1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

118 0 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phát Triển Sản Xuất Nông Nghiệp Ở Thái Bình Trong Sự Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu
Tác giả Nguyễn Xuân Đỉnh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Nguyên Hồng
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Triết học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 118
Dung lượng 1,21 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Lý do chọn đề tài (7)
    • 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài (9)
    • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài (14)
    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (0)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài (16)
    • 6. Ý nghĩa khoa học của luận văn (16)
    • 7. Kết cấu của luận văn (16)
  • B. NỘI DUNG (17)
  • CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRONG SỰ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (17)
    • 1.1. Nông nghiệp và phát triển sản xuất nông nghiệp (17)
      • 1.1.1 Các khái niệm liên quan (17)
      • 1.1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của sản xuất nông nghiệp đối với kinh tế - xã hội (26)
    • 1.2. Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp (41)
      • 1.2.1. Biến đổi khí hậu và những biểu hiện của biến đổi khí hậu (41)
      • 1.2.2. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp 41 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG, XU HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở THÁI BÌNH TRONG SỰ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (47)
    • 2.1. Những tiền đề và điều kiện cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình (52)
      • 2.1.1. Những tiền đề cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình (52)
    • 2.2. Thực trạng sản xuất nông nghiệp, tác động biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình (64)
      • 2.2.1. Thực trạng sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình (64)
    • 2.3. Xu hướng biến đổi phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu (90)
      • 2.3.1. Xu hướng biến đổi về cơ cấu lao động (90)
      • 2.3.2. Xu hướng biến đổi về cơ cấu ngành nghề (93)
    • 2.4. Một số quan điểm, giải pháp và khuyến nghị về phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu (100)
      • 2.4.1. Một số quan điểm chỉ đạo về phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu (100)
      • 2.4.2. Một số giải pháp để phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu (103)
      • 2.4.3. Một số khuyến nghị (110)
    • C. KẾT LUẬN (113)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Biến đổi khí hậu đang tác động nghiêm trọng đến nông nghiệp Việt Nam, với dự báo nước ta nằm trong top 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất Theo Ngân hàng Thế giới, nếu mực nước biển tăng 1m, 5% diện tích đất sẽ bị ngập, ảnh hưởng đến 11% dân số và có thể làm giảm GDP tới 10% Các hiện tượng như nhiệt độ gia tăng, mực nước biển dâng và thời tiết cực đoan sẽ làm giảm khả năng sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi, gây xáo trộn mùa vụ và tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu còn thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người lao động và đặt ra thách thức cho an ninh lương thực và an sinh xã hội.

Thái Bình, một tỉnh thuần nông, có khoảng 63 – 65% lực lượng lao động gắn bó với sản xuất nông nghiệp Tuy nhiên, sự phát triển nông nghiệp tại đây phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và đang phải đối mặt với tác động ngày càng tăng của biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu và thiên tai đã gây ra tổn thất lớn cho cây trồng, vật nuôi và cơ sở hạ tầng nông nghiệp, dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng như khủng hoảng lương thực và an sinh xã hội Do đó, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, việc phát triển kinh tế - xã hội và sản xuất nông nghiệp cần có chiến lược rõ ràng và ưu tiên giải quyết các vấn đề cấp bách cho tỉnh trong tương lai.

Trong những năm qua, tỉnh Thái Bình đã đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng ngành nông nghiệp đang gặp khó khăn với tình trạng chững lại và suy giảm Các vấn đề nổi bật bao gồm người dân bỏ ruộng, hiệu quả kinh tế thấp, diện tích đất nông nghiệp giảm, và chất lượng nông sản không đảm bảo Bên cạnh những tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, việc tổ chức và quản lý trong nông nghiệp cũng gặp nhiều hạn chế Do đó, ứng phó với biến đổi khí hậu đã trở thành một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của các cơ quan, ban ngành tại Thái Bình.

Để phát triển kinh tế bền vững, Thái Bình cần thúc đẩy nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn và hiện đại hóa công nghiệp, đồng thời nâng cao khả năng phòng ngừa và thích ứng với biến đổi khí hậu Việc nghiên cứu thực trạng sản xuất nông nghiệp và tác động của biến đổi khí hậu là rất quan trọng để tìm ra các giải pháp thích ứng, giảm nhẹ tác động và hướng tới phát triển bền vững Phát triển nông nghiệp ở Thái Bình chỉ bền vững khi giải quyết được những thách thức mà biến đổi khí hậu đặt ra, và cần phải nằm trong chiến lược phát triển toàn diện của ngành nông nghiệp địa phương.

Chính vì những lý do trên, vấn đề “ Phát triển sản xuất nông nghiệp ở

Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu ” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu.

Tổng quan nghiên cứu đề tài

Vấn đề phát triển kinh tế và biến đổi khí hậu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nghiên cứu từ cả trong nước và quốc tế, với nhiều công trình đề cập đến cả khía cạnh thực tiễn và lý luận Trong số đó, có một số nghiên cứu nổi bật đáng chú ý.

Cuốn sách “Tích hợp các vấn đề BĐKH vào các vấn đề phát triển kinh tế xã hội” do PGS,TS Trần Thị Thục biên soạn, xuất bản bởi Nxb Tài nguyên – Môi trường và bản đồ Việt Nam năm 2012, cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình biến đổi khí hậu tại Việt Nam Nội dung sách nhấn mạnh sự cần thiết phải tích hợp các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu trong hiện tại và tương lai.

Trong báo cáo "Biến đổi khí hậu và an ninh quốc gia" tại Hội thảo khoa học về BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam vào tháng 2/2008, Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Ngọc Sinh đã chỉ ra bốn mối đe dọa chính của biến đổi khí hậu đối với an ninh quốc gia Đầu tiên, tình trạng thiếu nước và tranh chấp nguồn nước tại các dòng sông xuyên biên giới có thể gây ra xung đột Thứ hai, biến đổi khí hậu dẫn đến giảm năng suất nông nghiệp, gia tăng dịch bệnh, nghèo đói và mất ổn định xã hội Thứ ba, hiện tượng tị nạn môi trường, cả trong nước lẫn quốc tế, đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng Cuối cùng, sự xâm nhập của các sinh vật lạ đe dọa hệ sinh thái và an ninh nông nghiệp.

Võ Quý (2009) trong bài viết "Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ở Việt Nam" đã chỉ ra rằng biến đổi khí hậu gây ra những tác động nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của Việt Nam Cụ thể, các vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long sẽ chịu thiệt hại nặng nề đối với hệ sinh thái rừng và đất ven biển Đặc biệt, khi nước biển dâng cao, khoảng 50% các khu đất ngập nước quan trọng quốc gia sẽ bị ảnh hưởng.

Trong bài viết "Biến đổi khí hậu và nông nghiệp bền vững, an toàn lương thực" của Lê Văn Khoa (2008), tác giả chỉ ra rằng các vùng đất dốc trên cả nước đang đối mặt với nguy cơ xói mòn nghiêm trọng, dẫn đến suy giảm độ phì và khả năng sản xuất Biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng nguy cơ sâu bệnh, kéo theo việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp tăng lên, gây ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng nông sản và ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm.

Trương Quang Học và Trần Đức Hinh trong bài viết "Biến đổi khí hậu và các vector truyền bệnh" (2008) chỉ ra rằng biến đổi khí hậu có thể dẫn đến sự bùng phát của các dịch bệnh truyền qua vector như sốt rét, sốt xuất huyết, và viêm não Nhật Bản Những dịch bệnh này thường gia tăng ở các khu vực nóng, ẩm và ô nhiễm, đặc biệt sau các trận lũ lụt, đồng thời cũng làm gia tăng các bệnh như tiêu chảy, kiết lỵ, tả, thương hàn, giun chỉ, dịch hạch và sốt mò.

Nguyễn Đức Ngữ (2008) trong "Biến đổi khí hậu và khô hạn, hoang mạc hoá" cho rằng BĐKH kéo theo hiện tượng El-Nino làm giảm đến 20-

Lượng mưa ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên giảm 25%, dẫn đến tình trạng hạn hán phổ biến và kéo dài, thậm chí xảy ra khô hạn ngay trong thời gian El-Nino Tác động của hiện tượng này ở Nam Trung Bộ nghiêm trọng hơn Bắc Trung Bộ, trong khi Bắc Tây Nguyên cũng chịu ảnh hưởng lớn hơn so với Nam Tây Nguyên.

Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã triển khai dự án "Phòng ngừa thảm hoạ liên quan đến biến đổi khí hậu" nhằm nâng cao năng lực cho cộng đồng dễ bị tổn thương trong các khu vực chịu ảnh hưởng của thiên tai do biến đổi khí hậu Dự án tập trung vào việc chuẩn bị cho người dân ứng phó và thích ứng hiệu quả với các tình huống thiên tai.

Phan Nguyên Hồng và Lê Xuân Tuấn đã chỉ ra vai trò quan trọng của rừng ngập mặn trong việc ứng phó với mực nước biển dâng, bao gồm: làm chậm dòng chảy và phân tán nước triều, giảm độ cao sóng triều cường, bảo vệ đê biển, hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nguồn nước ngầm, cũng như duy trì đa dạng sinh học Các tác giả cũng đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao khả năng ứng phó của rừng ngập mặn trước tình trạng mực nước biển dâng và biến đổi khí hậu.

Trong báo cáo “Vietnam Climate Change, Adaptation and Poor people”

Nghiên cứu của Oxfam (2008) về sự thích nghi với biến đổi khí hậu toàn cầu của người nghèo Việt Nam, đặc biệt ở Bến Tre và Quảng Trị, đã chỉ ra nhận thức của người nghèo đối với biến đổi khí hậu Đề tài nghiên cứu của TS Mai Thanh Sơn, TS Lê Đình Phùng, và TS Lê Đức Thịnh (Hà Nội, 10/2010) cung cấp cái nhìn tổng thể về tác động của biến đổi khí hậu đến các ngành sản xuất khác nhau và những sáng kiến ứng phó của người dân, đặc biệt là trong cộng đồng dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc.

