyên Hương -
52. Anh Vân - Lý Lan muốn góp ý với Y Ban về “I am đàn bà” http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/ly-lan-muon-gop-y-voi-y-ban-ve-i-am-dan-ba-1895961.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: I am đàn bà”
45. Lý Hạnh – Nhà văn Trần Thùy Mai viết về tình yêu không phải để câu khách http://vnca.cand.com.vn/vi-VN/doisongvanhoa/2008/3/52614.cand Link
46. Mai Hoàng – Y Ban: Hành trình đến tận cùng thế tục http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c152/n1685/Hanh-trinh-den-tan-cung-the-tuc.html Link
48. Thu Hương - Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-va-nhung-giac-mo-ve-hanh-phuc-1876270.html Link
53. Theo Sinh viên - Nhà văn Y Ban và quan niệm về cuộc sống http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-quan-niem-ve-cuoc-song-1873996.html Link
54. Theo Lao động - Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-va-quan-niem-sang-tac-1878229.html Link
1. Y Ban (1993), Người đàn bà có ma lực, Nxb Hà Nội Khác
2. Y Ban (1995), Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Nxb Hội Nhà văn 3. Y Ban (2006), I am đàn bà, Nxb Phụ nữ Khác
13. Trần Thùy Mai (2001), Quỷ trong trăng, Nxb Trẻ Khác
14. Trần Thùy Mai (2002), Biển đời người, Nxb Thuận Hóa 15. Trần Thùy Mai (2003), Thập tự hoa, Nxb Thuận Hóa 16. Trần Thùy Mai (2004), Đêm tái sinh, Nxb Thuận Hóa Khác
17. Trần Thùy Mai (2005), Mưa đời sau, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh Khác
18. Trần Thùy Mai (2007), Mưa ở Strasburg, Nxb Phụ nữ Khác
19. Trần Thùy Mai (2008), Một mình ở Tokyo, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh Khác
20. Trần Thùy Mai (2010), Onkel yêu dấu, NxbVăn nghệ Khác
21. Trần Thùy Mai (2010), Trăng nơi đáy giếng, Nxb Thanh niên Khác
22. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Khác
23. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học Khác
24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Khác
w