Ngoài ra, cần xem xét một số công trình nghiên cứu liên quan đến kinh tế nông nghiệp nông thôn Việt Nam qua các thời kỳ Những công trình này sẽ cung cấp cái nhìn tổng thể và đề xuất các phương pháp, khuyến nghị về tác động của biến đổi khí hậu đối với kinh tế nông nghiệp, từ đó luận văn có thể tham khảo để nâng cao tính chính xác và hiệu quả của nghiên cứu.

Nghiên cứu “Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp Việt Nam” của tác giả Chu Hữu Quý (1996) đã so sánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam với các nước trong khu vực, dựa trên các tiêu chí như thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ biết chữ và diện tích đất tưới tiêu Tác giả đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm phát triển nông thôn một cách toàn diện, bao gồm chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, phát triển công nghiệp và dịch vụ, phân công lại lao động, và bảo vệ môi trường Đồng thời, nghiên cứu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp bền vững và khai thác nguồn nhân lực nông thôn.

Nghiên cứu "Kinh tế phát triển nông thôn" của nhóm tác giả Nguyễn Đình Nam, Lê Nghiêm, Lê Đình Thắng, và Nguyễn Hữu Tiến chỉ ra rằng nông thôn Việt Nam vẫn còn lạc hậu, đặc biệt về hạ tầng kinh tế xã hội và tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá Tỷ lệ tăng dân số cao, thu nhập bình quân thấp so với thành phố, và mức hưởng thụ văn hóa cũng như tiến bộ kỹ thuật còn cách xa đô thị Do đó, các tác giả khẳng định rằng phát triển nông thôn cần phải xem xét đến hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.

Đề tài cấp Nhà nước KX 02/06-10 “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Thực trạng và giải pháp” (2010) của tác giả Nguyễn Chí Dũng đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về sự phát triển nông nghiệp nông thôn Nghiên cứu đã khảo sát và đánh giá nhiều khía cạnh của sự phát triển xã hội và quản lý ở các vùng nông thôn, cho thấy bức tranh phát triển với nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực Mặc dù không đi sâu vào kinh tế nông nghiệp, nhưng nghiên cứu đã làm rõ các khía cạnh như mô hình sản xuất, kết cấu hạ tầng nông thôn và bảo vệ môi trường Nhóm tác giả cũng đã đưa ra những khuyến nghị quan trọng về dạy nghề, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội và tác động của biến đổi khí hậu đối với các ngành kinh tế.

Các công trình nghiên cứu khác như: “Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ( 1945-1995) của tác giả Nguyễn Sinh Cúc;

“Phát triển nông thôn” của tác giả Phạm Xuân Nam xuất bản năm 1997;

“Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá” của tác giả Vũ Oanh xuất bản năm 1998 v.v

Các công trình nghiên cứu đề cập đến lý thuyết phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phát triển cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp tại các vùng nông thôn ở Việt Nam Việc cung ứng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp địa phương được coi là giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế tình trạng di dân ra thành phố.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

Hiện nay, sản xuất nông nghiệp tại tỉnh đang đối mặt với nhiều thách thức do biến đổi khí hậu và thiên tai Tình hình phát triển nông nghiệp cần được đánh giá rõ ràng để nhận diện những tác động tiêu cực từ môi trường Việc nắm bắt thực trạng này không chỉ giúp cải thiện năng suất mà còn đảm bảo an toàn cho người nông dân và bền vững cho nền kinh tế địa phương.

Để thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu, tỉnh Thái Bình cần triển khai các giải pháp và khuyến nghị khả thi nhằm phát triển bền vững sản xuất nông nghiệp Các biện pháp này bao gồm áp dụng công nghệ canh tác hiện đại, tăng cường quản lý tài nguyên nước, cải thiện hệ thống tưới tiêu và phát triển giống cây trồng chịu hạn Đồng thời, cần nâng cao nhận thức của nông dân về biến đổi khí hậu và khuyến khích họ tham gia vào các chương trình đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật Việc xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp bền vững cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển lâu dài cho ngành nông nghiệp tỉnh Thái Bình.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện tốt những mục tiêu đề ra, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Thu thập, phân tích các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu

- Hệ thống hóa và xác định rõ nội hàm các khái niệm đặt cơ sở cho nghiên cứu

Bài viết tổng hợp và phân tích thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Thái Bình, đồng thời đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với ngành nông nghiệp địa phương Qua đó, dự báo xu hướng biến đổi trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh này đến năm 2020, nhấn mạnh những thách thức và cơ hội mà nông dân sẽ đối mặt trong bối cảnh khí hậu đang thay đổi.

Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, do đó, cần phân tích và đề xuất các giải pháp thích ứng nhằm giảm nhẹ tác động tiêu cực này Các quan điểm cần tập trung vào việc phát triển bền vững thông qua việc áp dụng công nghệ mới, cải thiện quản lý nước và đất, cũng như tăng cường giáo dục cộng đồng về biến đổi khí hậu Đồng thời, khuyến khích các mô hình sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường sẽ góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và nâng cao năng suất Việc hợp tác giữa các bên liên quan, từ chính quyền đến nông dân, là yếu tố then chốt để thực hiện thành công các giải pháp này.

4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Các quan điểm và đường lối của Đảng cùng với chính sách của Nhà nước, bao gồm cả trung ương và địa phương, đã được áp dụng hiệu quả trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Những giải pháp này không chỉ góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp trong khu vực.

Tỉnh Thái Bình có những đặc điểm nổi bật về sản xuất nông nghiệp, bao gồm kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phát triển, nguồn nhân lực dồi dào và hiện trạng đất nông nghiệp phong phú Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy năng suất nông nghiệp mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của địa phương.

- Xu hướng biến đổi của sản xuất nông nghiệp tỉnh Thái Bình

- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Bình

- Về thời gian: Từ năm 2000 đến nay

5 Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm rõ những nội dung chủ yếu của đề tài

6 Ý nghĩa khoa học của luận văn

Đề xuất các quan điểm, giải pháp và khuyến nghị thực tế nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp tại Thái Bình và các địa phương có đặc điểm địa lý, tự nhiên, kinh tế và xã hội tương đồng là rất cần thiết Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khu vực.

Kết quả nghiên cứu từ luận văn sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho các lãnh đạo ở mọi cấp trong công tác phát triển kinh tế-xã hội Những thông tin này góp phần điều chỉnh các giải pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu tại khu vực nghiên cứu.

Luận văn có thể đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy tại các trường Đảng của tỉnh, cũng như hỗ trợ cho báo cáo viên tại các trung tâm chính trị ở huyện và thành phố.

7 Kết cấu của luận văn

- Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn được kết cấu làm 2 chương 6 tiết

Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh, nhằm làm rõ các nội dung chủ yếu của nghiên cứu.

Ý nghĩa khoa học của luận văn

Đề xuất các quan điểm và giải pháp thực tiễn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tại Thái Bình và các địa phương có đặc điểm địa lý, tự nhiên và kinh tế-xã hội tương đồng.

Kết quả nghiên cứu từ luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho các nhà lãnh đạo ở mọi cấp độ trong công tác phát triển kinh tế-xã hội Nó đóng góp vào việc điều chỉnh các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu tại khu vực nghiên cứu.

Luận văn có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy tại trường Đảng tỉnh, cũng như hỗ trợ cho các báo cáo viên tại các trung tâm chính trị ở huyện và thành phố.

Kết cấu của luận văn

- Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn được kết cấu làm 2 chương 6 tiết

NỘI DUNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRONG SỰ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1.1 Nông nghiệp và phát triển sản xuất nông nghiệp trong sự tác động của biến đổi khí hậu

1.1.1 Các khái niệm liên quan

Sự phát triển được nhìn nhận qua nhiều quan điểm khác nhau Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự thay đổi về số lượng mà không có sự biến đổi về chất, tức là sự vật vẫn giữ nguyên bản chất trong suốt quá trình tồn tại của nó Ngược lại, quan điểm biện chứng coi phát triển là một quá trình tiến bộ từ thấp đến cao, diễn ra qua cả những bước nhảy vọt và những giai đoạn phức tạp, không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, thậm chí có thể có những bước thụt lùi Phát triển và vận động là hai khái niệm khác nhau; chỉ những hình thức vận động nào dẫn đến sự tiến bộ mới được xem là phát triển Định nghĩa về phát triển được mô tả là sự biến đổi theo chiều hướng đi lên, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

Sự phát triển mang tính khách quan và tất yếu, phản ánh quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của sự phát triển.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRONG SỰ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Nông nghiệp và phát triển sản xuất nông nghiệp

1.1.1 Các khái niệm liên quan

Sự phát triển được nhìn nhận qua nhiều quan điểm khác nhau Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự thay đổi về số lượng mà không có sự biến đổi về chất, và quá trình này diễn ra liên tục mà không có những bước ngoặt phức tạp Ngược lại, quan điểm biện chứng coi sự phát triển là quá trình tiến lên từ thấp đến cao, diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, dẫn đến sự xuất hiện của cái mới thay thế cái cũ Phát triển không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà có thể có những bước thụt lùi Mặc dù phát triển là một hình thức vận động, không phải mọi hình thức vận động đều được coi là phát triển; chỉ những vận động thúc đẩy sự tiến bộ mới được gọi là phát triển Định nghĩa về phát triển là sự biến đổi theo hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

Sự phát triển mang tính khách quan và tất yếu, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật và hiện tượng Quá trình này liên quan đến việc giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình tồn tại và vận động của sự vật Phát triển là một tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người; dù muốn hay không, sự vật vẫn tiếp tục phát triển theo xu hướng chung của thế giới vật chất Do đó, khi nghiên cứu sự phát triển, cần bám sát chân lý khách quan để tìm ra chân lý khoa học.

Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực của thế giới khách quan, bao gồm tự nhiên, xã hội và tư duy Chỉ thông qua sự phát triển, các hình thức tư duy, đặc biệt là khái niệm và phạm trù mới, mới có thể phản ánh chính xác thực tế luôn biến đổi và phát triển.

Sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng và thời đại là đa dạng và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau, dẫn đến những quá trình phát triển không giống nhau Những tác động này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi Ph Ăngghen nhấn mạnh rằng tư tưởng vĩ đại nhận thức thế giới như một quá trình liên tục, trong đó các sự vật và khái niệm luôn biến đổi, không ngừng sinh thành và diệt vong Mặc dù có những yếu tố ngẫu nhiên và sự đảo lộn, sự phát triển cuối cùng vẫn diễn ra.

Phát triển luôn gắn liền với mọi sự vật và hiện tượng, nằm trong quá trình vận động không ngừng Để hiểu rõ hơn về sự vật, cần nhận diện không chỉ những gì đang tồn tại mà còn cả xu hướng phát triển trong tương lai Việc phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn giúp tìm ra phương pháp nhận thức và tác động phù hợp, nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến triển Nguyên lý phát triển cho thấy cái mới ra đời từ cái cũ, mang tính tiến bộ hơn, và lại trở thành cái cũ trong một chu kỳ liên tục Hiểu rõ nguyên lý này sẽ hỗ trợ định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, góp phần cải tạo hiện thực và phát triển bản thân con người.

Nông nghiệp là ngành sản xuất của cải vật chất dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi, nhằm tạo ra lương thực và thực phẩm phục vụ đời sống con người Phát triển nông nghiệp không chỉ mở rộng quy mô mà còn nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm cho sự tồn tại và phát triển kinh tế của người dân trong một quốc gia.

Hiện nay, đất nước chúng ta đang trong giai đoạn phát triển Quá trình

CNH, HĐH đang từng bước chuyển đổi Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp hiện đại, nhưng xuất phát điểm của nước ta là nền nông nghiệp với 70% dân số phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp Những năm qua, nông nghiệp đã phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh khó khăn Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần, cho thấy những yếu kém của nền nông nghiệp nhỏ lẻ, thiếu liên kết và năng suất thấp Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, tăng trưởng GDP nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 đạt 3,83%/năm, giảm xuống 3,3%/năm trong giai đoạn 2006 - 2010, và tiếp tục giảm còn 2,8% vào năm 2013.

Phát triển nông nghiệp là mục tiêu trọng tâm trong việc phát triển các ngành mũi nhọn và phát huy lợi thế của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến ngành nông nghiệp Tư tưởng của Đảng khẳng định vai trò quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam và đề ra các giải pháp phát triển Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam là nước sống bằng nông nghiệp, vì vậy nền kinh tế cần lấy nông nghiệp làm gốc Sự thịnh vượng của đất nước gắn liền với đời sống của người nông dân, và đây là cơ sở để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp.

Phát triển nông nghiệp là yếu tố then chốt để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, đồng thời phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Cần phải phù hợp với điều kiện từng vùng, lĩnh vực để khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội như lao động, đất đai, rừng và biển Việc tận dụng cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và phát huy nội lực Đồng thời, cần tăng cường đầu tư từ Nhà nước và xã hội, cũng như nhanh chóng ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn, nhằm phát triển nguồn nhân lực.

Giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ chung của hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó cần khơi dậy tinh thần yêu nước và tự lực của nông dân Cần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn, tạo sự chuyển biến nhanh chóng ở các vùng khó khăn Đào tạo nông dân có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến, giúp họ có bản lĩnh chính trị và vai trò chủ đạo trong nông thôn mới Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững với sản xuất hàng hóa lớn, năng suất và chất lượng cao, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Phát triển nông thôn mới với hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ, đồng thời bảo vệ môi trường và nâng cao dân trí Tăng cường hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng và củng cố liên minh giữa công nhân và nông dân.

Trí thức vững mạnh là yếu tố then chốt, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và chính trị, góp phần quan trọng vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1.1.1.3 Phát triển sản xuất nông nghiệp

Nông nghiệp Việt Nam là ngành sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên như đất đai, thời tiết và khí hậu, cùng với phong tục tập quán và phương pháp canh tác của từng vùng miền Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc quy hoạch vùng và áp dụng khoa học kỹ thuật trên những mảnh ruộng manh mún Mặc dù Việt Nam đứng đầu thế giới về sản lượng xuất khẩu nông sản như lúa gạo, cà phê và cao su, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là xuất khẩu thô với giá trị gia tăng thấp Để phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cần phát huy thế mạnh nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu đang chú trọng vào an ninh lương thực Những kinh nghiệm quý báu trong tổ chức sản xuất, như cơ chế Khoán 10, đã giúp chuyển đổi nền nông nghiệp từ tình trạng thiếu đói sang nước xuất khẩu hàng đầu thế giới.

Vào tháng 6/2013, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và phát triển bền vững Đề án này nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững về mặt tự nhiên và xã hội, bảo đảm môi trường trong sạch, góp phần xóa đói giảm nghèo, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp Mục tiêu cuối cùng là xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, chất lượng, hướng tới việc trở thành một cường quốc xuất khẩu nông sản.

Phát triển sản xuất nông nghiệp cần tận dụng điều kiện tự nhiên của từng vùng để tạo ra sản phẩm chất lượng cao và năng suất tốt Để đạt được điều này, cần nâng cao trình độ cho người dân tham gia sản xuất, cải thiện hạ tầng như thủy lợi, điện, và giao thông, đồng thời tăng cường đầu tư từ Nhà nước và doanh nghiệp vào nông nghiệp Việc áp dụng công nghệ cao trong sản xuất là cần thiết, bao gồm công nghiệp hóa, cơ giới hóa, và công nghệ sinh học, nhằm tạo môi trường tốt nhất cho cây trồng và vật nuôi Mục tiêu là tạo ra sản phẩm nông nghiệp có tính cạnh tranh cao mà không gây hại cho môi trường Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tích tụ ruộng đất, cơ giới hóa, và phát triển sản xuất quy mô lớn, đồng thời cần thúc đẩy các mô hình hợp tác trong đầu tư và sản xuất nông nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, việc phát triển nông nghiệp bền vững trở thành một yêu cầu cấp thiết Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đã được triển khai trong 9 năm, với nông nghiệp và nông thôn là một trong 5 lĩnh vực kinh tế ưu tiên Mặc dù ngành nông nghiệp đã thực hiện chương trình phát triển bền vững, nhưng việc nghiên cứu và hiểu biết về nông nghiệp bền vững vẫn chưa được chú trọng đầy đủ.

Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp

1.2.1 Biến đổi khí hậu và những biểu hiện của biến đổi khí hậu

Ngày 02 tháng 12 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu tại Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nỗ lực của Việt Nam đối phó với thách thức này Chương trình nhằm hướng tới phát triển bền vững, với hai nhiệm vụ chính là đánh giá mức độ và tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương, cùng với việc xác định các giải pháp ứng phó hiệu quả.

Ngày 13 tháng 10 năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 3815/ BTNMT-KTTVBĐKH về Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu để hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương triển khai xây dựng Kế hoạch hành động của ình Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu là vấn đề mới không chỉ đối với Việt Nam mà c òn đối với cả toàn cầu, Việt Nam là một trong những nước sớm tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước Khung của Liên hợp quốc và Nghị định thư Kyoto về biến đổi khí hậu (BĐKH) Đối với Việt Nam, Công ước có hiệu lực từ ngày 14/2/1995, Nghị định thư Kyoto có hiệu lực từ ngày 16/2/2005 Như vậy, từ ngày 16/2/2005, Việt Nam chính thức là một thành viên của tổ chức Quốc tế về chống biến đổi khí hậu, khi tham gia công ước và Nghị định thư Kyoto về BĐKH, có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ của một bên trong quá trình thi hành cam kết của mình về thích ứng và giảm nhẹ với BĐKH Vì vậy việc biên soạn khung kế hoạch hành động thích ứng và giảm nhẹ BĐKH rất cần thiết giúp các ngành, các cấp có định hướng chủ động trong ứng phó với BĐKH ngày càng cực đoan

Biến đổi khí hậu toàn cầu là điều không thể tránh khỏi, với những hậu quả nghiêm trọng và khó lường mà chúng ta chưa thể dự đoán chính xác Mặc dù đã có các kịch bản về biến đổi khí hậu được tính toán và dự báo, nhưng thực tế có thể vượt xa những gì đã được dự đoán Biến đổi khí hậu sẽ tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, du lịch, tài nguyên nước, môi trường sinh thái và sức khỏe con người.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi lâu dài trong trạng thái khí hậu so với mức trung bình, thường kéo dài vài thập kỷ hoặc hơn Nguyên nhân của BĐKH có thể xuất phát từ các quá trình tự nhiên hoặc tác động bên ngoài, cũng như hoạt động của con người làm thay đổi thành phần khí quyển, bao gồm cả việc khai thác và sử dụng đất.

Biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất đối với nhân loại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường toàn cầu Sự gia tăng nhiệt độ và mực nước biển dâng cao dẫn đến ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước, tác động tiêu cực đến nông nghiệp và gây rủi ro cho các ngành công nghiệp cũng như hệ thống kinh tế - xã hội Vấn đề này đang làm thay đổi sâu sắc quá trình phát triển và an ninh toàn cầu trong các lĩnh vực như năng lượng, nước, lương thực, xã hội, việc làm, ngoại giao, văn hóa, kinh tế và thương mại.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ có tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường toàn cầu, với dự báo đến năm 2080, sản lượng ngũ cốc có thể giảm từ 2 đến 4 lần, giá tăng từ 13 đến 45%, và tỷ lệ dân số chịu ảnh hưởng bởi nạn đói có thể đạt 36-50% Mực nước biển dâng cao gây ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp và đặt ra rủi ro lớn cho các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai Tại Việt Nam, trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,7°C và mực nước biển đã dâng khoảng 20cm, trong khi hiện tượng El Niño và La Niña ngày càng tác động mạnh mẽ BĐKH đã làm gia tăng cường độ của các thiên tai như bão, lũ và hạn hán Dự báo nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3°C và mực nước biển có thể dâng 1m vào năm 2100, dẫn đến khoảng 40 nghìn km² đồng bằng ven biển sẽ bị ngập hàng năm, trong đó 40% diện tích thuộc các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng.

Biến đổi khí hậu đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho Việt Nam, đe dọa mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cản trở việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.

Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực như tài nguyên nước, nông nghiệp và an ninh lương thực, cũng như sức khỏe cộng đồng Những vùng đồng bằng và dải ven biển là những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước những tác động này.

Theo Ngân hàng Thế giới (2007), Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Hồng và sông Mê Công Nếu mực nước biển tăng 1m, khoảng 10% dân số sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, dẫn đến tổn thất GDP khoảng 10% Trong trường hợp nước biển dâng lên 3m, 25% dân số sẽ bị tác động và tổn thất GDP có thể lên tới 25%.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, với đồng bằng sông Cửu Long được xếp vào nhóm ba đồng bằng dễ tổn thương nhất do nước biển dâng Dự báo đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng từ 2 - 3 độ C, trong khi lượng mưa mùa mưa sẽ gia tăng, và lượng mưa mùa khô giảm Mực nước biển có thể dâng từ 75 cm đến 1 m so với giai đoạn 1980 - 1999, dẫn đến khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích các tỉnh ven biển bị ngập Thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập hơn 20% diện tích, ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng 10 - 12% dân số và gây thiệt hại khoảng 10% GDP Những tác động này đặt ra nguy cơ nghiêm trọng đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong những năm qua, biến đổi khí hậu đã làm gia tăng tần suất và cường độ thiên tai, gây tổn thất lớn về người và tài sản Từ năm 2001 đến 2010, các thiên tai như bão lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán và xâm nhập mặn đã làm chết và mất tích hơn 9.500 người, với thiệt hại tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP mỗi năm Những tác động này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh hưởng xấu đến môi trường và các cơ sở hạ tầng văn hóa, xã hội.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển và năng suất của cây trồng, cũng như thời vụ gieo trồng, đồng thời làm gia tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh Ngoài ra, BĐKH còn tác động đến sự sinh sản và tăng trưởng của gia súc, gia cầm, dẫn đến việc tăng khả năng mắc bệnh và lây truyền dịch bệnh trong đàn vật nuôi.

Sự nóng lên toàn cầu đang làm gia tăng thời gian thích nghi của các cây trồng nhiệt đới, trong khi đó, thời gian thích nghi của cây trồng á nhiệt đới lại bị thu hẹp.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) có thể làm gia tăng tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, tố, lốc, cùng với những thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa Điều này dẫn đến tình trạng khô nóng, lũ lụt, ngập úng, hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn và sự phát triển của sâu bệnh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất và sản lượng của cây trồng và vật nuôi.

Biến đổi khí hậu đang đe dọa thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt ở các vùng đất thấp như đồng bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long Nhiều diện tích đất nông nghiệp tại đây đang bị ngập mặn do nước biển dâng cao, nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả.

Những tiền đề và điều kiện cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình

ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

2.1.1 Những tiền đề cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình

2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên của tỉnh Thái Bình thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp

Thái Bình là một tỉnh ven biển nằm ở phía nam châu thổ sông Hồng, có tọa độ từ 20°17' đến 22°44' vĩ độ bắc và 106°06' đến 106°39' kinh độ đông Tỉnh này giáp với vịnh Bắc Bộ ở phía Đông, tỉnh Nam Định và Hà Nam ở phía Tây và Tây Nam, và các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên cùng thành phố Hải Phòng ở phía Bắc Địa hình Thái Bình tương đối bằng phẳng, với độ dốc dưới 1% và độ cao trung bình từ 1-2m so với mực nước biển, giảm dần từ Bắc xuống Nam Tỉnh được bao quanh bởi hệ thống sông và biển dài 54 km theo chiều Đông-Tây và 49 km theo chiều Bắc-Nam, cùng với hơn 50 km bờ biển thuộc hai huyện Thái Thụy và Tiền Hải.

Diện tích đất tự nhiên của tỉnh vào cuối năm 2001 là 1543,51 km², chiếm 10,42% tổng diện tích đất tự nhiên của 11 tỉnh thuộc vùng sinh thái đồng bằng sông Hồng Tỉnh này xếp thứ tư trong khu vực, sau Hà Tây (2192 km²), Hải Dương (1648 km²), và Nam Định (1637 km²) Các tỉnh khác trong vùng bao gồm Thái Bình (1570 km²), Hải Phòng (1519 km²), Ninh Bình (1382 km²), Vĩnh Phúc (1371 km²), Hưng Yên (923 km²) và Hà Nội.

921 km 2 , Hà Nam 849 km 2 , Bắc Ninh 804 km 2 (Lấy tròn số)

Tính đến thời điểm 31/12/2013 diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh phân theo huyện, thị đơn vị hành chính như sau:

Bảng 2.1: Số đơn vị hành chính và diện tích có đến 31/12/2013 phân theo huyện, thành phố

Tên huyện, thị Tổng số đ/v hành chính

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình tính đến ngày 31/12/2013

Thái Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bức xạ mặt trời lớn, dẫn đến nhiệt độ cao và ảnh hưởng từ biển Mùa hè ở đây nóng nực và mưa nhiều, trong khi mùa đông lạnh giá, khô hanh kèm theo sương mù và mưa phùn đầu năm Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 23 - 24°C, với nhiệt độ thấp nhất ghi nhận là 4°C và cao nhất lên đến 38 - 39°C Khu vực này có số giờ nắng từ 1600 - 1800 giờ mỗi năm và lượng mưa trung bình từ 1540mm - 1900mm, với mức cao nhất là 2428mm và thấp nhất là 1173mm Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm khoảng 85 - 90%.

Tỉnh này là tỉnh duy nhất ở Việt Nam được bao quanh bởi hệ thống sông khép kín, với 5 cửa sông lớn đổ ra biển: Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân, cùng 3 sông lớn chảy qua là sông Hóa, sông Luộc, sông Hồng Các sông này chịu ảnh hưởng của thủy triều, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế và phát triển nông nghiệp Mùa hè, mực nước và lưu lượng tăng cao với hàm lượng phù sa lớn, trong khi mùa đông, lưu lượng giảm, nước mặn có thể xâm nhập vào đất liền, tạo thành vùng nước lợ, thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản nhưng cũng gây khó khăn cho địa phương Hàng năm, tỉnh phải đầu tư cải tạo hàng trăm ha đất nhiễm mặn và xây dựng cơ sở hạ tầng, đê, kè, thủy lợi, mương máng, tưới tiêu và phòng chống thiên tai để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân.

Thái Bình có điều kiện tự nhiên thuận lợi với vị trí địa lý, khí hậu và thủy văn ưu đãi, tạo điều kiện lý tưởng cho phát triển nông nghiệp Khu vực này cũng mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các địa phương trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường thủy và bộ Điều này giúp khai thác tài nguyên đất đai, tiềm năng biển, mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp, cũng như phát triển các loại cây có giá trị kinh tế cao ven sông và ven biển.

2.1.1.2 Những lợi thế có thể khai thác cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình

Thái Bình, một tỉnh nông nghiệp với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng sông Hồng và khu tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh Việc hoàn thành cầu Tân Đệ cùng với các tuyến quốc lộ 10, 39 A, B sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Thái Bình hội nhập vào quá trình phát triển kinh tế với các tỉnh trong khu vực và quốc tế Tỉnh cũng sở hữu nhiều tiềm năng và thế mạnh cho phát triển sản xuất nông nghiệp.

Một tỉnh có dân số đông đúc nhưng điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái thuận lợi cho phát triển cây trồng, đặc biệt là cây lúa nước Với truyền thống lâu đời và trình độ thâm canh cao trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh đã đạt được hiệu quả và giá trị kinh tế cao, phát triển bền vững cả về số lượng lẫn chất lượng Từ sản lượng lúa 395.000 tấn năm 1975 với năng suất 26,6 tạ/ha, tỉnh đã tăng sản lượng lên 544.600 tấn vào năm 1985 với năng suất 34,5 tạ/ha Đến năm 1990, sản lượng lúa đạt 710.360 tấn và năng suất 43,23 tạ/ha Năm 1995, sản lượng lúa tiếp tục tăng lên 940.250 tấn, năng suất bình quân đạt 55,48 tạ/ha.

Trong năm 2000, sản lượng lúa đạt hơn 1,05 triệu tấn với năng suất bình quân 60,68 tạ/ha Đến năm 2008, sản lượng lúa tăng lên trên 1,105 triệu tấn và năng suất bình quân đạt 66,15 tạ/ha Năm 2013, sản lượng lúa đạt 1,053 triệu tấn, với năng suất bình quân là 65,09 tạ/ha.

Thái Bình nổi bật với cơ sở hạ tầng nông thôn và nông nghiệp phát triển toàn diện, bao gồm hệ thống thủy lợi, giao thông thủy bộ và mạng lưới điện Sự phát triển này sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất của tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu hàng hóa với các tỉnh trong nước và quốc tế.

Hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, tính đến cuối năm

Tính đến năm 2000, toàn tỉnh có 2117 công trình thủy lợi và 1033 trạm bơm với tổng công suất 211.680 m³/ha, đảm bảo tưới tiêu cho gần 100% diện tích đất gieo trồng Đến cuối năm 2014, hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được tu sửa và phát triển, với 17.662.511m bờ vùng, 939 km kênh mương cấp 1 được cứng hóa, cùng hàng ngàn km sông ngòi được nạo vét Ngoài ra, đã xây mới và nâng cấp 4.713,8 km đường giao thông nội đồng, 28 trạm bơm, 248 cống đập và 20 trạm cấp nước sạch, cùng với hơn 50 km đê biển, 204 km đê sông và 89 kè các loại.

Hệ thống giao thông thủy bộ của tỉnh Thái Bình rất phát triển, bao gồm 5 con sông lớn là sông Hồng, sông Luộc, sông Trà, sông Lân và sông Diêm, tất cả đều chảy ra biển Đông, tạo thành mạng lưới giao thông thủy phong phú Hệ thống sông ngòi phong phú này không chỉ thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội mà còn đặc biệt hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp Về giao thông đường bộ, Thái Bình có 1735 km đường láng nhựa và 4680 km đường bê tông, với mật độ đường bộ đạt 1,65 km/km², trong khi mật độ đường thủy là 0,33 km/km² Nhờ vào hạ tầng giao thông thuận lợi, 100% các xã trong tỉnh đều có đường ô tô đến trung tâm xã, đảm bảo kết nối dễ dàng cho người dân.

Thái Bình là một trong những tỉnh hiếm hoi trên cả nước có hệ thống hạ tầng cơ sở phát triển đồng bộ 100% số xã và thôn đều có điện, với 99,2% hộ dân sử dụng điện cho sinh hoạt và sản xuất Tất cả các trường học từ cấp mẫu giáo đến trung học đều được xây dựng hiện đại và kiên cố Hệ thống y tế cũng được đảm bảo khi 100% xã có trạm y tế Ngoài ra, 100% số xã đều có lớp mẫu giáo và nhà trẻ, cùng với hệ thống loa truyền thanh phục vụ thông tin Về nhà ở, 94,02% cư dân nông thôn sống trong các ngôi nhà kiên cố, chủ yếu là nhà bán kiên cố và kiên cố, trong khi chỉ có 5,98% hộ dân cư ở trong nhà đơn sơ.

- Tài nguyên đất tuy không nhiều, theo số liệu kiểm kê đất đai 31/12/2013, toàn tỉnh chỉ có khoảng 93051,23 ha diện tích đất nông nghiệp và

Diện tích đất ngập mặn và đất nuôi trồng thủy sản tại hai huyện Thái Thụy và Tiền Hải đạt 1405 ha và 15119 ha, với độ phì nhiêu cao nhờ phù sa bồi đắp quanh năm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc canh tác và phát triển cây trồng Tài nguyên trong lòng đất và mặt biển, bao gồm khí đốt, trữ lượng than nâu, và nước khoáng, vẫn còn tiềm năng lớn Khả năng khai hoang và lấn biển để mở rộng diện tích phục vụ cho phát triển rừng phòng hộ và nuôi trồng thủy sản là rất khả thi Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đã dẫn đến việc người dân lấn chiếm diện tích rừng phòng hộ để nuôi ngao, tôm, gây ra những nguy cơ ảnh hưởng đến sinh kế của người dân ven biển do xâm nhập mặn và nước biển dâng.

- Dân trí tương đối cao, nguồn lao động dồi dào (toàn tỉnh hiện có 910.845 người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động Trong số này có

Tỉnh Thái Bình hiện có 6,998 người có trình độ trung học chuyên nghiệp, 25,676 người có trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật Một bộ phận cán bộ khoa học và quản lý đã tiếp cận được thị trường và áp dụng công nghệ mới trong thâm canh nông nghiệp Trong số 5,749 cán bộ chủ chốt xã, có 355 người tốt nghiệp đại học, 115 người tốt nghiệp cao đẳng, 2,600 người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, và 125 cán bộ là công nhân kỹ thuật Nhân dân Thái Bình nổi bật với truyền thống cách mạng, cần cù và năng động Việc đầu tư đồng bộ vào giáo dục và đào tạo sẽ nâng cao trình độ nguồn nhân lực, tạo ra đội ngũ cán bộ có tay nghề cao, đồng thời chính sách quản lý hợp lý sẽ là động lực quan trọng cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp tại tỉnh.

Năm 2013, tỉnh Thái Bình đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế - xã hội mặc dù còn gặp nhiều khó khăn Sự nỗ lực của các cấp, ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân đã giúp lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đảm bảo an sinh xã hội và trật tự an toàn xã hội Tình hình kinh tế ghi nhận bước tăng trưởng khá, với GDP ước đạt 37.188 tỷ đồng, tăng 8,8% so với năm 2012, cao hơn mức bình quân chung của cả nước.

Thực trạng sản xuất nông nghiệp, tác động biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình

2.2.1 Thực trạng sản xuất nông nghiệp ở Thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

* Thực trạng nguồn nhân lực sản xuất nông nghiệp

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013, dân số tỉnh Thái Bình đạt khoảng 1,8 triệu người với mật độ dân cư 1152 người/km² Tỉnh có nguồn lao động dồi dào với 910.845 người trong độ tuổi lao động, trong đó có 6.998 người có trình độ trung học chuyên nghiệp và 25.676 người có trình độ sơ cấp Đội ngũ cán bộ khoa học và quản lý tại Thái Bình đã bắt đầu tiếp cận thị trường, tổ chức quản lý và ứng dụng công nghệ mới trong nông nghiệp Trong số 5.749 cán bộ chủ chốt cấp xã, tỉnh đang nỗ lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Tỉnh Thái Bình hiện có 534 cán bộ tốt nghiệp đại học, 865 cán bộ tốt nghiệp cao đẳng, 2604 cán bộ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và 125 cán bộ là công nhân kỹ thuật cùng với 1746 nhân viên có trình độ khác Với truyền thống cách mạng và tinh thần cần cù, năng động, nếu Thái Bình đầu tư đồng bộ vào giáo dục và đào tạo, sẽ tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ và tay nghề cao Chính sách quản lý và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ sẽ trở thành động lực quan trọng, góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

Nguồn lực lao động đóng vai trò quan trọng trong lực lượng sản xuất, với số lượng dồi dào và chất lượng cao, giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.

Để phát triển nông nghiệp, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng, đặc biệt tại tỉnh Thái Bình Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tỉnh đã nhấn mạnh mục tiêu phát huy yếu tố con người và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ cả trong và ngoài nước Chính sách khuyến khích phát triển giáo dục đào tạo, đặc biệt cho đội ngũ công chức, công nhân, lao động kỹ thuật, chuyên gia công nghệ và quản lý, cùng đội ngũ doanh nhân, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực lao động.

Khái quát những nội dung chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn lực lao động mà tỉnh đang tập trung chỉ đạo là:

Chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình tại tỉnh Thái Bình cần được thực hiện hiệu quả, với dự báo dân số đạt khoảng 1.85 triệu người vào năm 2015 và khoảng 2.020 triệu người vào năm 2020.

Cơ cấu lao động cần được điều chỉnh mạnh mẽ để giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp Dự báo đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ chỉ còn khoảng 33% tổng số lao động.

Xây dựng trung tâm đào tạo nghề quy mô vùng để đào tạo nghề cho Tỉnh và các địa phương lân cận

Tiếp tục phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo tại Thái Bình một cách cân đối, đồng bộ và chất lượng cao nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ học tập của người dân, đồng thời thực hiện công bằng trong giáo dục.

Từng bước hiện đại hóa, chuẩn hóa các loại hình giáo dục để khai thác, phát huy tiềm năng và thành tựu của khoa học và công nghệ

Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là mục tiêu hàng đầu, tập trung vào ba yếu tố quan trọng: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài Những nỗ lực này nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước.

Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đã được triển khai đồng bộ và đạt được một số kết quả tích cực.

Công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng đang được chú trọng nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, với việc triển khai hiệu quả các chương trình y tế mục tiêu, phòng chống dịch bệnh và thiên tai Nhờ đó, không để xảy ra dịch lớn và đã kiểm soát thành công dịch cúm A (H1N1, H5N1) Chất lượng khám chữa bệnh tại các tuyến y tế cũng được cải thiện, với việc áp dụng phương pháp y học cổ truyền tại 100% bệnh viện đa khoa và hơn 66% trạm y tế.

Sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại Thái Bình đang có những bước tiến tích cực, với chất lượng giáo dục toàn diện được cải thiện Kết quả xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, trung học cơ sở được giữ vững, trong khi việc phổ cập giáo dục trung học cho thanh niên gần như hoàn thành Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông hàng năm đứng trong top 4 đến 2 toàn quốc, với năm học 2009-2010, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào trung học phổ thông đạt 98,07%, vượt mục tiêu đề ra Số lượng học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia cũng có xu hướng tăng Đội ngũ giáo viên chủ yếu đạt chuẩn, trong đó 37,5% giáo viên đạt trình độ trên chuẩn.

Trong giai đoạn 2000-2013, nguồn đầu tư từ Trung ương và địa phương đã tổ chức 487 lớp đào tạo cho 7.870 nông dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp Chương trình giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động cũng được triển khai tích cực, tạo ra 28,9 nghìn việc làm mới mỗi năm, trong đó có 2,8 nghìn lao động xuất khẩu và 29 nghìn lao động được đào tạo nghề Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm 0,33% mỗi năm, trong khi tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn tăng 1,14% hàng năm Đến năm 2013, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 42%, tăng 12% so với trước, trong đó tỷ lệ đào tạo nghề đạt 29%, tăng 10% so với năm 2005.

Cơ sở vật chất giáo dục và đào tạo trên toàn tỉnh đang được nâng cao với tiêu chuẩn hiện đại hóa, trong đó có 27,8% trường mầm non, 96,5% trường tiểu học, 51,7% trường trung học cơ sở và 34,1% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia Bên cạnh đó, nhiều trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp cũng đã được xây dựng mới và nâng cấp trang thiết bị.

Xã hội hóa giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả ban đầu tích cực, với sự quan tâm và nỗ lực của toàn xã hội trong công tác khuyến khích và khuyến tài Các trung tâm hoạt động cộng đồng cũng đang hoạt động một cách nề nếp, góp phần vào sự phát triển chung của giáo dục.

* Thực trạng kết cấu hạ tầng – kinh tế phục vụ sản xuất nông nghiệp

Nông nghiệp và nông thôn là những lĩnh vực đang chậm phát triển, do đó, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng là cần thiết để nâng cao năng suất lao động và phát triển sản xuất Mục tiêu này không chỉ giúp tăng cường lực lượng sản xuất mà còn đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho nông dân, những người đóng vai trò quan trọng trong ngành nông nghiệp và nông thôn.

Xu hướng biến đổi phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

2.3.1 Xu hướng biến đổi về cơ cấu lao động

Về quan điểm phát triển NN và NT, Nghị quyết Đại hội X của Đảng

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương đảng lần thứ

Khóa IX (2/2002) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việc phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn có ý nghĩa chiến lược đặc biệt, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, bền vững với năng suất và chất lượng cao Mục tiêu là đạt giá trị gia tăng trong nông, lâm, thủy sản từ 3-3,2%/năm, đồng thời gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới Tại tỉnh Thái Bình, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động trong nông nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, với hơn 2/3 lao động làm việc trong ngành nông-lâm nghiệp Mặc dù tỷ trọng lao động trong các ngành khoa học công nghệ và tư vấn còn thấp, nhưng cơ cấu lao động đang có sự chuyển biến tích cực, với số lao động trong nông-lâm nghiệp giảm từ 81,19% xuống 68,64% trong 4 năm qua.

Dân số Thái Bình chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng trình độ lao động còn hạn chế, gây khó khăn cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp Thông thường, mỗi hộ chỉ có 1-2 lao động làm nông, trong khi nhiều hộ phải thuê đất để canh tác Một số lao động tìm kiếm việc làm ngoài nông nghiệp, như làm thuê trong các lĩnh vực khác nhau như xây dựng, sản xuất, và dịch vụ Nhiều nông dân mất đất phải làm các công việc tạm thời để kiếm sống, dẫn đến xu hướng ngày càng giảm sự quan tâm đến ruộng đất.

- Lực lượng lao động có chất lượng trong nông nghiệp giảm, thay thế vào đó là lực lượng lao động chất lượng thấp

Theo báo cáo từ 7 huyện và thành phố, toàn tỉnh hiện có 101 xã với 6408 hộ nông dân đã trả lại 270,6 ha ruộng đất sản xuất cho nhà nước Trong đó, diện tích nhận khoán từ đất công ích và đất nông nghiệp khó giao là 257,6 ha, còn diện tích giao ổn định, lâu dài (ruộng cơ bản) là 13 ha.

Tại thành phố, có 40 hộ dân ở các phường Kỳ Bá, Quang Trung và Tiền Phong đã trả lại 1,7 ha đất nhận khoán, trong đó phường Quang Trung có số hộ nhiều nhất với 33 hộ và diện tích 1,48 ha Ở huyện Vũ Thư, tổng cộng 251 hộ ở 7 xã đã trả lại 11,1 ha đất nhận khoán.

Huyện Kiến Xương hiện có 716 hộ dân tại 12 xã tham gia trả lại 25,33 ha đất, trong đó có 20 hộ ở xã Bình Minh trả 1,76 ha ruộng đất cơ bản, và 696 hộ ở các xã khác trả lại đất nhận khoán, bao gồm đất công ích và đất nông nghiệp khó giao.

+ Huyện Đông Hưng: Có 1.939 hộ ở 24 xã trả 70,74 ha, bao gồm 50 ha đất công ích, 20,74 đất nông nghiệp khó giao

+ Huyện Quỳnh Phụ: Có 1.704 hộ của 26 xã trả 69,44 ha chủ yếu là đất công ích

+ Huyện Thái Thụy: Có 662 hộ ở 12 xã trả 33,12 ha, trong đó 43 hộ ở 5 xã trả 12,25 ha đất ruộng cơ bản, số hộ còn lại trả đất nông nghiệp nhận khoán

Hiện nay, tỉnh Thái Bình đang tích cực thực hiện chính sách phát triển rừng nhằm tăng độ che phủ, góp phần chống biến đổi khí hậu Tuy nhiên, lao động trong ngành lâm nghiệp chỉ chiếm 7% tổng số lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh, cho thấy sự hạn chế so với ngành trồng trọt Ngược lại, ngành khai thác và nuôi trồng thủy hải sản, với thế mạnh của tỉnh, chiếm 23% nguồn lao động trong nông nghiệp, chủ yếu tập trung ở các huyện ven biển như Tiền Hải và Thái Thụy.

Xu hướng chuyển đổi cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp diễn ra chậm, chủ yếu là lao động từ nông nghiệp chuyển sang các lĩnh vực như dịch vụ, công nghiệp và xây dựng Tại tỉnh Thái Bình, xu hướng này đã ảnh hưởng đến việc làm và đào tạo nghề, dẫn đến việc triển khai nhiều chương trình nâng cao chất lượng lao động thông qua các lớp dạy nghề ngắn hạn và dài hạn cho nông dân Những chương trình này giúp bà con tiếp cận kịp thời với khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào sản xuất, mang lại hiệu quả tích cực và tạo cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng công việc cho mọi đối tượng trong tỉnh.

2.3.2 Xu hướng biến đổi về cơ cấu ngành nghề

Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp tại Thái Bình diễn ra chậm, với ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn và ít biến động trong hơn 5 năm qua Tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu dựa vào việc mở rộng diện tích sản xuất và sử dụng tài nguyên, trong khi hàm lượng khoa học công nghệ còn thấp và hiệu quả sản xuất chưa cao, gây ra sự bền vững môi trường kém Năng suất lao động nông nghiệp vẫn rất thấp Chương trình xây dựng nông thôn mới đã phát triển mạnh mẽ, vượt chỉ tiêu đề ra, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nông dân Hệ thống chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn được triển khai đồng bộ, trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển toàn diện trong tỉnh.

Theo báo cáo Sở Nông nghiệp, giá trị sản xuất nông lâm thủy sản năm 12/2014 (giá cố định 94) ước đạt 6.940,36 tỷ đồng, tăng 12,94% so với năm

Từ năm 2010 đến 2014, giá trị sản xuất nông nghiệp có sự tăng trưởng đáng kể Cụ thể, giá trị sản xuất trồng trọt năm 2014 ước đạt 3.283,79 tỷ đồng, tăng 2,5% so với năm 2010, với tốc độ tăng trưởng bình quân 0,5%/năm Trong khi đó, giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2015 ước đạt 2.358,54 tỷ đồng, tăng 20,51% so với năm 2010, tương ứng với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,4%/năm Ngành thủy sản cũng ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ, với giá trị sản xuất năm 2014 ước đạt 1.081,1 tỷ đồng, tăng 45,9% so với năm 2010 và tốc độ tăng trưởng bình quân 7,9%/năm Cơ cấu kinh tế trong ngành nông nghiệp có sự chuyển biến tích cực, dự kiến đến năm 2015, trồng trọt chiếm 56,1% (giảm 5,57%), chăn nuôi chiếm 40,29% (tăng 5,34%), dịch vụ nông nghiệp chiếm 3,6% (tăng 0,23%) và thủy sản chiếm 15,58%.

% trong cơ cấu nông – lâm - thuỷ sản, tăng 3,12 % so với năm 2010

Trong những năm qua, tỉnh Thái Bình đã chuyển đổi 6.000 ha diện tích cấy lúa và làm muối sang nuôi trồng các cây, con có hiệu quả kinh tế cao hơn Năm 2005, giá trị sản phẩm trồng trọt trên 1 ha đất nông nghiệp đạt 38,32 triệu đồng, tăng 3,67% so với năm 2004 và 18,9% so với năm 2000 Hiện nay, tỉnh đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn với 143 cánh đồng mẫu trên diện tích 6.072 ha, trong đó 115 cánh đồng có hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp, chiếm 4.808 ha Một số vùng sản xuất có giá trị kinh tế cao bao gồm vùng sản xuất ớt ở Quỳnh Phụ với năng suất trung bình 97 tạ/ha, vùng rau, dưa xuất khẩu ở Thái Thuỵ, Hưng Hà với năng suất 230 tạ/ha, và vùng khoai tây tại Đông Hưng, Quỳnh Phụ với năng suất trên 15 tấn/ha.

Trong những năm gần đây, vùng Thái Thụy đã phát triển mạnh mẽ với các loại cây trồng như hoa, đào, quất và chuối, cùng với việc nghiên cứu và đưa vào sản xuất các giống cây mới, giống chuyển gen, giống nuôi cấy mô và giống lai có năng suất cao và chất lượng tốt Diện tích lúa dài ngày đã được chuyển đổi sang gieo cấy các giống lúa ngắn ngày có giá trị cao Để nâng cao hiệu quả sản xuất, địa phương đã tập trung dồn điền, đổi thửa, cải tạo đồng ruộng và ứng dụng cơ giới hóa trong hầu hết các khâu sản xuất Việc áp dụng công nghệ canh tác tiên tiến như gieo sạ thẳng hàng, cấy mạ non và làm đất tối thiểu cũng được chú trọng Đồng thời, cơ sở vật chất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa ngày càng được tăng cường, và các hình thức tổ chức sản xuất đang dần được đổi mới theo hướng chuyên môn hóa và hợp tác Mặc dù diện tích đất nông nghiệp đã giảm gần 4.600 ha so với năm 2014, nhưng những cải tiến này đã góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Năm 2010, năng suất và sản lượng lúa tiếp tục tăng, với năng suất bình quân từ 2011-2014 đạt 131,1 tạ/ha/năm, tăng 0,89% so với 4 năm trước đó, sản lượng lúa bình quân đạt trên 1 triệu tấn, hoàn thành mục tiêu Đại hội Diện tích cây màu và cây vụ đông năm 2014 đạt 65.655ha, tăng 3,37% so với năm 2010, trong đó cây vụ đông chiếm 36.803ha, chuyển dịch sang cây có giá trị kinh tế cao như khoai tây, dưa bí, rau đậu Giá trị sản xuất cây vụ đông chiếm 24,5% tổng giá trị ngành trồng trọt, tăng giá trị sản xuất trên mỗi ha canh tác Trong ngành trồng trọt, lương thực vẫn là phần chính trong bữa ăn hàng ngày, nhưng cơ cấu bữa ăn có xu hướng giảm bớt lương thực Cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho ngành nhẹ, tạo thêm việc làm cho lao động, tuy nhiên cần chú ý đến quy trình kỹ thuật và vốn đầu tư Nhu cầu về rau, hoa quả ngày càng tăng, đáp ứng các nhu cầu dinh dưỡng và đời sống xã hội.

Tỉnh Thái Bình đặt mục tiêu phát triển kinh tế trong lĩnh vực trồng trọt đến năm 2020, tập trung vào các loại cây chủ yếu như lúa, ngô, khoai tây và các loại rau màu giá trị cao như ớt, hành tỏi, dưa bí, cùng với hoa và cây cảnh Đến năm 2020, diện tích trồng lúa sẽ được mở rộng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Diện tích canh tác nông nghiệp đạt 137.950 ha, bao gồm 64.700 ha vụ xuân và 73.250 ha vụ mùa Trong đó, 30% diện tích là lúa giống, 30% là lúa chất lượng cao, và phần còn lại là giống có năng suất cao Diện tích trồng ngô với các giống năng suất cao và giống biến đổi gen khoảng 29.783 ha, chia theo vụ: 15.583 ha vụ xuân, 1.200 ha vụ mùa, và 13.000 ha vụ đông Ngoài ra, diện tích trồng khoai tây đạt khoảng 10.000 ha.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm tại tỉnh Thái Bình đang phát triển mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi trang trại và gia trại quy mô lớn, với 99 xã quy hoạch 137 khu chăn nuôi tập trung trên tổng diện tích 1.964 ha Tỉnh đã áp dụng các giống mới có năng suất và chất lượng thịt cao, cùng với công nghệ chăn nuôi tiên tiến như chuồng khép kín và quy trình Việt GAHP Hiện nay, toàn tỉnh có 690 trang trại và 1.500 gia trại, trong đó có 69 trang trại quy mô lớn, tăng 37 trang trại so với năm 2010, hình thành chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ Mặc dù tổng đàn gia súc, gia cầm không tăng nhiều, dự kiến năm 2015 đàn lợn đạt 1,1 triệu con và gia cầm 11,88 triệu con, nhưng sản lượng thịt xuất chuồng gia súc, gia cầm tăng bình quân 5,8% mỗi năm Các hộ chăn nuôi tại khu chăn nuôi tập trung đều có lãi cao, với thu nhập bình quân đạt 120 triệu đồng/ha tại xã Đông Kinh.

Một số quan điểm, giải pháp và khuyến nghị về phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

2.4.1 Một số quan điểm chỉ đạo về phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

2.4.1.1 Nông nghiệp phát triển bền vững phải gắn liền với tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Để ngành nông nghiệp phát triển bền vững, tỉnh Thái Bình chủ trương nông nghiệp phát triển bền vững phải gắn liền với tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nhận thức rõ vấn đề này, trong Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Thái Bình có đề ra quan điểm trong 5 năm 2011-2015: “ Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, khai thác mọi nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Thái Bình phát triển nhanh và bền vững”

Thái Bình khẳng định rằng nông nghiệp phát triển bền vững cần phải gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Quan điểm này được cụ thể hóa qua các chính sách và chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp, đảm bảo sự hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường.

Phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và bền vững là mục tiêu chính, bao gồm việc tái cấu trúc cơ cấu cây trồng và vật nuôi Đồng thời, cần thúc đẩy kinh tế hộ gia đình, trang trại, tổ hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp Việc hình thành các vùng chuyên môn hóa và khu nông nghiệp công nghệ cao, cùng với các tổ hợp sản xuất lớn, sẽ góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Phát triển lâm nghiệp bền vững toàn diện cần tập trung vào cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng Cần thiết lập cơ chế và chính sách hỗ trợ để người dân có thể sinh sống và làm giàu từ rừng, đồng thời chăm sóc và bảo vệ tài nguyên rừng.

Phát triển nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, tận dụng lợi thế từng vùng và kết nối với thị trường là điều cần thiết Đồng thời, cần đẩy mạnh hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ để nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.

Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi trồng, đánh bắt chế biến, xuất khẩu thủy sản

2.4.1.2 Nông nghiệp phát triển bền vững phải gắn chặt chẽ với xây dựng nông thôn mới

Phát triển nông thôn hiện nay là vấn đề cấp bách trên toàn quốc, với định hướng từ Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhằm xây dựng các bản, làng, ấp với bốn mặt: kinh tế no đủ, văn hóa phát triển, dân trí nâng cao và xã hội văn minh Cần chú trọng phát huy dân chủ nông thôn, xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí và bài trừ tệ nạn xã hội Để đạt được điều này, cần đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị nhỏ, hình thành các khu dân cư và khu đô thị mới ở nông thôn Các quy hoạch liên quan như quy hoạch nông thôn, đô thị, ngành và kinh tế cần được nghiên cứu toàn diện và có tầm nhìn xa, nhằm khắc phục tình trạng manh mún và quy hoạch treo, từ đó cải thiện bộ mặt nông thôn và đời sống cư dân.

Thái Bình là tỉnh có gần 90% dân số sống ở khu vực nông thôn, với hơn 60% lao động làm trong nông nghiệp Việc phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân mà còn bảo tồn bản sắc văn hóa làng quê Điều này cũng giúp khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, xây dựng đời sống văn hóa mới, và khuyến khích tinh thần tự vươn lên của cộng đồng Do đó, việc triển khai mô hình nông thôn mới để tổng kết thực tiễn và xây dựng chính sách phát triển nông thôn mới tại Thái Bình là rất cần thiết.

Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình nhằm:

Xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới tập trung vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa và dân chủ hóa tại cấp thôn, với phương pháp tiếp cận dựa vào nội lực và sự lãnh đạo của cộng đồng dân cư địa phương.

Mô hình nông thôn mới hướng tới phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, với cơ sở hạ tầng sản xuất và hạ tầng văn hóa xã hội được cải thiện Đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, cùng với sự vững mạnh của các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể Điều này góp phần tăng cường đoàn kết, ổn định chính trị và giữ vững trật tự xã hội trong khu vực nông thôn.

Dựa trên kết quả thực hiện tại các xã thí điểm, chúng ta sẽ tổng kết và rút ra kinh nghiệm để mở rộng áp dụng trên toàn tỉnh trong những năm tới Đồng thời, cần đề xuất các cơ chế chính sách chung nhằm triển khai đại trà trên toàn tỉnh.

Xây dựng nông thôn mới gắn liền với phát triển vùng sản xuất hàng hóa tập trung là một chiến lược quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển đồng bộ và bền vững cho nông nghiệp và nông thôn Mô hình nông thôn mới của Thái Bình hướng đến việc đạt được các mục tiêu cụ thể thông qua các tiêu chí đã được xác định (xem phụ lục bảng 2.6).

Mô hình nông thôn mới tại Thái Bình được xây dựng dựa trên các tiêu chí quan trọng như phát triển con người, kinh tế, tổ chức, hạ tầng, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường và cải thiện điều kiện sinh hoạt Việc thực hiện và đạt kết quả tốt ở những lĩnh vực này sẽ góp phần tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp tại Thái Bình.

2.4.1.3 Nông nghiệp phát triển bền vững phải gắn liền với tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống người dân

Nông nghiệp phát triển bền vững phụ thuộc vào sự gắn bó của người dân với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực này Để người nông dân duy trì mối liên kết với ngành nông nghiệp, Thái Bình đã đề ra những quan điểm quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khu vực.

Nông nghiệp phát triển bền vững tại tỉnh Thái Bình cần kết hợp với việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân.

Nâng cao đời sống nông dân không chỉ về kinh tế mà còn chú trọng đến văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ là vấn đề quan trọng trong phát triển con người ở nông thôn Hiện nay, việc giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là những nông dân không có việc làm ở các vùng đô thị hóa, là cấp bách Cần thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo để thu hẹp khoảng cách về thu nhập và đời sống giữa thành thị và nông thôn Nông dân hiện đại cần trở thành những người có văn hóa, có trình độ để tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp, đảm bảo năng suất và chất lượng cao Trong bối cảnh công nghiệp hóa, nông dân sẽ chuyển đổi sang các ngành nghề mới trong công nghiệp và dịch vụ, trở thành công nhân trong nông nghiệp hoặc chủ trang trại, cùng nhau đầu tư để phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn.

2.4.2 Một số giải pháp để phát triển sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu

KẾT LUẬN

Phát triển sản xuất nông nghiệp gắn liền với các yếu tố môi trường tự nhiên và chịu ảnh hưởng lớn từ các tác động môi trường Biến đổi khí hậu gây ra sự xáo trộn, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp của người dân Do đó, Đảng bộ Thái Bình luôn quan tâm đến việc bảo vệ môi trường sinh thái và giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu.

Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế chủ chốt của tỉnh Thái Bình, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định an ninh lương thực và giải quyết các vấn đề thực tiễn Tuy nhiên, ngành này dễ bị tổn thương do phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và thích ứng với biến đổi khí hậu, UBND tỉnh cùng người dân Thái Bình đã điều chỉnh các hoạt động sản xuất nông nghiệp phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng và nguồn lực địa phương.

Việc thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất của người dân, được gọi là thích ứng tự chủ Những kinh nghiệm này đã giúp nâng cao hiệu quả sản xuất trong bối cảnh thiên tai và thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng Các hình thức thích ứng chung bao gồm xây dựng bản đồ thiên tai, đa dạng hóa cây trồng và vật nuôi, cũng như tìm kiếm sinh kế thay thế Trong lĩnh vực trồng trọt, các biện pháp như cải tiến giống, quy hoạch cây trồng, sử dụng nguồn gen bản địa và phát triển kỹ thuật canh tác địa phương đang được áp dụng để đối phó với biến đổi khí hậu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Cuốn “ Tích hợp các vấn đề BĐKH vào các vấn đề phát triển kinh tế xã hội ” do PGS,TS Trần Thị Thục (chủ biên), Nxb Tài nguyên – Môi trường và bản đồ Việt Nam (năm 2012)

2 Hội thảo khoa học về BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam 2/2008 Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Ngọc Sinh trong báo cáo

"Biến đổi khí hậu và an ninh quốc gia" ,

3 Võ Quý (2009) trong "Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ở Việt Nam" Bản tin Đại học Quốc Gia Hà Nội số, 219

4 Cuốn "Biến đổi khí hậu và nông nghiệp bền vững, an toàn lương thực"- Lê Văn Khoa (2008)

5 Trương Quang Học và Trần Đức Hinh trong " Biến đổi khí hậu và các vector truyền bệnh " (2008)

6 " Biến đổi khí hậu và khô hạn, hoang mạc hoá " Nguyễn Đức Ngữ

7 Công trình nghiên cứu "Phòng ngừa thảm hoạ liên quan đến biến đổi khí hậu" Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã thực hiện

8 “ Rừng ngập mặn và khả năng ứng phó với mực nước biển dâng cao” Phan Nguyên Hồng và Lê Xuân Tuấn - 2008

9 Báo cáo “ Vietnam Climate Change, Adaptation and Poor people ”

Đề tài "Biến đổi khí hậu, tác động, khả năng ứng phó và một số vấn đề chính sách" tập trung vào nghiên cứu trường hợp của đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc Nghiên cứu này được thực hiện bởi tập thể tác giả gồm TS Mai Thanh Sơn, TS Lê Đình Phùng và TS Lê Đức Thịnh, và được công bố tại Hà Nội vào tháng 10 năm 2010.

11 Công trình nghiên cứu “ Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp Việt Nam ” của tác giả Chu Hữu Quý (1996) – Nxb thống kê

12 Công trình nghiên cứu “ Kinh tế phát triển nông thôn ” của tập thể tác giả Nguyễn Đình Nam, Lê Nghiêm, Lê Đình Thắng, Nguyễn Hữu Tiến (đồng chủ biên)

13 Đề tài cấp Nhà nước KX 02/06-10 “ Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn Thực trạng và giải pháp ”(2010) của tác giả Nguyễn Chí Dũng (chủ nhiệm), Nxb chính trị - hành chính

14 Cuốn: “ Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ( 1945-1995) Nguyễn Sinh Cúc (chủ biên)

15 “ Phát triển nông thôn ” Phạm Xuân Nam (chủ biên) xuất bản năm 1997

16 “ Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá ” Vũ Oanh (chủ biên) xuất bản năm 1998

17 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI; Nghị quyết TW lần thứ VII khóa X, Nghị quyết TW lần thứ VII khóa XI

18 Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XV, XVI, XVII, XVIII

19 Đề án phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2011 -2020 được thủ tướng Chính phủ phê duyệt 2011

20 Niêm giám thống kê tỉnh Thái Bình từ năm 2000 – 2013

21 Chuyên đề Việt Nam ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu của PGS

TS Trần Thục, Lê Nguyên Tường – Tạp chí Tài nguyên môi trường số 3/2010, tr 21

22 Đánh giá tổng quát tác động của BĐKH đối với tài nguyên đất đai và các biện pháp ứng phó của tác giả Mai Hạnh Nguyên, viện nghiên cứu quản lý đất đai

23 Báo cáo chuyên đề đánh giá những tác động biến đổi khí hậu đến chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp giai đoạn

2011 – 2020 và giai đoạn 2011 – 2015 Viện khoa học khí tượng thủy văn và môi trường tháng 2011

Ngày đăng: 02/07/2022, 08:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Cuốn “Tích hợp các vấn đề BĐKH vào các vấn đề phát triển kinh tế xã hội” do PGS,TS. Trần Thị Thục (chủ biên), Nxb. Tài nguyên – Môi trường và bản đồ Việt Nam (năm 2012) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tích hợp các vấn đề BĐKH vào các vấn đề phát triển kinh tế xã hội
Nhà XB: Nxb. Tài nguyên – Môi trường và bản đồ Việt Nam (năm 2012)
3. Võ Quý (2009) trong "Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ở Việt Nam" Bản tin Đại học Quốc Gia Hà Nội số, 219 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ở Việt Nam
4. Cuốn "Biến đổi khí hậu và nông nghiệp bền vững, an toàn lương thực"- Lê Văn Khoa (2008) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến đổi khí hậu và nông nghiệp bền vững, an toàn lương thực
5. Trương Quang Học và Trần Đức Hinh trong "Biến đổi khí hậu và các vector truyền bệnh" (2008) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến đổi khí hậu và các vector truyền bệnh
6. "Biến đổi khí hậu và khô hạn, hoang mạc hoá" Nguyễn Đức Ngữ (2008) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến đổi khí hậu và khô hạn, hoang mạc hoá
7. Công trình nghiên cứu "Phòng ngừa thảm hoạ liên quan đến biến đổi khí hậu" Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã thực hiện Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phòng ngừa thảm hoạ liên quan đến biến đổi khí hậu
8. “Rừng ngập mặn và khả năng ứng phó với mực nước biển dâng cao” Phan Nguyên Hồng và Lê Xuân Tuấn - 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rừng ngập mặn và khả năng ứng phó với mực nước biển dâng cao”
9. Báo cáo “Vietnam Climate Change, Adaptation and Poor people” (2008) của tổ chức Oxfam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vietnam Climate Change, Adaptation and Poor people
10. “Đề tài BĐKH, tác động, khả năng ứng phó và một số vấn đề chính sách” (nghiên cứu trường hợp đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi phía bắc) do tập thể tác giả: TS. Mai Thanh Sơn, TS. Lê Đình Phùng, TS. Lê Đức Thịnh (Hà nội 10/2010) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề tài BĐKH, tác động, khả năng ứng phó và một số vấn đề chính sách
11. Công trình nghiên cứu “Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp Việt Nam ” của tác giả Chu Hữu Quý (1996) – Nxb thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp Việt Nam
Nhà XB: Nxb thống kê
12. Công trình nghiên cứu “Kinh tế phát triển nông thôn” của tập thể tác giả Nguyễn Đình Nam, Lê Nghiêm, Lê Đình Thắng, Nguyễn Hữu Tiến (đồng chủ biên) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế phát triển nông thôn
13. Đề tài cấp Nhà nước KX 02/06-10 “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn. Thực trạng và giải pháp”(2010) của tác giả Nguyễn Chí Dũng (chủ nhiệm), Nxb chính trị - hành chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng nông thôn. Thực trạng và giải pháp
Nhà XB: Nxb chính trị - hành chính
14. Cuốn: “Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ( 1945-1995) Nguyễn Sinh Cúc (chủ biên) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
15. “Phát triển nông thôn” Phạm Xuân Nam (chủ biên). xuất bản năm 1997 16. “Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiệnđại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá ” Vũ Oanh (chủ biên). xuất bản năm 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển nông thôn"” Phạm Xuân Nam (chủ biên). xuất bản năm 1997 16. “"Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện "đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá
29. Lê Xuân Bá (2009): Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.02.01/06-10 "Nghiên cứu dự báo chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và các giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở nước ta” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu dự báo chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và các giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở nước ta
Tác giả: Lê Xuân Bá
Năm: 2009
2. Hội thảo khoa học về BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam 2/2008. Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Ngọc Sinh trong báo cáo"Biến đổi khí hậu và an ninh quốc gia&#34 Khác
17. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI; Nghị quyết TW lần thứ VII khóa X, Nghị quyết TW lần thứ VII khóa XI Khác
18. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XV, XVI, XVII, XVIII 19. Đề án phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2011 -2020được thủ tướng Chính phủ phê duyệt 2011 Khác
21. Chuyên đề Việt Nam ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu của PGS. TS Trần Thục, Lê Nguyên Tường – Tạp chí Tài nguyên môi trường số 3/2010, tr 21 Khác
22. Đánh giá tổng quát tác động của BĐKH đối với tài nguyên đất đai và các biện pháp ứng phó của tác giả Mai Hạnh Nguyên, viện nghiên cứu quản lý đất đai Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.3. Điệu nhảy Flashmob Vũ điệu nước của học sinh, sinh viên Cần Thơ - (LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu
Hình 2.3. Điệu nhảy Flashmob Vũ điệu nước của học sinh, sinh viên Cần Thơ (Trang 58)
Hình 2.7. Triển lãm ảnh Nước là cốt lõi của sự phát triển bền vững - (LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu
Hình 2.7. Triển lãm ảnh Nước là cốt lõi của sự phát triển bền vững (Trang 63)
Bảng 2.3: Tỷ lệ % số xó so với tổng số xó trờn địa bàn hiện cú - (LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu
Bảng 2.3 Tỷ lệ % số xó so với tổng số xó trờn địa bàn hiện cú (Trang 69)
Bảng 2.4: Số trang trại phõn theo huyện, thành phố. - (LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu
Bảng 2.4 Số trang trại phõn theo huyện, thành phố (Trang 74)
Qua bảng thấy HTX ở Thỏi Bỡnh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nụng nghiệp. Năm 2008, Thỏi Bỡnh cú 319 HTX nhưng cú tới 318 HTX hoạt động  trong lĩnh vực nụng nghiệp  (chiếm  99,6%),  cũn lại 1  HTX hoạt động trong  ngành thủy sản (chiếm 0,04%) - (LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu
ua bảng thấy HTX ở Thỏi Bỡnh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nụng nghiệp. Năm 2008, Thỏi Bỡnh cú 319 HTX nhưng cú tới 318 HTX hoạt động trong lĩnh vực nụng nghiệp (chiếm 99,6%), cũn lại 1 HTX hoạt động trong ngành thủy sản (chiếm 0,04%) (Trang 76)
Bảng 2.6. Cơ cấu vốn đầu tƣ thực hiện theo giỏ thực tế địa phƣơng quản lý phõn theo ngành kinh tế - (LUẬN văn THẠC sĩ) phát triển sản xuất nông nghiệp ở thái bình trong sự tác động của biến đổi khí hậu
Bảng 2.6. Cơ cấu vốn đầu tƣ thực hiện theo giỏ thực tế địa phƣơng quản lý phõn theo ngành kinh tế (Trang 77)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w